HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Dù Công đồng Vatican II đã bế mạc hơn 40 năm, Hiến chế Tin lý vế Mạc Khải Lời Thiên Chúa vẫn là bản văn quan trọng đã được Huấn quyền ban hành nhằm hướng dẫn việc học hỏi KinhThánh. Bản văn đã được Giáo Hoàng Học Viện Piô X dịch và xuất bản năm 1972. Sau năm 1975, một nhóm linh mục đã duyệt lại Bản dịch ấy. Vào năm 2005, Ủy Ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt-nam đã ra bản dịch chính thức sau đây. Riêng Lời giới thiệu và các chú thích nhằm minh họa bản văn, chúng tôi xin lấy từ Bản dịch GHHV Piô X.
KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965
HIẾN CHẾ TÍN LÝ
VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Dei Verbum
Lời giới thiệu
I. Lịch sử bản văn
Hiến chế này là một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng Vatican II về phương diện giáo thuyết cũng như về thái độ khác biệt giữa các Nghị Phụ: thật vậy, chính trong khi bàn cãi về lược đồ này, các Nghị Phụ đã nhận thức về sự phân chia khuynh hướng thần học giữa các ngài. Lược đồ về Mạc khải nằm ở ngoài quyển sách đã được Uỷ ban Trung ương xuất bản năm 1962 [1]. Và như vậy người ta tưởng sẽ được bàn cãi trước tiên. Nhưng Đức Gioan XXIII nhận thấy đã có những bất đồng ý kiến trong bản văn “về Mạc khải”, nên ngài không muốn khởi đầu Công đồng với bản văn gai góc này, và đã quyết định bàn cãi về Phụng vụ trước tiên vì các nghị phụ dễ đồng ý về vấn đề này hơn.
Bản văn trình bày trong sách trên thật ra là bản văn thứ năm mà Uỷ ban và các Nghị Phụ đã soạn thảo. Ngày 12-7-1962, Đức Gioan XXIII truyền lệnh gửi cho các Nghị Phụ bàn cãi loạt Lược đồ lần thứ nhất. Trong số đó có Lược đồ Hiến chế Tín lý về các nguồn Mạc khải. Lược đồ này sẽ được bàn cãi từ ngày 14 đến 21 tháng 11 năm 1962. Chính trong các cuộc bàn cãi này mà Công đồng Vatican II đã tự chia ra phe “đa số” và “thiểu số” theo luồng tư tưởng và theo lối diễn tả thần học của các Nghị Phụ. Từ đó các khuynh hướng khác biệt này chi phối tất cả các công việc của Công đồng.
Trong diễn văn khai mạc ngày 11-10, Đức Giáo hoàng đã nói: “Bản chất của giáo thuyết cổ truyền chứa trong kho tàng đức tin là một chuyện, còn việc định thức bản chất lại là chuyện khác, vì việc định thức căn cứ trên những hình thức và sự tương xứng với những nhu cầu giáo huấn, nhất là về mục vụ”. Sự phân biệt giữa “bản chất” và “định thức” sẽ giữ một vai trò quan trọng trong cuộc bàn cãi lược đồ này. Lược đồ đã được các Đức Hồng Y Ottaviani, Ruffini, Siri, v.v… bênh vực và bị các Đức Hồng Y Liénart, Frings… kết án, còn các Đức Hồng Y Bea, Léger, Tisserant… thì chỉ trích. Người ta cho rằng cách nói quá kinh viện, lối hành văn phản mục vụ, phản kinh thánh và phản hiêp nhất. Chủ tịch đoàn Công đồng quyết định bỏ thăm bản văn (20-11-1962) và bản văn bị loại bỏ với 1.368 phiếu chống, 822 phiếu thuận và 18 phiếu bất hợp lệ. Buổi họp trải qua vài giờ lộn xộn vì chưa đủ đa số 2/3 để loại bỏ một lược đồ (cần phải 1.473 phiếu mới đủ 2/3). Nhưng có nên chấp nhận một lược đồ bị một đa số như trên loại bỏ không? Khi ấy Đức Giáo hoàng XXIII đích thân can thiệp: ngài quyết định trao trả lược đồ cho một Uỷ ban hỗn hợp do ngài chỉ định gồm 7 Hồng Y với các thành phẩn của Uỷ ban Thần học và của Văn phòng Hiệp nhất Kitô giáo.
Uỷ ban này khởi công bằng việc đồng ý về nhiểu điểm quan trọng như bỏ tựa đề “về hai nguồn…” (vì nó sẽ gây ra nhiều hiểu lầm), và đặt tựa đề cho chương I: “Về Lời Chúa được mạc khải…” (như thế nó tổng quát và dễ dàng chấp nhận hơn). Tuy nhiên vẫn còn những bất đồng, nhất là về tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lược đồ được hoàn thành vào tháng 3-1963 và được gửi cho các Nghị Phụ vào tháng 5. Bản văn sẽ không được bàn cãi trong kỳ họp thứ hai, nhưng vẫn không thiếu những phê bình được gửi tới. Thật vậy, các vị soạn thảo muốn “cố ý tránh vấn đề hai nguồn Mạc khải mà không xác nhận hay chối bỏ rằng Thánh Truyền chứa những gì mà Thánh Kinh không có” (Relatio…, tr. 5). Điều đó làm cho bản văn trở nên lạt lẽo, thiếu màu sắc và hàm hồ… Mạc khải được hiểu như là “nội dung” của Mạc khải hơn là hành động Chúa mạc khải. Thánh Truyền duy nhất bị lẫn lộn với các truyền thống, điều này gây nhiều hiểu lầm v.v…
Đến ngày 31-1-1964, các nghị phụ hết hạn gửi các nhận xét. Như thế người ta có thể lợi dụng được các ý kiến trong những cuộc bàn cãi đang diễn ra “về Lược đồ Giáo Hội” vì Mạc khải và Giáo Hội không thể tách rời nhau. Những lời than phiền của các Nghị Phụ hầu như chỉ quy về hai điểm: các bản văn chưa đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của Mạc khải và của Thánh Truyền, cũng như chưa được cân nhắc đầy đủ. Ngày 7 tháng 3, người ta thành lập một tiểu ban phụ trách tu chỉnh bản văn đưới sự chủ toạ của Đức giám mục Charue với sự cộng tác của nhiều chuyên viên. Uỷ ban này chia làm hai nhóm: nhóm thứ nhất phụ trách chương I và II (chủ tịch: Đức giám mục Florit và các chuyên viên Congar, Rahner, Moeller, Ramirez, v.v…) và nhóm thứ hai phụ trách từ chương III đến VI (chủ tịch là Đức giám mục Charue và các chuyên viên: Cerfaux, Grillmeier, Rigaux, Turrado, Semmonelroth, v.v…). Từ 20 đến 24 tháng 4 năm 1964, các ngài bổ túc bản văn mới và đưa ra bản tối hậu. Sau đó bản văn được trình lên Văn phòng Hiệp nhất để xem có phải sửa đổi gì không. Ngày 30-6-1964, Văn phòng trả lời chấp thuận; Đức Hồng Y Bea xét rằng không cần phải hợp hai cơ quan để tu chỉnh. Sau đó, Uỷ ban Giáo thuyết cứu xét bản văn (từ ngày 3 đến 5 tháng 6). Chương II tạm được chấp nhận (17 phiếu thuận và 7 chống) vì 7 nghị phụ đòi phải nói: Thánh Truyền khách quan rộng hơn Thánh Kinh (x. Relatio… tr. 6).
Cuộc bàn cãi bản văn bắt đầu ngày 30-9 tại đền Thánh Phêrô. Có hai bản phúc trình: một của nhóm đa số trong Uỷ ban (Đức giám mục Florit đọc), và một của nhóm thiều số (Đức giám mục Franic trình bày). Vấn nạn quan trọng nhất do nhóm thiểu số đưa ra là ý tưởng về “Thánh Truyền cấu thành” (Traditio constitutiva). Đó là giảng thuyết và đức tin của toàn thể Giáo Hội tông đồ, dưới sự tác động của Thánh Thần mạc khải, chứa đựng những chân lý thật ra không có trong Thánh Kinh. Đó là trường hợp các tín điều về Đức Mẹ (Đức giám mục Beras). Ngoài ra nếu hạ giá Thánh Truyền, như Lược đồ đã làm, người ta sẽ rơi vào một thứ Tân Thời Thuyết. Tuy thế, đa số chấp nhận và khen ngợi ý tưởng của bản văn. Dầu vậy, những phê bình của nhóm thiểu số cũng rất hữu ích vì nó xác định rõ ràng nhiều ý niệm.
Theo Uỷ ban, kết quả cuộc can thiệp của các nghị phụ như sau:
1) Điểm tích cực:
a. Ngôn ngữ rõ ràng, cẩn thận và có tính cách trình bày.
b. Cơ cấu bản văn được sắp đặt kỹ lưỡng và cân đối.
c. Giáo thuyết chắc chắn phát xuất từ Cổ Truyền và Thánh Kinh.
d. Quan niệm Mạc khải quy về Chúa Kitô và con người cũng như cách thức trình bày tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.
2) Điểm tiêu cực:
a. Cách hành văn phức tạp và đôi khi tối nghĩa.
b. Im lặng trước những sai lạc và lạm dụng hiện có.
c. Trình bày khiếm khuyết về Cựu Ước.
d. Thiếu chiều hướng Giáo Hội trong Mạc khải.
e. Phải trình bày vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Huấn quyền Giáo Hội.
Các tiểu ban bắt tay làm việc để tổng hợp đề nghị của các Nghị Phụ. Nhờ đó một bản văn thứ tư được thành hình và đã được gửi tới cho các Nghị Phụ trong phiên họp khoáng đại cuối cùng của kỳ họp thứ ba (20-11-1964). Có thể tóm tắt các thay đổi chính như sau:
a. Nhấn mạnh đến truyền thống “phát nguyên từ các tông đồ” thay vì Thánh Truyền “sống” (có thể chỉ phát xuất từ đời sống Giáo Hội).
b. Vấn đề phát triển tín lý, bản văn trước nói rằng kinh nghiệm của các tín hữu là một yếu tố phát triển, nhưng bản văn mới nhắc thêm đến lý trí (số 8b) để tránh chủ quan thuyết hiện tượng luận.
c. Nhắc đến việc nhờ Thánh Thần mà Giáo Hội biết được bản chính lục Thánh Kinh (số 8c).
d. Phân biệt rõ ràng hơn nội dung của Thánh Truyền thời các tông đồ và thời hậu tông đồ (số 9).
e. Xác định vai trò của Huấn quyền bằng cách bãi bỏ danh từ uy quyền “tối thượng” và không nhắc đến ơn bất khả ngộ, và hơn nữa còn nói rằng quyền giáo huấn phải “thành kính lắng nghe” Lời Chúa (số 10). Trong kỳ họp thứ ba, các Nghị Phụ không bỏ phiếu bản văn này, nên các ngài có thể viết các nhận xét gửi về Uỷ ban.
Sau cùng, ngày 21 và 22 tháng 9-1965, các Nghị Phụ đã bỏ phiếu Lược đồ này. Các chương đều được chấp thuận với vài sửa đổi. Uỷ ban phụ trách kết nạp các đề nghị tu chỉnh, cố gắng dung hoà ý kiến mọi người bằng cách sửa đổi từng tiểu tiết của bản văn. Chính Đức Giáo hoàng cũng đã đề nghị một vài thay đổi. Sau khi Uỷ ban Giáo thuyết xem xét, bản văn được phát cho các nghị phụ ngày 25-10-1965 và bỏ phiếu ngày 29. Ở vòng bỏ phiếu chót, trong số 2.115 nghị phụ bỏ phiếu, có 2.081 phiếu thuận, 27 phiếu chống và 7 phiếu bất hợp lệ. Ngày 18-11 là ngày công bố với 2.344 phiếu thuận và 6 phiếu chống.
II. Cơ cấu hiến chế
Những nét chính của bản sơ thảo đầu tiên được giữ lại đến cùng: một phần nói về Mạc khải tổng quát, một phần dành cho Thánh Kinh. Lược đồ thứ nhất được chia như sau: chương I: Hai nguồn Mạc khải; chương II: Linh hứng; bất ngộ và cấu tạo văn chương của Thánh Kinh; chương III: Cựu Ước; chương IV: Tân Ước; chương V: Thánh Kinh trong Giáo Hội.
Như trong Lược đồ thứ nhất, Lược đồ thứ hai giữ lại chương I như một lời mở đầu giới thiệu Thánh Kinh; các chương khác cũng chứa đựng chất liệu tương tự như Lược đồ thứ nhất. Chính trong lần soạn thảo thứ ba mà giáo thuyết về Mạc khải chiếm vai trò ưu thắng. Như vậy, phần thứ nhất của bản văn trở thành quan trọng nhất, vì chứa đựng giáo thuyết “chi phối” mọi việc khai triển khác. Nội dung của lược đồ thứ ba là: chương I: Về chính Mạc khải; chương II: Sự lưu truyền Mạc khải; chương III: Linh hứng của Thiên Chúa và việc chú giải Thánh Kinh; chương IV: Cựu Ước; chương V: Tân Ước; chương VI: Thánh Kinh trong đời sống Giáo Hội.
Như thế, chúng ta có một bản văn chia làm hai phần lớn, được soạn thảo dưới sự hướng dẫn của hai tiểu ban. Phần nhất bàn về Mạc khải tổng quát, gồm hai chương: chương I bàn về diễn tiến Mạc khải mà Thiên Chúa đã tự biểu lộ cho con người và phó mình cho họ, đến mức độ trọn vẹn trong Chúa Kitô; chương II trình bày tính cách liên tục trong việc Thiên Chúa tự biểu lộ và phó mình cách trọn vẹn trong Giáo Hội bằng tất cả những gì tạo thành đời sống Giáo Hội, qua tiến trình lịch sử.
Phần hai bàn về Thánh Kinh, một hình thức đặc biệt của sự biểu lộ và phó mình của Thiên Chúa: Chương III trình bày những khía cạnh tổng quát của Thánh Kinh: đó là một tác phẩm của Thiên Chúa, Đấng hạ mình đến với chúng ta, nhưng cũng là một tác phẩm của con người; chương IV bàn về giá trị của Cựu Ước; chương V bàn về Tân Ước; sau cùng chương VI trình bày ý nghĩa của Thánh Kinh đối với Giáo Hội mọi thời đại và mọi hoàn cảnh.
III. Tầm quan trọng
Hiến chế Mạc khải đã không giải quyết mọi vấn đề, đã không có thái độ rõ ràng về nhiều vấn đề, và không làm thoả mãn mỗi người. Hiến chế không thể làm điều đó. Dầu vậy Hiến chế cũng nói lên một bước tiến rất tích cực trong công cuộc tìm hiểu Mạc khải cũng sẽ có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong nền Thần học Công giáo và cuộc đối thoại hiệp nhất.
Công đồng tiến hành công việc trong nỗ lực hoà giải. Hiến chế Mạc khải đã phải tổng hợp nhãn quan của nhiều trường phái không luôn luôn phù hợp nhau, và phải tóm lược các ý tưởng (dù làm như vậy có vẻ đơn giản hóa vấn đề). Bản văn phải được nghiên cứu cẩn thận chứ không chỉ đọc thoáng qua. Tuy nhiên, không được vì thế mà lãng quên tâm điểm của toàn thể giáo thuyết, tâm điểm đó chính là tác động cứu độ của Thiên Chúa đang diễn tiến trên thế gian và trong lịch sử nhờ Lời của Ngài là Chúa Kitô.
Cũng nên chú ý là bản văn sau cùng đã được đại đa số trong Công đồng chấp thuận, như thế bản văn nói lên đức tin của Giáo Hội về vấn đề này. Dầu không đồng tâm về những chi tiết, nhưng phần giáo thuyết căn bản thì không ai có thể bàn cãi được nữa.
Người ta có thể lấy làm tiếc là Thánh Truyền và Huấn quyền lại đứng bên cạnh Thánh Kinh. Nhưng như thế là vì đã có thành kiến luôn đối chiếu ba thực thể trên. Trong khi đó Công đồng đã quan niệm và thành công trong việc dung hoà: cả ba đều mang Lời Chúa, tuy mỗi thực thể theo một cách thức riêng và với một tước vị riêng.
Bản văn này phải thúc đẩy các nhà thông thái nghiên cứu Thánh Kinh và giúp tín hữu say mê Thánh Kinh. Theo đường hướng cởi mở của Thông điệp Divino afflante Spiritu,Hiến chế về Mạc khải mở những chân trời mới cho công việc chú giải. Người ta được tự do nghiên cứu để khai thác các “văn loại” và các khám phá mà lịch sử và khoa học đem lại, mà không sợ những cấm đoán đè nặng từ bên ngoài như trường hợp các đồng nghiệp của họ thời trước. Nhưng cùng một lúc Hiến chế cũng xác định những điều ta không thể chối bỏ mà không triệt tiêu Mạc khải. Do đó, không được nghi ngờ lịch sử tính của các Phúc Âm và nguồn gốc tông đồ của các sách đó. Công đồng đã không kết án phương pháp văn hình sử (Formgeschichte) nhưng đã nêu ra những giới hạn của phương pháp ấy; không phải tất cả những ý tưởng “giải huyền thoại” của R. Bultmann là sai nhưng phải cẩn thận để khỏi rơi vào thuyết duy tín mà phương pháp này đưa đến. Còn về tầm quan trọng thực tế của những lời khuyên mục vụ ở chương VI thì chỉ có tương lai mới có thể trả lời chúng ta.
Việc xác định chân lý Thánh Kinh ở số 11 là một điều rất quan trọng. Người ta không thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ loại chân lý nào (khoa học, lịch sử, địa lý, dân chủng học, v.v…) nhưng chỉ có thứ chân lý cứu thoát chúng ta, và ta cũng nên lưu ý Công đồng không nói những chân lý nhưng nói chân lý ở số ít: chân lý ấy đồng thời cũng là sự sống, là đường dẫn đến sự cứu độ. Điều đó muốn nói rằng chân lý của chúng ta không phải chỉ là một điều ta biết suông, nhưng là một bổn phận phải thực hành: “thực hành chân lý” (x. Ep 4,15) và phải tiến tới trong chân lý: “đi trong chân lý”. Công đồng muốn giải phóng thần học khỏi quan niệm Hy-lạp về chân lý quá tĩnh để trở về với ý niệm Do-thái linh động hơn, hiện sinh hơn, cởi mở hơn đối với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Một số người công kích, số khác lại ca tụng về tầm quan trọng hiệp nhất của Hiến chế về Mạc khải. Người ta đã chỉ trích sự hàm hồ về mối tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Nhưng có người lại thấy ở đó một cánh cửa đưa đến đối thoại, nhất là vào thời đại các Giáo Hội phát sinh sau khi Phong trào Cải cách đặt lại vấn đề Thánh Truyền. Việc tự do tìm hiểu đã chiếm được một địa vị, nhờ đó sự cộng tác giữa các nhà chú giải Công giáo và Tin lành càng dễ dàng và đáng khích lệ hơn. Ngoài ra, việc khuyến khích đọc Thánh Kinh đã tạo nên một nền tảng vững chắc đưa các ki-tô hữu xích lại gần nhau hơn, vì họ cùng lắng nghe một Lời Chúa. Dù bản chính lục Thánh Kinh vẫn còn đôi chút khác biệt, nhưng sự kiện này không có tầm quan trọng thực tiễn nào.
PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA 1*
1. Lời mở đầu
Khi thành kính lắng nghe và dạn dĩ công bố LờiThiên Chúa 2*, Thánh Công đồng làm theo lời thánh Gioan: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người” (1 Ga 1,2-3). Bởi thế, noi gương Công đồng Triđentinô và Vatican I, Công đồng này muốn trình bày giáo lý chân thật về mạc khải của Thiên Chúa và về lưu truyền mạc khải ấy, để nhờ việc rao giảng ơn cứu độ, toàn thể thế giới nhờ nghe mà tin, nhờ tin mà trông cậy, nhờ trông cậy mà yêu mến [2]. 3*
—————
CHƯƠNG I
VỀ CHÍNH VIỆC MẠC KHẢI 4*
2. Bản chất và đối tượng của Mạc khải
Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ngài (x. Ep 1,9); nhờ mầu nhiệm đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Vây qua việc mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ (x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Nhiệm cục mạc khải này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ biểu lộ và củng cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được diễn tả bởi các lời; còn các lời thì công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong đó 5*. Nhưng nhờ mạc khải này, sự thật thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người nên chiếu sáng cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là Trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mạc khải [3]. 6*
————-
3. Chuẩn bị Mạc khải Phúc Âm 7*
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,3), không ngừng làm chứng cho loài người về chính mình nơi các thọ tạo (x. Rm 1,19-20) 8*; hơn nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao vời, ngay từ khởi thủy, Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ biết. Sau khi tổ tông sa ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng họ dậy hướng tới niềm hy vọng cứu độ (x. St 3,15). Ngài đã không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng cách kiên tâm làm việc lành (x. Rm 2,6-7) 9*. Khi đến thời gian đã định, Ngài đã gọi Abraham để làm cho ông thành một dân lớn (x. St 12,2-3), một dân tộc mà sau thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Môsê và các ngôn sứ mà dạy dỗ, để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là Thẩm phán chí công, và để họ trông đợi Đấng Cứu Thế Ngài đã hứa ban. Như thế, qua các thời đại, Ngài đã dọn đường 10* cho Phúc Âm.
——————
4. Chúa Kitô hoàn tất mạc khải 11*
Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (x. Dt 1,1-2) 12*. Thật vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18). Bởi vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm, “con người đã được sai đến với những con người” [4], “đã nói lời của Thiên Chúa” (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Chúa Cha đã giao phó cho Người thực hiện (x. Ga 5,36; 17,4). Vì thế, chính Người, Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9), bằng toàn thể sự hiện diện và tỏ mình ra bằng lời nói và việc làm, bằng các dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sự sống lại vinh quang từ trong kẻ chết, sau cùng bằng việc cử Thánh Thần chân lý đến, Người đã bổ túc và hoàn tất mạc khải và xác nhận mạc khải bằng một chứng cứ thần linh là Thiên Chúa ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi cho chúng ta sống lại để được sống đời đời.
Vậy nhiệm cục Kitô giáo sẽ không bao giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh viễn. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công khai mới nào khác nữa trước ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh quang (x. 1 Tm 6,14; Tt 2,13). 13*
————————
5. Phải đón nhận Mạc khải bằng đức tin
Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí” [5], và bằng cách tự ý ưng thuận mạc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” [6]. Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng ban các ân huệ mà kiện toàn đức tin. 14*
—————
6. Mạc khải và sự hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa
Bằng cách mạc khải 15*, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu độ nhân loại, “nghĩa là cho người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn toàn vượt quá trí hiểu loài người” [7]. 16*
Thánh Công đồng tuyên xưng rằng “con người có thể nhận biết Thiên Chúa, nguyên lý và cứu cánh mọi sự cách chắc chắn , nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí suy luận từ các thọ tạo” (x. Rm 1,20). Nhưng Công đồng cũng dạy rằng phải nhờ Thiên Chúa mạc khải, mới có “điều này là, tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, con người có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm” [8]. 17*
————————-
CHƯƠNG II
SỰ LƯU TRUYỀN MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA 18*
7. Các Tông đồ và những người kế vị loan truyền Phúc Âm
Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ 19*. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người, Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn mạc khải (x. 2 Cr 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm đã được hứa trước qua miệng các Ngôn sứ, và được chính Người thực hiện và công bố; các ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và luật lệ luân lý [9], đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Việc này đã được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các định chế, các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại20* sứ điệp cứu độ dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Thần [10].
Nhưng để Phúc Âm được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội 21*, các Tông đồ đã để lại những người kế vị là các giám mục và “trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài” [11]. Bởi vậy, Thánh Truyền này cùng với Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, là như tấm gương mà Giáo Hội lữ thứ trên trần gian nhìn vào để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, do bởi Ngài, Giáo Hội nhận lãnh tất cả, cho đến khi được dẫn tới để nhìn thấy Ngài diện đối diện, Ngài thế nào Giáo Hội sẽ thấy như vạy (x. 1 Ga 3,2).
————————
8. Thánh Truyền 22*
Vì vậy, những lời giảng dạy của các Tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó, khi truyền lại những gì chính mình đã nhận lãnh, các Tông đồ khuyến cáo các tín hữu giữ gìn các truyền thống họ đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x. 2 Tx 2,15), và chiến đấu để bảo vệ đức tin chỉ được truyền đạt cho họ một lần mà thôi (Gđ 3) [12]. Và những điều các Tông đồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc phượng tự của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin. 23*
Thánh Truyền do các Tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần [13]. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ các tín hữu chiêm ngưỡng và học hỏi, khi đã ghi nhớ các điều đó trong lòng (x. Lc 2,19 và 51), hoặc nhờ họ đã thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ, Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi Lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội. 24*
Lời các thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền; và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của Giáo Hội, mộtGiáo Hội luôn tin và cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền ấy, Giáo Hội biết được toàn bộ thư quy Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền đã làm cho Thánh Kinh không ngừng tác động. Như vậy, Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Cl 3,16). 25*
———————-
9. Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh
Vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh được nối kết và thông giao với nhau cách chặt chẽ. Thật thế, do cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch thần linh, có thể nói cả hai kết hợp thành một và cùng quy hướng về một mục đích. Quả vậy, Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói, xét theo tư cách được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; còn Thánh Truyền thì truyền đạt nguyên vẹn cho các đấng kế vị các Tông đồ Lời Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các Tông đồ, để các đấng kế vị đó, nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà kín múc được niềm xác tín về mọi điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn trọng với một lòng quý mến và thành kính như nhau [14]. 26*
—————-
10. Tương quan giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh, Dân Chúa và Huấn Quyền
Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành một kho tàng thánh thiêng duy nhất lưu trữ Lời Chúa, đã được ký thác cho Giáo Hội. Khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh, quy tụ quanh các vị chủ chăn27*, chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ, với tình hiệp thông, với việc bẻ bánh và kinh nguyện (x. Cv 2,42, bản hy-lạp), nên giữa các thủ lãnh và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại [15].
Còn nhiệm vụ chính thức giải thích lời Thiên Chúa đã được ghi chép hay truyền lại [16], nhiệm vụ này đã được uỷ thác cho một mình Huấn Quyền sống động của Giáo Hội [17], quyền này được thi hành nhân danh Chúa Giêsu Kitô28*. Tuy nhiên, Huấn Quyền này không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa vì chỉ giảng dạy những điều đã được truyền lại; bởi vì do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền kính mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời đó, đồng thời từ kho tàng đức tin duy nhất ấy, Huấn Quyền kín múc ra tất cả mọi điều mà đề nghị cho giáo dân tin như là những điều đã được Thiên Chúa mạc khải.
Như thế, đã rõ là do ý định hết sức khôn ngoan của Thiên Chúa, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Giáo Hội được nối kết và liên đới với nhau đến nỗi không một cái nào có thể đứng vững một mình không cần hai cái kia; và dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu độ các linh hồn, mỗi bên theo phương cách riêng.
————————-
CHƯƠNG III
ƠN LINH HỨNG THÁNH KINH VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH
11. Ơn linh hứng và chân lý trong Thánh Kinh
Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần29*. Thật vậy, Giáo Hội Mẹ thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,31; 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3,15-16), các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho chính Giáo Hội với tư cách đó [18]. Nhưng để viết ra các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ [19], để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ [20], họ viết ra như những tác giả đích thật tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi [21].
Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý 30* mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta [22]. Bởi vậy “tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,16-17 bản hy-lạp).
——————
12. Cách thức giải thích Thánh Kinh 31*
Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy [23], nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài.
Để tìm ra chủ ý của các thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải đến “văn thể” 32*. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp rõ rệt, thánh sử đã muốn diễn tả và thật sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hoá của các ngài, qua các lối văn được dùng trong thời đó [24]. Thật vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả thánh muốn khẳng định trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức tự nhiên cảm nghĩ, nói năng hoặc tường thuật, thường được dùng vào thời đại của thánh sử, cũng như các cách thức mà người thời ấy quen dùng khi giao tế với nhau [25].
Nhưng bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần [26]. Và để khám phá ra chính xác ý nghĩa của các bản văn thánh, cũng phải kỹ lưỡng xem xét đến nội dung và sự duy nhất của toàn thể Thánh Kinh, dựa trên Truyền Thống sống động của toàn thể Giáo Hội và sự suy loại đức tin 33*. Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Giáo Hội được chín chắn. Quả vậy mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ gìn giữ và giải thích lời Thiên Chúa [27].
———————-
13. Sự “hạ cố” của Đức Khôn Ngoan
Vậy trong Thánh Kinh, tỏ hiện sự “hạ cố” kỳ diệu của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu, mà vẫn không làm tổn thương sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, “để chúng ta học biết lượng nhân từ khôn tả của Thiên Chúa và biết, do quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào” [28]. Quả thế, các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người.
CHƯƠNG IV
CỰU ƯỚC
14. Lịch sử cứu độ trong các sách Cựu Ước
Thiên Chúa chí ái, vì ân cần dự định và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại, nên do một kế hoạch đặc biệt, đã tuyển chọn cho mình một dân tộc để trao gửi các lời hứa. Thật vậy, sau khi đã ký kết giao ước với Abraham (x. St 15,18) và với dân Israel qua trung gian Môsê (x. Xh 24,8), Ngài đã dùng lời nói và hành động mà mạc khải chính mình là Thiên Chúa độc nhất, chân thật và hằng sống cho dân Ngài đã thủ đắc riêng, nhờ đó Israel nghiệm thấy đâu là những đường lối Thiên Chúa đối xử với loài người, và nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các ngôn sứ, họ ngày càng thấu hiểu các đường lối ấy cách sâu xa rõ ràng hơn, và đem phổ biến rộng rãi hơn nơi các dân tộc (x. Tv 21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gr 3,17). Nhiệm cuôc cứu độ mà các thánh sử đã tiên báo, thuật lại và giải thích, còn tồn tại trong các sách Cựu Ước với tính cách là lời thật sự của Thiên Chúa. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa linh hứng này vẫn giữ một giá trị trường cửu: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Thánh Kinh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15,4). 34*
———————————-
15. Tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các ki-tô hữu
Nhiệm cuộc Cựu Ước được bố trí với mục đích chính yếu là để chuẩn bị và loan báo theo cách ngôn sứ (x. Lc 24,44; Ga 5,39; 1 Pr 1,10) và để chỉ ra bằng những hình bóng khác nhau (1 Cr 10,11) ngày quang lâm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài và của Vương Quốc của Đấng Mêsia. Tùy theo hoàn cảnh nhân loại trước thời Chúa Kitô thiết lập công cuộc cứu độ, các sách Cựu Ước bày tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa và con người ta, cùng những cách thế mà Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người. Tuy có nhiều bất toàn và tạm bợ, các sách ấy chứng tỏ khoa sư phạm đích thật của Thiên Chúa [29]. Do đó, các ki-tô hữu phải thành kính đón nhận các sách này: chúng diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, một khoa khôn ngoan hữu ích về đời sống con người, và những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu; sau cùng trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ chúng ta. 35*
———————————
16. Tính duy nhất giữa Cựu và Tân Ước
Vậy Thiên Chúa, Đấng linh hứng và tác giả các sách Cựu và Tân Ước, đã khôn ngoan xếp đặt cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ hiện trong Tân Ước [30]. Thật vậy, tuy Chúa Kitô đã thiết lập Giao Ước mới trong máu Ngài (x. Lc 22,20; 1 Cr 11,25), nhưng các sách Cựu Ước, đã được thâu dụng trọn vẹn trong lời rao giảng Phúc Âm [31], thì đạt được và giãi bày đầy đủ ý nghĩa của mình trong Tân Ước (x. Mt 5,17; Lc 24,27; Rm 16,25-26; 2 Cr 3,14-16), và ngược lại, làm sáng tỏ và giải nghĩa Tân Ước.36*
—————
CHƯƠNG V
TÂN ƯỚC 37*
17. Sự trổi vượt của Tân Ước
Trong các sách Tân Ước, Lời Thiên Chúa là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu (x. Rm 1,16), được trình bày và biểu dương sức mạnh cách trổi vượt. Thật vậy, khi đến thời viên mãn (x. Gl 4,4), Ngôi Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta, đầy tràn ân sủng và chân lý (x. Ga 1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian; bằng việc làm và lời nói, Ngài đã biểu lộ Cha Ngài và chính Ngài ra; và khi chết, sống lại và lên trời vinh hiển, khi cử Thánh Thần đến, Ngài đã hoàn tất công việc của Ngài. Chính Ngài, là Đấng độc nhất có những lời ban sự sống đời đời, khi được nâng lên cao khỏi mặt đất (x. Ga 12,32, bản hy-lạp), Ngài đã kéo mọi người đến với mình (x. Ga 6,68). Nhưng mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các thánh Tông đồ và các Ngôn sứ của Ngài (x. Ep 3,4-6, bản hy-lạp) để họ rao giảng Phúc Âm, khơi động lòng tin vào Đức Giêsu, là Đấng Kitô và là Đức Chúa, và quy tụ Giáo Hội. Về những việc này, các sách Tân Ước vẫn còn nêu ra một bằng chứng trường tồn và thần linh. 38*
———————-
18. Các sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông đồ
Không ai không biết rằng trong tất cả các Sách Thánh, kể cả các sách Tân Ước, các sách Phúc Âm xứng đáng có địa vị trổi vượt, vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.
Trong mọi thời và ở mọi nơi, Giáo Hội đã và vẫn quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông đồ 39*. Thật vậy, những điều mà theo lệnh truyền của Chúa Kitô, các Tông đồ rao giảng, sau này nhờ Chúa Thánh Thần linh hứng, chính các ngài và những người sống bên các ngài đã lưu truyền cho chúng ta bằng bản văn làm nền tảng đức tin: đó là Phúc Âm dưới bốn hình thức, theo Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan [32].
———————-
19. Tính lịch sử của các sách Phúc Âm 40*
Mẹ thánh Giáo Hội đã và vẫn còn bền bỉ quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm nói trên, mà Giáo Hội không ngần ngại khẳng định lịch sử tính, trung thành lưu truyền những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã dạy nhằm phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Ngài được đưa lên trời (x. Cv 1,1-2). Thật vậy, sau khi Chúa lên trời, các Tông đồ đã truyền lại cho những người nghe những điều Ngài đã nói đã làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn [33] mà chính các ngài có nhờ học được từ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và nhờ ánh sáng Thánh Thần Chân Lý [34] dạy dỗ. Vậy các thánh sử đã viết bốn Phúc Âm: các ngài chọn một số trong nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được chép ra rồi, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các Giáo Hội, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao giờ cũng nhằm truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và chân thành về Chúa Giêsu [35]. Quả thế, dựa trên ký ức hay kỷ niệm riêng, hoặc dựa trên lời chứng của những người “từ đầu đã chứng kiến và phục vụ Lời Chúa”, các ngài đã viết ra với chủ ý giúp chúng ta am tường tính “xác thực” của những điều chúng ta đã được dạy dỗ (x. Lc 1,2-4).
——————-
20. Các sách khác trong Tân Ước
Ngoài bốn quyển Phúc Âm, thư quy Tân Ước còn gồm các thư thánh Phaolô và những bản văn khác thời các Tông đồ, đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa, các sách ấy xác nhận những gì liên hệ đến Chúa Kitô, trình bày ngày một rõ ràng hơn giáo huấn đích thật của Ngài, rao giảng sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô, và tường thuật lại những bước đầu và sự bành trướng kỳ diệu cùng tiên báo sự hoàn tất vinh hiển của Giáo Hội. 41*
Thật thế, Chúa Giêsu đã ở bên các Tông đồ như Ngài đã hứa (x. Mt 28,20) và đã cử Thánh Thần Bảo Trợ đến để dẫn dắt các ngài đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13).
——————–
CHƯƠNG VI
THÁNH KINH TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI 42*
21. Tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với Giáo Hội 43*
Giáo Hội đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thánh Thể Chúa: nhất là trong phụng vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Mình Chúa Kitô mà trao ban cho các tín hữu. Giáo Hội đã và vẫn luôn luôn coi Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền như là quy luật tối cao cho đức tin của mình, bởi vì Thánh Kinh, được Thiên Chúa linh ứng và được ghi chép một lần cho mãi mãi, truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch và làm vang dội tiếng Chúa Thánh Thần trong lời của các Ngôn sứ và các Tông đồ. Vì vậy, toàn thể công việc rao giảng trong Giáo Hội cũng như chính đạo Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các sách thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ. Trong Lời Thiên Chúa, có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Giáo Hội, còn đối với con cái Giáo Hội thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau đây hoan toàn đúng về Thánh Kinh: “Thật vậy, lời Thiên Chúa sống động và linh hoạt” (Dt 4,12), “có sức xây dựng và ban phần gia nghiệp cho mọi người đã được thánh hoá” (Cv 20,32; x. 1 Th 2,13).
————————–
22. Cần có những bản văn và những bản dịch khác nhau 44*
Lối vào vào Thánh Kinh cần phải được rộng mở cho các ki-tô hữu. Chính vì thế, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã nhận làm của mình bản dịch Cựu Ước hy-lạp cổ kính, được gọi là bản Bảy Mươi. Giáo Hội luôn quý trọng các bản dịch Đông phương khác và các bản dịch la-tinh, nhất là bản thường gọi là bản Phổ thông. Nhưng bởi vì Lời Thiên Chúa phải luôn tiện dụng cho mọi thời đại, Giáo Hội như một người mẹ ân cần lo liệu sao cho có các bản dịch thích hợp và đúng nghĩa sang các thứ tiếng, nhất là dịch từ nguyên bản các Sách Thánh. Nếu hoàn cảnh thuận tiện và được giáo quyền chấp thuận, các bản dịch đó được thực hiện với sự cộng tác của các anh em ly khai, thì mọi ki-tô hữu đều có thể dùng được.
———————–
23. Nhiệm vụ tông đồ của các nhà thần học công giáo 45*
Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, tức Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày một sâu xa hơn, để không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý mà khuyến khích cả việc học hỏi các Thánh Giáo Phụ Đông phương cũng như Tây phương và các loại Phụng vụ thánh. Còn các nhà chú giải công giáo và những nhà nghiên cứu thần học phải chuyên hiệp lực, cố gắng dùng những phương thế thích hợp mà khảo sát và trình bày Thánh Kinh, dưới sự trông nom của Huấn Quyền thánh; công việc này phải được thực hiện thế nào để có đa số tối đa những người phục vụ Lời Chúa có thể cung cấp hữu hiệu cho dân Thiên Chúa lương thực Thánh Kinh có sức soi sáng tâm trí, củng cố ý chí và thiêu đốt lòng người yêu mến Thiên Chúa [36]. Thánh Công đồng khuyên nhủ các con cái Giáo Hội chuyên nghiên cứu Thánh Kinh, hãy can đảm tiếp tục đến cùng công việc đã khởi sự tốt đẹp, với năng lực ngày ngày đổi mới, với trọn niềm hăng say, phù hợp với cảm thức của Giáo Hội [37].
——————–
24. Thánh Kinh và Thần học 46*
Khoa Thần học dựa trên lời Thiên Chúa đã được viết ra, cùng với Thánh Truyền, như dựa trên một nền tảng trường tồn; nơi Thánh Kinh, Thần học được củng cố hết sức vững chắc và luôn trẻ trung, nhờ nghiên cứu dưới ánh sáng đức tin tất cả chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh chứa đựng lời Thiên Chúa và vì được linh hứng nên thật sự là Lời Thiên Chúa; do đó, việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh hồn của khoa Thần học [38]. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện.
———————–
25. Khuyên nhủ đọc Thánh Kinh 47*
Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những ai phục vụ Lời Chúa cách chính đáng, với tư cách là phó tế hoặc giảng viên giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ chuyên cần đọc Sách Thánh và học hỏi kỹ càng; nếu không, sẽ có người trong họ thành “kẻ rao giảng Lời Thiên Chúa bên ngoài uổng công, bởi vì họ không lắng nghe Lời đó trong lòng” [39], trong khi họ phải thông truyền, nhất là trong phụng vụ thánh, những kho báu vô tận của Lời Thiên Chúa cho các tín hữu đã được giao phó cho họ. Cũng vậy, thánh Công đồng nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi ki-tô hữu, nhất là các tu sĩ, học được “sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô” (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” [40]. Vậy ước gì họ sẵn lòng đi đến với chính bản văn Thánh Kinh, hoặc nhờ phụng vụ thánh đầy dẫy Lời Thiên Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Thánh Kinh hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác ngày nay đang phổ biến khắp nơi cách đáng mừng, với sự ưng thuận và chăm lo của các vị chủ chăn trong Giáo Hội. Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc đọc Thánh Kinh, để trở thành cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh” [41].
Các giám mục, là những người “gìn giữ giáo lý tông truyền” [42], có phận sự dạy cách thích hợp cho các tín hữu đã được uỷ thác cho các ngài biết sử dụng cho đúng các Sách Thánh, nhất là Tân Ước và trước hết là các sách Phúc Âm, nhờ các bản dịch Sách Thánh; các bản dịch này phải có kèm theo những lời giải thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Giáo Hội có thể gặp gỡ Thánh Kinh cách bảo đảm và ích lợi, cũng như được thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh.
Hơn nữa, cũng nên xuất bản Thánh Kinh với các ghi chú thích hợp, tiện dụng cho cả những người ngoài Kitô giáo và thích nghi với hoàn cảnh của họ. Các vị chăn dắt linh hồn cũng như các ki-tô hữu, dù trong bậc sống nào, cũng nên khôn ngoan phổ biến các bản ấy.
————————-
26. Kết luận 48*
Vì thế, ước gì nhờ việc đọc và học hỏi Sách Thánh, “Lời Thiên Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh” (2 Tx 3,1), và kho tàng mạc khải, đã được uỷ thác cho Giáo Hội, ngày càng lấp đầy tâm hồn con người. Cũng như đời sống Giáo Hội được tăng trưởng nhờ năng tiếp xúc với mầu nhiệm Thánh Thể, cũng thế ta được phép hy vọng rằng đời sống thiêng liêng nhận được một sự thúc đẩy mới nhờ việc tăng thêm lòng sùng kính Lời Thiên Chúa, là Lời “tồn tại muôn đời” (Is 40,8; x. 1 Pr 1,23-25).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Hiến chế Tín lý này đều được các Nghị Phụ Thánh Công đồng chấp thuận. Và dùng quyền tông đồ Chúa Kitô trao ban, hợp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, chúng tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công đồng quyết nghị, chúng tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ Giám mục Giáo Hội Công giáo
Tiếp theo là các chữ ký của các Nghị Phụ
———————
TRÍCH VĂN KIỆN THÁNH CỘNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II
THÔNG TRI
Do vị Tổng Thư ký của Thánh Công đồng trong phiên họp khoáng đại lần thứ 171 ngày 15-11-1965.
Có người thắc mắc về phẩm tính thần học của giáo thuyết được trình bày trong lược đồ của Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa và được đem ra đầu phiếu.
Uỷ ban về Giáo lý Đức tin và phong hoá trả lời thắc mắc trên theo Tuyên ngôn ngày 6 tháng 3 năm 1964:
“Xét theo tập tục Công đồng và chủ đích mục vụ của Công đồng hiện tại, Thánh Công đồng này xác định rằng, Giáo Hội chỉ phải tuân giữ những điều có liên quan đến đức tin và phong hoá được chính Thánh Công đồng tuyên bố là như vậy”.
“Còn những điểm khác được Thánh Công đồng trình bày, vì là giáo thuyết và Huấn Quyền tối thượng của Giáo Hội, nên tất cả và mỗi một ki-tô hữu phải chấp nhận và hiểu theo ý của chính thánh Công đồng, dựa trên những tiêu chuẩn của phương pháp giải thích thần học: ý Công đồng tỏ lộ qua nội dung được trình bày hoặc qua cách diễn tả của Công đồng”.
PERICLES FELICI
Tổng Giám mục hiệu toà Samosate
Tổng Thư ký Thánh Công đồng Vatican II
Nguồn: Ủy Ban Kinh Thánh
Thuộc Hội Đồng Giám Mục VN
********************************
1*– Lược đồ thứ nhất mang tựa đề “Lược đồ Hiến chế Tín lý về các nguồn Mạc khải”. Trong lần soạn thảo thứ hai, lược đồ mang tên “Lược đồ Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa”. Nhưng vì bản văn nói về Mạc khải rất ít nên có người đề nghị tựa đề “Về Thiên Chúa Đấng tự mạc khải”, hoặc “Về Thánh Kinh”. Trong lần soạn thảo thứ ba, tĩnh từ “tín lý” bị loại bỏ, nhưng lại xuất hiện trong bản văn cuối cùng.
2*– Nguyên văn viết tất cả hai chữ bằng chữ hoa, nên ta không biết nó biết nó chỉ Ngôi Lời của Thiên Chúa hay Lời của Chúa, tức là Phúc Âm
3*– Ở đây Công đồng trình bày: mục đích của mạc khải là cứu độ con người chứ không phải để thoả mãn óc tìm tòi của trí khôn chúng ta. Quyền giáo huấn không phải là chủ của Lời Chúa nhưng là tôi tớ “lắng nghe” Và nâng theo (số 10); do đó, quyền giáo huấn phải làm chứng những gì đã được trao phó. Việc trích dẫn 1 Ga 1,2-3 trình bày nội dung mạc khải (đời sống vĩnh cửu) như sự hiệp thông giữa con người và Ba Ngôi Thiên Chúa; nội dung đó được gửi đến cho mọi người nhờ các chứng tá. Những điều trên đương nhiên đòi hỏi một hoạt động truyền giáo: việc “công bố ơn cứu độ” (x. Cv 13,26; Ep 1,13).
4*– Chương này xuất hiện ở trong lược đồ thứ ba. Trong các lược đồ trước, lời mở đầu chỉ bàn sơ qua về vài khía cạnh như “sự cần thiết và đối tượng của mạc khải” (số 1), “Mạc khải tiệm tiến” (số 2) v.v… Nhưng nhiều Nghị Phụ đòi bàn về chính việc Mạc khải, vì Mạc khải chứa đựng không những các chân lý về Thiên Chúa mà cả sự kiện Thiên Chúa tự mạc khải. Trong chương này, Công đồng đã muốn trình bày Mạc khải dưới cái nhìn của con người để thích ứng hơn với những đòi hỏi của con người thời nay. Phải xem xét trọn giáo thuyết này dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa phó mình cho con người ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Bố cục của chương này như sau: số 2: sự kiện Chúa phó mình và từ đó tự mạc khải; số 3 và 4: các giai đoạn Mạc khải và sự hoàn thành trong Chúa Kitô; số 5: thái độ ở con người để tiếp nhận mạc khải; số 6 các chân lý Mạc khải.
5*– Nền thần học Công giáo đã thường coi Mạc khải như một lời nói; còn các hoạt động của Thiên Chúa bị liệt vào hàng rất phụ thuộc. Công đồng lại muốn trình bày là Thiên Chúa tự mạc khải trước tiên bằng “hành động” (gesta) (không bằng việc làm (facta) vì việc làm có vẻ một tác động vật chất hơn). Ở đây, chữ “hoạt động” còn có nghĩa là những biến cố do một người gây nên; trong trường hợp này, người ấy chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách hoạt động phù trợ dân Ngài, thăm viếng bạn hữu (Abraham, Môsê) và bằng các phép lạ (ví dụ Chúa Kitô) v.v…
Trước đó, số 2 này mang tựa đề: “Sự cần thiết của Mạc khải”, sau đổi thành “Bản tính và đối tượng”. Chúng ta thấy Mạc khải phát xuất không do “sự khôn ngoan và lòng nhân lành của Thiên Chúa” như Vatican I đã nói (Dz 1785/3004) nhưng do “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan”. Đối tượng là chính Thiên Chúa và Nhiệm cuộc cứu rỗi của Ngài. Ở đây Công đồng dùng tiếng “bí tích” để nói lên dấu chỉ và phương tiện, lời nói và hành động (x. GH I). Mạc khải là ơn hoàn toàn nhưng-không của tình yêu Thiên Chúa, tỏ bày cho các “bạn hữu” như trong một cuộc đối thoại, nghĩa là không những nói mà còn sống chung nữa.
6*– Câu này không thấy trong những lần soạn thảo trước, sau được thêm vào do đề nghị của nhiều Nghị Phụ. Vấn đề quan trọng là phải xem Chúa Kitô là trung gian duy nhất của Mạc khải vì Người là Lời mà Chúa Cha nói với chúng ta, và là sự viên mãn vì trong Người, Chúa Cha nói với chúng ta tất cả mọi sự. Vì vậy Mạc khải có Kitô tính.
7*– Đề mục tổng quát của đoạn này là sự trông chờ Mạc khải của Chúa Kitô. Mạc khải này thể hiện từng giai đoạn, ta có thể gọi là Mạc khải qua vũ trụ, Mạc khải sơ khai và Mạc khải trong lịch sử.
8*– Bản văn xác nhận sự kiện “Mạc khải qua vũ trụ” hay qua “thọ tạo” theo Thư gửi tín hữu Rôma 1,19-20. Nhưng bản văn phúc trình không muốn giải quyết vấn nạn là trong thực tế Thiên Chúa có ban ơn để người ta có thể nhận biết Chúa qua thọ tạo hay không (Relatio đính kèm lược đồ III, 1964, tr. 11, 3 A). Thiên Chúa mạc khải khi tạo dựng; nhưng nên chú ý là bản văn nói “Chúa tạo dựng” chứ không nói “Chúa đã tạo dựng” để chỉ rõ là tất cả tạo vật luôn luôn tùy thuộc vào Đấng Tạo Hoá, dầu cả trong giả thuyết tiến hoá. Mọi người đều có thể thấy nơi thọ tạo bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chính đây là nền móng cho thần học của các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
9*– “Mạc khải sơ khai” được trình bày trong tầm mức siêu nhiên. Bản văn loại bỏ vấn đề độc tổ thuyết hay đa tổ thuyết, mà chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã tỏ mình cho con người (không nói bằng cách nào), cũng như chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã luôn luôn cứu thoát con người, và tình trạng này vẫn có giá trị ngay cả bây giờ (xem GH 16).
10*– “Mạc khải trong lịch sử” bắt đầu với Abraham. Công đồng đã muốn nêu lên mối liên lạc giữa việc tuyển chọn và Mạc khải. Thiên Chúa được gọi là “Cha”, nhưng các chữ “của mọi người” lại bị loại bỏ vì trong Cựu Ước phổ quát tính chưa rõ ràng lắm. Cựu Ước được coi như là sự “chuẩn bị” cho Phúc Âm để nói lên ý tưởng Mạc khải trong Cựu Ước còn bất toàn và có liên quan đến Mạc khải của Chúa Kitô.
11* – Số này đáp ứng số 2: Mạc khải được thể hiện bằng hành động và ngôn từ. Chúa Kitô vừa là biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa. Có hai đoạn: đoạn thứ nhất cắt nghĩa tại sao Chúa Kitô đem lại cho chúng ta Mạc khải viên mãn; đoạn hai nói Mạc khải này là tối hậu và sẽ không còn mạc khải nào khác nữa.
12*– Công đồng đánh dấu sự liên tục và tương phản giữa Mạc khải của Chúa Kitô với những gì xảy ra trước. Một đối với nhiều, như toàn thể đối với phân tán. Nhập Thể là cuộc Mạc khải vĩ đại của Thiên Chúa. Vì vậy trước tiên phải xác định chân lý Nhập Thể, bản tính nhân loại thật sự của Chúa Kitô, trong đó ta “thấy” Chúa (x. Ga 14,9) là lịch sử thật của Người, “lời nói và việc làm”. Các phép lạ không phải chỉ là sự “xác nhận” Mạc khải, nhưng là chính Mạc khải: vì chính Chúa Kitô tỏ mình qua phép lạ.
13*– Theo ý tưởng của thư gửi tín hữu Do-thái, Mạc khải cũng như chức linh mục của Chúa Kitô phải là độc nhất và vĩnh cửu. Một vài nghị phụ muốn nói là “vì Mạc khải chấm dứt với các tông đồ”, nhưng Uỷ Ban bác bỏ ý kiến trên “vì đó là một lời giải thích đang được bàn cãi”. Lý do sâu xa: vì Chúa Kitô là sự viên mãn và như vậy hoàn tất Mạc khải, nên không còn gì vượt trên sự viên mãn nữa. Nhưng cuộc Mạc khải còn chờ sự vinh quang của ngày Quang Lâm. Còn vấn đề tiến triển: không phải tiến triển trong Mạc khải, nhưng tiến triển chính trong việc chúng ta hiểu và thực hành Phúc Âm; đó là công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng không nói sự gì mới lạ nhưng làm chứng về Chúa Kitô (x. Ga 16,14).
14* – Trong số này, Công đồng trình bày lời đáp của con người đối với Thiên Chúa mạc khải: đó là đức tin, nhưng đức tin được hiểu dưới phương diện nhân bản, như một cuộc “đối thoại cứu độ” (Ecclesiam Suam, ngày 6-8-1964, số 72-79). Công đồng cũng nhận định những khía cạnh của hành vi đức tin: tự do, thuộc lý trí, thuộc ý chí, không thể có nếu không có ơn Chúa… Kiểu nói “vâng phục bằng đức tin” không được trình bày như một đòi buộc luân lý suông nhưng như là một đòi hỏi chính yếu của mối liên hệ mà Thiên Chúa mạc khải nối kết với con người. Trong hành vi đức tin, con người dấn thân toàn diện chứ không phải chỉ bằng lý trí. Ở đây bàn đến “đức tin đã hình thành” bao gồm cả đức cậy và đức mến, như ta có thể phỏng đoán theo những câu trích Thánh Kinh. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa thêm: “Đức tin chưa hình thành” cũng là đức tin và cũng cần ơn Chúa Thánh Thần. Đức tin luôn luôn lớn mạnh dưới tác động cũng của chính Chúa Thánh Thần.
15* – Trong số này, Công đồng bàn về các chân lý được mạc khải, trước hết là các chân lý siêu nhiên, rồi đến các chân lý tự nhiên. Công đồng nói theo Vatican I. Nhưng thứ tự ở Vatican I là: a) tri thức tự nhiên về những chân lý tự nhiên, b) tri thức những chân lý tự nhiên nhờ Mạc khải, c) tri thức chân lý siêu nhiên nhờ Mạc khải. Đang khi đó thứ tự ở đây lại là c-a-b: nghĩa là theo một viển tượng Kinh Thánh và quy về Thiên Chúa hơn.
16* – Đoạn này nói lên đối tượng riêng biệt của Mạc khải, nghĩa là đối tượng mà chúng ta cần được mạc khải: chính Thiên Chúa và những ý định cứu độ của Ngài (x. Relatio, tr. 9, 5). Mạc khải này không phải chỉ là một sự thông đạt kiến thức nhưng cũng có mục đích cứu độ con người nghĩa là thông phần vào đời sống Thiên Chúa.
17*– Phần thứ hai của số 6 lặp lại giáo thuyết của Công đồng Vatican I về việc nhận biết Thiên Chúa bằng lý trí, nhưng Công đồng dùng những từ ngữ rất mạnh để chống lại thuyết vô thần. Nhưng chữ “tuyên xưng” và “dạy” ở phần này nói lên một tín điều. Con người thật sự có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng họ không thể không sai lầm nếu Thiên Chúa không giúp đỡ. Lịch sử minh chứng rằng con người luôn luôn tìm kiếm Thiên Chúa nhưng không bao giờ thoát khỏi lầm lẫn; và trong thực tế, ảnh hưởng của tội lỗi hình như đã làm cho thế giới thường trở thành một chướng ngại vật. Tuy nhiên, trong “nhiệm cuộc” cứu độ chúng ta đang sống, một tri thức hoàn toàn tự nhiên chỉ là một tư tưởng trừu tượng, vì ơn Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
18*– Trong bản thảo thứ hai, chương I mang tựa đề: “Về Lời Chúa được mạc khải” và gồm bốn số. Trong bản thảo thứ ba, người ta thêm số 8 và rồi chương II này. Nhiều người đã phê bình tựa đề, vì Mạc khải – theo họ nói – là lời mạc khải hơn là lời được mạc khải. Tựa đề hiện tại thích hợp với nội dung hơn: “Chỗ này chúng tôi miêu tả việc lưu truyền Mạc khải cách tổng quát, nhưng chúng tôi quan tâm đặc biệt đến truyền thống sống động vì nó có liên quan trực tiếp với Mạc khải được lưu truyền và nó vẫn tiếp tục sau khi Thánh Kinh đã được viết. Như thế, chương này là một bài nhập đề khá hay cho những chương nói về Thánh Kinh sau này” (Relatio, tr. 19).
Một số các Nghị Phụ muốn nhấn mạnh trên Thánh Truyền nên đòi phải có một đề mục về điểm này. “Phần đông các nghị phụ này muốn đặt Thánh Truyền lên trước Thánh Kinh, vì theo bản tính và thời gian, Thánh Truyền có trước Thánh Kinh… Các Nghị Phụ khác muốn xác nhận Thánh Truyền là một nguồn Mạc khải hoàn toàn tách biệt khỏi Thánh Kinh (Relatio, nt.,). Còn Uỷ Ban lại muốn tránh tất cả những vấn đề đang trong vòng tranh luận. Thế là đề mục Mạc khải đã trở thành nóng bỏng hơn cả đề mục cộng đoàn tính của giám mục. Vấn đề ở đây là di sản của bao thế kỷ tranh luận chống Tin Lành. Chúng ta phải vượt qua vấn đề đó, nhưng không phải là việc dễ dàng, nhất là vì chúng lại xa lạ với Đông phương và các Giáo Hội tân lập. Đây là lời của Đức giám mục Edelly trong một cuộc phát biểu ý kiến: “Phải thoát ra khỏi vấn đề sau Công đồng Triđentinô… Đặt mình vào trong trung tâm mầu nhiệm Giáo Hội là một liều thuốc công hiệu. Phải loại trừ tâm thức quá pháp lý và duy danh mà những người Cải cách và La-tinh tự đóng khung vào. Từ thời Trung Cổ, chính tâm thức này đã đối nghịch “việc truyền phép” với “lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần”. Và chính tâm thức này mới đây đã trình bày “quyền tối thượng” và “cộng đoàn tính” như hai thực thể tách biệt. Cũng chính tâm thức này đã đặt Thánh Kinh và Thánh Truyền song song nhau… Thánh Kinh là một thực tại phụng vụ và ngôn sứ. Các Giáo hội Đông Phương coi Thánh Kinh là một “việc truyền phép” lịch sử cứu độ dưới “hình thức” tiếng nói con người, nhưng không tách biệt khỏi việc truyền phép Mình Thánh Chúa trong đó tất cả lịch sử được quy hợp trong Thánh Thể Chúa Kitô. “Việc truyền phép” này cần một “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” , đó chính là Thánh Truyền. Thánh Truyền là “lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần” của lịch sử cứu độ, là sự tỏ mình của Thánh Thần; bởi thế nếu thiếu lịch sử, Thánh Truyền sẽ không thể hiểu được và Thánh Kinh là những chữ chết. Tiếng Thánh Truyền không luôn có cùng một nghĩa, vì vậy Uỷ Ban đã cho biết cách chung là từ khoảng giữa số 8 (và những điều các Tông đồ truyền lại), tiếng “Thánh Truyền” phải hiểu theo nghĩa thụ động: thực thể hay chân lý được lưu truyền.
19*– Câu này nói lên ý hướng của toàn chương: Thiên Chúa muốn lưu truyền toàn thể Mạc khải, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cho mọi thời đại. Các Tông đồ đã được lệnh truyền dạy tất cả những điều các ngài đã thu nhận nơi Chúa Kitô (Mt 28,20).
20*– Công đồng dạy về hai nguồn lưu truyền “Phúc Âm” trước hết theo chiều dọc: từ Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đến các tông đồ, sau đó theo chiều ngang: từ các Tông đồ đến Giáo Hội. Đoạn này nhấn mạnh đến giai đoạn đặc biệt là “thời các Thánh tông đồ”, gồm cả những “môn đệ của các tông đồ” vì họ đã viết một phần Tân Ước, ngay cả sau khi vị Tông đồ cuối cùng băng hà. Các phương tiện lưu truyền là lời giảng dạy và Thánh Kinh: cả hai phương tiện đều lưu truyền cùng một Mạc khải. Công đồng không muốn nói là trong lời giảng dạy chứa nhiều mạc khải hơn trong các lời nói mà cũng bằng gương sáng và các tổ chức. Thánh Truyền không phải chỉ là lời nói suông mà còn là những thực thể.
21*– Ở đây bàn về tính cách liên tục của Mạc khải sau thời các Tông đồ. Đề mục này được bản kỹ lưỡng trong Hiến chế Giáo Hội số 20 và 21. Ở đây Công đồng chỉ nhắc lại. Ở chỗ khác Công đồng cũng dạy rằng nhiệm vụ thiết yếu của các giám mục là lưu truyền mạc khải (x. GH 25a; GM 12a). Sự viên mãn của Mạc khải hiện hữu trong Giáo Hội, và chính nơi Giáo Hội, nhờ đức tin, ta gặp được Thiên Chúa, tức là khởi đầu việc hưởng nhan Chúa: có sự liên tục giữa Giáo Hội hiện tại và Giáo Hội cánh chung.
22*– Số này xuất hiện trong bản thảo thứ ba. Nhiều Nghị Phụ đòi Công đồng phải trực tiếp bàn đến Thánh Truyền, vì các lược đồ trước hầu như không nói gì đến.
23*– Đoạn này bàn về sự hiện hữu và bản tính của Thánh Truyền. Một Nghị Phụ muốn bản văn nói: “Các chân lý mà các Tông đồ đã mạc khải bằng miệng và không có trong Thánh Kinh, được lưu truyền cho chúng ta bằng Thánh Truyền”. Nhưng Uỷ Ban bác bỏ đề nghị trên, vì Uỷ Ban không muốn đặt vấn đề về tính cách đầy đủ chất liệu của Thánh Kinh và nội dung của Thánh Truyền. Chỉ có một điều không còn gì nghi ngờ là Thánh Truyền có nội dung rộng lớn hơn Thánh Kinh; bằng chứng là trường hợp bản chính lục và sự linh hứng của chính Thánh Kinh. Như thế câu “lời giảng dạy của các Tông đồ” bao gồm tất cả mọi điều mà các Tông đồ đã lưu truyền bằng bất cứ cách nào. Và những điều đó nhờ linh hứng được chứa đựng “cách đặc biệt” trong Thánh Kinh (nghĩa là không phải chỉ trong Thánh Kinh).
24*– Thánh Truyền luôn linh động, gia tăng và tiến triển liên tục (không phải trong bản chất mà trong việc hiểu biết) và luôn giữ tính đồng nhất nguyên thuỷ của mình trong khi vẫn hướng về sự viên mãn của chân lý. Để chỉ “bản chất”, ta nói “tông truyền” thay vì “Thánh Truyền sống”. Nguồn gốc sự phát triển là: việc chiêm ngưỡng, nghiên cứu của các nhà thần học, ơn hiểu biết Chúa Thánh Thần ban và lời giảng dạy của hàng giáo phẩm. Ở đây người ta theo kiểu nói của Thánh Irênê mà không nêu danh tánh, vì các nguồn từ “đoàn sủng về chân lý” có thể có ba nghĩa: ơn ban chân lý mạc khải, ân sủng giúp chân thành với chân lý, và ơn giúp cắt nghĩa Mạc khải cách chân thật; ở đây theo nghĩa thứ ba.
25*– Các Giáo Phụ là những chứng nhân quan trọng nhất của Thánh Truyền, không phải chỉ vì các ngài sống gần thời của Tông đồ mà vì các ngài đã hệ thống hoá giáo thuyết, đến nỗi đã có thể truyền lại cho chúng ta theo những công thức mà chính các ngài đã hình thành.
26*– Thánh Truyền không phải chỉ là của Giáo Hội nhưng còn mang đặc tính thần linh như Thánh Kinh cả về nguồn gốc, nội dung và mục đích. Nội dung là xét theo phẩm, chứ Công đồng không bàn đến lượng, Ở đây, ta thấy có sự phân biệt vai trò của các Tông đồ, những người cấu tạo Thánh Truyền, và vai trò của các giám mục, những người bảo vệ Thánh Truyền. Câu: “Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ…” được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ghi thêm vào phút chót. Nhiều người Tin Lành phản đối và cho rằng đó là một bước quay về thuyết “Hai nguồn”. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa là câu trên không hề thay đổi ý nghĩa bản văn. Thật ra, 270 nghị phụ đã yêu cầu sửa đổi nghĩa đó (trong số đó có 111 nghị phụ thuộc nhóm đưa ra đề nghị tu chỉnh danh tiếng 40D). Được Đức Hồng y Bea khuyến khích, Uỷ Ban đã chấp nhận câu thứ 3 trong số 7 câu do Đức Giáo hoàng đề nghị, và nói rằng câu đó không ngăn trở những vấn đề đang được tranh luận.
27*– Đoạn này dạy rằng Mạc khải là gia sản của toàn thể Dân Chúa. Do đó, tín hữu không thể thụ động đối với Lời mạc khải. Giáo thuyết này là một bước tiến sánh với Vatican I và Thông điệpHumani Generis. Dân Chúa sống đạo sẽ làm giàu Thánh Truyền và giải thích Lời Chúa.
28*– Huấn Quyền là thẩm quyền duy nhất được giải thích chính thức Mạc khải, quyền này do Chúa thiết lập và giữ vai trò phụng sự Lời Chúa và Dân Chúa. Quyền giáo huấn có thể là thông thường và ngoại thường, khả ngộ và bất khả ngộ. Về phương diện hợp nhất, lời xác quyết sau đây thật là lời tối quan trọng: Huấn Quyền phải tuân theo Lời Chúa, dầu quyền này gây khó khăn cho nhiều ki-tô hữu khác.
29*– Trong chương này, Công đồng bàn về những điểm gay go nhất của Thánh Kinh: linh hứng, vô ngộ, chú giải.
Trước tiên là vấn đề linh hứng: lược đồ thứ nhất đề cập dài dòng về đề mục này, nhưng theo lối trình bày của các sách thần học nên bị giới hạn vì những tranh luận chưa ổn thoả. Với lập trường không nghiêng về luận đề này hay luận đề kia, Công đồng dạy:
a) Có linh hứng Thánh Kinh, nghĩa là có ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần theo hai nghĩa: mạc khải các chân lý (ví dụ cho các ngôn sứ) và tác động giúp viết thành văn bản để lưu truyền, đồng thời bảo đảm kết quả.
b) Linh hứng ảnh hưởng đến toàn bản chính lục, bởi lẽ một cuốn sách được liệt kê vào bản chính lục là vì nó được linh hứng. Bản văn lập lại giáo thuyết của Vatican I, và thêm rằng giáo thuyết về linh hứng Thánh Kinh là di sản của các Tông đồ (đức tin tông truyền).
c) Liên quan giữa các thánh sử và Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng: Thiên Chúa là tác giả, còn thánh sử là người viết sách; người ta tránh gọi các thánh sử là “dụng cụ”, vì như vậy có vẻ quá thụ động. Cũng vậy, người ta sẽ tránh hiểu Thiên Chúa như tác giả “chính” mà thích nói Ngài là tác giả “siêu việt”. Thiên Chúa không là “thánh sử” nhưng Ngài dùng con người dầu vẫn để con người hoàn toàn tự do và tự phát (với lỗi lầm của họ). Đây là nền tảng của việc phê bình Thánh Kinh.
30*– Kết quả của ơn linh hứng là chân lý của Thánh Kinh. Trước kia là Lược đồ 2 chỉ nói vô ngộ, sau đó bản thảo thứ ba lại thêm: vô ngộ và chân lý; trong bản thảo thứ tư, Uỷ Ban thêm tính từ “cứu độ” vào danh từ “ chân lý”. Điều này gây nên một cuộc tranh luận rộng lớn và sôi nổi, vì người ta cho rằng như thế sẽ hạn chế tính cách vô ngộ của Thánh Kinh vào những điều siêu nhiên và đi ngược lại giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây. Uỷ Ban chấp nhận đề nghị sửa đổi của 73 Nghị Phụ: “nhằm cứu độ chúng ta” trong khi nhấn mạnh là linh hứng không bị giới hạn vào một phần đoạn nào của Thánh Kinh. Nhưng câu này chỉ rõ đặc tính riêng biệt của chân lý Thánh Kinh, nghĩa là chiều hướng để hiểu đúng những xác quyết của Thánh Kinh. Chân lý Thánh Kinh chứa đựng trong lời xác quyết hay lời giáo huấn của các tác giả chứ không trong những từ ngữ. Những giáo huấn ấy không bị giới hạn trong “đức tin và luân lý” bởi vì “chân lý cứu độ” cũng bao gồm những sự kiện lịch sử. Nên lưu ý là bản văn không nói: “những chân lý”, nhưng nói: “chân lý” theo số ít ở đây hiểu theo nghĩa Thánh Kinh nghĩa là hàm chứa sự biểu lộ của Thiên Chúa chân thật (chứ không theo nghĩa duy trí). Chân lý lịch sử của Thánh Kinh không nhất thiết hệ tại việc dựng lại các sự kiện theo thời gian và hoàn cảnh xã hội, nhưng hệ tại việc giải thích các sự kiện, nghĩa là dưới phương tiện những sự kiện đó diễn tả mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa.
31*– Công đồng dạy rằng việc giải thích rất cần thiết để hiểu Thánh Kinh. Khoa giải thích tìm tòi những phương pháp văn chương của thánh sử để khám phá điều thánh sử muốn dạy. Thiên Chúa muốn dạy cũng điều đó và có lẽ còn hơn nữa: vấn đề nghĩa thâm sâu (sensus plenior) mà Uỷ Ban không muốn quyết đoán.
32*– Đoạn này bàn về việc phê bình Thánh Kinh nghĩa là nhằm phân tích “khía cạnh nhân loại” của Thánh Kinh: văn thể, phạm trù tri thức, hoàn cảnh lịch sử v.v… như trong bất cứ tác phẩm văn chương nào. Tầm quan trọng của “văn loại” được đặt lên hàng đầu, dầu không kê khai đầy đủ. Ta nên lưu ý điểm này: phải công nhận sự hiện hữu của nhiều loại lịch sử khác nhau, vì trong các cuốn sách của Thánh Kinh, quan niệm lịch sử không có cùng một nghĩa như nhau. Ý tưởng sâu xa được hiểu ngầm ở đây là Lời Chúa đã trở thành lời thật sự của con người, nghĩa là lời nhập thể, như trình bày ở số 13.
33*– Khoa học chưa đủ cho việc chú giải Kitô giáo. Cần phải có đức tin. Nhà chú giải cũng phải được hướng dẫn bởi cùng một Thánh Thần đã linh hứng các thánh sử. Tiếp đến, phải đặt mỗi cuốn sách trong toàn bộ Thánh Kinh vì các sách không có cùng một giá trị như nhau. Phải nhớ rằng Mạc khải còn tiến triển: Tân Ước soi sáng Cựu Ước và Thánh Truyền của Giáo Hội lại soi sáng Tân Ước. Sau cùng, việc chú giải và Huấn Quyền phải cộng tác theo cùng một mục đích là giúp hiểu biết thêm về Mạc khải.
34*– Số này bàn về lịch sử cứu độ trong Cựu Ước, xét như là cuốn sách và kế hoạch cứu dộ. Thiên Chúa đã phán qua các biến cố trong lịch sử dân Do-thái và qua các Ngôn sứ (nghĩa rộng): đã cóLời Chúa trước khi có sách, nhưng bây giờ Lời Chúa được tồn trữ trong sách. Nên lưu ý tới ý hướng của việc tuyển chọn dân Do-thái: phổ quát tính của ơn cứu độ. Cựu Ước gồm nhiều giai đoạn: giai đoạn các Tổ Phụ đánh dấu bằng lời hứa, giai đoạn Môsê thiết lập dân Chúa trong Giao Ước, giai đoạn Ngôn sứ trong đó Mạc khải được khai triển.
35*– Số này bàn về việc ki-tô hữu đọc Cựu Ước. Ba ý tưởng: tương quan giữa Cựu và Tân Ước, bản tính các sách Cựu Ước, giá trị của Cựu Ước đối với các ki-tô hữu. Chúa Kitô là ý nghĩa của Cựu Ước: của cả các biến cố cũng như các sách. Tất cả những gì xảy ra trước Chúa Kitô đều có mục đích chuẩn bị. Việc tuyển chọn dân Do-thái, lịch sử, văn hoá của dân này v.v… đều chuẩn bị chính con người, ngôn ngữ và tôn giáo của Chúa Kitô v.v… Bản văn nói đến những “khuôn mẫu”: không nên hiểu theo nghĩa kỹ thuật, nhưng theo ý là những biến cố quá khứ trở thành những “mẫu”, những “hình” của một biến cố tương lai nhờ đó những biến cố kia được trọn nghĩa. Việc liệt kê giá trị của Cựu Ước hơi lộn xộn. Bản văn nhắc đến tính cách tạm thời của Cựu Ước để đề phòng chống lại nền luân lý tiền Kitô giáo của dân Do-thái. Người ta nói đến “kho tàng kinh nguyện” để bênh vực các thánh vịnh, chống lại những người muốn loại bỏ thánh vịnh ra khỏi phụng vụ.
36*– Sự duy nhất của Cựu Ước và Tân Ước. Đoạn này bàn cách lẫn lộn về các sách vừa Tân Ước vừa Cựu Ước. Tân Ước đã thu gồm toàn thể Cựu Ước, ngoại trừ tính cách bất toàn và tạm thời. Như thế nghĩa là các sách Cựu Ước được sát nhập vào lời rao giảng Phúc Âm như thành phần của một Mạc khải duy nhất. Do đó, chúng hiện ở trong một ngữ cảnh mới, chúng đã được biến đổi vì đã đạt được ý nghĩa tối hậu. Nên lưu ý rằng không những Tân Ước soi sáng Cựu Ước, mà Cựu Ước còn giúp giải nghĩa Tân Ước, chẳng hạn phải hiểu Isaia Đệ Nhị dưới ánh sáng của thánh Phaolô và ngược lại.
37*– Trong Lược đồ thứ nhất, chương này hầu như có tính cách hoàn toàn biện giáo và tiêu cực. Sau đó, người ta soạn thảo lại theo một tinh thần cởi mở hơn. Nhưng thật sự, chương này hầu như chỉ bàn về các Phúc Âm.
38*– Bản văn này phát xuất từ bản thảo thứ ba. Câu thứ nhất được coi như luận đề mà cả số này trình bày. Theo tư tưởng của chương I, Tân Ước là chính Chúa Giêsu và công trình của Ngài. Trong khi hoàn tất Cựu Ước, Tân Ước mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như Người Cha. Bản văn không nói Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội (Giáo Hội xuất hiện vào thời các Tông đồ). Như thế người ta chấp nhận sự phân biệt giữa “Nước Chúa” và Giáo Hội (x. GH 5, 8). Hoạt động của Chúa Giêsu được đặt trong lịch sử và ngày nay vẫn còn thực hiện. Bản văn dùng động từ ở thì hiện tại: Ngài “kéo” thay vì “đã kéo” của Lược đồ trước. Tiếng “mầu nhiệm” chỉ Chúa Kitô và công trình của Ngài chứ không đúng y như nghĩa của Thánh Phaolô. Lưu ý mục đích truyền giáo của Mạc khải.
39*– Giá trị chứng tích của các sách Phúc Âm là thiết yếu đối với Giáo Hội. Nhưng trước kia cách thế bênh vực giá trị đó không được thích hợp cho lắm khi đặt nền tảng trên hai lý do: các thánh sử trung thực và thấu đáo vấn đề. Điều này buộc phải chứng minh rằng các ngài là Tông đồ hay môn đệ các Tông đồ; nhưng theo lịch sử, sự kiện đó không chắc chắn. Vì thế, bản văn bỏ qua vấn đề này. Cùng với Thánh Truyền, Công đồng xác nhận rằng các Phúc Âm “bắt nguồn từ các Tông đồ” và truyền lại cho chúng ta dưới hình thức “theo Mátthêu…” v.v… Nguồn gốc này là lời rao giảng hay Phúc Âm truyền khẩu. Mối liên lạc giữa lời rao giảng và Thánh Kinh được Chúa Thánh Thần bảo đảm; nguồn mạch của Phúc Âm được rao giảng là chính Chúa Kitô.
40* – Lịch sử tính của các sách Phúc Âm là điểm quan trọng của Hiến chế. Lược đồ thứ nhất nặng tính cách bút chiến và kết án các lầm lạc của những người nghi ngờ những câu chuyện thời thơ ấu và những cuộc hiện ra v.v… Thái độ này nghịch với tinh thần của Đức Gioan XXIII (x. AAS 54 (1962) 729) và giả thuyết một ý niệm về chân lý lịch sử nặng tính cách khoa học hơn là Thánh Kinh, như có thể tìm thấy nơi những văn kiện chính thức, ví dụ: “các bản văn phải tương xứng với những sự kiện đã xảy ra trong thực tế” (Tđ. Paraclitus, EB số 457). Nhưng khoa chú giải đã cũng minh chứng việc soạn thảo Phúc Âm rất phức tạp: phải lưu tâm đến những truyền thống khác nhau, những thích ứng trong khi rao giảng, vai trò của các cộng đoàn sơ khai v.v… Nhiều Nghị Phụ sợ rằng lịch sử tính sẽ lu mờ nếu lướt qua phương pháp “văn hình sử”. Các cuộc bàn cãi sôi nổi, kéo dài, và các Nghị Phụ đã xin Đức Giáo Hoàng can thiệp để tiếng “lịch sử” được giữ lại trong văn bản. Trong khi đó, để giúp giải quyết các vấn đề, Uỷ ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh đã phát hành một Huấn Thị về Phúc Âm (14-5-1964). Sau cùng bản văn được chấp thuận đã loại bỏ mọi nghi ngờ về lịch sử tính của Phúc Âm; đó là một chân lý mà Giáo Hội đã quả quyết bằng đức tin và lý trí (đã và đang quả quyết). Nhưng “lịch sử” trong Phúc Âm lại là một loại đặc biệt, phải xác định sau khi nghiên cứu văn loại của từng đoạn. Phúc Âm truyền đạt cho chúng ta “những điều chân thật và trung thực” về Chúa Giêsu; như thế nghĩa là: những điều chính thực không thay đổi; phải hiểu tiếng “điều chân thật” theo như đã nói ở số 11. Tóm lại, Phúc Âm không phải là một bản văn phúc trình về những biến cố đã qua, nhưng là một lời truyền bá những sự kiện quan hệ cho ơn cứu độ.
41*– Số này không bị thay đổi mấy. Nó xác quyết rằng, ngoài Phúc Âm, Tân Ước còn có nhiều bản văn khác, nhưng không nêu ra danh sách. Theo Công đồng, những bản văn này có nội dung:
a) thần học: dùng những lý chứng để xác quyết sứ mệnh của Chúa Kitô. Số này chấp nhận sự tiến triển nội tại của Tân Ước, đặc biệt trong Kitô học và Giáo Hội học.
b) giảng thuyết: lời rao giảng về Chúa Kitô.
c) lịch sử: Công vụ Tông đồ thuật lại những “bước đầu” của Giáo Hội; người ta đã dùng chữ “tổ chức” ở trong bản thảo trước.
d) tiên tri: loan báo ngày kết thúc (Khải huyền).
42*– Chương này phát xuất từ bản thảo thứ hai. Sau đó trong bản thảo thứ ba, người ta xác nhận thêm những yếu tố của Lược đồ về Lời Thiên Chúa do Văn phòng Hiệp nhất soạn thảo. Tựa đề đã thay đổi nhiều lần. Trước tiên tựa đề là: Về Thánh Kinh trong Giáo Hội; như thế có vẻ quá thần học, nên đã được đổi thành về Việc dùng Thánh Kinh trong Giáo Hội; nhưng tựa đề này lại có vẻ quá tầm thường. Sau cùng người ta chấp nhận tựa đề hiện tại; tuy nhiên không phải là không gặp chống đối, vì nhiều người muốn dùng tiếng “Lời Chúa” để bao gồm cả Thánh Truyền nữa.
Chương này có tính cách mục vụ. Thật vậy, “đời sống Giáo Hội” bao gồm tất cả mọi hoạt động hướng nội cũng như hướng ngoại, như thế gồm cả việc truyền giáo.
43*– Trong những bản thảo trước, số này mang tựa đề: “Nỗi bận tâm của Giáo Hội đối với Thánh Kinh”. Nhưng tựa đề này lại nghiêng về khía cạnh tự vệ. Sau đó các Nghị Phụ chấp nhận tựa đề hiện tại: “Giáo Hội tôn trọng Thánh Kinh”. Người ta chỉ có thể nói rõ hơn khi so sánh với Thân Thế Chúa; so sánh này gặp nhiều chống đối vì nhiều Nghị Phụ nghĩ rằng những khuynh hướng tân thời muốn giảm thiểu sự hiện diện Chúa trong phép Thánh Thể và hình như bản văn này khuyến khích. Nhưng Uỷ Ban vẫn duy trì bản văn vì sự so sánh này có tính cách cổ truyền và hơn nữa sự hợp nhất giữa Lời Chúa và bí tích lại rất quan trọng trong đời sống Giáo Hội (Phụng vụ). Tầm quan trọng của Thánh Kinh được diễn tả trong câu “cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh … là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin”. Đây là một quy luật khách quan, vì được linh hứng (Thiên Chúa nói với chúng ta qua Thánh Kinh); thứ đến nó là quy luật bất biến, vì Thiên Chúa không thay đổi và – theo cách nói nhân loại – điều gì đã được viết thì đẽ được viết rồi. Bởi thế hậu quả là đời sống Giáo Hội luôn được nuôi dưỡng bởi cùng một nguồn mạch duy nhất, và điều đó được bảo đảm sự liên tục trong lịch sử cũng như sự bình đẳng trong các nền văn hoá khác nhau.
44*– Việc dịch Thánh Kinh ra các sinh ngữ là một nhu cầu truyền giáo (x. TG 22; MV 44), là một đòi hỏi của công giáo tính nơi Giáo Hội (x. GH 13) và là một đòi hỏi của việc hiệp nhất (x. GH 15, HN 14-17, 19-23). Mỗi Giáo Hội dịch Thánh Kinh ra tiếng bản xứ là làm giàu thêm cho Giáo Hội phổ quát, vì tất cả các bản dịch giả thiết một sự thấu hiểu mới về Mạc khải.
45*– Số này nhấn mạnh nhiệm vụ tông đồ của các tiến sĩ Giáo Hội và khuyến khích những nhà chú giải và thần học cộng tác với nhau. Nhìn nhận tầm quan trọng của khoa học để đào sâu Lời Chúa, mặc dầu Giáo Hội có quyền quyết định tối hậu những nghi ngờ (Huấn Quyền) nhưng đồng thời lại đề phòng thứ khoa học (chú giải và thần học) quá cằn cỗi về phương diện mục vụ.
46*– Ở đây người ta bàn về vai trò Thánh Kinh trong Thần học. Vậy Thánh Kinh là nền tảng: là điểm khởi phát và là điểm quy chiếu. Thánh Kinh làm cho nền Thần học trẻ lại vì đem lại những đề mục và những viễn tượng mới. Thánh Kinh là “linh hồn của Thần học” (x. ĐT 16), là nguyên lý sự sống, là nguồn nghị lực của Thần học. Nhưng Thánh Kinh không phải là tất cả, vì Thần học cũng phải quan tâm đến Thánh Truyền, đến những suy tư của người khác, những trực giác của tín hữu v.v… và phải luôn luôn tạo nên những tổng hợp mới để hiểu thêm Thánh Kinh. Cũng vậy, tín điều phải quy chiếu về Thánh Kinh để thấu hiểu và đào sâu trong ánh sáng Thánh Kinh.
47* – Lần đầu tiên trong lịch sử một Công đồng kêu gọi đọc Thánh Kinh. Những người phục vụ Lời Chúa: linh mục, phó tế, các người dạy giáo lý… mang một trách vụ lớn hơn. Tuy nhiên vài Nghị Phụ bối rối và coi lời khuyến khích tổng quát đọc Thánh Kinh là một mối nguy hiểm. Phải đọc “theo tinh thần của Giáo Hội”, vì vậy người ta nhấn mạnh đến kinh nguyện như là một câu đáp lại lời Thiên Chúa Đấng nói trong Thánh Kinh.
Lãnh tụ của phong trào này là các giám mục, các ngài có bổn phận kiểm soát và khuyến khích. Sau cùng, Thánh Kinh được ban cho Giáo Hội để Giáo Hội mang đến cho mọi người, vậy phải khuyến khích các đợt xuất bản dành cho người ngoài Kitô giáo. Đó là một sáng kiến truyền giáo tốt đẹp.
48*– Số này là lời kết luận của chương VI, chứ không phải của tất cả Hiến chế. Tinh thần của đoạn này cũng là tinh thần truyền giáo sâu xa. Nên lưu ý việc chuyển tiếp từ việc đọc sách đến Lời Chúa trong câu thứ nhất, vì Thánh Kinh chứa đựng “kho tàng mạc khải” của Thiên Chúa cho Giáo Hội, và vì Giáo Hội sẽ luôn sống bằng Lời Chúa như chính Ngôi Lời.
[1] Schema Constitutionum et Decretorum de quibus disceptabitur in Concilii Sessionibus Roma, 1962
[2] Xem T. ÂUTINH, De catechizandis rudibus, ch. IV, 8: PL 40, 316
[3] Xem Mt 11,27; Ga 1,14 và 17; 14,6; 17,1-3; 2 Cr 3,16 và 4,6; Ep 1,3-14.
[4] Epist. ad Diognetum, 7, 4: Funk, Patres Apostolici, 1, 403
[5] CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: DZ 1789 (3008).
[6] CĐ ORANGE II, đ. 7: DZ 180 (377). – CĐ VAT. I, nt., DZ 1791 (3010).
[7] CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1786 (3005).
[8] nt.: DZ 1785-1986 (3004-3005).
[9] Xem Mt 28,19-20 và Mc 16,15. CĐ TRIĐEN., khoá 4, Sắc lệnh De canonicis scripturis: DZ 783 (1501).
[10] Xem CĐ TRIĐEN., nt., – CĐ VAT. I, khoá 3, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1787 (3006).
[11] T. IRENÊ, Adv. Haer. III, 3, 1: PG 7, 848; HARVEY, 2, tr. 9.
[12] Xem CĐ NIXÊ II: DZ 303 (602). – CĐ CONSTANTINOPLA IV, khoá 10, đ. 1: DZ 336 (650-652).
[13] Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 4: DZ 1800 (3020).
[14] Xem CĐ TRIĐEN., Sắc lệnh De Canonicis Scripturis: DZ 783 (1501).
[15] Xem PIÔ XII, Tông hiến Munificentissimus Deus, 1-11-1950: AAS 42 (1950), tr. 756, lấy lại lời Thánh CYPRIANÔ, Epist. 66, 8: CSEL 3, 2, tr. 733: “Giáo Hội là một dân hợp nhất với Linh mục và một đàn chiên liên kết với Chủ chăn”.
[16] Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: DZ 1792 (3011).
[17] Xem PIÔ XII, Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), tr. 568-569: DZ 2314 (3886)
[18] Xem CĐ VAT. I, Hiến chế Tín lý về Đức tin công giáo Dei Filius, ch. 2: DZ 1787 (3006).
[19] Xem Piô XII, Tđ. Divino afftante Spiritu, 30-9-1943: AAS 35 (1943), tr. 314; EB 556
[20] Trong và qua họ: xem Dt 1, 1 và 4, 7 (trong); 2 Sm 23,2; Mt 1,22 và nhiều nơi khác (qua); CĐ VAT. I: schema de doctr. cath, ghi chú số 9: Coll. Lac. VII, 522.
[21] LÊÔ XIII, Tđ. Providentissimus Deus, 18-11-1893: DZ 1952 (3293); EB 125.
[22] Xem T. ÂUTINH, De Gen. ad litt. 2, 9, 20: PL 34,270-271; CSEL 28, 1, 46-47 và Epist. 82, 3: PL 33, 277; CSEL 34, 2, 354. – T. TÔMA, De Ver. q. 12, a. 2, c. – CĐ TRIĐEN., khoá 4, De canonicis Scripturis: DZ 783 (1501) – LÊÔ XIII, Tđ. Providentissimus Deus: EB 121, 124, 126-127. PIÔ XII, Tđ. Divino afflante Spiritu: EB 539.
[23] T. ÂUTINH, De Civ. Dei, XVII, 6, 2: PL 41, 537; CSEL 40, 2, 228.
[24] T. ÂUTINH, De Doctr. Christ. III. 18, 26: PL. 34, 75-76: CSEL 80, 95.
[25] PIÔ XII, nt: DZ 2294 (3829-3820); EB 557-562.
[26] Xem BÊNÊĐÍCHTÔ XV, Tđ. Spiritus Paraclitus, 15-9-1920: EB 469. – T. GIÊRÔNIMÔ, In Gal 5,19-21: PL 26, 417A.
[27] Xem CĐ. VAT, I, Hiến chế Tín lý Đức tin Công Giáo, ch. 2: DZ 1788 (3007).
[28] T. GIOAN KIM KHẨU, In Gen. 3, 8 (hom. 17, 1): PG 53, 134. – “Thích ứng” tiếng hy-lạp là synkatabasis.
[29] Piô XI, Tđ. Mit brennender Sorge, 14-3-1937: AAS 29 (1927), tr. 151.
[30] T. Âutinh, Quaest. In Hept. 2, 73: PL 34, 623.
[31] T. Irênê, Adv. Haer. III, 21, 3: PG 7, 950 (= 25, 1: Harvey, 2, tr. 115). – T. Cyrillô Giêrus., Catech. 4, 35: PG 33,497. – Thêôđôrô Mops., In Soph. 1, 4-6: PG 66, 452 D-453A.
[32] Xem T. Irênê, Adv. Haer III, 11, 8: PG 7, 885; Sagnard, tr. 194.
[33] Xem Ga 14,26; 16,13.
[34] Xem Ga 2,22; 12,16; x. 14,26; 16,12-13; 7,39.
[35] Xem Huấn thị Sancta Mater Ecclesia do Uỷ Ban Giáo Hoàng về các Nghiên cứu Thánh Kinh xuất bản: AAS 56 (1964), tr. 715.
[36] Xem Piô XII, Tđ. Divino Afflante Spiritu, 30-9-1943: EB 551, 553, 567. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo hoàng, Huấn thị De S. Scriptura in Clericorum Seminariis et Religiosorum Collegiis recte docenda, 13-5-1950: AAS 42 (1950), tr. 495-505.
[37] Xem Piô XII, nt.: EB 569.
[38] Xem Lêô XIII, Tđ. Providentissimus Deus: EB 114. – Bênêđíchtô XV, Tđ. Spiritus Paralitus, 15-9-1920: EB 483.
[39] T. Âutinh, Serm. 179, 1: PL 38, 966.
[40] T. Giêrônimô, Comm. in Is., Prol.: PL 24, 17. – X. Bênêđíchtô XV, Tđ. Spiritus Paraclitus: EB 475-480. – Piô XII, Tđ. Divino Afflante Spiritu: EB 544.
[41] T. Ambrosiô, De Officiis ministrorum I, 20, 88: PL 16, 50.
[42] T. Irênê, Adv. Haer. IV, 32, 1: PG 7, 1071, (= 49,2 Harvey 2, tr. 255).