Anh chị em thân mến,
“Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1,7). Chúng tôi, các Giám mục trên toàn thế giới, nhóm họp theo lời mời của giám mục Rôma, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, để suy tư về “việc Tân Phúc Âm Hóa để thông truyền đức tin kitô”, trước khi trở về lại các Giáo Hội địa phương của chúng tôi, chúng tôi muốn nói với hết thảy anh chị em, để nâng đỡ và định hướng việc phục vụ Tin Mừng trong những khung cảnh khác nhau mà chúng ta đang hiện diện để làm chứng.
1. Như người phụ nữ Samaritanô ở bên giếng nước Giacob
Chúng tôi để cho một trang Tin Mừng soi sáng chúng tôi: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaritanô bên giếng nước Giacob (x. Ga 4,5-42). Không có người nam hay người nữ nào mà, vào một thời điểm nào đó trong đời mình, không ở gần bên một giếng nước với một cái vò rỗng và niềm hy vọng tìm được sự thể hiện khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn, niềm hy vọng duy nhất có thể mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống. Ngày nay, có nhiều giếng nước được đề tặng cho cơn khát của con người, nhưng một sự phân định là cần thiết để tránh những thứ nước ô nhiễm. Điều cấp bách là định hướng tốt việc tìm kiếm để không trở thành con mồi của những nỗi tuyệt vọng hủy hoại.
Như Chúa Giêsu bên bờ giếng Sichar, Giáo Hội cũng cảm thấy bổn phận ngồi bên cạnh con người thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, để họ có thể gặp gỡ Ngài, vì chỉ mình Ngài là dòng nước mang lại sự sống đích thực và vĩnh hằng. Chỉ Chúa Giêsu mới có khả năng đọc được ở tận sâu thẳm của tâm hồn con người và chỉ cho chúng ta thấy sự thật của chúng ta. Người phụ nữ Samaritanô đã thổ lộ với các đồng hương của mình: “Ông ấy đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Lời loan báo này, mà kèm theo đó là câu hỏi mở ra cho đức tin: “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”, cho thấy làm thế nào người đã lãnh nhận sự sống mới trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu không thể không trở thành người mang chân lý và hy vọng cho những người khác. Người phụ nữ tội lỗi hoán cải đã trở thành sứ giả của ơn cứu độ và đã dẫn cả làng mình đến với Chúa Giêsu. Từ sự đón nhận chứng tá này, người dân sẽ chuyển sang kinh nghiệm cá nhân về cuộc gặp gỡ: “Không còn phải vì lời chị kể mà bây giờ chúng tôi tin; chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
2. Một sự Tân Phúc Âm Hóa
Dẫn đưa con người của thời đại này đến với Chúa Giêsu, đến gặp gỡ với Ngài, là một sự cấp bách liên quan đến mọi vùng đất trên thế giới, những vùng đất hoàn toàn gần đây cũng như những vùng đất được Phúc Âm hóa xưa. Quả thế, khắp nơi đều cảm thấy nhu cầu làm tươi mới lại một đức tin đang có nguy cơ mờ tối đi trong những khung cảnh văn hóa làm ngăn trở sự bén rễ cá nhân, sự tỏa sáng xã hội, sự sáng sủa nội dung và những hoa trái tương hợp của nó.
Vấn đề không phải là bắt đầu lại tất cả từ số không, nhưng là lồng vào con đường dài của việc loan báo Tin Mừng, với lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Phaolô, người đã nói: “Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Từ những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo cho đến hôm nay, việc loan truyền Tin Mừng này đã trải qua lịch sử và đã xây dựng những cộng đoàn tín hữu khắp nơi trên thế giới. Dù lớn hay nhỏ, chúng là hoa trái của sự tận tâm của nhà truyền giáo và của nhiều vị tử vì đạo, của các thế hệ chứng nhân cho Chúa Giêsu, mà ký ức biết ơn của chúng ta hướng về.
Các sân khấu xã hội và văn hóa đang thay đổi một lần nữa mời gọi chúng ta điều gì đó : sống cách mới mẻ kinh nghiệm đức tin cộng đoàn và việc loan báo nó, bằng một sự Phúc Âm hóa “mới mẻ trong sự hăng say, trong các phương pháp, trong các lối diễn tả của mình” (Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho hội nghị lần thứ XIX của CELAM, Port-au-Prince, ngày 9.3.1983, số 3), như đức Gioan-Phaolô II đã nói, một sự Phúc Âm hóa, như đức Bênêđíctô XVI đã nhắc lại, “chủ yếu được định hướng đến những con người mà, dù đã được rửa tội, đã rời xa Giáo Hội, và sống không dựa vào thực hành Kitô giáo […], để tạo điều kiện nơi những người này cho một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Chúa, Đấng duy nhất làm cho cuộc sống có ý nghĩa sâu xa và bình an; để tạo điều kiện cho việc tái khám phá đức tin, nguồn mạch ân sủng mang lại niềm vui và niềm hy vọng trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội” (Bênêđíctô XVI, Bài giảng thánh lễ khai mạc trọng thể Hội nghị lần thứ XIII của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Rôma, 7.10.2012).
3. Cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu-Kitô trong Giáo Hội
Trước khi nói điều gì đó liên quan đến những hình thức mà việc Tân Phúc Âm Hóa này phải đảm nhận, chúng tôi cảm thấy sự đòi hỏi nói với anh chị em, bằng một xác tín sâu xa, rằng đức tin được quyết định hoàn toàn trong mối tương quan mà chúng ta thiết lập với con người của Chúa Giêsu, Đấng là người đầu tiên đến gặp gỡ chúng ta. Công cuộc Tân Phúc Âm Hóa hệ tại đề nghị một lần nữa, cho con tim và tâm trí thường lơ đễnh và mù mờ của con người thời nay, và trước tiên cho chính bản thân chúng ta, vẻ đẹp và sự mới mẻ của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Chúng tôi mời gọi hết thảy anh chị em chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu-Kitô, bước vào mầu nhiệm cuộc đời của Ngài, được hiến ban cho chúng ta cho đến trên Thập giá và được xác định như là ân huệ của Chúa Cha qua sự Phục sinh của Ngài từ kẻ chết và được thông ban cho chúng ta nhờ Thánh Thần của Ngài. Chính nơi con người của Chúa Giêsu mà mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha được tỏ lộ cho toàn thể gia đình nhân loại mà Ngài đã không muốn để mặc cho sự sai lệch của một quyền tự trị bất khả, nhưng Ngài đã nối kết với Ngài bằng một kết ước tình yêu mới mẻ.
Giáo Hội là không gian này được Chúa Kitô ban tặng trong lịch sử để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài, bởi vì Ngài đã giao phó cho Giáo Hội Lời của Ngài, phép Rửa tội làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa , Mình và Máu Ngài, nhất là ân sủng tha thứ tội lỗi trong bí tích Hòa giải, kinh nghiệm về một sự hiệp thông là sự phản ảnh chính mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi, sức mạnh của Chúa Thánh Thần khơi lên đức ái đối với mọi người.
Cần phải tạo điều kiện cho các cộng đoàn ân cần niềm nở, trong đó tất cả những người bị loại trừ được cảm thấy nơi chính mình, những kinh nghiệm hiệp thông cụ thể, mà, với sức mạnh nồng nhiệt của tình yêu, – “Hãy xem họ thương yêu nhau biết bao!” (Tertulianô, Apologétique, 39, 7) – lôi cuốn cái nhìn tuyệt vọng của con người hiện đại. Vẻ đẹp của đức tin phải chiếu sáng cách riêng nơi những hoạt động của phụng vụ thánh, trước tiên trong Thánh lễ Chúa Nhật. Chính trong các buổi cử hành phụng vụ mà trên thực tế Giáo Hội biểu lộ khuôn mặt công trình của Thiên Chúa của mình và làm cho ý nghĩa của Tin Mừng nên hữu hình, bằng lời nói và những cử chỉ.
Ngày nay, chính chúng ta làm cho những kinh nghiệm Giáo Hội có thể được tiếp cận cách cụ thể, gia tăng những giếng nước mời gọi con người khao khát đến, để giúp gặp gỡ Chúa Giêsu, nơi dễ chịu trong các sa mạc của cuộc sống. Các cộng đoàn kitô hữu có trách nhiệm về điều đó và, nơi chúng, chính mỗi người môn đệ của Chúa cũng có trách nhiệm. Chính nơi mỗi người mà được giao phó một chứng tá bất khả thay thế, để Tin Mừng có thể gặp được cuộc sống của mọi người ; chính vì thế chúng ta được đòi hỏi sống đời thánh thiện.
4. Những cơ hội gặp gỡ với Chúa Giêsu và việc lắng nghe Lời Chúa
Người ta sẽ tự hỏi làm thế nào thực hiện tất cả điều đó. Nó không hệ tại tạo ra những chiến lược mới như thể Tin Mừng là một sản phẩm được đặt trên thị trường các tôn giáo, nhưng là tái khám phá cách thức mà, trong đời sống của Chúa Giêsu, người ta đã đến gần Ngài và được Ngài kêu gọi, để đưa chính những hình thái này vào trong các điều kiện của thời nay.
Chẳng hạn chúng ta nhớ lại làm thế nào Phêrô, Anrê và Gioan đã được Chúa Giêsu gọi trong khung cảnh làm việc của mình, làm thế nào Giakêu đã có thể chuyển từ sự tò mò thuần túy sang một sự chia sẻ nồng ấm bữa ăn với Thầy, làm thế nào viên bách quản ở Rôma đã xin Ngài can thiệp nhân dịp bệnh tật của một người thân, làm thế nào người mù bẩm sinh đã xin Ngài để được giải thoát khỏi việc bị đặt ra bên lề xã hội, làm thế nào Mátta và Maria đã nhận thấy sự hiếu khách của mình, nơi họ và trong tâm hồn họ, được bù lại bởi sự hiện diện của Ngài. Chúng ta có thể tiếp tục xuyên qua các trang Tin Mừng để minh họa, trong những điều kiện khác nhau, cuộc sống của con người đã được mở ra cho sự hiện diện Chúa Kitô dường nào. Chúng ta có thể làm như thế với những gì mà Thánh Kinh nói với chúng ta liên quan đến kinh nghiệm truyền giáo của các tông đồng trong Giáo Hội nguyên thủy.
Việc đọc Thánh Kinh thường xuyên, được minh họa bởi Truyền thống của Giáo Hội mà đã truyền lại Thánh Kinh cho chúng ta và là người giải thích Thánh Kinh đích thực, không chỉ là một bước chuyển bắt buộc để biết chính nội dung của Tin Mừng, tức là con người của Chúa Giêsu trong khung cảnh lịch sử cứu độ, nhưng còn giúp chúng ta tìm ra những không gian gặp gỡ mới mẻ với Ngài, những hình thái đích thực Tin Mừng, được bén rễ trong các chiều kích nền tảng của cuộc sống con người : gia đình, công việc, tình bạn, sự nghèo khổ, những thử thách của cuộc sống, etc.
5. Chính chúng ta để cho mình được Phúc Âm hóa và sẵn sàng hoán cải
Đặc biệt chúng ta đừng nghĩ rằng việc Tân Phúc Âm Hóa không liên quan đến cá nhân chúng ta ! Trong những ngày vừa qua, nhiều lần, nhiều tiếng nói đã được cất lên trong số các giám mục để nhắc nhở rằng, để có thể Phúc Âm hóa thế giới, trước tiên Giáo Hội phải đặt mình lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi Phúc Âm hóa được thể hiện thành một tiếng gọi hoán cải.
Chúng ta chân thành cảm thấy bổn phận hoán cải bản thân trước tiên theo sức mạnh của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng canh tân mọi sự, nhất là cuộc sống nghèo nàn của chúng ta. Cách khiêm tốn, chúng ta phải nhìn nhận rằng những nghèo nàn và yếu hèn của các môn đệ của Chúa Giêsu, cách riêng của các thừa tác viên của Ngài, đè nặng trên tính khả tín của việc truyền giáo. Chắc chắn, chúng ta ý thức, trước tiên các giám mục chúng tôi, không bao giờ có thể xứng với lời kêu gọi của Chúa và với việc gìn giữ Tin Mừng mà Ngài giao phó cho chúng ta để loan báo Ngài cho muôn dân. Chúng ta ý thức về bổn phận nhìn nhận cách khiêm tốn tính dễ tổn thưởng của chúng ta đối với những vết thương của lịch sử và chúng ta không do dự nhìn nhận tội lỗi của chúng ta. Thế nhưng, chúng ta cũng xác tín rằng sức mạnh của Thánh Thần của Chúa có thể đổi mới Giáo Hội của Ngài và mặc cho Giáo Hội vẻ đẹp, nếu chúng ta để cho Ngài khuôn đúc chúng ta. Đời sống của các thánh là bằng chứng cho điều đó. Chính vì thế việc nhớ đến đời sống các thánh và việc kể lại đời sống đó là một dụng cụ ưu tiên cho việc Tân Phúc Âm Hóa. Nếu sự canh tân này được giao phó cho sức mạnh của chúng ta, thì có những lý do nghiêm túc để nghi ngờ, nhưng việc hoán cải, cũng như việc Phúc Âm hóa, không có, trong Giáo Hội, những con người nghèo hèn là chính chúng ta như là những con người chủ chốt đầu tiên, nhưng đúng hơn chính Thánh Thần của Chúa. Chính ở đó hệ tại sức mạnh của chúng ta cũng như xác tín của chúng ta rằng sự dữ sẽ không bao giờ là tiếng nói cuối cùng, không ở trong Giáo Hội cũng như không ở trong lịch sử : “Tâm hồn các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi”, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài như thế (Ga 14,27).
Công cuộc Tân Phúc Âm Hóa dựa trên xác tín thanh thản này. Chúng ta tin tưởng vào sự linh hứng và vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ dạy chúng ta những gì chúng ta phải nói và những gì chúng ta phải làm, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Do đó, chính bổn phận của chúng ta chinh phục sự sợ hãi bằng đức tin, sự nản chí bằng đức cậy, sự dửng dưng bằng đức mến.
6. Đón nhận những cơ hội Phúc Âm hóa mới mẻ trong thế giới hôm nay
Sự can đảm thanh thản này cũng gợi hứng cho cái nhìn của chúng ta về thế giới hiện đại. Chúng ta không cảm thấy bị đe dọa bởi những điều kiện của thời đại chúng ta đang sống. Đó là một thế giới đầy những mâu thuẫn và những thách đố, nhưng nó vẫn là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chắc chắn bị sự dữ làm tổn thương, nhưng luôn được Thiên Chúa yêu thương, trong đó có thể nảy sinh một lần nữa hạt giống của Lời Chúa để nó có thể mang lại hoa trái mới.
Không có chỗ cho sự bi quan nơi các tâm trí và tâm hồn của những ai biết rằng Chúa của họ đã chiến thắng sự chết và Thánh Thần của Ngài đang hoạt động cách mạnh mẽ trong lịch sử. Cách khiêm tốn, nhưng cũng cách xác quyết – xác quyết đến từ niềm xác tín rằng chân lý cuối cùng sẽ chiến thắng – chúng ta liên kết với thế giới này và chúng ta muốn thấy ở đó một lời mời gọi của Thiên Chúa làm chứng nhân cho Danh Ngài. Giáo Hội của chúng ta là sống động và, với sự can đảm của đức tin và chứng tá của nhiều con cái của mình, đang đương đầu với những thách đố mà lịch sử đem lại cho chúng ta.
Chúng ta biết rằng, trong thế giới, chúng ta phải đối diện với cuộc chiến đấu cam go chống lại “các quyền lực tối tăm”, “các thần dữ” (Ep 6,12). Chúng ta không che đậy các thách đố của các hiện tượng toàn cầu hóa, cũng không sợ chúng. Đối với chúng ta, chúng phải là một cơ hội cho việc mở rộng sự hiện diện của Tin Mừng. Cũng như các cuộc di cư – với gánh nặng đau khổ mà chúng bao hàm và chúng ta chân thành muốn gần gũi họ bằng một sự đón tiếp huynh đệ đích thực – là những cơ hội, như điều đó đã từng xảy ra trong quá khứ, truyền bá đức tin và sự hiệp thông xuyên qua những hình thức khác nhau mà chúng mang lấy. Sự tục hóa, nhưng cả sự khủng hoảng về quyền bá chủ của chính trị và của Nhà Nước, dẫn Giáo Hội đến chỗ suy nghĩ lại sự hiện diện của mình trong xã hội, nhưng không từ bỏ sự hiện diện này. Nhiều hình thức nghèo đói và luôn mới mẻ mở ra những không gian mới cho việc phục vụ của đức ái : việc loan báo Tin Mừng dấn thân Giáo Hội gần gũi người nghèo và biến đau khổ của họ thành của mình theo cách thức của Chúa Giêsu. Thậm chí trong các hình thức cam go nhất của chủ nghĩa vô thần và thuyết vô tri, chúng ta muốn có thể nhận ra – cho dầu dưới hình thức những mâu thuẫn, chứ không phải một sự trống rỗng, nhưng là một sự luyến nhớ nào đó – một sự chờ đợi đang hy vọng một câu trả lời thích đáng.
Đối diện với những chất vấn mà các nền văn hóa thống trị đang đặt ra cho đức tin và cho Giáo Hội, chúng ta làm mới lại niềm tin của chúng ta vào Chúa, vững tin rằng ngay cả trong những khung cảnh này Tin Mừng mang lại ánh sáng và có khả năng chữa lành mỗi sự yếu hèn của con người. Không phải chúng ta dẫn dắt công cuộc Phúc Âm hóa nhưng là Thiên Chúa. Như Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng ta : “Lời đầu tiên, sáng kiến đích thực, hoạt động đích thực, đến từ Thiên Chúa và chỉ khi chúng ta đặt mình trong sáng kiến thần linh này, chỉ khi khẩn nài sáng kiến thần linh này, mà chúng ta mới có thể trở thành – nhờ Ngài và trong Ngài – những người loan báo Tin Mừng” (Bênêđictô XVI, Bài suy niệm của Buổi họp chung đầu tiên của Đại hội đồng lần thứ XIII của THĐ Giám Mục, Rôma, 8.10.2012).
7. Phúc Âm hóa, gia đình và đời sống thánh hiến
Từ công cuộc Phúc Âm đầu tiên, việc thông truyền đức tin nơi các thế hệ liên tiếp nhau đã tìm thấy nơi gia đình một nơi tự nhiên. Ở trong gia đình – với một vai trò hoàn toàn đặc biệt được đảm nhận bởi những người vợ, cũng không quên hình ảnh và trách nhiệm của người cha – những dấu chỉ đức tin, việc thông truyền những kiến thức cơ bản đầu tiên, việc giáo dục cầu nguyện, sự chứng tá của những hoa trái của tình yêu đã được dẫn vào đời sống của con cái và của người trẻ bằng sự săn sóc mà mỗi gia đình dành riêng cho sự tăng trưởng của con cái mình. Trong sự đa dạng của các hoàn cảnh địa lý, văn hóa và xã hội, tất cả các Giám mục của Thượng Hội Đồng đã xác nhận vai trò thiết yếu này của gia đình trong việc thông truyền đức tin. Người ta không thể nghĩ một cuộc Tân Phúc Âm Hóa mà không cảm thấy trách nhiệm đặc biệt đối với việc loan báo Tin Mừng cho các gia đình và nâng đỡ các gia đình trong bổn phận giáo dục của họ.
Chúng ta không che giấu sự kiện rằng ngày nay gia đình, được hình thành bởi hôn nhân của một người nam và một người nữ, làm nên “một xương một thịt” (Mt 19,6) mở ra cho sự sống, khắp nơi đang trải qua những nhân tố khủng hoảng, được vây quanh bằng những kiểu sống làm tổn hại cho nó, bị coi thường bởi những chính sách của xã hội này mà thế nhưng nó lại là tế bào nền tảng của xã hội đó, không phải luôn được tôn trọng trong các nhịp sống của mình, cũng không được nâng đỡ trong những cam kết, đôi khi bởi chính các cộng đoàn của Giáo Hội. Chính điều đó thúc đẩy chúng tôi nói rằng chúng ta phải có một sự săn sóc đặc biệt đối với gia đình và đối với sứ mạng của nó trong xã hội và trong Giáo Hội, bằng cách phát triển những lộ trình đồng hành đặc thù trước và sau hôn nhân. Như thế chúng tôi muốn diễn tả sự biết ơn của chúng tôi với nhiều đôi vợ chồng và với nhiều gia đình kitô hữu mà, qua sự chứng tá của họ, tiếp tục cho thế giới thấy một kinh nghiệm hiệp thông và phục vụ là mầm mống của một xã hội huynh đệ hơn và hòa bình hơn.
Tư tưởng của chúng tôi cũng hướng đến nhiều hoàn cảnh gia đình và đời sống chung trong đó không được tôn trọng hình ảnh hiệp nhất và tình yêu suốt đời mà Chúa giao phó cho chúng ta. Có những đôi bạn đang sống một đời sống chung không có mối dây bí tích hôn nhân, những hoàn cảnh gia đình bất hợp luật được xây dựng sau sự thất bại của những cuộc hôn nhân trước đang gia tăng : nhiều biến cố cũng đang tác động đến việc giáo dục đức tin cho con cái. Với tất cả những người đó chúng tôi muốn nói rằng tình yêu của Chúa không bỏ rơi ai, rằng Giáo Hội cũng yêu thương họ và vẫn là một mái nhà ân cần đón tiếp đối với mọi người, rằng họ vẫn là những chi thể của Giáo Hội cho dầu họ không thể lãnh nhận bí tích xá giải và Thánh Thể. Các cộng đoàn Công giáo hãy đón tiếp những người đang sống trong những hoàn cảnh này, và hãy tạo điều kiện cho những con đường hoán cải và hòa giải.
Đời sống gia đình là nơi đầu tiên trong đó Tin Mừng được gặp gỡ giữa đời thường và cho thấy khả năng của nó biến đổi những điều kiện căn bản của cuộc sống dưới dấu chỉ của tình yêu. Cũng không ít quan trọng hơn đối với chứng tá của Giáo Hội cho thấy làm thế nào đời sống trần thế này được thực hiện bên kia lịch sử của con người và nối kết với sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chỉ tỏ ra cho người phụ nữ Samaritanô như là Đấng ban sự sống, nhưng còn như là Đấng ban “sự sống đời đời” (Ga 4,14). Ân huệ của Thiên Chúa, mà đức tin làm cho hiện tại hóa, không chỉ là lời hứa những điều kiện tốt hơn trong thế giới này, nhưng là lời loan báo rằng ý nghĩa tối hậu của đời sống chúng ta ở bên kia thế giới này, trong sự hiệp thông tròn đầy với Thiên Chúa mà chúng ta đang chờ đợi vào lúc tận cùng thời gian.
Từ chân trời siêu trần thế này của ý nghĩa của cuộc sống con người, những ai đã được Chúa kêu gọi sống đời thánh hiến đều đặc biệt là những chứng nhân trong Giáo Hội và trong thế giới. Đời sống này, chính bởi vì hoàn toàn được thánh hiến cho Ngài, trong việc thực thi đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, là dấu chỉ của một thế giới đang đến mà tương đối hóa mọi thiện ích của thế giới này. Ước gì, từ Thượng Hội Đồng Giám Mục này, lòng biết ơn của chúng tôi đạt tới những anh chị em này vì lòng trung tín với tiếng gọi của Chúa và vì phần mà họ đã và đang tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội, ước gì cũng đạt tới họ lời khích lệ hy vọng trong những hoàn cảnh khó khăn đối với họ, vào những thời điểm của những biến chuyển này ; và sau cùng lời mời gọi kiên trì với tư cách là những chứng nhân và là những người cổ võ việc Tân Phúc Âm Hóa trong những môi trường sống khác nhau trong đó đặc sủng của mỗi một dòng tu của họ đã đặt họ vào.
8. Cộng đồng Giáo Hội và nhiều người thợ của việc Phúc Âm hóa
Công cuộc Phúc Âm hóa không phải là bổn phận của một số người trong Giáo Hội, nhưng nó là công trình của các cộng đoàn Giáo Hội xét như thế, trong đó được mở ra việc tiếp cận các phương tiện phong phú của sự gặp gỡ với Chúa Giêsu : Lời Chúa, các bí tích, sự hiệp thông huynh đệ, đức ái phục vụ, việc truyền giáo.
Trong viễn này trước tiên nổi bật vai trò của giáo xứ, như là sự hiện diện của Giáo Hội trên mảnh đất con người đang sống, “nguồn nước của ngôi làng” như đức Gioan XXIII thích gọi, mà mọi người có thể uống thỏa thích và tìm thấy sự tươi mát của Tin Mừng. Vai trò của nó vẫn không thể thay thế, cho dầu những thay đổi các điều kiện có thể đòi hỏi sắp xếp nó thành những cộng đoàn nhỏ hơn hay mở ra cho những mối liên hệ hợp tác trong một khung cảnh rộng lớn hơn. Nhất là chúng ta cảm thấy bổn phận khích lệ các giáo xứ của chúng ta nối kết với trách nhiệm mục vụ truyền thống của dân Thiên Chúa những hình thức truyền giáo mới mẻ được đòi hỏi bởi việc Tân Phúc Âm Hóa. Chúng cũng phải có thể tiếp nhận các hình thức diễn tả lòng đạo đức bình dân khác nhau và quan trọng.
Trong giáo xứ, thừa tác vụ linh mục tiếp tục có tính quyết định, là cha và là mục tử của dân mình. Với tất cả các linh mục, các Giám mục của Thượng Hội Đồng này bày tỏ lòng biết ơn và sự gần gũi huynh đệ đối với công việc khó khăn của họ và mời gọi họ có những mối tương quan luôn chặt chẽ hơn giữa hàng linh mục giáo phận, có một đời sống thiêng liêng luôn luôn mãnh liệt hơn, một sự thường huấn làm cho họ có khả năng đương đầu với những biến chuyển.
Bên cạnh các linh mục, chúng tôi cũng nhấn mạnh sự hiện diện của các phó tế, cũng như hoạt động mục vụ của các giáo lý viên và của nhiều hình ảnh thừa tác viên khác cũng như các linh hoạt viên trong lãnh vực loan báo và dạy giáo lý, của đời sống phụng vụ, của việc phục vụ bác ái, cũng như những hình thức tham gia và đồng trách nhiệm khác nhau về phía các giáo dân nam nữ vì sự tận tụy của họ trong nhiều công việc phục vụ nơi các cộng đoàn của chúng ta mà chúng ta sẽ không bao giờ biết ơn cho đủ. Cùng với tất cả những người này chúng tôi yêu cầu đặt sự hiện diện và sự dấn thân của họ trong Giáo Hội để phục vụ cho việc Tân Phúc Âm Hóa, đồng thời lưu tâm đến việc đào tạo nhân bản và Kitô giáo cho họ, sự hiểu biết đức tin và sự nhạy bén với những hiện tượng văn hóa hôm nay.
Liên quan đến giáo dân, một sứ điệp đặc biệt gởi đến cho những hình thức hiệp hội khác nhau xưa và nay, cho những phong trào của Giáo Hội và cho những cộng đoàn mới, để họ biểu lộ sự phong phú của các ân huệ mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội. Chúng tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi đối với những hình thức sống và dấn thân này trong Giáo Hội, bằng cách khích lệ họ trung thành với đặc sủng của mình và với sự hiệp thông chân thành trong Giáo Hội, đặc biệt trong khung cảnh cụ thể của các Giáo Hội địa phương.
Làm chứng cho Tin Mừng không phải là đặc ân của riêng ai. Do đó, chúng tôi vui mừng biết ơn sự hiện diện của nhiều người nam và nữ mà bằng đời sống của họ đang trở thành dấu chỉ của Tin Mừng giữa thế giới này. Chúng tôi cũng biết ơn đối với nhiều anh chị em kitô hữu mà bất hạnh thay sự hiệp nhất với họ vẫn còn chưa hoàn thiện, nhưng họ cũng là những người được ghi dấu bởi phép Rửa tội của Chúa và là những người loan báo Ngài. Trong những ngày này, đối với chúng tôi, đó đã là một kinh nghiệm cảm động lắng nghe những tiếng nói của nhiều vị hữu trách đáng kính của các Giáo Hội và các cộng đoàn Giáo Hội mà đã làm chứng cho chúng ta về sự khát khao của họ về Chúa Kitô và sự tận tụy của họ cho việc loan báo Tin Mừng ; họ cũng xác tín rằng thế giới cần đến một cuộc Tân Phúc Âm Hóa. Chúng tôi tạ ơn Chúa vì sự hiệp thông này trong đòi hỏi truyền giáo.
9. Để các bạn trẻ có thể gặp gỡ Chúa Kitô
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các bạn trẻ, bởi vì, hoàn toàn đang là một phần quan trọng của giây phút hiện tại của nhân loại và Giáo Hội, họ cũng là tương lai của nhân loại và của Giáo Hội. Cũng liên quan đến họ, cái nhìn của các Giám mục không hề bi quan. Chắc chắn có quan ngại, nhưng không bi quan. Quan ngại bởi vì những áp lực khiêu khích nhất của thời đại chúng ta đang tập trung chủ yếu vào họ ; nhưng không bi quan. Trước tiên bởi vì – chúng tôi nhấn mạnh – tình yêu của Chúa Kitô là những gì đang khuôn đúc Lịch sử cách sâu xa. Nhưng còn bởi vì chúng tôi thấy nơi các bạn trẻ của chúng ta một khát vọng sâu xa đến tính đích thực, đến chân lý, đến tự do và lòng quảng đại, khát vọng mà chỉ Chúa Kitô mới có thể đáp ứng cách thoả mãn, chúng tôi xác tín như thế.
Chúng tôi muốn nâng đỡ họ trong việc tìm kiếm của họ, và chúng tôi khích lệ các cộng đoàn của chúng ta hoàn toàn bước vào một thái độ lắng nghe, đối thoại và đề nghị can đảm liên quan đến điều kiện khó khăn của các bạn trẻ, để không bao giờ nản lòng, nhưng bảo toàn sứ mạnh của lòng nhiệt huyết của họ. Và để nâng đỡ họ trong cuộc chiến chính đáng chống lại những điều sáo rỗng và những đầu cơ vụ lợi của các thế lực của thế gian muốn mưu toan chiếm lấy nghị lực của các bạn trẻ và sử dụng lòng nhiệt huyết của họ vì lợi ích riêng, bằng cách tước đi khỏi họ ký ức biết ơn về quá khứ và mọi dự phóng nghiêm chỉnh trong tương lai.
Hoàn toàn đòi hỏi nhiều chú ý, việc Tân Phúc Âm Hóa này trong thế giới các bạn trẻ là điều đặc biệt hứa hẹn, như nhiều kinh nghiệm cho thấy, một số hữu hình hơn, như những Ngày quốc tế giới trẻ, một số ẩn kín hơn mà không vì thế ít lý thú hơn, như những kinh nghiệm đời sống thiêng liêng, sự phục vụ và truyền giáo. Do đó, chúng tôi biết ơn các bạn trẻ về phần chủ động trong công cuộc Phúc Âm hóa, cách riêng đối với chính giới trẻ.
10. Giáo Hội đối thoại với nền văn hóa, với kinh nghiệm nhân loại và với các tôn giáo
Việc Tân Phúc Âm Hóa được đặt trọng tâm vào Chúa Kitô và vào sự chú ý đến nhân vị, để cho phép một cuộc gặp gỡ thật sự với Ngài. Nhưng các chân trời của nó cũng rộng lớn như thế giới và không bị hạn hẹp vào bất kỳ kinh nghiệm nhân loại đặc thù nào. Điều đó muốn nói rằng việc Tân Phúc Âm Hóa đặc biệt quan tâm đến việc đối thoại với các nền văn hóa, trong sự tin tưởng chắc chắn rằng nó sẽ tìm thấy nơi mỗi nền văn hóa “những hạt giống của Ngôi Lời” mà các Giáo Phụ đã nói đến. Cách riêng, việc Tân Phúc Âm Hóa cần hình dung một mối tương quan mới mẻ giữa đức tin và lý trí, với xác tín rằng đức tin có đủ phương tiện để đón nhận tất cả các hoa trái của một lý trí lành mạnh, được soi sáng và mở ra cho siêu việt, và nó có một sức mạnh mang lại phương thuốc cho những giới hạn và những mâu thuẫn trong đó lý trí có thể sa ngã. Đức tin không che giấu khuôn mặt của mình trước sự hiện diện của những chất vấn đau đớn mà sự hiện diện của sự dữ đặt ra trên thế giới và trong lịch sử, nhưng nó múc lấy ánh sáng của niềm hy vọng nơi sự Phục Sinh của Chúa Kitô.
Cuộc gặp gỡ của đức tin và lý trí cũng nuôi dưỡng sự dấn thân của cộng đoàn kitô hữu trong lãnh vực rộng lớn của giáo dục và văn hóa. Một vai trò đặc biệt được thực hiện bởi các tổ chức đào tạo và nghiên cứu : các trường học và các đại học. Khắp nơi được phát triển những kiến thức của con người và một hoạt động giáo dục được đề nghị. Giáo Hội vui mừng mang lại kinh nghiệm và sự đóng góp của mình cho việc đào tạo con người trong tính toàn diện của nó. Về mặt này, một sự quan tâm đặc biệt đối với các trường học và các đại học Công giáo, trong đó việc mở ra cho siêu việt, riêng cho mỗi hành trình văn hóa và giáo dục chân thành phải được bổ túc bởi những con đường gặp gỡ với biến cố Chúa Giêsu-Kitô và Giáo Hội của Ngài. Sự biết ơn của các Giám mục đối với những ai đang có trách vụ trong những điều kiện đôi khi khó khăn.
Việc Phúc Âm hóa đòi hỏi chúng ta quan tâm đặc biệt đến thế giới truyền thông xã hội, những con đường trên đó, cách riêng nơi các phương tiện truyền thông mới, biết bao cuộc đời, biết bao câu hỏi và biết bao mong đợi gặp gỡ nhau. Đó là một nơi mà thông thường các lương tâm được hình thành và là nơi mà những thời gian và các nội dung của cuộc sống được ghi dấu. Đó là một cơ hội mới để nối kết tâm hồn con người. Một lãnh vực đặc biệt của sự gặp gỡ giữa đức tin và lý trí nằm trong việc đối thoại với tri thức khoa học. Tự nó, tri thức khoa học này không xa rời với đức tin từ khi nó biểu lộ nền tảng thiêng liêng mà Thiên Chúa đã đặt để nơi các thụ tạo và cho phép phân định các cấu trúc lý trí nằm ở nền tảng của công trình tạo dựng. Khi các khoa học và các kỹ thuật không muốn đóng kín quan niệm về con người và về thế giới trong một chủ nghĩa duy vật cằn cỗi, thì chúng trở thành đồng minh quý báu để phát triển sự nhân bản hóa cuộc sống. Do đó, sự biết ơn của chúng tôi cũng hướng đến tất cả những ai đang dấn thân trên mặt trận tinh tế của tri thức.
Chúng tôi cũng muốn mở rộng sự bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi đối với những người nam và người nữ đang dấn thân trong một biểu lộ khác của thiên tài nhân loại : nghệ thuật trong những lối diễn tả đa dạng của nó, của những lối diễn tả xa xưa nhất đến những lối diễn tả gần đây nhất. Xét như là chúng nhắm mang lại hình dáng cho sự vươn lên của con người tới vẻ đẹp, trong các tác phẩm của họ, chúng tôi biết ơn một phương thức diễn đạt rất ý nghĩa về linh đạo. Chúng tôi biết ơn các nghệ sĩ khi, qua những sáng tạo vẻ đẹp của họ, họ giúp chúng ta biểu lộ vẻ đẹp của khuôn mặt của Thiên Chúa và của các thụ tạo của Ngài. Con đường của vẻ đẹp là một con đường đặc biệt hữu hiệu cho việc Tân Phúc Âm Hóa.
Không chỉ các kiệt tác nghệ thuật nhưng còn sự khéo léo sáng tạo của con người lôi kéo sự chú ý của chúng ta xét như là mảnh đất thích hợp nơi đó con người trở thành người cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa nhờ lao công của mình. Với thế giới kinh tế và lao động, chúng tôi muốn nhắc lại một vài đòi hỏi phát xuất từ ánh sáng của Tin Mừng : gìn giữ lao động khỏi những điều kiện mà, thông thường, biến nó thành một gánh nặng không thể chịu nổi và tước đi khỏi nó mọi đảm bảo cho tương lai, do những đe dọa thất nghiệp đặc biệt tác động đến giới trẻ ; đặt nhân vị ở trung tâm của sự phát triển kinh tế, suy nghĩ chính sự phát triển này như là một cơ hội tăng trưởng loài người trong công bằng và hiệp nhất. Con người cũng được kêu gọi xuyên qua lao động của mình, qua đó nó biến đổi thế giới, và qua trách nhiệm của nó đối với các thế hệ tương lai, gìn giữ hình ảnh mà Thiên Chúa đã muốn ban cho công trình tạo dựng của Ngài.
Tin Mừng cũng soi sáng ý nghĩa của đau khổ gắn liền với bệnh tật. Ở đây, các kitô hữu phải làm cho cảm thấy sự hiện diện của Giáo Hội bên cạnh các bệnh nhân và sự biết ơn của Giáo Hội đối với những ai dấn thân cách chuyên nghiệp và nhân bản trong việc săn sóc các bệnh nhân.
Một lãnh vực trong đó ánh sáng của Tin Mừng có thể và phải tỏa chiếu để soi sáng những bước chân của nhân loại là lãnh vực chính trị. Chính trị được đòi hỏi một sự dấn thân vô vị lợi và trong sáng vì công ích, trong sự tôn trọng phẩm giá trọn vẹn của nhân vị, từ lúc nó được thụ thai cho đến cái chết tự nhiên ; tôn trọng gia đình được xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, tôn trọng sự tự do giáo dục ; thăng tiến tự do tôn giáo ; trong sự đấu tranh chống lại những bất công, những bất bình đẳng, những phân biệt kỳ thị, những bạo lực, sự phân biệt chủng tộc, sự đói nghèo và chiến tranh. Một chứng tá rõ ràng được đòi hỏi đối với các kitô hữu mà, trong việc thực thi chính trị, sống giới luật bác ái.
Sau cùng, cuộc đối thoại của Giáo Hội có một người đối thoại tự nhiên trong các tôn giáo khác. Việc Phúc Âm hóa được thực hiện qua xác tín về chân lý của Chúa Kitô, chứ không chống lại người nào. Tin Mừng của Chúa Giêsu là bình an và niềm vui, và các môn đệ của Ngài hạnh phúc nhận ra những gì mà tinh thần tôn giáo của con người đã biết phân định điều tốt và điều thật trong thế giới do Thiên Chúa tạo dựng, và đã diễn tả bằng cách mang lại hình dáng cho những tôn giáo khác nhau.
Cuộc đối thoại giữa các tôn giáo có thể là một đóng góp cho hòa bình, nó khước từ mọi trào lưu chính thống cực đoan (fondamentalisme) và tố giác mọi bạo lực nhắm đến các tín hữu, vi phạm nghiêm trọng đến các quyền của con người. Các Giáo Hội trên khắp thế giới gần gũi trong lời cầu nguyện và trong tình huynh đệ với các anh em đau khổ này và yêu cầu những ai đang nắm trong tay số phận của các dân tộc phải bảo vệ các quyền của mọi người được tự do chọn lựa và tuyên xưng đức tin của mình và làm chứng cho đức tin đó.
11. Ký ức về Công đồng Vatican II trong suốt Năm Đức Tin và việc tham chiếu Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo
Trên con đường được mở ra bởi việc Tân Phúc Âm Hóa, chúng ta cũng có thể đôi khi cảm thấy như ở trong một sa mạc, giữa những nguy hiểm và không có điểm tựa. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, nhân bài giảng thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin, đã nói đến một “sự sa mạc hóa thiêng liêng” đã tiến triển trong những thập niên vừa qua, nhưng ngài cũng đã khích lệ chúng ta khi khẳng định rằng “chính từ kinh nghiệm về sa mạc này, về sự trống rỗng này, mà chúng ta có thể khám phá một lần nữa niềm vui đức tin và tầm quan trọng trọng yếu của nó đối với người kitô hữu chúng ta. Trong sa mạc, ta tái khám phá giá trị của những gì là thiết yếu để sống” (Bênêđictô XVI, Bài giảng thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin, Rôma, 11.10.2012). Trong sa mạc, như người phụ nữ Samaritanô, chúng ta đi đến tìm kiếm nước, từ một giếng nước để dự trữ : phúc cho ai gặp được Chúa Kitô ở đó !
Chúng ta cám ơn Đức Thánh Cha vì hồng ân Năm Đức Tin, một sự dẫn nhập quý giá vào lộ trình của việc Tân Phúc Âm Hóa. Chúng ta cũng cám ơn ngài đã liên kết Năm Đức Tin này với việc kỷ niệm năm mươi năm khai mạc Công đồng Vatican II, mà giáo huấn căn bản của nó cho thời đại chúng ta đang chiếu sáng trong Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, được tái đề nghị 20 năm sau ngày công bố nó như là điểm quy chiếu chắc chắn cho đức tin. Đó là những kỷ niệm quan trọng cho phép chúng ta tái khẳng định sự gắn bó vững chắc của chúng ta với giáo huấn của Công đồng Vatican II và sự cam kết của chúng ta tiếp tục vận dụng nó cách trọn vẹn.
12. Chiêm ngắm mầu nhiệm và sự gần gũi với người nghèo
Trong viễn ảnh này, chúng tôi muốn chỉ ra cho tất cả các tín hữu hai lối diễn đạt của đời sống đức tin mà chúng tôi nghĩ vẫn còn đặc biệt thích đáng để làm chứng cho nó trong việc Tân Phúc Âm Hóa.
Biểu lộ đầu tiên được làm nên bởi ân huệ và bởi kinh nghiệm về sự chiêm niệm. Chỉ với cái nhìn thờ lạy về mầu nhiệm của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần, chỉ từ sự thinh lặng sâu xa như trong cung lòng đón nhận Lời cứu độ duy nhất, mà có thể vọt lên một chứng tá khả tín đối với thế giới. Chỉ sự thinh lặng cầu nguyện này mới có thể ngăn không cho sứ điệp cứu độ bị mất đi trong nhiều tiếng ồn ào của thế giới.
Một sứ điệp biết ơn một lần nữa đến trên miệng lưỡi chúng tôi dành cho tất cả những người nam và người nữ hiến dâng đời mình cho việc cầu nguyện và chiêm niệm trong các đan viện và các nơi ẩn tu. Nhưng chúng ta cần rằng những thời gian chiêm niệm được lồng vào trong đời thường của con người : những nơi trong tâm hồn, nhưng cả những nơi địa lý, nhắc nhớ kỷ niệm về Thiên Chúa, những đền thờ nội tâm nhưng cũng những đền thờ bằng đá là những nơi gặp gỡ cần thiết cho dòng chảy những kinh nghiệm này mà, nếu không, (chúng ta) có nguy cơ đánh mất chính mình. Những không gian trong đó tất cả mọi người đều có thể cảm thấy mình được đón tiếp, ngay cả những người vẫn còn chưa biết rõ những gì họ đang tìm kiếm và người họ đang tìm kiếm.
Biểu lộ kia về tính đích thực của việc Tân Phúc Âm Hóa có khuôn mặt của người nghèo. Đặt mình bên cạnh người bị tổn thương bởi cuộc sống không chỉ là một thực hành xã hội tính, nhưng trước tiên là một sự kiện thiêng liêng. Vì trong khuôn mặt của người nghèo rạng chiếu chính khuôn mặt của Chúa Kitô : “Tất cả những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Một vị trí ưu tiên được nhìn nhận cho người nghèo trong các cộng đoàn của chúng ta, một vị trí mà không loại trừ ai, nhưng muốn là một phản ảnh về cách thức mà Chúa Giêsu đã liên kết với họ. Sự hiện diện của họ trong các cộng đoàn của chúng ta là sức mạnh huyền nhiệm : nó biến đổi người ta hơn một diễn văn, nó giảng dạy lòng trung tín, nó giúp hiểu tính mỏng giòn của cuộc sống, nói kêu gọi cầu nguyện, và, nói tóm lại, dẫn đến Chúa Kitô.
Cử chỉ của đức ái đòi hỏi được đi kèm bởi nỗ lực vì công bằng. Đó là một lời mời gọi nói với mọi người, nghèo và giàu ; từ đó sự cần thiết lồng học thuyết xã hội của Giáo Hội vào hành trình của việc Tân Phúc Âm Hóa và mối ưu tư đào tạo các kitô hữu mà ra sức cho sự hài hòa của các mối tương quan con người trong đời sống xã hội và chính trị.
13. Một sứ điệp gởi cho các Giáo Hội của những vùng đất khác nhau trên thế giới
Cái nhìn của các Giám mục đang nhóm họp Thượng Hội Đồng ôm lấy tất cả các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới, một cái nhìn muốn hiệp nhất, bởi vì lời mời gọi gặp gỡ Chúa Giêsu là độc nhất, nhưng còn là một cái nhìn không quên đi tính đa dạng.
Một sự quý mến đặc biệt, đầy tình trìu mến huynh đệ và biết ơn, được các Giám mục nhóm họp Thượng Hội Đồng dành cho các anh chị em kitô hữu của các Giáo Hội Đông Phương Công Giáo, những Giáo Hội mà kế thừa việc loan truyền Tin Mừng đầu tiên, kinh nghiệm được gìn giữ cách yêu thương và trung tín, và là những Giáo Hội đang hiện diện ở Đông Âu. Ngày nay, một lần nữa, Tin Mừng được đề nghị cho anh chị em như là cuộc Tân Phúc Âm Hóa qua đời sống phụng vụ, giáo lý, kinh nguyện gia đình hằng ngày, ăn chay, sự liên đới giữa các gia đình, sự tham dự của các giáo dân vào đời sống của các cộng đoàn và vào việc đối thoại với thế giới. Thường bị đặt vào thử thách và gian truân, các Giáo Hội của anh chị em được mời gọi làm chứng cho việc tham dự vào Thập giá của Chúa Kitô. Một số tín hữu bị buộc phải di cư. Dù hoàn toàn duy trì cách sống động việc thuộc về cộng đoàn nguyên thủy của mình, nhưng họ có thể mang lại sự đóng góp của họ vào trách nhiệm mục vụ và vào công trình Phúc Âm hóa nơi những nước đã đón tiếp họ. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho sự trung thành của anh chị em, và ước gì được khai thông trong tương lai của anh chị em những chân trời tuyên xưng đức tin thanh thản và thực hành đức tin trong một bầu khí bình an và tự do tôn giáo.
Chúng tôi nhìn đến anh chị em những kitô hữu nam nữ, đang sống trong các nước Châu Phi, chúng tôi muốn trước tiên bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi đối với anh chị em vì chứng tá mà anh em đã làm cho Tin Mừng, thường trong những hoàn cảnh sống khó khăn về mặt nhân loại. Chúng tôi khích lệ anh chị em mang lại đà nhiệt huyết cho việc Phúc Âm hóa được lãnh nhận trong thời gian vẫn còn gần đây, xây dựng anh chị em như là Giáo Hội “gia-đình-của-Thiên-Chúa”, củng cố căn tính của gia đình, nâng đỡ sự dấn thân của các linh mục và của các giáo lý viên, đặc biệt nơi các cộng đoàn kitô hữu bé nhỏ.
Thêm vào đó là sự cần thiết cấp bách phát triển sự gặp gỡ của Tin Mừng với các nền văn hóa xưa và nay. Một sự mong đợi và một tiếng gọi mạnh mẽ cũng được gởi đến giới chính trị và đến các nhà cầm quyền của các nước Châu Phi khác nhau, để, nhờ sự cộng tác của mọi người thiện chí, các quyền căn bản của con người được thăng tiến và châu lục được giải thoát khỏi bạo lực và những xung đột vẫn đang còn làm cho nó đau khổ.
Các Giám mục của Thượng Hội Đồng mời gọi các kitô hữu của Bắc Mỹ hân hoan đón nhận lời mời gọi Tân Phúc Âm Hóa, đồng thời các ngài ngắm nhìn cách biết ơn làm thế nào, trong lịch sử vẫn còn gần đây của họ, các cộng đoàn kitô hữu của anh chị em đã mang lại những hoa trái quảng đại của đức tin, đức ái và truyền giáo. Bây giờ, điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều lối diễn tả của nền văn hóa xung quanh nơi các nước của châu lục của anh chị em ngày nay đang xa rời Tin Mừng. Do đó, một lời mời gọi hoán cải là cần thiết, từ đó nảy sinh một sự dấn thân mà không đặt anh chị em bên ngoài các nền văn hóa của anh chị em nhưng giữa chúng, để mang lại cho mọi người ánh sáng của đức tin và sức mạnh của cuộc sống.
Vào giây phút anh chị em đón nhận nơi các mảnh đất quảng đại của anh chị em những dân nhập cư và lánh nạn mới, anh chị em cũng hãy sẵn sàng mở cửa nhà mình cho đức tin. Trong sự trung tín với những cam kết được thực hiện vào dịp Thượng Hội Đồng về Châu Mỹ, anh chị em hãy liên đới với Châu Mỹ Latinh trong việc Phúc Âm hóa thường xuyên châu lục của mình.
Trong cùng một tâm tình biết ơn, Thượng Hội Đồng hướng đến các Giáo Hội của Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê. Thật đặc biệt ngạc nhiên khi thấy làm thế nào trong suốt các thế kỷ đã được phát triển nơi các nước của anh chị em những hình thức đạo đức bình dân, vẫn còn bén rễ nơi nhiều tâm hồn, các hình thức phục vụ bác ái và đối thoại với nền văn hóa. Ngày nay, đối diện với nhiều thách đố hiện nay, trước tiên là sự nghèo khổ và bạo lực, Giáo Hội ở Châu Mỹ Latinh và tại vùng Caribê được mời gọi sống trong một tình trạng truyền giáo thường xuyên bằng việc loan báo Tin Mừng với hy vọng và niềm vui, bằng việc hình thành nên những cộng đoàn các môn đệ truyền giáo đích thực của Chúa Giêsu-Kitô, bằng việc cho thấy trong sự dấn thân của con cái mình làm thế nào Tin Mừng có thể là nguồn mạch của một xã hội công bằng và huynh đệ mới. Sự đa nguyên tôn giáo cũng chất vấn các Giáo Hội của anh chị em và đòi hỏi một cuộc loan báo Tin Mừng mới mẻ.
Cũng gởi đến anh chị em kitô hữu Châu Á, chúng tôi muốn mang lại một sứ điệp khích lệ và cổ vũ. Anh chị em là một thiểu số bé nhỏ trong châu lục có đến hầu như hai phần ba dân số của thế giới. Sự hiện diện của anh chị em là một hạt giống phong nhiêu, được phó thác cho sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hạt giống mà lớn lên trong sự đối thoại với các nền văn hóa khác nhau, với các tôn giáo cổ xưa, với vô số người nghèo. Cho dầu nó thường bị gạt sang bên lề xã hội, và ngay cả bị bách hại ở một số nơi, Giáo Hội Châu Á, với đức tin kiên cường của mình, là một sự hiện diện quý báu của Tin Mừng của Chúa Kitô, Đấng loan báo sự công bằng, sự sống và sự hài hòa. Hỡi các kitô hữu Châu Á, ước gì anh chị em cảm nhận được sự gần gũi huynh đệ của các kitô hữu của các nước khác trên thế giới, những nước không thể quên rằng Chúa Giêsu đã sinh ra, đã sống, đã chết và đã phục sinh trên châu lục này, nơi Đất Thánh !
Một sứ điệp biết ơn và hy vọng của các Giám mục được gởi đến cho các Giáo Hội của Châu Âu, ngày nay được đánh dấu phần nào bởi sự tục hóa, đôi khi, gây hấn, và một phần vẫn còn bị tổn thương bởi những thập niên dài của các quyền lực của các ý thức hệ thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Sự biết ơn hướng đến quá khứ nhưng cũng hướng đến hiện tại, trong đó Tin Mừng đã tạo nên ở Châu Âu những ý thức và những kinh nghiệm đức tin rất rõ nét và quyết định đối với việc Phúc Âm hóa toàn thế giới, thường tràn đầy sự thánh thiện : sự phong phú tư tưởng thần học, sự đa dạng của các lối diễn tả đặc sủng, nhiều hình thức phục vụ bác ái đối với người nghèo, những kinh nghiệm chiêm niệm sâu xa, sự hình thành một nền văn hóa nhân bản thuyết đã đóng góp vào việc mang lại một khuôn mặt cho phẩm giá của nhân vị và cho việc xây dựng công ích. Anh chị em kitô hữu Châu Âu thân mến, ước gì những khó khăn của hiện tại không quật ngã anh chị em : đúng hơn chúng cần được nhận thấy như là một thách đố phải vượt qua và là một cơ hội cho việc loan báo Chúa Kitô và Tin Mừng sự sống của Ngài cách vui tươi và sống động hơn.
Sau cùng, các Giám mục của Thượng Hội Đồng kính chào các dân tộc Châu Đại Dương, đang sống dưới sự bảo vệ của Thập Giá Phương Nam, và các ngài cám ơn họ vì chứng tá cho Tin Mừng Chúa Giêsu của họ. Lời cầu nguyện của chúng tôi dành cho anh chị em là rằng, như người phụ nữ Samaritanô bên giếng nước, ước gì anh chị em cũng cảm thấy mãnh liệt cơn khát của một sự sống mới và anh chị em có thể lắng nghe lời Chúa Giêsu nói rằng : “Nếu chị đã biết ân huệ của Thiên Chúa !” (Ga 4,1-10). Anh chị em hãy lãnh nhận lời mời gọi dấn thân hơn nữa rao giảng Tin Mừng và làm cho Chúa Giêsu được nhận biết trong thế giới hôm nay. Chúng tôi khích lệ anh chị em gặp gỡ Ngài trong đời thường của anh chị em, lắng nghe Ngài và khám phá, qua việc cầu nguyện và suy niệm, ân sủng có thể nói : “Chúng tôi biết rằng người nay thực sự là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
14. Ngôi sao Đức Maria chiếu sáng sa mạc
Đến hồi kết thúc kinh nghiệm về sự hiệp thông tốt đẹp này giữa các Giám mục trên thế giới và về sự cộng tác với thừa tác vụ của đấng kế vị thánh Phêrô, chúng tôi muốn làm vang vọng lên cho chúng ta, trong tất cả tính thời sự của nó, lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các tông đồ của Ngài : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ […]Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lần này, sứ mạng không chỉ liên quan đến việc mở rộng địa lý, nhưng tìm cách liên kết với những nơi sâu kín nhất của tâm hồn của con người thời đại chúng ta, để đưa họ đến gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng Hằng Sống đang hiện diện trong các cộng đoàn của chúng ta.
Sự hiện diện này đổ đầy tâm hồn chúng ta bằng niềm vui. Đầy lòng biết ơn đối với những ân huệ nhận được từ Ngài trong những ngày này, chúng tôi dâng lên bài ca ngợi khen : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa […] Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu” (Lc 1,46.49). Những lời của Đức Maria cũng là những lời của chúng ta : Chúa đã thực sự làm những điều kỳ diệu trong suốt dòng thời gian cho Giáo Hội của Ngài nơi những phần khác nhau trên thế giới và chúng ta tán dương Ngài, xác tín rằng Ngài sẽ không quên chăm lo cho sự nghèo hèn của chúng ta để biểu lộ ở đó, cả ngày nay nữa, sức mạnh của cánh tay Ngài và nâng đỡ chúng ta trên con đường Tân Phúc Âm Hóa.
Hình ảnh Đức Maria định hướng chúng ta trên con đường này. Đối với chúng ta, con đường này xem ra, như đức Bênêđictô XVI đã nói, là một hành trình xuyên qua sa mạc, và chúng ta biết rằng cần phải trải qua con đường đó và mang theo chúng ta điều chính yếu : ơn Chúa Thánh Thần, sự đồng hành của Chúa Giêsu, chân lý của lời Ngài, Thánh Thể nuôi dưỡng chúng ta, tình huynh đệ hiệp thông Giáo Hội, nhiệt huyết đức ái. Chính nước giếng làm cho sa mạc nở hoa. Và, như trong đêm tối sa mạc, các ngôi sao trở nên chiếu sáng hơn, cũng thế ở trên trời ánh sáng của Đức Maria, Ngôi Sao của việc Tân Phúc Âm Hóa, Đấng mà chúng ta tin tưởng phó thác, đang mạnh mẽ chiếu sáng trên con đường này.
Tý Linh on 29/10/2012 by Xuân Bích Việt Nam chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp, có tham khảo bản tiếng Anh