Ý NGHĨA SÂU RỘNG: BIỂN TRONG LUCA VÀ CÔNG VỤ
WHĐ (2.2.2021) – Biển có sức hấp dẫn đặc biệt đối với trái tim con người. Nó đã chiếm trọn trí tưởng tượng của con người kể từ những câu chuyện thần thoại đầu tiên: Odysse, tung tăng trên biển; Aenea[1], bị lòng thù hận của Juno đầy ải, đã băng qua Biển sâu; và chu kỳ mang tính hủy diệt nhưng vẫn mang lại sự sống của dòng lũ sông Nile, tất cả đều dễ dàng ghi nhớ. Trong văn học, từ Sử thi Gilgamesh[2] đến Ông già và biển cả[3], Biển cả là bối cảnh cho những câu chuyện kịch tính nhất. JRR Tolkein[4], thông qua nhân vật Legolas, mô tả sức hút của biển vào trái tim anh:[5]
Đến biển, đến biển! Mòng biển trắng kêu vang,
Gió thổi, bọt trắng bay.
Tây, tây xa, mặt trời tròn đang buông xuống.
Con tàu xám, con tàu xám, bạn có nghe họ gọi,
Tiếng những người đã đi trước tôi?
Tôi sẽ ra đi, tôi sẽ rời khỏi rừng cây đã cưu mang tôi;
Vì những ngày của chúng ta đang kết thúc và những năm tháng của chúng ta đang thất bại.
Tôi sẽ vượt qua vùng nước rộng cô đơn chèo thuyền.
Những con sóng trên Bờ Suối đổ xuống, trải dài.
Tiếng nói trong Lạc Đảo mời gọi ngọt ngào …[6]
Biển cũng là một trong các hình ảnh xác định trọng tâm Kinh thánh. Thánh Thần bay lượn trên mặt nước trong sự sáng tạo (Sáng Thế Ký 1: 2). Thiên Chúa cứu Nôê khỏi trận lụt (Sáng Thế Ký 6: 1; 8: 22). Quyền trượng của Môisê chia tách Biển Đỏ, cho phép dân Ítraen đi qua an toàn và giải cứu họ khỏi Ai Cập (Xuất hành 14: 21-22). Sau đó, Hòm Giao ước cũng chia tách sông Giócđan khi dân Ítraen đến Đất Hứa (Giôsuê 3: 14-17). Khi tác giả Thánh vịnh cầu nguyện, “Ngài hãy thống trị từ biển này qua biển khác, từ Sông cả cho đến tận cùng cõi đất!” (Thánh vịnh 72: 8) Tân Ước cũng dành cho Biển một vị trí quan trọng trong các trình thuật về Biển. Sứ vụ của Chúa Giêsu tập trung quanh Biển Galilê. Phaolô băng qua Địa Trung Hải. Và, liên quan đến ngày tận thế, tác giả của sách Khải Huyền mô tả một “Biển thủy tinh hòa quyện với lửa” bên dưới ngai vàng của Thiên Chúa. (Khải huyền 15: 2)
Nếu Biển có nhiều ý nghĩa như vậy, nếu nó có sức hút sâu lắng và thơ mộng đến thế đối với trái tim con người, thì hình ảnh này có thể được sử dụng trong việc giảng dạy như thế nào? Trong một nghiên cứu gần đây về Luca và Công vụ Tông đồ, chúng tôi đã khám phá ra vô số lời chú giải của các giáo phụ trong các câu chuyện về Biển trong Catena Aurea[7] của Thánh Tôma Aquinô . Trong tài liệu này, Thánh Tôma Aquinô đã biên soạn rất nhiều câu nói của các tổ phụ liên quan đến từng câu trong sách Tin Mừng. Tất cả những đoạn Kinh Thánh này đều chứa đựng những ẩn dụ phong phú và những ý nghĩa loại suy sâu rộng. Đối với chúng ta, dường như cách tiếp cận loại suy này có thể giúp khai thác khía cạnh thần thoại về tầm quan trọng của biển. Mặc dù nghiên cứu của chúng tôi chỉ giới hạn trong các câu chuyện trong Luca và Công vụ, nhưng những nhận xét của các Giáo Phụ về phần Kinh thánh này có thể được sử dụng để giúp hiểu những phần khác.
Khi người ta đọc Kinh Thánh, phần lớn cách tiếp cận lịch sử hiện đại liên quan đến nghĩa đen của nó. Bằng cách nhìn vào loại dụng cụ đánh cá mà các Tông đồ sử dụng, hoặc bằng cách nghiên cứu tàn tích của Caphácnaum, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về câu chuyện và tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ với chính các môn đệ. Nhiều vị thánh vĩ đại đã khuyến khích việc suy ngẫm về sự chính xác những chi tiết này, bởi vì nó giúp khơi dậy tình cảm gắn bó bền chặt với Chúa Giêsu, con người lịch sử do Thiên Chúa sai tới. Một cách tiếp cận ẩn dụ hoặc dụ ngôn hơn, như cách được các giáo phụ sử dụng, có thể kết hợp với một nguồn khác để giúp hướng dẫn chúng ta về sự thánh thiện. Thay vì tiếp cận ở mức độ thực tế lịch sử, chúng ta có thể nhìn vào hàm ý văn học và trí tưởng tượng của văn bản để tìm hiểu thêm về ý nghĩa thiêng liêng mà Biển có được.
Giáo hội có một lịch sử lâu dài về việc tìm kiếm ẩn dụ và loại suy trong thần học của mình. Ví dụ, phép rửa tội thường được giải thích bằng cách rút ra từ ý nghĩa ẩn dụ của nước. Giống như nước mang lại sự sống cho thực vật và động vật, việc gội rửa trong nước của Phép Rửa mang lại sự sống mới cho Kitô hữu. Giống như chúng ta làm sạch bằng nước, Phép Rửa tẩy sạch tội lỗi của chúng ta. Và cũng giống như nỗi sợ chết đuối có thể ám ảnh một thủy thủ, trong phép thánh tẩy, chúng ta chết cho chính mình và mặc lấy một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Các Giáo Phụ đã sử dụng cách tiếp cận loại suy và thiêng liêng này để đọc Kinh thánh. Bằng cách xem xét công việc của các Giáo Phụ, chúng ta có thể tìm thấy một khuôn khổ chú giải ẩn dụ vững chắc để giúp hỗ trợ việc đọc và hiểu các câu chuyện về Biển trong Kinh Thánh. Việc rao giảng về những câu chuyện này, theo cách này, có thể kết nối các sách Tin Mừng cổ xưa với cuộc sống của người nghe bằng cách lôi kéo họ vào điều đó rất sâu sắc.[8]
Khi các Giáo Phụ sử dụng biểu tượng, những chi tiết mà từ đó các ngài rút ra ý nghĩa đôi khi có vẻ ngẫu nhiên hoặc tùy ý. Chẳng hạn, Thánh Grêgôriô Nazianzê coi Biển là đại diện cho người tin Chúa đang bơi trong sự hiểm nguy của cám dỗ, nhưng Thánh Augustinô lại mô tả niển như đi sâu vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Do đó, việc chọn một trích dẫn từ bài chú giải của Giáo Phụ có thể nghe không được tự nhiên đối với khán giả hoặc cộng đoàn. Tuy nhiên, có một khuôn khổ kết nối giữa những gì hai Giáo Phụ này nói, và thậm chí hỗ trợ các diễn giải cá nhân của các ngài. Việc tìm kiếm sự thống nhất giữa các phép loại suy khác nhau sẽ cho thấy một khung nhìn rộng hơn. Các Giáo Phụ sử dụng cấu trúc tường thuật của chính Tin Mừng, một sự phù hợp phong phú với các bản văn Kinh thánh khác, và một thế giới quan cơ bản, để rút ra các ẩn dụ của chúng.
Biển lần đầu tiên được nhắc đến trong Luca khi nói đến mẻ lưới thần kỳ, và lời gọi của Chúa Giêsu đối với các môn đệ “Ông Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”. (Luca 5,1-11). Tiếp theo, Biển xuất hiện khi Chúa Kitô dẹp yên sóng Biển “Một ngày nọ, Đức Giêsu xuống thuyền với các môn đệ. Ngài nói: “Chúng ta sang bên kia hồ đi! ” Rồi thầy trò ra khơi. Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giêsu thiếp ngủ. Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy. Các môn đệ lại gần đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Ngài thức dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. Ngài bảo các ông: “Đức tin anh em ở đâu? ” Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: “Vậy người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?” (Luca 8: 22-25), và ngay sau đó, trong cuộc trừ binh đoàn quỷ “Lũ quỷ nài xin Ngài đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm. Ở đó có một bầy heo khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Ngài cho phép chúng nhập vào bầy heo kia, và Ngài cho phép. Lũ quỷ xuất khỏi người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết ngộp hết”. (8: 31-33). Sau đó, không có thêm câu chuyện hoặc dụ ngôn lớn nào liên quan đến Biển trong Tin Mừng này, ngoài các tài liệu tham khảo nhỏ, chẳng hạn như đức tin có thể dời cây xuống Biển “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. (Luca 17: 6), không như Luca, sách Tin Mừng theo Máccô 6: 45-52 lưu giữ sự kiện đi trên mặt nước “Lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành Bếtxaiđa trước, trong lúc Ngài giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện. Chiều đến, chiếc thuyền đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Ngài ở trên đất. Ngài thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các ông và Ngài định vượt các ông. Nhưng khi các ông thấy Ngài đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Ngài và đều hoảng hốt. Lập tức, Ngài bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Ngài lên thuyền với các ông, và gió lặng. Các ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hoá nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội!”. Biển không còn là trọng tâm của câu chuyện cho đến khi có sách Công vụ, trong đó Phaolô đi thuyền đến Pécghê “Từ Paphô, ông Phaolô và các bạn đồng hành vượt biển đến Pécghê miền Pamphylia” (13:13). Hầu hết các cuộc hành trình trên Biển của Phaolô đều bị lướt qua. Do đó chuyến đi đầu tiên này và những chuyến đi xa hơn của Phaolô đến Châu Âu “Xuống tàu ở Trôa, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xamốtrakê, rồi hôm sau đến Napôli” (16:11), Milêtô “Chúng tôi xuống tàu trước đi Átxô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông Phaolô; ông đã sắp đặt như thế, vì ông tính đi đường bộ. Khi ông gặp lại chúng tôi ở Átxô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi đi tới Mitylen. Từ đó chúng tôi vượt biển và hôm sau tới ngang đảo Khiô. Hôm sau nữa, chúng tôi cập bến ở đảo Xamốt, rồi ngày kế đó đến Milêtô” (20: 13-16), Giêrusalem “Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu” (20: 38), “Sau khi từ biệt nhau, chúng tôi xuống tàu, còn họ thì trở về nhà”. (21: 6), và Rôma “Ba tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu này của thành Alêxanria và mang huy hiệu hai thần Điốtcuri”. (28:11) chứa rất ít chi tiết để làm việc. Cho đến nay, câu chuyện biển quan trọng nhất trong Công vụ là vụ đắm tàu trong khi Phaolô bị giam trên đường đến Rôma, trong chương 27. Như thế cả Luca 5: 1-11, 8: 22-33, và Công vụ 27 đã trình bày những câu chuyện phong phú nhất để rút ra những ý nghĩa từ đó. và vì vậy hầu hết các bình luận được trích dẫn sẽ liên quan đến những đoạn đó.
Mặt hồ là điểm phóng lý tưởng. Có ba câu chuyện hoàn toàn khác nhau: một vụ đắm tàu, một mẻ lưới dồi dào và một kết thúc kỳ diệu cho một cơn bão, nhưng các Giáo Phụ đều tìm thấy một ý nghĩa duy nhất. Liên quan đến những đoạn văn này, các Giáo Phụ nhìn thấy mặt hồ Giênêsarét và miêu tả nó tượng trưng cho cuộc chiến đấu với cám dỗ, đối với cá nhân tín hữu, và đối với Giáo hội. Đấng Đáng Kính Bede[9] nhận thấy cơn bão trong cái tên mà Luca đặt cho Biển, “Tuy nhiên, Giênêsarét là cái tên được đặt cho cái hồ do bản chất của chính bản thân cái hồ, (được cho là những con sóng vượt qua hồ đã tạo ra một làn gió trên mặt hồ) là cụm từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tự tạo cho mình một làn gió”. Vì nước của hồ không ổn định, nhưng thường xuyên bị khuấy động bởi những cơn gió thổi qua.”[10] Sóng gió này làm rung chuyển các con thuyền, đe dọa các Tông đồ, những người được coi là đại diện cho cả Giáo hội nói chung và cá nhân tín hữu. Như Bede giải thích thêm, “Nhưng thực tế là các con thuyền, khi được đổ đầy, bắt đầu chìm, tức là trở nên nặng nề dưới nước; (chúng không bị chìm, nhưng đang gặp nguy hiểm lớn) vị Tông đồ giải thích khi ngài nói, “Trong những ngày cuối cùng, thời kỳ nguy hiểm sẽ đến; con người sẽ là người yêu chính bản thân mình, v.v … Vì việc chìm tàu xảy ra khi con người, do những thói quen xấu xa của mình, đã rơi trở lại cái thế gian mà họ đã được tuyển chọn nhờ đức tin để thoát khỏi nó”,[11] Bede mô tả nỗi kinh hoàng và đau đớn của thời kỳ cuối cùng, nhưng cơn bão cũng là một chiều kích luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của các Kitô hữu. Khi ở trên mặt nước của cuộc đời này, con thuyền của chúng ta luôn gặp nguy hiểm trước sự cám dỗ. Tuy nhiên, các Giáo Phụ không liệt kê rõ ràng những cám dỗ nào được thể hiện bằng sóng Biển. Grêgôriô Nazianzê đề cập đến tín hữu “bơi lội trong những cảnh huống luôn thay đổi và những cơn bão cay đắng của cuộc đời này,”[12] nhưng không có một bình luận của giáo phụ nào được Thánh Tôma Aquinô trích dẫn đề cập đến bất kỳ khổ não hoặc thử thách cụ thể nào. Thay vào đó, sóng và bão thường đại diện cho mọi thứ mà Satan, bản chất sa ngã của chúng ta và của thế giới vật chất, có thể cản đường ơn cứu độ của chúng ta.
Nếu thế gian, xác thịt và ma quỷ có thể làm chao đảo con thuyền của chúng ta, thì đức tin vào Chúa Kitô là Thiên Chúa sẽ là liều thuốc giải độc. Các Giáo Phụ chỉ ra rõ ràng rằng, trước hết, Chúa Kitô có quyền năng thần thánh để làm dịu các cơn bão như Thiên Chúa của Cựu Ước đã làm; và thứ hai, đức tin có thể đưa chúng ta đến bờ bên kia một cách an toàn. Thánh Cyrilô chỉ ra mối liên hệ giữa việc Chúa Kitô dẹp yên Biển cả và sự kiểm soát của Thiên Chúa đối với thiên nhiên, đặc biệt như đã được thảo luận trong Cựu Ước:
Nhưng không thể vì thế mà họ phải chết trong khi Đấng Toàn năng ở cùng họ. Sau đó, Chúa Kitô một khi đã chỗi dậy, có quyền lực trên mọi vật, và ngay lập tức dập tắt cơn bão và cơn cuồng phong, cơn bão ngừng lại, và có sự bình yên. Ở đây, Chúa Kitô cho thấy mình là Thiên Chúa, Đấng mà người ta nói, “Chúa cai trị sự cuồng nộ của biển cả: khi sóng nổi lên, Chúa làm cho chúng lặng yên”. Vì vậy, khi ra khơi, Chúa của chúng ta đã biểu lộ cả hai bản tính trong cùng một con người, khi thấy rằng Ngài, vì là con người, đã ngủ thiếp đi trong tàu, và vì là Thiên Chúa, nên bằng lời nói của mình, Ngài đã dẹp yên cơn thịnh nộ của Biển cả.[13]
Câu đầu tiên của nhà chú giải Cyrilô thiết lập mối liên hệ giữa quyền năng của Thiên Chúa và những cơn bão trên mặt hồ. Mặc dù các Tông đồ thực sự đang gặp nguy cơ bị hủy diệt, nhưng Chúa Kitô “không thể” không cứu họ, vì Ngài thực sự là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính sự nhập thể của Chúa Kitô là sự biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa để cứu các tín hữu của Ngài khỏi những giông tố của cuộc đời. Và, xa hơn nữa, như Thánh Ambrôsiô dạy, quyền năng cứu độ này tiếp tục được thể hiện cho các môn đồ của Chúa Kitô ngay cả sau khi Ngài thăng thiên:
Bạn phải nhớ rằng không ai có thể vượt qua cuộc đời này mà không có cám dỗ, vì cám dỗ là thử thách của đức tin. Do đó, chúng ta đang phải hứng chịu những cơn bão tố của sự gian ác thiêng liêng, nhưng với tư cách là những thủy thủ cảnh giác, chúng ta phải đánh thức người lái tàu, là người không tuân theo những cơn gió mà chỉ huy chúng, mặc dù giờ đây người lái tàu không còn ngủ trong giấc ngủ của chính mình, nhưng chúng ta hãy coi chừng, kẻo vì giấc ngủ của thân xác chúng ta, Ngài vẫn như đang ngủ và nghỉ ngơi đối với chúng ta. Nhưng họ bị khiển trách một cách đích đáng vì đã kinh sợ, khi Chúa Kitô vẫn hiện diện; vì ai bám chặt vào Ngài chắc chắn sẽ không cách nào phải chết.[14]
Chúa Giêsu Kitô tiếp tục canh giữ đàn chiên của Ngài khi họ chèo thuyền vượt biển cuộc đời, và quyền năng thần linh của Ngài dẹp yên cơn bão là đáng tin cậy vô hạn. Như Thánh Ambrôsiô đã chỉ ra, chính sự thiếu niềm tin của chúng ta là điều đáng trách, và là điều “đáng trách” khi chúng ta không chống chọi nổi với những cơn bão. Như một dụ ngôn sau này trong Tin Mừng của Thánh Luca sẽ mô tả, “Nếu bạn có đức tin như hạt cải, bạn có thể nói với cây dâu này rằng: Hãy nhổ rễ lên và xuống dưới Biển mà mọc, nó sẽ vâng lời bạn.” (Luca 17: 6)[15]Các Giáo Phụ kêu gọi một đức tin cộng đoàn, chứ không chỉ cho niềm tin cá nhân. Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng đức tin của Thánh Phaolô đủ để cứu nhiều người, như ngài giải thích, “Và đây cũng không phải là một phép lạ nhỏ, rằng họ [thủy thủ đoàn] cũng được cứu nhờ lời Phaolô giải thích nguyên nhân.”[16] Các thủy thủ đã bỏ cuộc, “rốt cuộc chúng tôi mất dần hy vọng được cứu” (Công vụ 27:20) nhưng Phaolô kêu gọi họ hãy tin tưởng và nói: “Thưa các bạn, hãy can đảm lên! Tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng như lời đã phán với tôi.” (Công vụ 27:25) Phaolô tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ cứu ông và cùng với ông, tất cả những người trong tàu. Trong tất cả những câu chuyện này, những con thuyền không bao giờ có những vị khách lẻ loi. Thay vào đó, Chúa Giêsu ban cho Phêrô và những người bạn đánh cá của ông một phép lạ, cứu tất cả các môn đệ khỏi một cơn bão, hoặc ban cho Phaolô sự cứu vớt của cả một thủy thủ đoàn.
Bản thân con tàu hay con thuyền là một trọng tâm khác của các Giáo Phụ. Nói chung, con thuyền được hiểu là đại diện cho Giáo Hội, mặc dù theo nghĩa rộng hơn, nó có thể tượng trưng cho các cộng đoàn riêng lẻ bên trong Giáo Hội hoặc theo nghĩa cơ bản nhất của nó, chính là vũ trụ. Như Thánh Gioan Kim Khẩu mô tả:
Vì nếu một con tàu không thể gắn kết với nhau mà không có hoa tiêu, là những người sáng lập tiếp sau đó, thì làm sao thế giới có thể gắn kết với nhau lâu đến vậy nếu không có ai cai quản đường đi của nó? Và rằng tôi có thể nói không quá đáng, giả sử thế giới là một con tàu; trái đất được đặt bên dưới sống tàu; bầu trời là cánh buồm; con người là hành khách; vực thẳm cận kề là biển. Làm thế nào mà trong suốt một thời gian dài, không một vụ đắm tàu nào xảy ra? Bây giờ, hãy để một con tàu ra đi vào một ngày nào đó mà không có hoa tiêu và thủy thủ đoàn, và bạn sẽ thấy nó đắm ngay lập tức! Nhưng thế giới, mặc dù tồn tại cách đây năm nghìn năm, và nhiều hơn nữa, vẫn không phải chịu đựng điều gì như thế.[17]
Dựa vào Công vụ 27:30 thì không có gì là rõ ràng, nhưng nó cung cấp thông tin về tầm nhìn của các Giáo Phụ về phép ẩn dụ của con tàu. Con tàu là nơi sinh sống của con người, những cơn bão của cuộc sống, thực tế vật chất và những cơn thịnh nộ của điều tà ác chống lại con tàu đó. Không thể vượt qua cuộc sống mà không có một con tàu để vượt qua vùng Biển. Trong ví dụ này, trái đất không thể tự nó tạo ra chính nó, từ đầu đến cuối, nếu không có một người điều khiển xuất sắc, là Thiên Chúa, đã quan phòng thiết lập đường đi và liên tục chống lại sự tấn công của thời tiết. Chỉ là một bước ngắn khi so sánh các hành khách với các thành viên của Giáo hội, và người lái tàu với Chúa Kitô, với đích đến là bờ bên kia, là thiên đàng. Như Thánh Giêrônimô nhận xét, “Thánh Phaolô và những người đã trói buộc ngài, cùng nhau chèo thuyền, chịu đựng cùng một cơn bão, cùng nhau trốn vào bờ khi con tàu bị sóng đánh vỡ,” Cứ cho là đúng như thế, con tàu đắm là biểu tượng cho sự phán xét thực sự của Thiên Chúa đối với những người đi qua cuộc đời để hướng về cõi hằng sống. Sự ngay thẳng của Phaolô đã cứu cả thủy thủ đoàn khỏi chết chìm, và mặc dù ở trên tàu chỉ là chuyện tạm thời, nhưng cả đoàn đã đến được bờ. Do đó, Thánh Giêrônimô có thể áp dụng biểu tượng này cho Giáo hội cách trực tiếp hơn, và cho mỗi tín hữu tiếp theo đó, “Bây giờ chúng ta chèo thuyền, vật lộn và chiến đấu, để cuối cùng chúng ta có thể đến được thiên đàng, được đăng quang và chiến thắng”.[18] Thánh Ambrôsiô đưa ra cách trình bày trực tiếp nhất về phép loại suy này: “Theo Mátthêu, con thuyền của Phêrô bị sóng đánh, theo Luca, con thuyền chứa đầy cá, để anh em có thể hiểu Giáo hội. lúc đầu thì dao động, cuối cùng thì rất dồi dào. Con thuyền giữ được Phêrô thì không bị rung chuyển; Con thuyền giữ Giuđa bị rung chuyển”.[19] Giáo hội giữ được Phêrô, đặc biệt là Giáo hội La Mã, được hướng dẫn do lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, dao động trong thời gian ở trên mặt nước. Tuy nhiên, sóng yên biển lặng, Chúa cung cấp lượng cá dồi dào, tượng trưng cho niềm vui dạt dào trên thiên đàng sau bao sóng gió của cuộc đời này.
Chỗ sâu của Biển không phải là một phép loại suy đơn giản, mà thay vào đó nó có ý nghĩa gấp đôi. Trong một số trường hợp, chỗ sâu ở đây hiểu là vực sâu Hỏa ngục, bị loại bỏ khỏi tình yêu Thiên Chúa. Điều này được thể hiện rõ ràng trong câu chuyện về người đàn ông bị binh đoàn quỷ ám. Bầy quỷ cầu xin Chúa Kitô “đừng ra lệnh cho chúng nhào xuống vực sâu,” nhưng sau đó khi nhập vào đàn heo, chúng lao “theo sườn núi chênh vênh, xồng xộc nhào xuống biển, mà chết dưới nước.”[20] Các Giáo Phụ giải thích điều này là biểu hiện quyền năng của Chúa Kitô: bầy quỷ tìm cách thoát khỏi vực thẳm bằng cách nhập vào bầy heo, nhưng cuối cùng vẫn bị chết chìm trong vực sâu. Vì vậy, “chỗ sâu” của hồ được cho là vực sâu của Hỏa ngục, như Thánh Gioan Kim Khẩu đánh đồng hai thuật ngữ, nói rằng, “Và chúng {Binh đoàn quỷ} đã xin Chúa Kitô đừng ra lệnh cho chúng xuất ra khỏi người bị ám và nhào xuống chỗ nước sâu”.[21] Maximus the Confessor[22] cũng coi chỗ sâu của hồ là tượng trưng cho sự trừng phạt tội kiêu ngạo tìm kiếm những biệt đãi trái lẽ từ Thiên Chúa, như ngài nói, “Do đó, vực sâu được dành cho quỷ dữ, cũng như cho những kẻ tự hãnh mà quỷ dữ dõi theo. Và ở đó một bầy heo, v.v.”[23]
Mặt khác, chỗ sâu cũng có thể tượng trưng cho lòng thương xót, tình yêu và sự hiểu biết của Thiên Chúa. Đây là một sự ví von rõ ràng và đơn giản — Phêrô thả lưới của mình theo lệnh của Chúa Kitô để bắt cá, và vì vậy, chúng ta trong Hội Thánh, nhận được từ Chúa Kitô những ơn ích thiêng liêng dồi dào. Như Thánh Ambrôsiô giải thích, “Điều gì là thật sâu sắc, nếu không phải là sự hiểu biết về Con Thiên Chúa!”[24] Thánh Augustinô cũng có một sự hiểu biết tương tự khi ngài cho biết một chỉ dẫn về cách dạy giáo lý cho những người mới được rửa tội:
Ngài dạy dỗ đám đông từ con tàu nào, bởi vì do thẩm quyền của Giáo hội, Ngài giảng dạy cho dân ngoại. Nhưng việc Chúa xuống thuyền và yêu cầu Phêrô ra xa khỏi đất liền một chút, có nghĩa là chúng ta phải ôn tồn trong lời nói của mình với đoàn dân, để họ không bị dạy bảo những điều trần gian, cũng như không thể đi vào chiều sâu của các bí tích mà vẫn nghĩ đến những điều trần gian.[25]
Ở đây, Thánh Augustinô có ý nói đến điểm thống nhất nối kết những đáy sâu nguy hiểm của Biển với lòng thương xót ban phát rộng rãi mẻ cá dồi dào. Mặc dù ở mức độ bề mặt có sự mâu thuẫn, nhưng đáy sâu tượng trưng cho Hỏa ngục khi gặp nguy cơ chết đuối, và đáy sâu cũng tượng trưng cho tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa khi Ngài ban vô số ơn ích, hai ý nghĩa này được thống nhất thành sự sống và ơn cứu độ dành cho Kitô hữu trong Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Thánh Phêrô. Như Thánh Ambrôsiô giải thích thêm:
Cuối cùng, mặc dù đối với những người khác nó là mệnh lệnh, hãy thả lưới của anh em xuống, riêng đối với Phêrô, Chúa nói rằng: Hãy ra chỗ nước sâu, nghĩa là nghiên cứu sâu xa. Điều gì là thật sâu xa, nếu không phải là sự hiểu biết về Con Thiên Chúa! Nhưng cái lưới mà các Tông đồ được lệnh phải thả xuống là gì, nếu không phải là sự đan kết giữa những từ ngữ và một số các từ loại nhất định, như vốn có, và sự phức tạp của lập luận, tất cả những điều này nhằm không bao giờ để cho những người một khi đã được các Tông đồ nắm bắt thì không thể thoát ra. Và lưới đúng là công cụ của các Tông đồ để đánh cá, không phải để giết những con cá bị bắt được, nhưng để giữ chúng an toàn, và đưa những con đang tung tăng sâu bên dưới những con sóng lên vùng nước phía trên. Nhưng Thánh Phêrô nói: Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả cả đêm mà chẳng bắt được gì; đây không phải là tác động của lời nói hùng hồn do con người mà là ân huệ của lời mời gọi thần linh. Các Tông đồ, trước đó không bắt được gì cả, thì bây giờ, vâng theo lời Chúa, lại bắt được vô số cá lớn.[26]
Chiều sâu của hồ vừa biểu lộ sự nguy hiểm cho những người chưa được chuẩn bị vừa biểu lộ lòng thương xót dồi dào đối với những người được Chúa Kitô hướng dẫn. Các từ ngữ, dấu hiệu, cụm từ, giống như dòng nước chảy xiết và bão tố, có thể dễ dàng cuốn bay những người không có sự hướng dẫn theo giới luật của Chúa Kitô, nhận được qua Phêrô. Những gì nhấn chìm tội nhân, vướng mắc vào mành lưới của những lời vô ích, thì lại cứu những người được tuyển chọn, là những người đã được đưa lên những điều cao cả hơn nhờ lời cứu độ của Chúa Kitô, được thể hiện qua cánh tay mạnh mẽ trong Giáo Hội của Thánh Phêrô.
Như vậy, Biển, được xem như một tổng thể trong khoa chú giải của các Giáo Phụ, mang một chiều sâu ý nghĩa rộng lớn. Ý nghĩa của nó trải dài từ đời sống hiện tại của Giáo hội, và của các cá nhân, đến các quyền lực thời cánh chung đối lập với ơn cứu độ. Bề rộng của nó bao trùm toàn bộ Giáo hội phổ quát như con tàu do Thiên Chúa chèo lái. Chiều sâu của nó chứa đựng ơn cứu độ dồi dào cho những người có đức tin, nhưng đe dọa sẽ nhấn chìm những người không có ân sủng của Giáo hội. Thấu kính trọng tâm, quan trọng và cần thiết nhất để hiểu tất cả những tương đồng này là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là thuyền trưởng của con tàu, là Thiên Chúa mà chúng ta có thể tin tưởng để vượt qua Biển một cách an toàn, Ngài là vị cứu tinh dẹp yên cơn bão. Những tường thuật về phép lạ trong sách Tin Mừng Luca, thể hiện quyền năng của Chúa Kitô, và cung cấp bằng chứng cho biết rằng sự dạy dỗ của Ngài là chân thật, và sau đó, trong những năm đầu của Giáo hội, được ghi lại trong sách Công vụ, là sứ mệnh loan truyền Tin Mừng được bảo vệ ngay cả trong vùng Biển bão tố nhất, và giữa những niềm hy vọng đang lụi tàn. Thái độ của các Thánh vịnh đối với Thiên Chúa, sự thể hiện tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót của Ngài, và sự bảo vệ chính là sự hiểu biết mà các Giáo phụ dùng để giải thích các hành động của Chúa Kitô và các chi tiết của các câu chuyện về Ngài. Ở bất cứ nơi nào, các Kitô hữu cũng có thể lang thang giữa Biển đời, các Giáo phụ dạy rằng sự tin tưởng trong Thánh vịnh 56 có thể bộc lộ nhiều hơn niềm tin cậy phó thác vào con người của Chúa Giêsu:
Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi.
Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.
Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách?
Địch thù phải tháo lui vào ngày tôi cầu cứu.
Tôi biết rằng: Thiên Chúa ở bên tôi.
Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và ca tụng lời Người;
tôi ca tụng lời Chúa.
Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi;
phàm nhân làm gì nổi được tôi?[27]
Lòng thương xót của Thiên Chúa được mặc khải cho thế giới trong con người của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, trao ban chìa khóa để chúng ta hiểu biết và rao giảng những ẩn nghĩa khác nhau được các Giáo Phụ rút ra từ Biển.
Tác giả: Ambrose Doborozsi
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: hprweb.com
[1] Chú thích của Người Dịch [ND]: Trong thần thoại Hy Lạp, Aeneas là một anh hùng của thành Troia, là con trai của Anchises và nữ thần tình yêu Aphrodite.
[2] [ND] Gilgamesh là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, một anh hùng trong thần thoại Lưỡng Hà cổ đại, và là nhân vật chính của Sử thi Gilgamesh, được viết bằng tiếng Akkad vào cuối thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên. Trong sử thi, Gilgamesh là một vị bán thần có sức mạnh siêu phàm.
[3] [ND] Ông già và Biển cả (tên tiếng Anh: The Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Trong tác phẩm này ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là “tảng băng trôi”, chỉ mô tả ba phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm ca ngợi con người, sức lao động và khát vọng của con người.
[4] [DN] John Ronald Reuel Tolkien (đọc là /ˈtɒlkiːn/) (3 tháng 1 năm 1892 – 2 tháng 9 năm 1973) là một nhà văn, tiểu thuyết gia, và giáo sư người Anh, được công chúng biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm Anh chàng Hobbit (The Hobbit) và Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings).
[5] [ND] Legolas là một trong số 9 thành viên của Đoàn Hộ Nhẫn và được miêu tả nhiều trong bộ ba tác phẩm tiểu thuyết Chúa tể của những Chiếc Nhẫn. Legolas tự tay làm ra một chiếc thuyền, và qua dòng Anduin, anh ta rời khỏi Trung Địa và đi tới Vùng đất bất tử ở phía Tây xa xôi.
[6] Tolkein, JRR, The Return of the King , (New York: Ballantine Books, 1973), 261.
[7] [ND] Catena là một hình thức bình luận Kinh thánh, từng câu, được làm thành hoàn toàn từ các trích đoạn của các nhà bình luận Kinh thánh trước đó, mỗi phần được giới thiệu với tên của tác giả, và với những điều chỉnh nhỏ để toàn bộ làm thành một bình luận liên tục.
[8] Điều này tương tự như tâm lý học của Jung về thần thoại, nhưng tôi nghĩ rằng nó đã vượt qua những gì Jung nói. Đối với Jung, những huyền thoại này hoạt động trên một mức độ tâm lý – một loại ký ức tập thể nào đó. Tuy nhiên, đối với các Giáo phụ, những huyền thoại và những phép loại suy tương đồng đánh động chúng ta vì chúng gắn liền với việc Thiên Chúa đã hoạt động làm cho công trình sáng tạo của Ngài thấm đẫm ý nghĩa. Để biết thêm về việc trí tưởng tượng và tính biểu tượng quan trọng như thế nào đối với ý nghĩa và giáo dục, tôi thực sự đề xuất cuốn sách The Abolition of Man của CS Lewis.
[9] [ND] Bede the Venerable, nghĩa là “Đấng Đáng Kính Bede”. Ngài đã trải qua hầu hết cuộc đời mình ở các tu viện Nearmouth và Jarrow, miền bắc nước Anh. Là một sử gia chuyên nghiệp, người được biệt danh là “Đáng tôn quý” từ thế kỷ thứ 9, là một người có nếp sống thánh lành. Tác phẩm đưa ngài lên hàng tên tuổi lớn là “Lịch sử Giáo hội tại Anh Quốc” được đánh giá là nguồn tư liệu phong phú mà ngài đã cẩn thận tìm tòi, suy cứu và nó được xác định một cách rõ ràng, những sự kiện có liên quan đã chống lại những gì có tính chất thần thoại, phản ánh những sự nghiên cứu, học hỏi Thánh Kinh sâu sắc nhất của ngài, bao hàm việc dịch Thánh Kinh ra tiếng mẹ đẻ của ngài.
[10] Đấng đáng kính Bede, được trích dẫn trong Catena Aurea của Thánh Tôma Aquinô, Quyển. III, Phần 1, (Albany: Bảo tồn các ấn phẩm Kitô giáo, Inc., 1995), 173.
[11] Đã dẫn.
[12] Thánh Grêgôriô Nazianzê, được trích dẫn trong Ibid.
[13] Thánh Cyrilô, được trích dẫn trong sđd., 277.
[14] Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd., 278.
[15] Luca 17: 6.
[16] Thánh Gioan Chrysostom, Bài giảng LIII.
[17] Chrysostom, Homily X.
[18] Giêrônimô, chống lại Giôvinianô, Bk II, 24.
[19] Ambrôsiô, được trích dẫn bởi Thánh Tôma Aquinô trong Catena Aurae , 175-176.
[20] Luca 8: 31 & 33.
[21] Thánh John Chrysostom, được trích dẫn bởi Thánh Tôma Aquinô trong Catena Aurea , 282.
[22] [ND] Một trong những đại Giáo Phụ của Giáo Hội Đông phương vào những thời sau này. Ngài là một đan sĩ, Thánh Maximus, vị có một tấm lòng can đảm không biết hãi sợ trong việc làm chứng – “tuyên xưng – Confessor” – ngay cả trong lúc khổ đau, đức tin chân chính nơi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Đấng Cứu Thế, đã có được danh xưng theo Truyền Thống Kitô giáo là Confessor. Thánh Maximus được sinh ra ở Palestine, mảnh đất của Chúa, vào khoảng năm 580. Khi còn là một cậu bé, ngài đã được khơi động về đời sống đan tu và học hỏi Thánh Kinh nhờ các tác phẩm của giáo phụ Origen, một đại sư phụ vào thế kỷ thứ ba đã “thiết lập” truyền thống chú giải thánh kinh của thành Alaxandria.
[23] Đã dẫn.
[24] Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd., 175.
[25] Thánh Augustinô, được trích dẫn trong sđd., 174. Thuật ngữ “các bí tích” ở đây có thể ám chỉ việc thực hành bí tích của Giáo Hội, dành cho những người mới bắt đầu, hoặc “các mầu nhiệm”, là sự hiểu biết thần học sâu sắc được ban cho các tín hữu bởi ân sủng của niêm tin. Nó cũng có thể có nghĩa là cả hai – Thánh Augustinô thích những nghĩa kép.
[26] Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd., 175.
[27] Thánh vịnh 56: 8-11.