Học hỏi Thánh Kinh 100 tuần – Tuần 97
Tin Mừng theo Thánh Luca
(Chương 1-6)
***
Ngay từ đầu sách Tin Mừng, thánh Luca đã nhìn nhận những tác phẩm đã viết trước. Ngài không muốn viết sách Tin Mừng để thay thế cho Tin Mừng Marcô đã có trước, nhưng ngài nhận ra nhu cầu cần có một tác phẩm khác cho thế hệ mới với những hoàn cảnh sống mới. Lúc đó, số Kitô hữu gốc dân ngoại đã gia tăng đáng kể, Giáo Hội cũng không chỉ đóng khung trong đất nước Palestina nữa nhưng có mặt ở nhiều nơi khắp đế quốc Roma. Ngôn ngữ thông dụng cũng không còn là tiếng Do thái mà là tiếng Hi Lạp. Thánh Luca muốn cho thấy tính liên tục giữa cộng đoàn mới mẻ này và cộng đoàn Do thái ban đầu. Ngài muốn các đọc giả của ngài hiểu rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ ngay từ thưở ban đầu cho dù về mặt lịch sử, người Do thái là những người đầu tiên được đón nhận sứ điệp cứu độ, nhưng họ đón nhận là để loan báo cho mọi người khác. Vì thế ngài dựa vào Tin Mừng Marcô cũng như những nguồn tư liệu khác để biên soạn sách Tin Mừng thứ ba và sách Công vụ. Sách Tin Mừng mô tả những bước đầu tiên của lịch sử Kitô giáo, từ lời loan báo đầu tiên cho đến lúc hoàn thành trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Còn sách Công vụ trình bày về sự phát triển của Giáo Hội, cho thấy những quyết định quan trọng và những bước ngoặt của Giáo Hội trong nỗ lực rao giảng Tin Mừng.
Có bốn sách Tin Mừng và cả bốn sách đều kể cùng một câu truyện về Chúa Giêsu. Tuy nhiên mỗi tác giả lại sử dụng cách tiếp cận khác nhau, dựa vào mối quan hệ cá vị của các ngài với Chúa Giêsu, vào khả năng riêng của mỗi người, vào kinh nghiệm của cộng đoàn mà mình có mặt cũng như vào những nguồn tư liệu có được. Vì thế mỗi sách Tin Mừng lại có những nét độc đáo riêng. Theo đó, sách Tin Mừng Luca có một số đặc điểm sau:
1. Ơn cứu độ cho mọi người
Ngay từ đầu, dân Israel đã ý thức rằng Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (St 13,2). Mọi dân tộc trên địa cầu đều được đón nhận phúc lành của Thiên Chúa qua dân Do thái. Các Kitô hữu Do thái cũng ý thức điều đó nhưng họ tự hỏi: Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người cách trực tiếp hay họ phải gia nhập Do thái giáo? Vào thời điểm các sách Tin Mừng được viết, câu trả lời đã rõ ràng, cho nên chủ đề này có mặt trong tất cả các sách Tin Mừng. Tuy nhiên thánh Luca là người nhấn mạnh đặc biệt đến chủ đề này vì ngài viết sách Tin Mừng cho những Kitô hữu gốc dân ngoại.
2. Lòng thương xót và ơn tha thứ
Đây là nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
3. Niềm vui
Tin Mừng Luca ánh lên niềm vui cứu độ, niềm vui thể hiện trong giáo huấn của Chúa Giêsu, niềm vui khơi nguồn từ xác tín vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngày sinh của Chúa Giêsu và Gioan Tẩy giả được loan báo như niềm vui lớn lao (1,14; 2,10). Sự hoán cải của tội nhân là nguồn niềm vui cho cả thiên đàng (15,7-10). Sách Tin Mừng thứ ba kết thúc bằng hình ảnh các môn đệ trở về Giêrusalem, lòng tràn ngập vui mừng sau khi Chúa Giêsu lên trời (24,52).
4. Hành trình
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật sứ vụ công khai của Chúa Giêsu bắt đầu với lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: “Hãy dọn đường cho Chúa…” Sứ vụ của Chúa Giêsu được trình bày như sự tiếp nối “đường của Chúa” và dẫn đến hoàn thành. Con đường đó đã bắt đầu khi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở mà đi theo tiếng gọi của Chúa, rồi đến dân Israel lên đường đưới sự lãnh đạo của Môsê để rời bỏ Ai Cập, sau này lại lên đường ra khỏi đất lưu đầy. Thánh Luca đã tập trung vào chủ đề “con đường” và “hành trình” này khi trình bày hành trình của Chúa Giêsu từ Galilê lên Giêrusalem ((9,51 – 19,44).
5. Chúa Thánh Thần
Đôi khi thánh sử Luca được gọi là người viết Tin Mừng về Chúa Thánh Thần và về cầu nguyện. Lý do là vì ngài nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần : trước khi Chúa Giêsu sinh ra ((1,35.67), khi Chúa vào hoang địa (4,1), sau đó được giới thiệu là Đấng mà Thánh Thần ngự đến (4,18). Vai trò của Chúa Thánh Thần còn được nhấn mạnh và đề cao trong sách Công vụ : chính Thánh Thần ban sức mạnh cho các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng (2,1-17). Chính Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trong những quyết định quan trọng và trong sứ vụ truyền giáo (15,28; 16,6-7). Cũng thế, thánh Luca đề cao việc cầu nguyện : Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi chọn 12 tông đồ (6,12), trước khi biến hình trên núi cao (9,29), và khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện (11,1). Quả thật, cầu nguyện phải là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ Chúa Kitô (Cv 1,24; 2,42; 3,1).
5. Hoàn thành lời tiên tri
Dù không nhiều bằng Matthêu nhưng thánh Luca cũng nhiều lần sử dụng các trích dẫn Cựu Ước để cho độc giả hiểu rằng những gì xẩy ra trong cuộc đời Chúa Giêsu đã được loan báo từ xa xưa. Chính vì thế, không ít lần ngài dùng cụm từ “phải xẩy ra như thế…” (2,49; 4,43; 9,22).
6. Thăng thiên
Biến cố Chúa Giêsu lên trời được thánh Luca trình bày trong bối cảnh phục sinh. Đó là hành động tôn vinh, nhờ đó Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha. Thăng thiên có ý nghĩa đặc biệt trong công trình cứu độ vì qua sự tôn vinh này, Thánh Thần được ban cho Giáo Hội (Cv 2,33) và ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người.
Lược đồ tổng quát
1,1-4 Dẫn nhập
1,5 – 2,52 Phần I : khởi đầu
3,1 – 4,13 Phần II : Đấng Mêsia được chuẩn bị
4,14 – 9,50 Phần III : Sứ vụ tại Galilê
9,51 – 19,44 Phần IV : Hành trình lên Giêrusalem
19,45 – 24,53 Phần V : Đau khổ và chiến thắng
DẪN NHẬP (1, 1-4)
Phần Dẫn nhập mô tả nội dung tác phẩm và trình bày lý do biên soạn. Tác phẩm ở đây không chỉ là Tin Mừng thứ ba mà còn cả sách Công Vụ. Dĩ nhiên sách Công Vụ cũng có phần dẫn nhập, cũng được gửi cho Theophilus và trình bày mối quan hệ với sách Tin Mừng (Cv 1,1-3).
Khi trình bày tác phẩm và lý do biên soạn, thánh Luca cũng cho ta biết khá nhiều về chính bản thân ngài cũng như về độc giả ngài nhắm tới. Luca nhìn nhận rằng ngài không phải là một trong những chứng nhân đã trực tiếp chứng kiến các việc Chúa Giêsu làm, nhưng cũng như các đọc giả của ngài, Luca thuộc vào thế hệ thứ hai. Cách trình bày cho thấy Luca là một Kitô hữu có học vấn và viết cho những người giống như ngài đang sống rải rác khắp đế quốc Roma. Lúc đó, câu chuyện về Chúa Giêsu đã được biết đến nhiều qua các nhà rao giảng và cũng có những văn bản. Tuy nhiên chúng ta chỉ còn giữ lại được một văn bản trọn vẹn là Tin Mừng Marcô, và đây cũng là tác phẩm chính mà Luca dựa vào để biên soạn.
Nếu thính giả đã quen với câu chuyện về Chúa Giêsu, thì tại sao phải kể lại câu chuyện ấy? Phải chăng tác giả có những thông tin mới, những câu chuyện mới và những cách giải thích mới? Luca không muốn đánh lừa độc giả bằng những lời hứa như thế. Ngài chỉ nhấn mạnh vào tính đáng tin cậy của những thông tin ngài có được, và ngài cố gắng sắp xếp lại theo thứ tự để xua tan mọi nghi ngờ. Luca muốn giúp anh chị em mình là những Kitô hữu gốc dân ngoại tìm về cội nguồn của niềm tin Kitô giáo là Đức Giêsu lịch sử, và dõi theo tiến trình phát triển của Kitô giáo từ Giêrusalem cho đến Tiểu Á và Roma.
KHỞI ĐẦU (1,5 – 2,52)
Những trình thuật của Luca về truyền tin, giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu là những sáng tạo độc đáo của Luca. Các sách Tin Mừng khác không có những trình thuật tương tự. Tin Mừng Matthêu cũng có trình thuật về thời thơ ấu nhưng xem ra không trùng hợp với Luca. Vì thế đây là sáng tạo riêng của Luca trong một thời đại mà Kitô hữu không chỉ quan tâm đến sứ vụ công khai của Chúa Cứu thế, nhưng còn muốn tìm về cội nguồn đời sống của ngài.
Lời rao giảng truyền thống về Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng biến cố Chúa chịu phép Rửa (x. các bài giảng của Phêrô và Phaolô trong sách Công Vụ, hoặc trong dàn bài của Tin Mừng Marco). Luca đã thêm vào lược đồ truyền thống đó những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa, được coi như phần mở đầu để dẫn vào chính truyện. Cả Matthêu và Luca đều nhấn mạnh rằng những gì xẩy ra trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu là để ứng nghiệm lời tiên tri. Tuy nhiên có sự khác biệt là Matthêu nhấn mạnh bằng cách trích dẫn (vd. 1,22-23; 2,15.17-18), còn Luca lại sử dụng những ám chỉ và hàm ngậm. Nét độc đáo khác của Luca là ngài đã sắp xếp trình thuật thời thơ ấu bằng cách tạo một song đối giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu:
– Loan báo việc thụ thai Gioan Tẩy giả (1,5-25)
– Loan báo việc thụ thai Chúa Giêsu (1,26-38)
– Sự kiện nối kết : Thăm viếng bà Elisabeth (1,39-56)
– Sinh hạ Gioan Tẩy giả (1,57-80)
– Sinh hạ Chúa Giêsu (2,1-7)
Việc thụ thai của cả hai nhân vật đều được sứ thần Gabriel loan báo và gây ngỡ ngàng cho các bậc cha mẹ. Cả hai đều được cắt bì vào ngày thứ tám theo luật Do thái nhưng tên gọi của cả hai lại được sứ thần ấn định. Và cha mẹ của cả hai đều giải thích biến cố bằng một thánh thi. Tuy nhiên khi so sánh hai con trẻ, Luca đã làm nổi bật vị trí ưu việt của Chúa Giêsu. Ngoài ra, khi biên soạn trình thuật truyền tin, Luca đã vận dụng những trình thuật mẫu từ Cựu Ước (vd. Isaac, x. St 17; Samson, x. Tp 13). Theo đó, trình thuật truyền tin được biên soạn theo thứ tự:
– Thiên thần xuất hiện
– Người được truyền tin tỏ ra sợ hãi
– Thiên thần trấn an rồi loan báo việc thụ thai và hạ sinh
– Người được truyền tin lên tiếng chất vấn
– Thiên thần cho một dấu chỉ.
GIOAN TẨY GIẢ DỌN ĐƯỜNG CHO ĐẤNG MÊSIA (3,1-4,3)
Khi tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh, thánh Luca đã mô tả bối cảnh lịch sử khá chi tiết. Cũng thế, khi nói đến sứ vụ của thánh Gioan Tẩy giả, ngài cung cấp nhiều chi tiết lịch sử. Sau khi Hêrôđê đại đế qua đời, đất nước của ông được chia cho các con là những tiểu vương. Vào thời đó, vì Arkêlao, con vua Hêrôđe,â gây rối loạn, nên hoàng đế Rôma đã đặt một tổng trấn ở Giuđêa. Còn Hêrôđê được nhắc đến ở đây là Hêrôđê Antipas, cũng là con của Hêrôđê đại đế. Về các tư tế, chỉ có một thượng tế là Caipha, nhưng Anna được nhắc đến ở đây vì ông đã từng là thượng tế và vẫn đang có tầm ảnh hưởng dù đã về hưu.
Trình thuật về ơn gọi của Gioan Tẩy giả được xây dựng theo trình thuật ơn gọi của các tiên tri trong Cựu Ước (vd. Gier 1,2). Thánh Gioan là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước và là nhịp cầu bắc sang Tân Ước. Ngài dọn đường cho Chúa, con đường đã dẫn dân từ Ai Cập đến Israel, và nay, nhờ Chúa Giêsu, con đường ấy dẫn dân đi vào vương quốc mêsia. Phép Rửa của Gioan là một hành động có tính nghi thức để diễn tả ước muốn canh tân. Phép Rửa ấy đòi hỏi một thái độ nội tâm thích hợp là lòng sám hối, nếu không, không thể đón nhận ơn tha thứ.
Thánh sử Marcô và Matthêu đều trích dẫn lời tiên tri Isaia, nhưng thánh Luca trích dẫn dài hơn, đặc biệt là câu: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (3,5-6). Trích dẫn dài như thế để nói đến lời hứa về ơn cứu độ phổ quát (cho mọi người) vốn là sứ điệp quan trọng Luca muốn gửi đến các đọc giả dân ngoại. Sự khẳng định về ơn cứu độ phổ quát xuất hiện ở ngay đầu Tin Mừng Luca cũng sẽ được nhấn mạnh khi kết thúc tác phẩm thứ hai của Luca là sách Công Vụ: ơn cứu độ đã thực sự đến với dân ngoại (Cv 28,28).
SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU Ở GALILÊ (4,14 – 9,50)
Phần này trình bày hoạt động của Chúa Giêsu ở vùng đất quê hương, trước khi quyết định đi lên Giêrusalem (9,51), sau đó là cuộc khổ nạn, sự chết và sự phục sinh của Chúa.
Ở đây chỉ tập trung vào trình thuật về Chúa Giêsu tại Nadarét, được coi như Tin Mừng thu nhỏ (4,14-30). Khởi đầu, Chúa Giêsu được đón tiếp và ca tụng, nhưng sau đó vì ghen tị và nghi ngờ, sự ca tụng ban đầu trở thành thù ghét đến mức độ người ta tìm cách giết Người.
Là người Do thái sùng đạo, Chúa Giêsu thường đến hội đường làm việc thờ phượng. Trong buổi hội họp ngày sabát, có hai bài đọc, một bài trích từ Ngũ Thư (năm cuốn sách đầu tiên trong Kinh Thánh Cựu Ước), bài thứ hai từ các tiên tri. Chúa Giêsu đọc bài thứ hai là sách Isaia 61,1-2 về lời hứa khôi phục Israel. Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như vị tiên tri và Đấng Mêsia khai mở thời đại tự do và ân sủng: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. “Hôm nay” là ngày khai mở năm hồng ân của Thiên Chúa. Ngày “hôm nay” ấy tiếp tục được triển khai cho đến khi Chúa Giêsu được tôn vinh (thăng thiên).
Dân chúng rất ấn tượng về lời giảng dạy của Chúa Giêsu, nhưng rồi họ đặt vấn đề: “Oâng này không phải là con ông Giuse đó sao?” Để trả lời, Chúa Giêsu đã so sánh Người với hai vị tiên tri lớn trong Cựu Ước là Elia và Elisê: các ngài đã phục vụ những người không phải dân Israel vì dân đã không đón nhận các ngài. Điều đó hàm nghĩa rằng vì dân không đón nhận Người nên Chúa Giêsu sẽ rao giảng cho người ngoại.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến người ta phẫn nộ. Sau này, theo lời kể của Luca, thánh Phaolô cũng gặp đe dọa như thế (Cv 22,21). Thế nhưng sự thù nghịch của họ không thể hủy diệt Chúa Giêsu. Người vẫn còn một sứ mệnh phải hoàn thành theo chương trình của Thiên Chúa. Vào thời điểm kết thúc sứ mệnh, Chúa Giêsu xem như bị tiêu diệt nhưng thực ra Người vẫn chiến thắng: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26).
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG