Vatican II và việc giải thích Thánh Kinh (2)
Việc giải thích Kinh Thánh theo Công Đồng Vatican II.
Đoạn ba trong Dei Verbum 11 bắt đầu bằng việc nhắc lại rằng vì bản văn Thánh Kinh được linh hứng, như trước đó đã xác nhận trong Dei Verbum 11, nó phải được đọc trong cùng một Thần Khí nhờ đó nó đã được viết ra. Muốn vào được ý nghĩa của bản văn thánh, ta phải dựa vào Chúa Thánh Thần và đức tin, vốn là ơn Chúa Thánh Thần. Đến đây, bản văn chưa đi vào ý nghĩa mà Chúa Thánh Thần muốn tỏ lộ cho các độc giả cá nhân để họ được lợi ích thiêng liêng; chủ đề này sẽ được bàn tới tại chương 6 của Dei Verbum (12).
Nhiều giáo phụ, trong đó có Origen, Thánh Giêrôm và Thánh Grêgôriô Cả, dạy rằng phải có một ái lực thiêng liêng giữa nhà chú giải và bản văn. Phong trào đan viện thời trung cổ đã tạo ra truyền thống lectio divina rất phong phú, một thực hành ngày nay vẫn còn được áp dụng có hiệu quả dưới danh nghĩa chú giải thiêng liêng (spiritual exegesis). Tuy nhiên, trong chương này, hiến chế quan tâm tới ý nghĩa khách quan, tức ý nghĩa dành cho mọi độc giả và toàn thể Giáo Hội nói chung. Hiến chế chưa lưu tâm tới lối chú giải đặc sủng tùy ý, mà là lối giải thích theo phong thái thần học, tức phong thái khoa học theo cách riêng của nó.
Dei Verbum 12 đề xuất 3 qui luật: tính thống nhất của Thánh Kinh, truyền thống của Giáo Hội và loại suy đức tin (analogy of faith). Ta cần xem xét từng qui luật một.
Nói về tính thống nhất của Thánh Kinh, Dei Verbum coi Thánh Kinh trong tính toàn bộ của nó như một cuốn sách duy nhất, do Thiên Chúa linh hứng. Nó là Lời của Thiên Chúa theo nghĩa Người tự biến mình thành tác giả của nó qua việc linh hứng. Vì linh hứng tác động lên mọi soạn giả như một nhóm, nên nó không phải chỉ là một hiện tượng cá thể. Nó bảo đảm rằng Thánh Kinh, xét trong toàn bộ, cho ta nền tảng vững chắc trên đó Giáo Hội xây dựng các niềm tin của mình, cả hệ thống luân lý và sinh hoạt thờ phượng của mình (13).
Khi bàn tới linh hứng và vô ngộ, Dei Verbum 11 đã cho thấy: Công Đồng thừa nhận phần đóng góp nhân bản của các soạn giả thánh với mọi giới hạn bản thân và văn hóa của họ. Vatican nói một cách thoải mái tới việc không những Thiên Chúa là “soạn giả” Thánh Kinh, mà cả các soạn giả nhân bản cũng là “các soạn giả đích thực” của nó nữa (14).
Trong Dei Verbum 11, khi nói tới tính vô ngộ, Công Đồng tự chế không minh nhiên quả quyết rằng mọi câu tuyên bố trong Thánh Kinh đều chân thực cả. Thay vào đó, Công Đồng chỉ nói rằng các sách Thánh Kinh (số nhiều) giảng dạy một cách chắc chắn và không lầm lạc sự thật này: Thiên Chúa muốn cam kết với chúng vì phần rỗi chúng ta.
Tính thống nhất của Thánh Kinh, dựa trên ơn linh hứng của Thiên Chúa, có tầm quan trọng quyết định trong việc Kitô hữu đọc Cựu Ước. Trong chương này, Công Đồng quả quyết rằng các sách Cựu Ước “đạt được và bày tỏ được ý nghĩa đầy đủ của chúng (significationem completam) nơi Tân Ước… và ngược lại cũng soi sáng và giải thích cho Tân Ước” (Dei Verbum 16). Việc từ tiên tri bước qua thành toàn và từ tiên trưng (type) bước qua đối trưng (antitype) là mục chủ yếu của khoa chú giải Kitô Giáo cổ điển (15).
Về qui luật thứ hai của khoa chú giải thần học, bản văn của chúng ta qủa quyết “truyền thống sống động của Giáo Hội phải được lưu ý” (Dei Verbum 12).
Trước đó, tại Dei Verbum 8, Công Đồng quả quyết rằng truyền thống cần thiết để trọn bộ qui điển được biết đến và để các trước tác thánh được hiểu cách sâu xa. Rồi trong Dei Verbum 10, như đã thấy, Công Đồng khẳng định rằng Thánh Kinh và Thánh Truyền cùng tạo nên một kho tàng thánh. Do đó, sẽ không đúng nếu bảo rằng một mình Thánh Kinh, dù được khảo sát bằng khoa lịch sử phê phán, có thể chuyển giao thỏa đáng Lời Thiên Chúa.
Dei Verbum nhấn mạnh tới sự cần thiết của “truyền thống sống động” và của huấn quyền như là nguồn cứ liệu (locus) của nó, trong việc biện phân ý nghĩa Thiên Chúa muốn nói. Một thí dụ là tập tục của Công Giáo coi những lời Chúa Giêsu ngỏ với Thánh Phêrô như là cũng ngỏ với cả các vị kế nhiệm ngài nữa, tức các vị giáo hoàng (Mt 16:18-19).
Qui luật thứ ba được tiếng La Tinh gọi là “analogia fidei.” Bản của Abbott dịch kiểu nói này là “việc hòa hợp các yếu tố khác nhau của đức tin”. Ta biết một cách tiên thiên rằng Thiên Chúa không thể linh hứng một ý nghĩa mâu thuẫn với sự thật cô đọng trong các tín điều của Giáo Hội. Tín điều được dùng như qui luật tiêu cực nhằm loại trừ các giải thích sai lạc. Hơn thế nữa, nó rọi ánh sáng tích cực cho điều Chúa Thánh Thần muốn biểu lộ trong các bản văn Thánh Kinh. Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, chẳng hạn, giúp ta hiểu sâu xa hơn kiểu nói “đầy ơn phúc” (dịch chữ Hy Lạp rất hiếm là kécharitôménê) do thiên thần sử dụng để gọi Đức Maria lúc Truyền Tin.
Chuyển động ngược chiều từ tín điều trở về nguồn Thánh Kinh vốn là một phương pháp được chấp thuận, được Đức Piô XII nói tới trong thông điệp Humani Generis (16). Nhưng trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng cảnh cáo rằng thần học sẽ trở nên khô cằn nếu sao lãng việc tự đổi mới mình bằng các nguồn thánh là Thánh Kinh và Thánh Truyền. Bởi thế, Đức HY Alois Grillmeier đã nhận định một cách chính xác trong lời chú giải của ngài về Dei Verbum:
“Ở đây, ta thấy có mối tương quan hỗ tương: truyền thống sống động của Giáo Hội giúp ta qua việc mỗi ngày nó mỗi hiểu Thánh Kinh sâu sắc hơn bằng cái hiểu của đức tin. Tuy thế, một lối đọc lại Thánh Kinh mỗi ngày mỗi đổi mới hơn phải trở thành linh hồn của thần học và của toàn thể truyền thống, để mọi sự đều được dẫn trở lại với sự viên mãn đã được thống nhất hóa ngay từ buổi đầu, nơi, mọi sự đều gắn bó với nhau” (17).
‘Truyền thống sống động’ và giải thích thần học
Các soạn giả Dei Verbum có lẽ đã không muốn giải quyết vấn đề còn đang tranh luận vềsensus plenior hay ý nghĩa đầy đủ hơn. Nhưng đoạn nói về giải thích thần học rõ ràng thích có ý nghĩa này. Khó có thể tin rằng các soạn giả Cựu Ước nắm được mọi ý nghĩa sâu xa hơn của những lời họ viết như các ý nghĩa sau này được tiết lộ nơi các soạn giả Tân Ước, nơi truyền thống Công Giáo và nơi các tín điều Công Giáo, những nguồn mà các soạn giả Cựu Ước không có sẵn để sử dụng.
Đoạn nói về giải thích thần học kết thúc với câu tuyên bố này: “Tất cả các điều nói về cách giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều lệ thuộc phán đoán của Giáo Hội, là người thực thi việc thừa ủy nhiệm và thừa tác vụ duy trì và giải thích lời Thiên Chúa” (Dei Verbum, 12). Huấn quyền không chỉ bước vào khúc cuối của diễn trình, mà can dự vào mọi giai đoạn của diễn trình này. Về mối liên hệ giữa các nhà chú giải và huấn quyền, Dei Verbum 23 dạy rằng “Nhà chú giải Công Giáo… khi sử dụng các phương thế thích hợp, nên tận dụng năng lực của mình, dưới sự chăm sóc canh chừng của huấn quyền thánh, vào việc thăm dò và trình bày các trước tác thần linh”.
Huấn quyền can dự một cách sâu xa vào từng giai đoạn trong diễn trình 3 giai đoạn của khoa chú giải thần học. Nó đóng vai chủ yếu trong việc thu thập và xác định qui điển Thánh Kinh, và do đó, thiết lập Thánh Kinh như một đơn nhất. Như đã mô tả trong chương 2, không thể tách biệt truyền thống khỏi huấn quyền, vì nó vốn khai triển dưới sự giám sát của các mục tử và “qua lời giảng giải của những vị đã tiếp nhận được ơn chân lý chắc chắn (charisma veritatis certum) nhờ diễn trình truyền thừa giám mục” (Dei Verbum,8). Phương pháp loại suy đức tin, cuối cùng, tùy thuộc ở huấn quyền, là định chế duy nhất có thẩm quyền công bố các khoản tin và các tín điều.
Dei Verbum 10 quả quyết rằng chỉ có huấn quyền, khi lên tiếng nhân danh Chúa Giêsu Kitô, mới có thể đem lại lời giải thích “chân chính”. Chữ La Tinh “authentica” trong ngữ cảnh này không có nghĩa chân chính cho bằng có thế giá, có thẩm quyền, nghĩa là, lời giải thích được đưa ra bởi những người có sứ mệnh giảng dạy nhân danh Chúa. Các giải thích chân chính theo nghĩa này khá hiếm hoi, nhưng chúng có sức nặng đáng kể, nhất là khi chúng vô ngộ.
Các tuyên bố tín lý thường dựa vào việc sử dụng đồng qui các bản văn Thánh Kinh khác nhau, đọc theo lối cầu nguyện trong truyền thống của Giáo Hội thờ phượng dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tương đối rất ít trường hợp trong đó, Giáo Hội xác định ý nghĩa của các bản văn đặc thù, như Công Đồng Trent từng làm trong sắc lệnh về tội nguyên tổ và trong các qui định liên quan tới việc thiết lập một số bí tích. Như Raymond Brown từng nhấn mạnh, ngay trong các trường hợp hiếm hoi này, Giáo Hội “cũng không giải quyết vấn đề sử học về việc điều gì hiện diện trong tâm trí soạn giả khi ông soạn ra bản văn, nhưng chỉ giải quyết vấn đề tôn giáo liên quan tới các hệ luận của Thánh Kinh đối với đời sống của tín hữu” (18). Ý nghĩa thần học là ý nghĩa đích thực của bản văn và không nên bị bác bỏ, coi như “eisegesis” (chú giải diễn cách) như thể Giáo Hội đọc thêm điều gì vào bản văn mà trước đó thực sự nó không có ở đó.
Một khó khăn chống lại giáo huấn của Dei Verbum và của các công đồng trước đó về thế giá của huấn quyền là với thời gian, một số giải thích về Thánh Kinh bị chứng minh là không xác đáng. Người ta thường nghĩ tới một số luận chứng từng được sử dụng để lên án thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ (heliocentrism) của Galileo hay một vài khía cạnh của các sắc lệnh trước đó của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh.
Về trường hợp Galileo, nay ta đã thấy ra rằng Ủy Ban Giáo Hoàng nguyên thủy đã không phân biệt được sự khác nhau cần phải có giữa “ý nghĩa cứu rỗi” của Thánh Kinh và các giả thuyết khoa học rút ra từ các nhà chú giải Sách Thánh” (19)
Trong Huấn Thị của mình tựa là “Donum Veritatis” (về nhiệm vụ đối với Giáo Hội của thần học gia), Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tòa Thánh thừa nhận rằng một số quyết định có tính mục vụ (phán quyết thuộc loại khôn ngoan) của huấn quyền “rất có thể mắc thiếu sót” (20).
Trong cuộc họp báo nhằm trình bày huấn thị này, bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hồi ấy là Đức HY Ratzinger đặc biệt nhắc tới một số quyết định của Ủy Ban Thánh Kinh: “Trong tư cách cảnh báo chống lại các thỏa hiệp vội vàng và hời hợt, các quyết định này vẫn hoàn toàn hợp pháp: các nhân vật như J. B. Metz, chẳng hạn, từng nhận định rằng các quyết định của Giáo Hội chống lại thuyết Duy Hiện Đại đã giúp ích rất nhiều trong việc cứu Giáo Hội khỏi rơi vào thế giới tư sản phóng túng. Tuy thế, chỉ trừ một số khía cạnh đặc thù về nội dung, các quyết định này đã bị thay thế sau khi đã làm xong chức năng mục vụ của chúng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ” (21).
Bao lâu bàn tới các vấn đề kỹ thuật, không có tính tín lý, như việc định niên biểu và việc soạn tác các sách đặc thù, những sắc lệnh này không phải là các phán quyết có tính vô ngộ thực sự nghĩa là đòi phải đồng thuận trong tâm hồn (22).
Sự canh chừng giám sát của huấn quyền Công Giáo vào thời đó giúp che chở tín hữu trước các kết luận của khoa chú giải quá cấp tiến theo phương pháp phê bình lịch sử. Tuy nhiên, các căng thẳng vẫn có thể và thực sự đã diễn ra, nhất là trong trường hợp các nhà chú giải chuyên môn và các chức sắc có thẩm quyền vượt quá phạm vi năng quyền và trách nhiệm chuyên biệt của mình.
Hiện tượng trên cũng xẩy ra cho mối tương quan giữa khoa chú giải phê phán và khoa chú giải thần học. Tuy nhiên, dù căng thẳng đôi khi vẫn diễn ra, nhưng như Dei Verbum đã dự đoán, mối tương quan thông thường vẫn là mối tương quan hợp tác. Các học giả Thánh Kinh nào được huấn luyện về các phương pháp phê bình lịch sử có lẽ là những người được trang bị tốt nhất để xác định được ý nghĩa các lời lẽ của soạn giả thánh và những người đồng thời với các vị. Nhưng khoa phê bình qui điển, khoa phê bình truyền thống và khoa chú giải tín lý, nghĩa là mọi khoa lưu ý tới đặc điểm thánh thiêng của bản văn, đều cần thiết để xác nhận, định phẩm và phong phú hóa các phát kiến của ngành nghiên cứu phê bình lịch sử, có thế, Giáo Hội mới thực sự được Lời Thiên Chúa soi dẫn.
Trong các tuyên bố chân chính của mình, huấn quyền phẩm trật không nói trong tư cách một thẩm quyền độc lập mà trong tư cách một cơ phận của truyền thống sống động, được soi sáng bởi các bản văn linh hứng. Tiếng nói của huấn quyền không phải là tiếng nói xa lạ, nhưng tự bản chất vốn là tôi tớ của Lời Thiên Chúa. Nhờ các đặc sủng nhận được từ việc được thụ phong giám mục và được cử nhiệm vào chức vụ thánh, phẩm trật có khả năng nói với một hiểu biết thấu suốt sâu xa, nhưng phẩm trật này càng có khả năng nói như thế hơn nữa nếu biết lợi dụng các công trình trước đó của các học giả Thánh Kinh, vì một trong các chức năng của các học giả này là dọn đường cho các phán quyết của huấn quyền.
Như Đức Bênêđíctô XVI đã quả quyết, công việc của các học giả rất có ích trong việc giúp ta hiểu diễn trình sống động trong đó các Sách Thánh đã được khai triển, “ấy thế nhưng một mình khoa học không thể cung cấp cho ta một giải thích dứt khoát và có tính bó buộc… Một ủy nhiệm lớn hơn cần phải có cho việc này, một ủy nhiệm không thể chỉ phát sinh từ các khả năng của con người mà thôi. Tiếng nói của Giáo Hội là điều chủ yếu trong lãnh vực này, một Giáo Hội đã được ủy nhiệm cho Phêrô và đoàn tông đồ cho đến ngày tận thế (23).
Các học giả Thánh Kinh, các thần học gia và các mục tử không nên đi theo lối riêng, bằng cách phớt lờ nhau hay sợ sệt nhau. Các nhà chú giải Công Giáo cần thành thạo cả phương pháp giải thích thần học lẫn phương pháp giải thích triết học. Các nhà thần học tín lý và các mục tử cần quen thuộc với các phát kiến của khoa chú giải kỹ thuật.
Khi các học giả Thánh Kinh, các thần học gia và các mục tử làm việc với nhau một cách hòa hợp, toàn thể Giáo Hội sẽ tiến bộ trong việc thấu hiểu Lời Chúa. Sự cởi mở và hợp tác với nhau giữa mọi người lưu tâm tới ý nghĩa của Thánh Kinh sẽ giúp toàn thể dân Chúa đáp ứng tốt hơn tiếng nói của Chúa Thánh Thần và trung thành hơn với Chúa của mình.
_________________
(12) Chương 6 của Dei Verbum, ở một số chỗ, nhắc tới ích lợi thiêng liêng mà độc giả cá nhân có thể rút tỉa được từ việc đọc Thánh Kinh theo lối cầu nguyện.
(13) Nói tới tính thống nhất của Sách Thánh là nhắc tới điều thường được gọi là khoa phê bình qui điển (canonical criticism), tức phương pháp từng được áp dụng một cách thành công và được cổ vũ một cách đầy thuyết phục bởi những người như Brevard S. Childs của Đại Học Yale, chẳng hạn. Xem Introduction to the Old Testament as Scripture (Philadelphia: Fortress Press, 1979) của tác giả này.
(14) “Bởi thế, vì phải coi mọi điều được tác giả thánh hay soạn giả thánh quả quyết như đã được chính Chúa Thánh Thần quả quyết, nên hệ luận là ta phải thừa nhận các Sách Thánh là các sách truyền dạy vững chắc, trung thành, và không sai lạc các chân lý mà Thiên Chúa muốn được ghi lại trong các trước tác thánh vì lợi ích phần rỗi của ta” Dei Verbum 11. Như thế, Dei Verbum rõ ràng muốn gán sự vô ngộ cho Thánh Kinh như một toàn bộ, hơn là cho từng chương đoạn cá biệt; các chương đoạn này phải được đọc trong ngữ cảnh toàn bộ.
(15) Xem Manlio Simonetti, Biblical Interpretation in the Early Church: An Historical Introduction to Patristic Exegesis (London: T & T Clark, 1994); Henri de Lubac, Scripture in the Tradition (New York: Crossroad, 2000).
(16) Đức Piô XII, “Humani Generis, Encyclical Letter on Certain False Opinions Threatening to Undermine the Foundations of Catholic Faith”, 21, trong The Scripture Documents, 140-146.
(17) Alois Grillmeier, “The Divine Inspiration and the Interpretation of Sacred Scripture,” trongCommentary on the Documents of Vatican II, Herbert Vorgrimler chủ biên, 5 vols. (New York: Herder and Herder, 1969), 3:199–246, tại 245.
(18) Brown and Schneiders, “Hermeneutics,” 116.
(19) Trong một số khảo luận và diễn văn về vụ Galileo, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh tới diễn trình tiệm tiến qua đó, Giáo Hội học được cách phân biệt giữa các vấn đề đức tin và các hệ thống khoa học của một thời đại nhất định. Xem “A Papal Address on the Church and Science,” Origins 1 (June 2, 1983): 9–52.
(20) Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, “Donum Veritatis, Instruction on the Ecclesial Vocation of the Theologian” (May 2, 1990), 2, trong L’Osservatore Romano, ấn bản tiếng Anh hàng tuần (July 2, 1990), 1. Tuy nhiên, văn kiện này có lời dè dặt sau đây: “Các giám mục và các cố vấn của các ngài không luôn luôn xem sét ngay tức khắc mọi khía cạnh trong toàn bộ nét phức tạp của vấn đề. Nhưng sẽ đi ngược lại sự thật, nếu, chỉ mới xem một số trường hợp đặc thù, ta đã vội kết luận rằng huấn quyền Giáo Hội có thói quen lầm lẫn trong các phán đoán khôn ngoan của mình, hoặc nó không được sự trợ giúp thần linh trong việc thi hành chính các sứ mệnh của mình… Một số phán đoán của huấn quyền có thể được biện minh lúc mới được đưa ra, vì trong khi các công bố này chứa đựng cả các quả quyết đúng lẫn các quả quyết không đúng, cả hai loại quả quyết này nối kết với nhau một cách chặt chẽ. Chỉ có thời gian mới cho phép ta biện phân và sau những nghiên cứu sâu xa hơn, ta mới đạt được tiến bộ thực sự về tín lý”.
(21) Muốn có bản văn buổi họp báo của Đức Hồng Y, xem Joseph Cardinal Ratzinger, The Nature and Mission of Theology (San Francisco: Ignatius, 1995), 101–107. Muốn có cuộc thàm luận đầy đủ hơn về vấn đề này, xin xem bài diễn văn của ngài nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh “100 Years: The Magisterium and Exegesis,” trong Theology Digest 51(Spring 2004): 3–8.
(22) Theo lời Đức HY Ratzinger, chúng là “dấu hiệu của khôn ngoan mục vụ, một loại chính sách lâm thời. Cốt lõi của chúng vẫn có giá trị, những các điểm đặc thù do hoàn cảnh tạo nên thì cần phải sử đổi” Nature and Mission of Theology, 106.
(23) Đức Bênêđíctô XVI, Bài giảng Thánh Lễ nhận Tòa Giám Mục Rôma (7 tháng 5, 2005) trongOrigins 5 (26 tháng Năm, 2005): 26–28, tại 28.
Phóng dịch bài Vatican II on The Interpretation of the Bible, của Đức HY Avery Dulles, S.J. thuộc Đại Học Fordham University, đăng trên tạp chí Letter & Spirit 2 (2006): 17–26.
(hết)
Vũ Văn An
Nguồn: UBKT/HĐGMVN