Bài Thương Khó ngày thứ Sáu Thánh.
I.- Bốn Tin Mừng nói chung
Cả bốn tác giả Tin Mừng đều dùng hai chương để mô tả cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Cả bốn vị đều mô tả những biến cố bi thương, nhưng không giống nhau. Một số sự cố mà các TMNL không biết hoặc chỉ nhắc qua lại được Ga mô tả rộng rãi. Nếu muốn làm một bản đối chiếu cho bốn bản văn này, chúng ta sẽ gặp những chi tiết mâu thuẫn nhau. Lý do là các tác giả không muốn viết một quyển ký sự chi tiết; mục tiêu của các bản văn này là tăng cường sức sống đức tin cho các môn đệ và giải thích cho họ biết ý nghĩa của những gì đã xảy ra[1].
Cái chết không hợp lý, thậm chí phi lý, của Đức Giêsu đã làm cho môn đệ chưng hửng và khơi lên biết bao câu hỏi. Làm thế nào có thể tín nhiệm một người đã bị chính bạn bè phản bội và bỏ rơi? Các nhà chức trách tôn giáo đương thời đã bảo rằng Người là một tên nói phạm thượng, tổng trấn Rôma đã kết án Người phải chết nhục nhã nhất: chúng ta có thể lấy người này như điển hình sao? Người rất có thể là một con người ngay thẳng, là nạn nhân của một cuộc bách hại bất công, nhưng thế thì tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để bảo vệ Người?
Trước khi bàn tới các điểm thần học của bản văn Ga, chúng ta thử tìm một câu trả lời cho một câu hỏi rất thường được đặt ra: tại sao Đức Giêsu bị xử tử?
Nếu đối với chúng ta, Đức Giêsu dịu dàng, đạo đức và hiền lành, chúng ta khó mà hiểu được tại sao Người lại bị giết. Làm thế nào mà một người chữa lành các bệnh nhân, đón tiếp các trẻ em, yêu thương người nghèo, bảo vệ những kẻ cô thế cô thân lại có thể có kẻ thù?
Nhìn từ quan điểm này, cái chết của Đức Giêsu không thể giải thích được, nên phải gán cho ý muốn nhiệm mầu của Chúa Cha: để tha thứ tội lỗi cho nhân loại, Ngài cần đổ máu của một người công chính. Nhưng thật khó mà chấp nhận cách giải thích này!
Thế thì tại sao Đức Giêsu phải chết? Nói rằng Người hiến mạng sống cho chúng ta có nghĩa gì? Người đã giải thoát chúng ta khỏi thứ nô lệ nào, khi chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá?
Chúng ta tìm ra lý do của thái độ thù nghịch đối với Người ngay tại những lời đầu tiên của TM Ga: Đức Giêsu đã là ánh sáng. “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,5). Người là “ánh sáng thật … chiếu soi mọi người” (1,9), “nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (3,19).
Có một số tia sáng đặc biệt mạnh, đã đánh tan bóng tối của thế gian. Các tia sáng này đã thâm nhập vào trong tim của những người đơn sơ chất phác, làm cho lòng họ chan hòa niềm vui và hy vọng. Nhưng ánh sáng quá mạnh của những tia sáng này cũng làm cho mắt những kẻ gian tà ra mù lòa hoặc bị xốn xang khó chịu. Đây là bốn tia sáng ấy.
1.- Đức Giêsu làm rạng sáng trên chúng ta dung mạo mới của Thiên Chúa
Quan trọng hơn cả niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, đó là biết chúng ta đang tin vào loại Thiên Chúa nào. Ngay cả khi không chủ ý, rất có thể chúng ta khám phá ra mình đang tôn thờ một thần tượng, một vì chúa không những không giải thoát được chúng ta mà còn biến chúng ta thành nô lệ và làm cho chúng ta phải đau khổ.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo và các vị hướng dẫn tinh thần của Israel thời Đức Giêsu đã bỏ qua một bên vì Thiên Chúa mà các ngôn sứ giới thiệu, và dạy cho dân chúng về một vị Thiên Chúa như là Nhà lập pháp và Thẩm phán nghiêm khắc, luôn sẵn sàng can thiệp và trừng phạt kẻ ác, một vì Thiên Chúa thân ái với những người công chính, nhưng khinh bỉ những người tội lỗi.
Niềm tin vào một vị thần sai lạc không thể đưa tới niềm vui; nó chỉ tạo ra sự buồn rầu và khắc khoải lo âu. Tình trạng này giống như một tiệc cưới thiếu rượu (x. Ga 2). Vì dân chúng, chúng ta phải đánh đổ thứ “niềm tin” áp bức và làm cho tình yêu trở nên cứng ngắc.
Đây là tia sáng đầu tiên và mạnh nhất: tia sáng này xuyên thấu bóng tối thế gian hầu giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi Thiên Chúa.
Đức Giêsu dạy rằng chúng ta phải sợ sự xấu, tội, nhưng chúng ta không được sợ Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Cha chúng ta, Ngài chỉ có thể tốt lành mà thôi. Chúng ta phải thưa chuyện với Ngài với sự đơn sơ và tin tưởng của một em bé, bởi vì Ngài yêu thương cả người tốt lẫn người xấu với cùng một tình âu yếm dịu dàng như nhau (Mt 5,45), Ngài nuôi chim trời và mặc đẹp cho các bông huệ ngoài đồng (Mt 6,25-31), Ngài đếm tóc trên đầu chúng ta và biết các nhu cầu của chúng ta ngay cả trước khi chúng ta nói ra với Ngài (Mt 6,8tt). Không một ai, kể cả người tội lỗi nặng nề nhất, lại phải sợ Ngài. Ngài “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).
Không có điều gì nghe mà gai người đối với các kinh sư và người Pharisêu cho bằng chân lý trên đây, vì họ đã uốn nắn ra một vị thần minh theo hình ảnh của họ và giống như họ, một vị thần minh loại trừ và khinh bỉ những người thu thuế và những người tội lỗi. Họ bảo rằng Đức Giêsu điên rồi, Người là một người Samari (Ga 8,48), một tên nói phạm thượng cần phải ném đá (Ga 8,59; 10,31.39), một cá nhân nguy hiểm cần phải loại trừ càng sớm càng tốt, bởi vì Người bẻ quẹo niềm tin và làm cho những kẻ đơn sơ phải lạc đường.
2.- Đức Giêsu rọi một ánh sáng mới trên tôn giáo
Có một thứ tôn giáo đưa đến sự thanh thản, nhưng cũng có một loại tôn giáo đưa lại sự mệt nhọc và đè nén y như một cái ách nặng nề vậy (x. Mt 11,28-30): tôn giáo dựa trên việc tuân giữ kỹ càng và chi ly các luật lệ, các lời khuyên và việc thực hành bên ngoài. Một tôn giáo như thế chỉ có thể trở thành một việc thờ cúng, một thứ hình thức bên ngoài giả hình, một kiểu thực hành chính xác các nghi thức và các lễ nghi long trọng. Trước tiên, thứ tôn giáo này lừa dối với những niềm hy vọng giả trá, rồi đè nén và biến người ta thành nô lệ. Đức Giêsu từ chối tìm cách điều chỉnh loại tôn giáo này, Người không chỉ tố giác các lạm dụng của nó, Người còn loại trừ nó và tuyên bố rằng chúng ta phải ưng thuận với Thiên Chúa với trọn con tim. Người thường xuyên trích một bản văn từ sách Isaia: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,7). Người tôn trọng ngày sa-bát, nhưng nói rằng con người có ưu tiên hơn ngày sa-bát, ở trên ngày sa-bát.
Người chứng tỏ rõ ràng việc loại trừ này khi “kiếm chuyện” với những người đổi tiền và buôn bán tại Đền Thờ. Tác giả Ga đưa sự cố này ra đầu TM của ngài (Ga 2,13-22) để cho thấy ngay từ đầu là Người loại bỏ các thực hành nghi thức không phát xuất từ con tim và không diễn tả tình yêu, và đề nghị thay thế bằng một nền phụng tự duy nhất được Thiên Chúa chấp nhận, nền phụng tự thực hiện “trong thần khí và sự thật”.
Tia sáng thứ hai này dĩ nhiên quấy rầy những ai cứ muốn ở lại trong bóng tối. Lúc đầu, họ loại trừ Người, rồi họ trở thành kẻ thù của Người và cuối cùng họ quyết định loại trừ Người bởi vì Người phá rối việc giữ các nghi thức tôn giáo: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, Caipha, là thượng tế năm ấy, đã tuyên bố như vậy (Ga 11,50).
3.- Một ánh sáng mới
Điều gì làm cho một người nên vĩ đại, đáng trân trọng? Trong xã hội chúng ta, đó là người thành công trên đường danh vọng, tên tuổi thường được các báo chí nhắc tới hoặc thường xuyên xuất hiện trên truyền hình.
Vào thời Đức Giêsu, những “ông lớn” là các thành viên của Thượng hội đồng, các tư tế Đền Thờ, các kinh sư “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39). Theo Đức Giêsu, chỉ nguyên nhắm đến thành công loại đó đã là một thất bại: “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5,44).
Ngay Đức Giêsu cũng chờ đợi được Chúa Cha “tôn vinh”. Người cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,5). Nhưng “vinh quang” mà Người chờ đợi không phải là việc đi vào thành thánh Giêrusalem trên lưng một con lừa giữa tiếng hoan hô của dân chúng; khoảnh khắc Người được tôn vinh xảy ra trên Đồi Sọ. Tại đó, chính khi được giương cao trên thập giá mà Người mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha cho nhân loại. “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
Các giá trị của thế gian này bị lật ngược cả. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng người ta thành công không phải là khi họ chiến thắng, nhưng là khi họ thua cuộc; không phải là người nắm quyền bính, nhưng là người phục vụ; không phải là kẻ làm việc để thu hoạch lợi nhuận cho mình, nhưng là người chịu đau khổ vì kẻ khác.
Cả tia sáng thứ ba này cũng không thể chấp nhận đối với những người mà Đức Giêsu mô tả như là “chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 12,43).
4.- Một xã hội mới
Chúng ta đang sống trong một xã hội cạnh tranh. Ngay từ khi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy là chúng ta không thể thực sự tiến xa trong cuộc đời trừ phi chúng ta xinh đẹp, thông minh, giàu có, thân thiện, có sức mạnh và có sức khỏe. Đức Giêsu rọi phóng trên loại xã hội này thứ ánh sáng nào?
Một hôm, Người ngồi xuống, đặt một em bé vào giữa Nhóm Mười Hai và bảo: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,36-37). Vào thời Đức Giêsu, trẻ em tượng trưng cho những người không quan trọng, vô giá trị, hoàn toàn lệ thuộc kẻ khác, không thể tự mình tạo ra điều gì và lại cần mọi sự.
Nhưng trong thế giới mới Đức Giêsu giới thiệu, những người bị loại trừ và những kẻ vô gia cư lại chuyển đi từ bờ biên vào ngay trung tâm của xã hội. Họ được dành cho chỗ danh dự. Cộng đoàn của Đức Giêsu đón nhận những người nghèo, các “trẻ em” cần được giúp đỡ, những kẻ ăn nói thiếu khôn ngoan, đứng trên đường của người lớn và phá rối đời sống trật tự của họ. Người đón nhận không có nghĩa là Người chấp nhận những ý thích thất thường và sự ươn ái của chúng; Người đón nhận có nghĩa là Người giúp chúng lớn lên và trở thành những người trưởng thành biết tự lo liệu cho mình.
5.- Phải chăng Đức Giêsu không thể tránh được cái chết?
Thật ra, tất cả những gì Người phải làm chỉ là ẩn mình đi, như Người đã làm nhiều lần rồi (x. Ga 11,54; 7,1; Mt 12,15-16). Con đường đi từ vườn Ghếtsêmani lên núi Ôliu chỉ cần vài phút: tối hôm ấy, Đức Giêsu có thể dễ dàng trốn đi an toàn. Tại sao Người không làm như thế?
Đức Giêsu không tìm cái chết trên thập giá, nhưng để tránh cái chết này, Người chỉ việc im lặng và sống như một công dân “thông thường”, Người chỉ việc chấp nhận thái độ của những người chung quanh Người, chứng kiến chiến thắng của ác thần, để mặc nhân loại trong tay “ông hoàng của thế gian này”. Người chỉ việc trở về Nadarét mà đóng bàn ghế và đẽo mấy cái cày gỗ. Hẳn là họ đã để Người được yên. Hẳn là Người không những tránh được thập giá, nhưng còn nhận được vinh dự và lời khen ngợi nữa! Người đã có thể thành công trong công việc và hẳn đã nhận được “vương quốc thế gian” mà Satan đã hứa cho Người ngay đầu sứ vụ công khai. Nhưng nếu như thế, sứ mạng của Người hẳn đã là một thất bại hoàn toàn.
II.- Các đề tài chỉ được tác giả Gioan đặc biệt nhắc đến
Những gì vừa được nói ở trên về các lý do đã đưa Đức Giêsu bị kết án tử hình, sẽ giúp chúng ta hiểu các điểm thần học tiêu biểu của bài tường thuật cuộc Thương Khó trong TM IV.
1.- Một nhân vật chính gây ngạc nhiên (18,1-11)
Những ai đã quen với các bài tường thuật cuộc Thương Khó trong Mc, Mt và Lc sẽ phải ngạc nhiên với Đức Giêsu như tác giả Ga mô tả.
Các TMNL cho thấy Đức Giêsu con người trong bụi đất, “buồn rầu xao xuyến” (Mt 26,37), “hãi hùng xao xuyến” (Mc 14,33), “tâm hồn buồn đến chết được” (Mt 26,38; Mc 14,34), “xao xuyến bồi hồi” (Lc 22,44), nên đã xin các môn đệ ở kề bên Người, canh thức và cầu nguyện với Người (Mt 26,41; Mc 14,38; Lc 22,40.46). Tác giả Ga không hề nhắc đến bất cứ chi tiết nào như thế. Ngài không mô tả bất cứ cuộc hấp hối nào, cũng chẳng nói đến một cuộc tâm chiến nào, hoặc lời Người cầu nguyện với Chúa Cha để tránh khỏi “chén đắng”. Ngài mô tả một vị Tôn sư can đảm, ý thức sắc bén những gì đang xảy và sẵn sàng đương đầu. Không phải là lính tráng đã bắt Người, Người là Đấng đã nói hai lần “Chính là tôi”. Người có vẻ thấy trước mọi sự và làm chủ tình hình. Không ai lấy được sự sống khỏi Người, Người là Đấng hoàn toàn thanh thản hiến mạng sống (Ga 10,17-18).
Phải đương đầu với Đức Giêsu là ánh sáng, các nhân viên của tà thần – làm việc trong bóng tối của đêm đen, do đó họ phải mang đèn đuốc – “quay lại và ngã xuống đất” (c. 6). Chi tiết này phải được cứu xét trong bối cảnh thần học. Nó quy chiếu về các Thánh vịnh: “Ngài xuất hiện, địch thù con tháo lui, chúng té nhào mà chết” (Tv 9,4). “Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi, ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy, lại lảo đảo té nhào” (Tv 27,2).
Tác giả Ga mô tả cuộc đương đầu giữa ánh sáng và bóng tối. Giới chức đạo đời đã huy động một lực lượng quá đông để đi bắt Đức Giêsu, mà lại đi trong đêm tối và không nhận ra Người; đến khi nhận ra Người thì ngã lăn ra. Tác giả cho thấy: muốn tìm gặp và nhận biết Đức Giêsu thật, phải dùng con đường khác, chứ không phải là con đường vũ lực. Ngài cũng bảo các môn đệ: không được để các sức mạnh của tà thần làm anh em sợ hãi. Đức Kitô đã đương đầu với chúng và đã đánh bại chúng. Anh em cứ xem đó, chúng đã bị tan rã, sự thất bại của chúng – như các Tv đã loan báo – đã được quyết định rồi.
Đức Giêsu tiến đến cái chết với sự tự do trọn vẹn, Người điều khiển từng chi tiết nhỏ, vì đây là “chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy” (18,11). Đây là cuộc Thương Khó nhưng nhìn dưới ánh sáng của vinh quang Phục Sinh.
2.- Cuộc thẩm vấn trước tòa Khanan (Ga 18,12-27)
Các TMNL bảo rằng, ngay sau khi bị bắt, Đức Giêsu đã được điệu đến dinh thượng tế Caipha, tại đó các trưởng lão và kinh sư đã gặp nhau để chuẩn bị các lời kết án hầu trình lên tổng trấn Rôma là Philatô.
Tác giả Ga đã cung cấp một bản tường thuật các biến cố hơi khác một chút. Ngài nói rằng Đức Giêsu bị thẩm vấn trước tòa Khanan. Tại sao vị thượng tế này, bây giờ là một cụ già không còn nắm quyền hành gì nữa, lại được đưa ra trước như thế?
Khanan đã làm thượng tế 11 năm, và bốn trong số các con ông đã kế vị ông trong địa vị danh dự này. Ông là người lớn tuổi nhất trong dòng họ, là tổ phụ kiểm soát tất cả những gì xảy ra trong Đền Thờ. Ông để ý đến các lễ phẩm của khách hành hương, kiểm soát phần lợi nhuận của những người đổi bạc, cũng như việc buôn bán thú vật, chim câu, bò chiên, cần thiết cho các lễ hy sinh. Ông cũng có nhận đút lót hối lộ của giới doanh nghiệp để được ghi tên vào các giao kèo, hợp đồng… Khi những người bán hàng bị Đức Giêsu đuổi khỏi Đền Thờ, đối với ông, chuyện này không phải là một chuyện khiêu khích phạm thượng cho bằng là can thiệp vào toan tính kiểm soát những mối lợi kinh tế kếch sù của dòng họ ông. Làm sao ông có thể chịu được chuyện một anh thợ mộc xứ Galilê tố giác ông là đã biến Đền Thờ thành một “hang ổ trộm cướp”?
Khanan là một dung mạo phản diện nhất trong toàn cuộc xử Đức Giêsu. Ông là người đã lên kế hoạch ấy và là người đã giỏi giật dây để vụ án này đi đúng hướng ông muốn. Tác giả biết các điều này rất rõ, và như thế ngài đã giới thiệu ông như là chính biểu tượng của tà thần, hiện thân của những kẻ thích làm việc trong bóng tối và không thích ánh sáng, hiện thân của những kẻ từ chối ra khỏi lối sống bất chính hoặc sẵn sàng phạm tội ác để bám lấy quyền lực.
Đức Giêsu không sợ ông, Người đối thoại thẳng thắn với ông: “Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (c. 21). Tuy niên, vào lúc Đức Giêsu cần một chứng từ, Phêrô lại chối Người, còn người môn đệ kia, cùng đi với Phêrô, thì không nói vì về Người. Ở đây lẽ ra các môn đệ phải nêu bật được lý tưởng đời môn đệ là lắng nghe Lời và nói sự thật, nhưng điều ấy đã không có!
Kẻ gây bất công không mấy khi trực tiếp làm công việc bẩn thỉu, hắn ra lệnh cho các nô lệ làm việc đó. Một người tôi tớ của Khanan đã tát Đức Giêsu. Người phản ứng, bình thản nhưng cương quyết: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (c. 23). Đối với tác giả Ga, tên đầy tớ này là một biểu tượng: nó tượng trưng cho những người, vì ngu dốt hoặc đần độn, hoặc vì không có sự tha thiết tìm sự thật, đã đứng về phía người mạnh và có quyền lực. Họ bị chế ngự bởi nhân cách của các ông chủ, họ bị khuất phục bởi thành công của các ông ấy, và họ sẽ làm bất cứ điều gì để làm cho ông chủ vui lòng. Họ không thấy được rằng họ chỉ là khí cụ trong tay các chủ nhân mà thôi.
3.- Trước tòa tổng trấn Philatô (18,28–19,16)
Tác giả Ga mô tả khá dài phần này (dài gấp đôi Mc). Bài tường thuật nhắc lại và triển khai nhiều đề tài trung tâm của TM IV.
Khi đọc bản văn này, chúng ta bị đánh động bởi việc quan Philatô di chuyển liên tục, hầu như là không ngơi nghỉ. Chúng ta có thể gán việc đi đi lại lại này là do lý do tôn giáo: người Do Thái không thể vào trong nhà ông vì họ muốn tránh bị nhiễm uế. Nhưng tác giả Ga gợi ý nhiều điều hơn thế.
Các học giả đã chia cắt bản văn theo những lần đi ra đi vào của vị tổng trấn Rôma, và đã khám phá ra rằng bản văn gồm có bảy cảnh được cấu trúc rất khéo (Ga 18,28-32; 18,33-38a; 18,38b-40; 19,1-3; 19,4-8; 19,9-11; 19,12-16). Chúng ta ghi nhận một số chi tiết:
* Người Do Thái ở ngoài, Đức Giêsu ở trong, còn ở giữa là Philatô, ông này không sao tìm ra được một cách thức nào để thoát ra khỏi vấn đề ông đang bị dính líu vào dù không muốn. Tác giả cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn làm chủ tình hình và vụ việc khi cho thấy Người gợi ý cho Philatô đặt câu hỏi: Philatô hỏi câu thứ hai, thì Người trả lời câu thứ nhất; Philatô hỏi câu thứ ba thì Người trả lời câu thứ hai; Philatô hỏi lại câu thứ nhất thì Người nói về các việc Người làm; Philatô hỏi câu cuối cùng thì Người không trả lời (Ga 18,33-38). Cách Đức Giêsu nói rất là điềm đạm, như trong một cuộc đối thoại, một buổi giảng huấn.
* Có hai ghi nhận quan trọng về thời gian. Ở câu đầu, chúng ta đọc được là “Lúc đó trời vừa sáng”. Như vậy, đây là một ngày mới. Đã qua rồi đêm đã bắt đầu với việc Giuđa rời phòng tiệc (Ga 13,27-30). Bóng tối đã từng chứng kiến sự phản bội, việc Đức Giêsu bị bắt và bị kết án, và việc Phêrô chối Thầy, nay đã tan biến cả. Đêm tối ấy được ghi dấu bởi sự hiện diện gian tà của Khanan – dụng cụ cố cựu và gian ác của “ông hoàng bóng tối” (x. 12,31.35-36). Bây giờ ánh sáng đang đánh tan bóng tối. Đến trưa (19,4), khi mặt trời ở độ cao tối đa, Philatô tuyên bố: “Đây là người!”, cũng có thể hiểu là “vua các ngươi”, bởi vì lúc đó Đức Giêsu “đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ” (19,5), sau khi đã bị toán lính chế nhạo: “Kính chào Vua dân Do Thái!” (19,3). Dân chúng không hiểu. Họ thấy Đức Giêsu hoàn toàn thất bại; trong thực tế, chính là qua sự thất bại này mà bóng tối bị đánh tan và ánh sáng chiến thắng trên bóng tối.
* Chủ đề mà các cảnh xoay quanh là vương quyền. Tác giả Ga đã nhắc đến rồi (Ga 1,49; 6,15; 12,13.15), và bây giờ trong các chương 18 và 19, từ ngữ “Vua” được dùng 12 lần. Chủ đề này lên tới đỉnh cao ở hai cảnh: cảnh trung tâm (19,1-3) và cảnh cuối cùng (19,12-16).
a) Cảnh đầu tiên (19,1-3) là một vở hài kịch về vương quyền. Lính tráng chơi đùa với việc tuyên bố Đức Giêsu là vua. Tác giả ở đây không nhắc đến những chi tiết sỉ nhục nhất như đánh trên đầu và bị khạc nhổ, ngài chỉ nhắc đến việc đánh đòn và vả vào mặt. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh đến tất cả những yếu tố được dùng vào lúc tôn vương một hoàng đế: vương miện (bằng vòng gai), áo choàng đỏ, những lời tung hô.
Đã phản ứng khi bị tên đầy tớ của Khanan tát, nay Đức Giêsu lại chịu cho họ đóng tuồng chế nhạo. Người chấp nhận, bởi vì vở tuồng này đánh đổ hình ảnh về Đấng Mêsia được dân chúng chấp nhận – mạnh mẽ, chiến thắng kẻ thù, và cai trị. Vở hài kịch này chế nhạo những tham vọng, sự oai hùng, khao khát quyền lực, săn tìm những danh hiệu rất kêu và tìm những chỗ nhất… Vị vua chân thật đang ở đây, mọi người đều thấy Người, con người hành động theo các chuẩn mực của Thiên Chúa: con người hy sinh mạng sống vì yêu thương.
Ở đây có một nét hài hước: Dân ngoại nhìn nhận Đức Giêsu là vua, trong khi người Do Thái thì không.
b) Cảnh cuối cùng (19,12-16) được trình diễn rất long trọng. Philatô dẫn Đức Giêsu ra ngoài, đặt Người ngồi trên một tòa đá cao rồi tuyên bố: “Đây là vua các người (basileus hymœn)!” (Ga 19,14). Đây là cuộc tôn vương.
Người Do Thái thấy chuyện này là quái gở. Họ coi đó là một sự thách thức. Họ phản ứng điên cuồng, họ hết sức giận dữ, và họ dứt khoát loại trừ Người. Họ không muốn có thứ ông vua này, Người là một lời sỉ nhục đến cảm thức dân tộc của họ.
Nhưng Đức Giêsu vẫn còn đang ở đó, ở giữa họ, thinh lặng, Người không nói thêm một lời nào cả, Người đã giải thích mọi sự rồi. Người đang chờ mỗi người dấn thân bằng cách góp phần của họ. Người ta có thể nhận thứ “vương quyền” của thế gian này hoặc người ta có thể đi theo Người và hy sinh mạng sống vì yêu thương. Đó cũng là chọn lựa sẽ đưa chúng ta đến thành công hay thất bại.
Bản văn Ga cho thấy quan Philatô đã không “kết án” Đức Giêsu, mà chỉ “trao (paredœken) Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá” (19,16). Nếu Đức Giêsu không bị kết án, thì (những) ai bị kết án? Nếu quan Philatô không thi hành được quyền phán quyết của tòa án, thì trong vụ xử này, ai là chánh án? Cách viết rất tinh tế mà cũng không thiếu chất khôi hài và châm biếm của tác giả Ga cho hiểu là chính Đức Giêsu mới là chánh án, còn Philatô và người Do Thái đều là những kẻ bị kết án (x. 19,11).
4.- Đức Giêsu bị đóng đinh và chết (Ga 19,16b-37)
Bản mô tả của Ga về con đường thập giá rất ngắn. Chỉ một vài lời: “Vậy họ điệu Đức Giêsu đi. Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ” (Ga 19,16b-17). Không có gì khác, không có người đàn ông đến từ Kyrênê, không có những phụ nữ than khóc. Người đi thẳng tới nơi mà tất cả “vinh quang” của Người sẽ được biểu lộ.
Trong phần mô tả cuộc đóng đinh, tác giả đưa vào một vài cảnh và chi tiết quan trọng đối với sứ điệp thần học ngài ưa chuộng. So sánh với các TMNL, chúng ta thấy:
* Các TMNL chỉ nhắc qua một tấm bảng trên thập giá để giải thích cho người qua đường biết lý do khiến Người bị kết án tử hình. Trong khi đó, tác giả Ga lại gán một tầm quan trọng lớn lao cho tấm bảng này (cc. 19-22). Đối với ngài, đây là lời xác nhận long trọng và chính thức về vương vị của Đức Giêsu. Philatô, đại diện cho quyền lực thế gian, giới thiệu một cách thức mới làm vua.
Tấm bảng được viết bằng tiếng Híp-ri (ngôn ngữ linh thánh của Israel), La-tinh (ngôn ngữ của quyền lực thế gian đương thời) và Hy-lạp (ngôn ngữ nói trong toàn đế quốc Rôma). Tác giả muốn cả thế giới thấy tấm bảng và hiểu được. Đây là một chủ trương phổ quát: Đức Giêsu chết trong tư cách vua dân Do Thái, nhưng chết cho tất cả mọi người. Người Do Thái đã loại bỏ tấm bảng này, nhưng tấm bảng vẫn cứ ở đó, một thách thức cho tất cả mọi người thấy cho đến tận thế. Tấm bảng này sẽ không bao giờ được rút lại, nó có giá trị vĩnh viễn và sẽ không bao giờ bị thay đổi. Vô tình Philatô đã trở thành một ngôn sứ.
Điều cũng quan trọng cần nhấn mạnh là, không giống như các tác giả TM khác, tác giả Ga không nhắc đến những lời sỉ nhục Đức Giêsu tại chân thập giá. Vị tân vương đã được đặt an tọa trên ngai của Người. Người là một “cớ vấp phạm” cho người Do Thái, một “tảng đá vấp” và “sự điên rồ” đối với dân ngoại (x. 1 Cr 1,23), nhưng Người được mặc vinh quang dưới mắt Thiên Chúa. Người có thể được đón nhận hay bị loại trừ, nhưng cho tới tận thế, không một ai lại sỉ nhục hay chế nhạo Người.
* Việc chia nhau áo Đức Giêsu (cc. 23-24) cũng được các TMNL nhắc đến, nhưng chỉ có Ga mới nói đến việc bắt thăm để lấy chiếc áo dài vì chiếc áo này liền từ trên xuống, và trích Thánh vịnh. Rồi ngài ghi nhận rằng các áo xống kia thì được toán lính đóng đinh Đức Giêsu chia làm bốn phần. Tại sao chi tiết này lại quan trọng?
Vào thời cổ, tấm áo được coi như là chính con người mặc và con số 4 tượng trưng cho bốn phương, tức là toàn thể thế giới. Vậy, sứ điệp thần học của điểm này đã rõ: hy sinh của Đức Giêsu có một giá trị phổ quát, nó cứu chuộc mọi người.
* Cảnh thứ ba (cc. 25-27): thân mẫu Người dưới chân thập giá, được ký thác cho môn đệ Đức Giêsu thương mến. Khó mà có thể cho rằng tác giả Ga chỉ muốn nói với chúng ta về mối lo lắng của Đức Giêsu đối với thân mẫu, nên đã giao phó Mẹ cho người môn đệ yếu dấu. Cũng khó mà nói rằng các thân bằng quyến thuộc và bằng hữu cũng như các phụ nữ đang có mặt tại cuộc đóng đinh, dù là xa xa – như các TMNL đã kể – lại để cho Đức Maria đến gần thập giá.
Cũng có vẻ lạ là Đức Giêsu, sắp chết trong cơn hấp hối khủng khiếp, lại bình thản ngỏ lời với thân mẫu như là “bà/phụ nữ”, như tại Cana (Ga 2,24).
Thật sự không có gì phải nghi ngờ nữa: ở đây chúng ta có một bản văn thần học, lấy mẫu là một biến cố thật sự đã xảy ra: sự hiện diện trên Đồi Sọ của những người thân nhất của Đức Giêsu.
Đối với tác giả, Đức Maria là biểu tượng của dân tộc Israel còn trung thành vớiThiên Chúa của họ. Trong tiếng Híp-ri, từ ngữ Israel ở nữ tính, như thế trong Kinh Thánh, Dân giao ước luôn luôn được hình dung bằng một người phụ nữ, một trinh nữ, một nàng dâu, một người mẹ. Dân mới của thời thiên sai đã được đưa vào hiện hữu nơi người “phụ nữ” này, Israel-là-mẹ.
Đức Giêsu mời người phụ nữ này nhận lấy mọi môn đệ đã có can đảm bước theo Thầy tới tận thập giá như là con của Mẹ, và như thế trở thành thừa kế các lời hứa thiên sai. Người cũng mời cộng đoàn vừa xuất hiện tự coi mình là con gái của Dân Israel từ đó Đức Giêsu đã sinh ra.
* Cái chết của Đức Giêsu (cc. 28-30), thể theo TM Ga, xảy ra cách thanh thản. Không có tiếng la hét, không có động đất, không có mặt trời tối đen lại. Từ trên cao thập giá Người là vua, đã được tôn vương, đang làm chủ quyền tối thượng của Người.
Người đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha giao cho Người: chiếc màn đã từng ngăn cản loài người thấy gương mặt của Thiên Chúa nay đã được cất đi. Bây giờ chúng ta biết Thiên Chúa là ai: tất cả những gì chúng ta cần, đó là nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá, nghèo hèn, yếu đuối và trần truồng. Thiên Chúa không phải là nhà lãnh đạo mọi người phải quỳ gối và cúi mình khi đến trước Ngài, Ngài không phải là nhà lập pháp đòi hỏi người ta phải quy phục hoàn toàn ý muốn của Ngài, Ngài là người bạn không giữ lại gì cho chính mình. Ngài trao ban trọn vẹn chính mình.
Còn thiếu một mảnh nhỏ nơi bức tranh khảm. Để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Đức Giêsu nói: “Tôi khát!” (c. 28). Lời Đức Giêsu đã nói đó, chỉ duy mình tác giả Ga tường thuật lại, vì ngài nghĩ là quan trọng; ngài nhấn mạnh là như thế là để ứng nghiệm Kinh Thánh. Người quy chiếu về Thánh vịnh nào vậy? Rất có thể là Tv 42,3: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống”. Tác giả Thánh vịnh diễn tả lòng ngài khao khát được gặp Đức Chúa.
Tác giả Ga giải thích theo cách biểu tượng cơn khát đích thật của Đức Giêsu, lúc này đang mất máu dần cho đến chết. Cơn khát chính là lòng ao ước cháy bỏng của Đức Giêsu là được tuôn đổ trên nhân loại nước hằng sống Người đã nói với người phụ nữ Samari. Tại giếng Giacóp, và chỉ tại đó, Người mới cảm thấy khát và đã xin nước uống.
Ao ước của Người sắp được hoàn tất. Sau khi đã nhắp chút giấm, Người kêu lên: “Thế là đã hoàn tất”. “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (c. 30). Đây chính là thứ nước giải khát cho nhân loại, thứ nước từ đó sự sống đích thật trào dâng, thứ nước được tuôn đổ trên tất cả những ai đến gần Đấng Chịu Đóng Đinh. Dừng lại với câu tuyên bố “Thế là đã hoàn tất (tetelestai)”, chúng ta thấy rõ là công việc mạc khải của Người Con, nghĩa là cuộc tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa, đạt tới đỉnh cao vào lúc Người Con chết. Sự kết thúc chính là sự hoàn tất. Chỉ có thập giá mới cho ý nghĩa của cuộc nhập thể được nở ra trọn vẹn.
Chúng ta cũng ghi nhận là Đức Giêsu đã chủ động cho đến giây phút cuối cùng: xin uống; tuyên bố hoàn tất; chuyển trao Thần Khí; và cả việc trao ban nước và máu nữa.
* Cái chết của Đức Giêsu kết thúc mọi sự. Người đã dâng trao Thần Khí của Người. Tác giả muốn đào sâu đề tài này. Ngài muốn làm sáng tỏ quan hệ giữa Thần Khí và việc ban tặng nước hằng sống, thường được Đức Giêsu hứa ban (x. Ga 4). Tại quảng trường Đền Thờ, trong khi cử hành Lễ Lều, Đức Giêsu đã hô to: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói : Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7,37-39; x. 4,14).
Tác giả dùng một sự cố thể lý (máu và nước chảy ra từ thân thể Đức Giêsu) để giúp các môn đệ hiểu rằng Thánh Thần là một quà tặng của Đức Giêsu “được tôn vinh” trên thập giá.
Ngài quy chiếu về hai bản văn Kinh Thánh. Bản văn đầu tiên, Xh 12,46, nói về con chiên Vượt Qua phải được giết sao cho không một cái xương nào của nó bị gãy.
Cũng vào lúc đó, các tư tế tại Đền Thờ giết các con chiên Vượt Qua, cẩn thận để không làm gãy cái xương nào, thì Đức Giêsu, con chiên Vượt Qua chân thật, dâng hiến máu mình, để giải thoát dân chúng khỏi cái chết.
Bản văn thứ hai là Dcr 12,10: một lời sấm huyền bí nói về một người vô tội bị “đâm thâu”. Ngôn sứ Dacaria nói, tuy vậy Chúa sẽ làm cho dân chúng cảm thấy họ có tội vì điều dữ họ đã làm. Họ sẽ trở lại và nhìn xem người mà họ đã đâm thâu. Họ sẽ khóc lóc, như cha mẹ khóc lóc vì mất đứa con một, họ sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng.
Con người đó là ai, và vì sao người ấy lại bị giết? Dacaria sống vào khoảng hai hoặc ba trăm năm trước Đức Kitô, chắc chắn ngài đang có trong trí một biến cố khủng khiếp nào đó vừa xảy ra. Chúng ta không biết được gì thêm. Điều quan trọng đối với chúng ta, đó là tác giả TM IV coi con người huyền bí ấy là một hình ảnh của Đức Giêsu. Bây giờ mọi dân tộc đều nhỉn lên Đức Kitô, Đấng đã bị giết và bị đâm thâu trên thập giá, và họ nhìn lên Người như là Đấng Cứu độ họ. Bất cứ ai nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh như là ngọn hải đăng lớn của đời họ, sẽ được cứu độ.
Chúa Phục Sinh sẽ khiến người ta chú ý đến vết thương bên sườn Người ba lần (Ga 20,20.25.27). Vết thương này trở thành dấu hiệu để người ta nhận biết Người.
Tác giả nhấn mạnh trên những gì ngài đã thấy và trên chứng tá chân thật của ngài về những điều ấy khiến chúng ta nhận ra tầm quan trọng của biến cố này và ý nghĩa thần học sâu xa của biến cố.
5.- Mai táng (19,38-42)
Nội dung mô tả cuộc mai táng của Đức Giêsu nói chung giống như bản văn của các TMNL. Tuy nhiên, có một ít chi tiết cung cấp những điểm thần học chuyên biệt.
Thể theo tác giả Ga, cùng với Giôxếp người Arimathê, có Nicôđêmô, “trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm”. Ông này đến, “mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương” (Ga 19,39). Hai ông nhận lấy thi hài Đức Giêsu và lấy khăn liệm tẩm thuốc thơm mà mặc cho Người (cc. 39-40).
Các chi tiết này đáng ngạc nhiên. Khối rất lớn dầu thơm được dùng rất lạ: khoảng 32 lít tinh dầu rất đắt. Đúng là một khối dầu lớn, vì chỉ cần một phần ngàn đã đủ để tẩm liệm một thi hài.
Các loại hương liệu được dùng cũng lạ thường: thường các loại này không được dùng để tẩm liệm thi hài, nhưng được dùng cho các lễ cưới! Chúng được dùng để thêm hương thơm vào các thứ y phục (x. Tv 45,9: “Quế trầm mộc dược, hương toả long bào”) và giường tân hôn: người phụ nữ của Sách Châm ngôn (7,17) đã reo lên: “Chỗ em nằm, em rảy dầu thơm chế từ mộc dược, lô hội và nhục quế”.
Tác giả Ga không mô tả một cuộc mai táng (chúng ta ghi nhận, ngài chẳng hề nói đến tảng đá ngoài mộ!), nhưng đúng hơn, là công việc chuẩn bị giường tân hôn cho chàng rể nằm. Các ngôn sứ Cựu Ước thường dùng hình ảnh lễ cưới để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel (là một cô dâu rất thường thất trung). Trong Tin Mừng, chàng rể là Đức Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người đã từ trời xuống để tìm hiền thê thất trung của Người. TM IV nói về Đức Giêsu như chàng rể ngay từ đầu Tin Mừng của ngài (Ga 3,29-30; phải nói là hiểu ngầm ngay trong Ga 2,1-12, “Tiệc cưới Cana”).
Tình yêu vô biên của Người chỉ có thể được mô tả bằng những lời lẽ của sách Diễm ca: “Tình yêu mãnh liệt như tử thần, … Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp” (Dc 8,6-7). Đức Giêsu đã cống hiến bằng chứng lớn lao nhất về tình yêu hôn ước của Người trên thập giá, cũng như chính Người đã nói vào một dịp khác: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Nay Người đang chờ vòng tay của nàng dâu, là Dân mới, được tượng trưng bởi các môn đệ Người đang đứng dưới chân thập giá (Ở Ga 2,12, Dân mới được tượng trưng bằng “thân mẫu, anh em và các môn đệ”). Cộng đoàn mới này làm một cử chỉ biểu tượng: họ đổ trên các băng vải và khăn liệm – sẽ mặc cho thân thể của chàng rể – tất cả khối dầu thơm và hương liệu họ có, nhằm chứng tỏ rằng họ biết họ được Người yêu thương đến độ nào.
Lời nhắc đến khu vườn ám chỉ nơi ngày xưa ghi dấu sự thất bại của con người, nay mang chiến tích oai hùng của cuộc thắng trận, cũng gợi lại việc mai táng các vua Giuđa (x. 2 V 21,18.26). Trong khi bị xử, Người đã được công bố là vua, Người đã được đội vương miện, được mặc áo choàng đỏ và được tôn trên ngai thập giá. Bây giờ Người được mai táng như một chàng rể, nhưng cũng như một vị vua.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đã chết cô đơn, không nhận được bất cứ một dấu hiệu an ủi nào, nhưng không ai có thể nói là có chút ý hướng trả thù từ phía Người hoặc từ phía bất cứ ai. Người đã chết và đã trao ban tất cả, và Hội Thánh đã chào đời dưới chân thập giá. Cùng với nước và máu, Thánh Thần đã đến. Chỉ khi đã ý thức về tính phức tạp của mầu niệm chết và sống lại của Đức Kitô, ta nới có thể đọc lại Tin Mừng này từ đầu và hiểu bài Tiền ngôn (Ga 1,1-18) cũng như tất cả Tin Mừng IV.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm