CHƯƠNG III
HƯỚNG CANH TÂN GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM
+++
Bên cạnh những hướng dẫn tổng quát của Giáo Hội hoàn vũ, còn có những hướng dẫn cụ thể của Giáo Hội địa phương mà chúng ta phải quan tâm để hoạt động giáo lý được hòa hợp với kế hoạch mục vụ chung của Giáo Hội tại Việt Nam. Hơn nữa, các giám mục là những người đầu tiên chịu trách nhiệm đối với vấn đề huấn giáo của Giáo Hội địa phương.126
1. Hội đồng Giám mục Việt Nam và việc dạy giáo lý
89. Chúng ta có thể nhận được sự hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua thư chung về giáo dục đức tin năm 2007 và thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010.
Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007
Sau khi nhận định về hiện tình giáo dục và giáo dục đức tin tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục đã đề ra những phương hướng cụ thể cho hoạt động giáo dục Kitô giáo, cách riêng trong lãnh vực đức tin.
90. Trong Thư Chung năm 2007, các giám mục lạc quan khi thấy đông đảo học viên theo học các lớp giáo lý dự tòng và hôn nhân hay giới trẻ vẫn còn quí trọng những giá trị Kitô giáo. Các ngài cũng tỏ ra quan ngại khi thấy nhiều bậc phụ huynh công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thông truyền đức tin cho con cái, không tổ chức hoặc không lo lắng cho con em tham dự những lớp giáo lý tại giáo xứ. Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng dạy chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền. Những bất cập trên đây đòi chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng tinh thần Tin Mừng.127
91. Đối với các giám mục, giáo lý viên giống như cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa (20), đồng thời mọi Kitô hữu chúng ta đều là giáo lý viên, bởi vì qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi tham gia vào một công trình giáo dục trong đó, theo lời Đức Gioan Phaolô II, “mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác”.128
92. Theo các giám mục, giáo dục đức tin trong gia đình không thể tách rời khỏi giáo dục đức tin tại giáo xứ. Nếu tại gia đình, đức tin được truyền thụ bằng phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài học được giảng dạy ngay giữa thực tế, thì tại giáo xứ, đức tin được thông truyền nhờ giảng giải và cử hành phụng vụ. Chính khi đối chiếu và đón nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu thương và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng cố.129 Những lớp giáo lý là những phương cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và dạy giáo lý cho các học viên chuẩn bị lãnh các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể hiện đức tin với các thành phần khác của cộng đoàn và được tham dự cách ý thức vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích. Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là những môi trường không thể thiếu để giáo dục Kitô giáo được triển nở toàn vẹn và quân bình.130
93. Trong các nhiệm vụ của việc dạy giáo lý, các giám mục nhấn mạnh đến việc huấn luyện lương tâm. Huấn luyện lương tâm, theo các giám mục, không chỉ là giảng dạy những mệnh lệnh luân lý nhưng còn tập cho học viên hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Khi có lương tâm ngay thẳng, con người sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phẩm giá và sự sống con người hơn.131
94. Sau hết, các giám mục nhắc nhở các nhà giáo dục cũng như giáo lý viên phải quan tâm đến truyền thống văn hóa Việt Nam và phát huy nền văn hóa của dân tộc. Dân tộc chúng ta lấy đạo hiếu làm nền tảng đạo đức. Vì thế, nó phải là tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam (37).132
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010
Xây dựng hiệp thông, mối bận tâm mục vụ chính của Giáo Hội tại Việt Nam
95. Giáo Hội tại Việt Nam quan tâm đến việc củng cố và phát huy sự hiệp thông với Giáo Hội phổ quát cũng như các Giáo Hội chị em khác, nhằm thể hiện sự hợp nhất như Chúa Giêsu mong đợi (x. Ga 17,21) đồng thời nỗ lực xây dựng hiệp thông trong Giáo Hội địa phương qua sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa.133
Mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi Thân Mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến. Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Việc xây dựng một Giáo Hội hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại Việt Nam trong những năm sắp tới.134
96. Đại Hội Dân Chúa ý thức rằng việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên.135
97. Để hiểu rõ hơn những mong mỏi của Dân Chúa được ghi lại vắn tắt trong Thư Chung, chúng ta có thể xem lại những đề nghị của Đại Hội về huấn giáo. Trong đề nghị số 2, Dân Chúa kiến nghị: Trong chương trình đào tạo linh mục, cần tạo điều kiện cho các chủng sinh có những kinh nghiệm về dạy giáo lý cho nhiều lứa tuổi và nhiều tầng lớp khác nhau; trong chương trình thường huấn linh mục, cần củng cố ý thức về tầm quan trọng của huấn giáo trong cuộc canh tân liên lỉ của Giáo Hội; trong mục vụ giáo xứ, cần đặt huấn giáo thành mối quan tâm hàng đầu; trong việc đào tạo giáo lý viên, cần giúp các giáo lý viên hun đúc tinh thần tông đồ, đạt được một kiến thức giáo lý vững chắc và được canh tân dựa trên Lời Chúa, cùng với phương pháp sư phạm thích hợp, để trình bày giáo lý cách hữu hiệu, cũng cần có những khóa nâng cao trình độ giáo lý viên cũng như những buổi tĩnh tâm, linh thao, trại hè, giao lưu… cho giáo lý viên trong giáo phận; cần chú trọng đến chương trình giáo lý trước và sau Hôn phối, nhằm giúp các gia đình trẻ sống trọn vẹn ơn gọi đời sống hôn nhân. Để thực hiện chương trình này, cần có sự hợp tác giữa linh mục và tu sĩ với anh chị em giáo dân có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm đời sống gia đình.
98. Trong đề nghị 21, Dân Chúa ý thức rằng Giáo Hội tại Việt Nam gặt hái nhiều thành quả tông đồ nhờ các giáo lý viên, trẻ cũng như đứng tuổi, đang dấn thân quảng đại cho việc dạy giáo lý, trong các cộng đoàn cũng như ở những nơi rất hẻo lánh. Để các giáo lý viên có thể chu toàn sứ mạng cao cả, cần chú tâm đến việc đào tạo. Chương trình đào tạo giáo lý viên phải quan tâm đến cả bốn chiều kích: nhân bản, tri thức, thiêng liêng và mục vụ. Giáo phận nên tìm ra những phương thức cụ thể để hỗ trợ các giáo lý viên, ngay cả về vật chất tài chính, vì nhiều người trong họ tuy rất quảng đại song đời sống còn rất chật vật.
Có thể nói thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2012 đã thực hiện được một bước đi mang tính đột phá. Nó không chỉ là công trình của hàng giám mục mà của mọi thành phần Dân Chúa: “Các vị đại diện của mọi thành phần Dân Chúa sẽ cùng với Hội Đồng Giám Mục cầu nguyện, suy nghĩ và trao đổi nhằm nhận diện những thuận lợi và thách đố cho Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại, đề ra những hướng đi mục vụ thích hợp trong giai đoạn tới, mong xây dựng Giáo Hội như lòng Chúa mong muốn là Giáo Hội của Chúa Kitô ở giữa dân tộc của mình” (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Chung gởi Cộng đồng Dân Chúa, ban hành tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, ngày 9 tháng 4 năm 2010).
Trong ý hướng ấy, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, là hướng dẫn căn bản của Giáo Hội cho việc canh tân huấn giáo tại Việt Nam. Cho dù, Thư Chung chỉ trực tiếp đề cập tới huấn giáo khi đề cập tới việc học hỏi Lời Chúa ở số 11, nhưng hướng đi mục vụ mà các giám mục chọn lựa cho hoàn cảnh hiện tại mới là điều quan trọng và định hướng cho mọi hoạt động mục vụ nói chung và cho huấn giáo nói riêng.
2. Hiệp thông, cách thức mới để sống và hoạt động mục vụ
99. Trong Thư Chung này, các giám mục không chỉ quan tâm đến sự hiệp thông mà còn đặt sự hiệp thông làm cách thức mới để sống và hoạt động mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Chọn lựa này mở ra cuộc hoán cải theo Tin Mừng trên bình diện Giáo Hội. Cuộc hoán cải này đòi hỏi Giáo Hội xuất phát lại từ bản chất của mình là hiệp thông, sự hiệp thông năng động với Thiên Chúa được sống và thể hiện trong sự hiệp thông với anh chị em của mình, như các tín hữu và như những con người-hình ảnh Thiên Chúa.
Xuất phát lại từ sự hiệp thông mà Thiên Chúa ban tặng cho mình từ ban đầu, Giáo Hội tại Việt Nam không thể giam mình trong “tháp ngà” nhưng phải “ra khỏi chính mình” để đến với mọi người, chia sẻ “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” của họ, nhờ đó, có thể nhận ra hoạt động Thánh Thần nơi những người nghèo hèn bé mọn. Giáo Hội phải xâm nhập thực tế, phân tích xã hội, suy tư thần học trước khi lập ra những kế hoạch mục vụ.
100. Như thế, sự hoán cải dưới ánh sáng của sự hiệp thông Giáo Hội khơi nguồn cho sự hoán cải trong mục vụ, mở ra một chu kỳ mục vụ năng động (Dynamic Pastoral Cycle) và dẫn đến một lối tiếp cận mục vụ toàn diện (Asian Integral Pastoral Approach) vốn được đánh giá dựa trên tình yêu của người môn đệ dành cho những người bé mọn. Kế hoạch mục vụ vốn được hiểu như nâng đỡ đức tin của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng thành, không thể giữ họ mãi mãi là những kẻ hưởng nhận sự chăm sóc mục vụ, mà còn phải làm cho họ, cùng với chủ chăn, dần dần trở thành tác nhân tích cực cho sự biến đổi môi trường nhân sinh.
Tóm lại, sự hoán cải theo Tin Mừng trên bình diện Giáo Hội giúp chúng ta trình bày, sống và là giáo hội một cách mới mẻ. Lối hoạt động mục vụ được khơi nguồn từ sự hoán cải này cho phép chúng ta trình bày một giáo hội là dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa Giêsu đến cho gia đình nhân loại, cách riêng cho người Việt Nam.136
3. Hướng canh tân việc dạy giáo lý tại Việt Nam
101. Huấn giáo, một trong các hoạt động mục vụ của Giáo Hội, không thể đứng ngoài cuộc hoán cải trên bình diện Giáo Hội này. Do đó, hiệp thông cũng phải là cách thức mới để hoạt động giáo lý. Mọi hoạt động giáo lý cũng phải xuất phát lại từ hiệp thông và khai mở cho hiệp thông: từ hiệp thông hiếu thảo với Thiên Chúa, hiệp thông huynh đệ với anh chị em trong Giáo Hội và hiệp thông chan hòa với mọi người trong xã hội để thông truyền đức tin kitô giáo.
Xây dựng hiệp thông hiếu thảo với Thiên Chúa
102. Việc dạy giáo lý phải giúp người thụ giáo có được một trải nghiệm thiêng liêng, nghĩa là kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô nhờ đọc Lời Chúa với tâm thế cầu nguyện (lectio divina), lãnh nhận bí tích, cách riêng bí tích Thánh Thể và Thống Hối và dấn thân phục vụ.
Điều này đòi hỏi giáo lý: a/ phải nhằm dẫn người học đến gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, chú trọng đến việc xây dựng tương quan hơn truyền đạt kiến thức và khuyến thiện; b/ phải làm cho Lời Chúa vang dội trong lòng người người thụ giáo và làm cho trái tim của họ bừng cháy lên niềm vui, niềm tin và hy vọng, muốn thế giáo lý viên phải có khả năng trình bày sứ điệp cách sống động và giúp người nghe nội tâm hóa sứ điệp Tin Mừng; c/ phải tạo điều kiện để người thụ giáo cộng tác với Chúa Thánh Thần biến đổi chính mình và góp phần biến đổi xã hội, muốn thế giáo lý viên phải khước từ “quyền lực cứng” và chọn lựa “quyền lực mềm”.
Xây dựng hiệp thông huynh đệ trong Giáo Hội
103. Dạy giáo lý phải được xem là hoạt động của cả cộng đoàn chứ không phải công việc riêng của giáo lý viên, đồng thời phải góp phần xây dựng cộng đoàn trưởng thành trong mọi lãnh vực.
Điều này đòi hỏi giáo lý phải: a/ củng cố sự cộng tác của gia đình và sự tham gia của mọi phần tử trong giáo xứ, nhất là bầu khí linh thiêng tạo ra bởi việc thể hiện những giá trị của Tin Mừng; b/ giúp cho người thụ giáo tích cực tham gia vào các sinh hoạt cũng như sứ vụ của gia đình và giáo xứ với ý thức và tinh thần trách nhiệm, nghĩa là giáo lý phải vươn ra khỏi “lớp học” và mở ra cho việc hội nhập vào cộng đoàn; c/ được trợ lực bởi nhiều hoạt động mục vụ khác để cùng nhau xây dựng gia đình và giáo xứ thành một cộng đoàn đức tin trưởng thành.
Xây dựng hiệp thông chan hòa với mọi người trong xã hội
104. Giáo lý không những được mời gọi vươn ra khỏi “lớp học” và mở ra cho cộng đoàn gia đình hay giáo xứ, nhưng còn được mời gọi “đến những vùng ven” của văn hóa và xã hội để “cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống”.
Điều này đòi hỏi giáo lý phải: a/ quan tâm nhiều hơn đến những chuyển biến của xã hội và nhu cầu của người thụ giáo đồng thời giúp họ có khả năng đọc các dấu chỉ, để khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa đồng thời lắng nghe lời mời gọi của Ngài trong các hoàn cảnh khác nhau; b/ giúp cho người thụ giáo có khả năng đáp lại lời Chúa mời gọi từ trong cuộc sống bằng cách dấn thân vào cuộc đối thoại với người nghèo, với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với người vô thần, đồng thời hợp tác với họ trong việc phục vụ cho công ích, cho sự sống của con người; c/ giúp cho người thụ giáo có khả năng diễn tả và thông truyền niềm tin của mình, không chỉ bằng lời nói suông mà còn bằng chứng tá sống động, cá nhân cũng như tập thể, của một cuộc sống thật đẹp, cả về thể xác lẫn tinh thần, nhờ sống theo các giá trị của Tin Mừng, đặc biệt là những giá trị của Tám Mối Phúc Thật.
KẾT LUẬN
105. Chúng ta kết thúc những ngày gặp gỡ đầy yêu thương và huynh đệ tại Trung Tâm Mục Vụ của Tổng giáo phận Huế bằng cuộc hành hương về linh địa La Vang để dâng lên Mẹ tâm tình và ước vọng của chúng ta trong nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý cho phù hợp với đường hướng chung của Giáo Hội cũng như bối cảnh văn hóa và xã hội Việt Nam, nhằm phục vụ cho công cuộc “Tân Phúc Âm hóa để Thông truyền Đức tin Kitô giáo”.137 Chúng ta nhìn lên Đức Trinh Nữ là mẹ và mẫu gương của giáo lý viên để xin Mẹ dạy chúng ta không ngừng hát lên lời kinh Ca Ngợi, ca lên lời ca của niềm vui Tin Mừng, hầu có được can đảm và sức mạnh dấn thân cho việc Loan báo Tin Mừng. Xin Mẹ cũng dạy chúng ta cách thức làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong mỗi người chúng ta cũng như trong những người lắng nghe chúng ta rao giảng Lời Chúa, để tất cả có thể trở nên chứng nhân sống động cho Tin Mừng trên chính quê hương thân yêu của chúng ta.
NHỮNG CÂU HỎI THẢO LUẬN
GỢI Ý MỘT: HIỆN TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM
- Những biến chuyển đang thay đổi bộ mặt của xã hội Việt Nam là những biến chuyển nào và đang ảnh hưởng đến đời sống đạo của Giáo Hội Việt Nam ra sao?
- Đâu là những nhu cầu mới đang hình thành và đặt ra cho việc dạy giáo lý tại Việt Nam hiện nay?
GỢI Ý HAI: HIỆN TRẠNG DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM
- Não trạng thế tục hóa (secularism) đang thấm nhập vào cách nghĩ và lối sống của người Việt nói chung và của người tín hữu nói riêng như thế nào?
- Môi trường tục hóa tại Việt Nam ảnh hưởng đến việc dạy giáo lý như thế nào?
GỢI Ý BA: DẠY GIÁO LÝ TRONG VIỄN TƯỢNG PHÚC ÂM HÓA
- Được đặt trong nhãn quan Phúc Âm hóa hay Loan Báo Tin Mừng, việc dạy giáo lý được hiểu như thế nào? Nó phục vụ những gì cho công cuộc Loan báo Tin Mừng?
- Việc dạy giáo lý của chúng ta như đang làm hiện nay có phát triển đúng hướng và đạt yêu cầu của một huấn giáo phục vụ cho Loan báo Tin mừng không? Đạt hay không đạt ở những điểm nào?
GỢI Ý BỐN: GIÁO LÝ TRONG BỐI CẢNH TÂN PHÚC ÂM HÓA
- Con số giáo lý viên rất đáng khích lệ, nhưng làm thế nào để giúp họ trở thành những người có tâm huyết thực sự, có sự nhiệt thành tông đồ?
- Theo quý anh chị, phương pháp hay cách diễn tả nào là phương pháp hay cách diễn tả thích hợp và hiệu quả nhất cho huấn giáo tại Việt Nam nói chung và cho giáo phận của anh chị nói riêng?
GỢI Ý NĂM: HƯỚNG CANH TÂN GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM
- Theo hướng dẫn của Giáo Hội hoàn vũ, huấn giáo của chúng ta phải canh tân những gì để có thể đáp ứng được yêu cầu “tân phúc âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo” của Giáo Hội Việt Nam?
- Theo quý anh chị, hướng canh tân giáo lý theo mô hình “hiệp thông” với những hướng dẫn thực hành có đáp ứng được yêu cầu “tân phúc âm hóa để thông truyền niềm tin” trong bối cảnh VN hiện nay không? Cần chỉnh lại hoặc thêm bớt những gì?
———————–
126 x. HDTQ 270.
127 HĐGMVN, Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007, 9. 15.
128 GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 7.
129 x. HĐGMVN, Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007, 29.
130 x. Sđd, 30.
131 x. Sđd, 36.
132 x. Sđd 37.
133 x. Sđd, 22.
134 x. Sđd, 23.
135 x. HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 11.
136 x. NGUYỄN VĂN AM, Người linh mục hôm nay và cuộc hoán cải Tin Mừng dưới ánh sáng Giáo Hội học, Hiệp Thông s.78 (Tháng 9 & 10 năm 2013).
137 THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC XIII, 2012 & HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN, 2013.
Nguồn: bangiaoly.org