CHƯƠNG II
ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA GIÁO HỘI
VỀ HUẤN GIÁO
+++
29. Chúng ta nhìn lại đường hướng của Giáo Hội hoàn vũ về việc dạy giáo lý kể từ Thượng Hội Đồng Giám Mục 1974 và Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi – 1975) đến THĐGM 2012 và tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium – 2013). Trước những thách đố cũng như cuộc khủng hoảng gây ra bởi môi trường văn hóa hiện nay, Giáo Hội đã duyệt xét lại việc dạy giáo lý trong toàn bộ sứ mạng của Giáo Hội là Loan Báo Tin Mừng, đặc biệt phục vụ cho công cuộc “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”.
1. Dạy giáo lý trong viễn tượng Phúc Âm Hóa
30. Ngay từ thập niên 50, nhờ nghiên cứu lịch sử thời các giáo phụ và vận dụng công trình khảo cứu của các khoa xã hội nhân văn, phong trào Canh tân Giáo lý đã được hình thành từ Munich (Đức – 1925) lan rộng sang các nước khác. Với phong trào này, việc DGL được canh tân trên nhiều bình diện: a/ về đối tượng (từ dự tòng đến người lớn, trẻ em và các tín hữu), b/ về mục đích (từ đạo lý căn bản đến đào sâu đức tin), c/ về phương pháp (từ phương pháp học thuộc lòng và giải thích đến phương pháp tâm lý và hoạt động), d/ về nội dung (từ dạy kiến thức hay luân lý đến loan báo sứ điệp Kitô giáo), e/ về phương tiện (ngoài thủ bản còn có kinh thánh, phụng vụ, chứng tá…).36
31. Cho dù cuộc canh tân này đã đem lại cho huấn giáo một sinh khí mới trong Giáo Hội, nó cũng chỉ là nỗ lực của một số Giáo Hội địa phương, chưa phải là nỗ lực chung của cả Giáo Hội. Nhiều nơi trong Giáo Hội vẫn thu hẹp việc dạy giáo lý trong việc dạy đạo lý hay luân lý nhằm bênh vực đạo hay giữ đạo hơn là sống đạo và truyền đạo; giáo lý viên “chỉ truyền dạy những tín điều phải tin và những luật phải giữ … qua những công thức khô cứng, xa lạ với truyền thống văn hóa, và có vẻ dửng dưng với các vấn nạn của thời đại, hầu như trong suốt thời gian ‘học giáo lý’, người dự tòng không một lần được hướng dẫn đến gặp gỡ được một Đức Kitô, đối tượng của đức tin, một Đức Kitô nhập thể và nhập thế, nhập thể để cùng chia sẻ thân phận với con người, nhập thế để đưa ra những lời giải đáp cho các vấn nạn của con người trong bất cứ thời đại nào, vì Người là Lời yêu thương của Thiên Chúa được mạc khải cho con người cho mọi nơi và mọi lúc”.37
32. Theo đề nghị của Công Đồng Vaticanô II, Bộ Giáo Sĩ đã soạn Hướng dẫn việc Dạy Giáo lý (1971) nhằm hướng dẫn các HĐGM soạn thảo sách giáo lý riêng. Sau đó, hàng loạt văn kiện liên quan đến huấn giáo được ban hành: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI với tông huấn Loan Báo Tin Mừng (1975), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với tông huấn Catechesi Tradendae (1979) là kết quả của Thượng hội đồng Giám mục 1977 về việc dạy giáo lý trong thời đại của chúng ta; với sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1992) là kết quả của THĐGM 1974 về việc Loan Báo Tin Mừng và 1985 kỷ niệm 20 năm bế mạc Công Đồng, Bộ Truyền bá Phúc âm với Hướng dẫn dành cho Giáo lý viên (1993) bàn về ơn gọi, căn tính và linh đạo của giáo lý viên cũng như việc tuyển chọn và đào tạo giáo lý viên. Vì thế, Bộ Giáo Sĩ đã phải cập nhật hóa Hướng dẫn việc Dạy Giáo lý (1971) bằng cách soạn Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy Giáo lý (1997), một văn kiện được cả Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI và Phanxicô trân trọng nhắc tới trong Tông huấn Lời Chúa38 và Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng.39
33. Trong văn kiện này, Bộ Giáo Sĩ một lần nữa đặt huấn giáo trong viễn tượng Loan Báo Tin Mừng theo tông huấn Evangelii Nuntiandi 1975; từ đó, xác định lại bản chất, mục đích, nhiệm vụ, nguồn mạch, nội dung, sư phạm của việc dạy giáo lý và việc tổ chức các hoạt động giáo lý. Hướng Dẫn này cống hiến cho các Giáo Hội địa phương một cái nhìn chung về huấn giáo, nhờ đó, có thể thống nhất và hợp tác với nhau trong việc thi hành thừa tác vụ giáo lý.
Bản chất của giáo lý
34. Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong tông huấn Loan báo Tin Mừng (EN) không chỉ sử dụng thuật ngữ Phúc Âm hóa hay Loan báo Tin Mừng (Evangelizatio) theo nghĩa hẹp là công bố Tin Mừng cho lương dân, mà còn dùng nó theo nghĩa rộng là đem men Tin Mừng vào trong hết mọi lãnh vực của cuộc sống, là biến đổi mọi thực thể nhân loại cho phù hợp với Tin Mừng, từ lối suy tư cá nhân đến lối sinh hoạt của các dân tộc.40 Hướng dẫn Tổng quát việc dạy giáo lý 1997 sử dụng thuật ngữ Loan báo Tin Mừng (LBTM) theo nghĩa rộng: “Loan báo, làm chứng, giáo huấn, các bí tích, yêu tha nhân, thâu nạp môn đệ: tất cả những sắc thái ấy đều là những con đường và phương tiện cho việc truyền đạt Phúc Âm và cấu thành những yếu tố của việc LBTM […]. Những thừa tác viên của việc LBTM phải biết hành động với một “cái nhìn tổng thể” về chính việc LBTM và đồng hóa nó với toàn bộ sứ mạng của Giáo Hội”.41 “Vì thế, LBTM phải được quan niệm như tiến trình mà qua đó Hội Thánh loan báo và phổ biến Tin Mừng cho toàn thế giới dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần”.42
35. Trong tiến trình loan báo Tin Mừng, dạy giáo lý DGL là một thời điểm và là thời điểm chính yếu: «Việc dạy giáo lý nằm trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng của Giáo Hội và được coi là ‘thời điểm’ chính yếu, nó kín múc trong công cuộc LBTM động lực truyền giáo đã đem lại cho nó sự phong phú nội tại và căn tính đặc thù».43 Thời điểm của việc DGL là thời gian để phát huy cuộc hoán cải ban đầu: “Việc DGL, ‘khác với lời loan báo Tin Mừng đầu tiên’, nhằm phát huy và làm cho sự trở lại đầu tiên được chín chắn, qua việc giáo dục đức tin cho người trở lại và tháp nhập họ vào cộng đoàn Kitô giáo”.44
36. Trong ý hướng này, “việc dạy giáo lý là một hình thức đặc biệt của tác vụ Lời Chúa của Giáo Hội làm cho sự hoán cải ban đầu được hoàn hảo, làm cho việc tuyên xưng đức tin trở nên sống động, minh nhiên và hữu hiệu”.45 Lời Chúa mà Giáo Hội rao giảng là Lời Chúa mà Giáo Hội đã cưu mang trong lòng và thể hiện trong cuộc sống: “Theo gương Mẹ Chúa Giêsu, Giáo Hội trung thành gìn giữ Phúc Âm trong lòng mình, rồi loan báo, cử hành, sống và rao truyền Phúc Âm đó bằng việc dạy giáo lý cho tất cả những ai quyết định đi theo Chúa Giêsu Kitô”.46
37. Như thế, dạy giáo lý không đơn thuần là việc truyền bá kiến thức tôn giáo, mà là việc đào tạo người Kitô hữu phát triển một đức tin trưởng thành và toàn diện.47 Việc này không thể hoàn tất một sớm một chiều nhưng đòi hỏi “một tiến trình hoán cải thường xuyên đến suốt đời”.48 Đặc tính này dẫn đến việc coi dạy giáo lý người lớn, những người có khả năng đón nhận đức tin với đầy đủ trách nhiệm, là hình thức dạy giáo lý chính yếu và kiểu mẫu cho mọi hình thức dạy giáo lý khác.49
38. “Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho con người không những tiếp xúc, mà còn được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô”.50 Sự thông hiệp với Chúa Giêsu Kitô dẫn họ đến sự hiệp thông với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, hiệp thông với Ba Ngôi chí thánh.
Theo mục đích này, việc dạy giáo lý phải luôn qui Kitô nghĩa là luôn giới thiệu và tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô và qui Ba Ngôi nghĩa là dẫn đến việc tuyên xưng và kết hợp với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.51
Những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý
39. Mục đích của việc dạy giáo lý đạt được qua các nhiệm vụ khác nhau nhưng bao hàm lẫn nhau; đó là các nhiệm vụ sau: giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm cho việc truyền giáo.52
Các nhiệm vụ này đan quyện với nhau và cắm rễ sâu vào kinh nghiệm con người. Chúng được thực hiện bằng hai phương thế chính: lắng nghe sứ điệp Tin Mừng và thực thi sứ điệp ấy trong đời sống luân lý và cầu nguyện. Nhờ được vun trồng đủ mọi khía cạnh phong phú và đa dạng như vậy mà đức tin Công giáo được phát triển trọn vẹn và đời sống Kitô hữu đạt tới sự trưởng thành.
Nguồn mạch của việc dạy giáo lý
40. Nguồn mạch chính của giáo lý là Lời Chúa được trình bày trong Thánh Kinh và Thánh Truyền: “Việc dạy giáo lý luôn luôn kín múc nội dung nơi nguồn mạch sống động là Lời Chúa, được loan truyền trong Thánh Truyền và Thánh Kinh”.53 Lời Chúa là nguồn quan trọng nhất để loan truyền và giáo dục đức tin, vì nó thực sự là lời của Thiên Chúa.
Những nguồn mạch sống động của việc dạy giáo lý xuất phát từ Lời Chúa và giải thích Lời Chúa như những bản văn của phụng vụ, những tác phẩm của các Giáo Phụ, những hướng dẫn của Huấn Quyền, những biểu thức đức tin, những chứng tá của các Thánh và những suy tư thần học…, tất cả đều cung cấp cho việc dạy giáo lý những tiêu chuẩn để truyền đạt sứ điệp của mình.54
Nội dung của việc dạy giáo lý
41. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là “điểm quy chiếu để giáo lý viên trình bày một cách chính thống nội dung đức tin”,55 vì sách giáo lý này “trình bày một cách có hệ thống và tổng hợp những nội dung cốt yếu và căn bản của đạo lý công giáo về mặt đức tin cũng như về mặt luân lý, dưới ánh sáng của Công Đồng Vaticanô II và toàn bộ Truyền thống của Hội Thánh”.56 Sách này “xoay quanh bốn chiều kích cơ bản của đời sống Kitô hữu: tuyên xưng đức tin, cử hành phụng vụ, đời sống luân lý theo Tin Mừng và việc cầu nguyện”.57 Bốn chiều kích này đều phát xuất từ mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô “là đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6), đường dẫn chúng ta tới đời sống mới trong Ba Ngôi Thiên Chúa.58
Sư phạm Đức tin
42. Việc dạy giáo lý vừa phải trung thành với Lời Chúa vừa phải trung thành với con người, cho nên phương pháp và nội dung giáo lý liên hệ mật thiết với nhau. Phương pháp trình bày Đức Tin phải “thích hợp với bản chất của sứ điệp, với nguồn gốc và ngôn ngữ của nó, với những hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn Hội Thánh và điều kiện của mỗi người tín hữu mà việc dạy giáo lý nhắm đến”.59
Nhiệm vụ của việc dạy giáo lý không những làm cho Lời “vang dội” nơi con người, nhưng còn trợ giúp họ tích cực đáp lại Lời: “Một đàng, giáo lý viên giúp cho con người mở ra với chiều kích tôn giáo của đời sống, đàng khác, một cách nào đó họ giới thiệu Tin Mừng, để rồi Tin Mừng thấm nhiễm và biến đổi những thái độ của trí tuệ, lương tâm, tự do, hành động của con người, làm cho cuộc đời trở thành một hiến thân, theo gương Chúa Giêsu Kitô. Với mục đích ấy, giáo lý viên cũng cần đến những khoa về giáo dục, phù hợp với tinh thần Kitô giáo”.60
Trong việc gặp gỡ Lời, thái độ căn bản của con người là lắng nghe; đó chính là thái độ của người vâng phục: “Đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, con người phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (DV 5). Cuộc gặp gỡ như thế được thực hiện khi mà người ta dành một khoảng không gian cho Đấng muốn đến gặp gỡ con người. Vì thế, một đàng, giáo lý viên phải trình bày Lời trong tính tổng thể và quy mô, toàn bộ và không thay đổi, không được chắp vá hoặc dùng Lời Chúa như phương tiện; đàng khác, phải lưu ý đến nhân cách và khả năng của tham dự viên để Lời Chúa có thể chạm đến tâm hồn của họ, nơi mà toàn bộ sức mạnh được thâu tóm nên một.
43. Muốn được như thế, theo Hướng dẫn việc dạy giáo lý 1971, giáo lý viên cần thực hiện những việc sau:
Trung thành với Thiên Chúa nghĩa là biết chờ đợi và tôn trọng hoạt động của Thánh Thần với những đề nghị và ơn ban, nhờ sự thinh lặng nội tâm, mong đợi… Chính Thiên Chúa mới là Đấng mạc khải, thúc giục và làm cho lớn lên, còn giáo lý viên chỉ là người được gọi để làm chứng cho sứ điệp Lời Chúa.
Trung thành với con người nghĩa là việc dạy giáo lý phải nhắm đến con người để hướng dẫn họ lãnh hội Tin Mừng nhờ nội tâm hóa các giá trị của nó, hướng đến sự thể hiện cá nhân hay diễn tả lại mầu nhiệm trong cuộc sống thường ngày.
Trợ giúp tiến trình xã hội hóa nghĩa là giúp mở ra cho kinh nghiệm cộng đoàn và xã hội, giúp họ hòa nhập vào sự năng động của đời sống cộng đoàn tín hữu cũng như xã hội.
Thực hiện tiến trình cá nhân hóa trong học tập cũng như kinh nghiệm đức tin, trong nhịp độ phát triển, trong những thói quen, trong những khuynh hướng riêng, trong những niềm vui và sự đau khổ…
Chú ý đến phương pháp hoạt động để có thể trình bày sứ điệp Tin Mừng cách sống động, giúp học viên dễ lãnh hội và đáp lại lời Chúa mời gọi.
44. Giáo Hội không dùng một phương pháp nào duy nhất, mà dùng nhiều phương pháp miễn là chúng phù hợp với phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, thích hợp với nội dung giáo được giảng dạy. Qua nhiều thế kỷ, nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng tùy theo tài năng của các giáo lý viên và các học viên.
Khi nói về cách dạy giáo lý, người ta thường nói đến phương pháp quy nạp và diễn dịch. Phương pháp quy nạp hệ tại trình bày những sự kiện trong lịch sử cứu độ cũng như trong cuộc sống thường ngày để khám phá ra mạc khải của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Phương pháp diễn dịch hệ tại giải thích các sự kiện khởi đi từ các nguyên nhân của chúng. Phương pháp trước bắt đầu từ những vấn đề và những hoàn cảnh của con người, được soi dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa; phương pháp sau bắt đầu từ việc loan báo sứ điệp, đem ra thực hành trong cuộc sống. Cả hai phương pháp, hai cách tiếp cận đều hợp pháp và bổ túc cho nhau.61
45. Chúng ta phải phân tích và định giá cẩn thận vai trò của kinh nghiệm con người trong việc dạy giáo lý vì kinh nghiệm giúp người ta hiểu giáo lý đức tin dễ dàng. Thiên Chúa cũng tỏ mình ra cho mỗi người qua kinh nghiệm sống của họ. Giáo Lý viên có nhiệm vụ giúp học viên nhìn đến các kinh nghiệm sống hằng ngày dưới lăng kính của Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh. Chỉ có như thế việc dạy giáo lý mới dẫn đến một cuộc sống nội tâm Kitô sâu xa.
46. Việc học thuộc lòng giúp học viên thu nhận vào bản thân các chân lý đức tin. Việc học thuộc lòng các công thức chính yếu của đức tin rất hiệu quả sau khi đã hiểu tường tận chúng. Trong số các công thức của đức tin, học viên cần phải nhớ những đoạn Thánh Kinh chính, các kinh quan trọng trong Phụng Vụ, và các kinh thường nhật (Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính của các Tông Đồ, Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Ăn Năn Tội …).
Chủ thể của việc dạy giáo lý
47. Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của việc dạy giáo lý, cụ thể trong Giáo Hội địa phương thì “các giám mục là những người có trách nhiệm đầu tiên về việc dạy giáo lý và phải là những giáo lý viên tuyệt vời”.62 “Trong giáo phận, dạy giáo lý là một công việc duy nhất, được hoàn thành nhờ sự hợp tác giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, trong sự thông hiệp với giám mục. Tất cả cộng đoàn phải cảm thấy có trách nhiệm đối với công việc này”.63
Đối tượng của việc dạy giáo lý
48. Mọi tín hữu đều có nhu cầu và quyền lợi được tiếp nhận một nền giáo lý vững chắc:64 “Mọi người đã được rửa tội, vì được Chúa mời gọi tiến đến một đức tin trưởng thành, đều cần và có quyền được tiếp nhận một huấn giáo thích hợp. Vì thế, bổn phận hàng đầu của Giáo Hội là phải cung cấp theo nhu cầu. Về vấn đề này, nên nhắc lại ngay rằng đối tượng đón nhận Tin Mừng ‘là một con người cụ thể, trong lịch sử đã bén rễ sâu vào một hoàn cảnh nhất định và không ngừng chịu ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh tâm lý, xã hội, văn hóa và tôn giáo, dù họ có ý thức hay không. Trong việc dạy giáo lý, người đón nhận phải có thể tỏ ra là một chủ thể tích cực, ý thức và cùng chịu trách nhiệm, chứ không như một máy thu thanh im lặng và thụ động”.65 Muốn được như thế, việc dạy giáo lý phải được tổ chức theo những cấp độ khác nhau (từ căn bản đến chuyên sâu), theo sự phát triển tâm sinh lý của học viên (theo lứa tuổi), và theo những bối cảnh văn hóa, xã hội khác nhau (theo từng hoàn cảnh khác nhau).
Tổ chức việc dạy giáo lý
- Những người thừa hưởng việc dạy giáo lý
49. Chúa Giêsu “là giáo lý viên về Nước Thiên Chúa cho mọi người không phân biệt: lớn hay bé, giầu hay nghèo, khỏe hay yếu, gần hay xa, Do Thái hay lương dân, đàn ông hay đàn bà, người công chính hay kẻ tội lỗi, dân chúng hay chính quyền, cá nhân hay tập thể … Ngài quan tâm đến từng người và lo lắng đến những nhu cầu của họ”.66
Tiếp nối công trình cũng như tinh thần của Chúa Giêsu, Giáo Hội không ngừng quan tâm đến con người với những hoàn cảnh và nhu cầu khác nhau đồng thời mở ra những nẻo đường khác nhau để gặp gỡ họ và thích nghi cách dạy giáo lý cho phù hợp với tâm thức cũng như nhu cầu của họ.
Do đó, có nhiều cách dạy giáo lý khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong những hoàn cảnh khác nhau: giáo lý dự tòng và tân tòng nhằm khơi dậy đức tin ban đầu, giáo lý căn bản nhằm tăng triển đức tin của người đã được rửa tội, giáo lý lứa tuổi nhằm thích ứng với sự phát triển tâm sinh lý của người học giáo lý, giáo lý theo từng hoàn cảnh nhằm thích ứng với những bối cảnh xã hội và văn hóa khác nhau. Nhờ đó, mọi tín hữu – từ ấu nhi, thiếu nhi và thiếu niên đến giới trẻ, người cao tuổi và những người có hoàn cảnh đặc biệt – đều có thể tiếp nhận một nền giáo lý vững chắc và thích hợp.67
- Những người thi hành thừa tác vụ dạy giáo lý
50. Trong giáo phận, dạy giáo lý là công việc duy nhất, được hoàn thành nhờ sự hợp tác giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, trong sự thông hiệp với giám mục. Tất cả cộng đoàn Kitô hữu phải cảm thấy có trách nhiệm đối với dạy giáo lý và tất cả đều phục vụ cho thừa tác vụ duy nhất của Giáo Hội.68
51. Các giám mục là những người có trách nhiệm đầu tiên về việc dạy giáo lý và phải là những giáo lý viên tuyệt vời. Các ngài đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn tối cao việc dạy giáo lý trong giáo phận: phải dành ưu tiên cho việc dạy giáo lý, quan tâm đến sự xác thực của lời tuyên xưng đức tin, khuyến khích mọi người tham gia vào việc dạy giáo lý, lo cho các giáo lý viên được đào tạo phù hợp với nhiệm vụ của mình, đặc biệt là về giáo lý cũng như các nguyên tắc tâm lý và sư phạm, thiết lập trong giáo phận một dự án tổng quát, rõ ràng và mạch lạc về huấn giáo.69
52. Do bí tích truyền chức thánh, các linh mục là những nhà giáo dục đức tin. Là cộng tác viên của giám mục, các ngài khuyến khích ơn gọi và công việc của các giáo lý viên, thúc đẩy trong cộng đoàn tinh thần trách nhiệm chung đối với việc dạy giáo lý, chăm lo cho việc dạy giáo lý, khuyến khích các ơn gọi phục vụ cho việc dạy giáo lý, đảm bảo việc dạy giáo lý của cộng đoàn hòa hợp với chương trình mục vụ của giáo phận.70
53. Kinh nghiệm Kitô giáo đầu tiên của trẻ em được thể hiện trong tương quan giữa các em và cha mẹ. Không gì có thể thay thế được việc khơi dậy ý thức tôn giáo cho tuổi thơ trong gia đình. Kinh nghiệm này sẽ được đào sâu nếu như cha mẹ biết giải thích và giúp con cái nội tâm hóa các bài học giáo lý mà chúng nhận được nơi cộng đoàn giáo xứ. Cha mẹ nhận được nơi bí tích Hôn Phối ân sủng và trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cái. Cha mẹ phải được giúp đỡ để chu toàn nhiệm vụ này qua những cuộc tiếp xúc cá nhân, những cuộc gặp gỡ, những khóa học hỏi và các chương trình giáo lý dành cho người trưởng thành.71
54. Sự tham gia vào hoạt động giáo lý của các tu sĩ phát sinh từ cuộc sống theo các lời khuyên Phúc Âm. Sự đóng góp của họ vào việc dạy giáo lý không thể thay thế bằng các linh mục hay giáo dân. Nhiều dòng tu được thành lập để lo việc giáo dục đức tin cho các trẻ em và thanh thiếu niên, nhất là những người bị bỏ rơi. Các đặc sủng khác nhau của các dòng tu không làm mất đi tính đặc thù của hoạt động giáo lý mà còn làm cho nó trở nên phong phú và để lại những dấu ấn sâu sắc về tôn giáo, xã hội và sư phạm.72
55. Hoạt động giáo lý của giáo dân có tính cách riêng do ơn gọi sống giữa thế gian và biến đổi nó như ý Chúa muốn, ơn gọi này phát xuất từ bí tích Rửa Tội và được củng cố bằng bí tích Thêm Sức. Nhờ hai bí tích này, họ được thông phần vào các chức vụ của Đức Kiô; một số được mời gọi đảm nhận trách vụ giáo lý viên. Có những giáo lý viên chỉ dạy giáo lý trong một thời gian ngắn, nhưng cũng có nhiều người kiên trì hy sinh với lòng quảng đại cho công việc này. Sự phục vụ và cộng tác của họ không kém phần quý giá.73
- Việc đào tạo giáo lý viên
56. Giáo phận phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc đào tạo giáo lý viên giáo dân,74 cũng như đào tạo về dạy giáo lý cho các linh mục và cả các đại chủng sinh nữa vì họ cung ứng một hỗ trợ đặc biệt và cần thiết cho công cuộc giáo dục đức tin của Giáo Hội;75 phải đào tạo giáo lý viên cho các độ tuổi và hoàn cảnh khác nhau;76 phải đào tạo kỹ lưỡng, toàn diện và chuyên biệt để họ nên thành thạo, đảm bảo chất lượng và hiệu quả cho việc dạy giáo lý77 vì phẩm cách kitô hữu tốt đẹp nơi người giáo lý viên quan trọng hơn thủ bản giáo lý và những công cụ làm việc khác;78 phải đào tạo để mỗi nơi, mỗi cấp bậc có một số giáo lý viên chuyên nghiệp, dưới sự hướng dẫn của các mục tử và của tổ chức huấn giáo;79 và phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các giáo lý viên cho người trưởng thành,80 vì giáo lý cho người lớn là hình thức dạy giáo lý ưu việt nhất.81
57. Việc đào tạo này có mục đích giúp giáo lý viên ý thức về ơn gọi cao quý và chuyên biệt của mình trong Giáo Hội;82 giúp họ hiểu biết các mầu nhiệm kitô giáo và trở nên người môn đệ chân chính của Chúa Kitô, tham dự vào sứ mạng cứu rỗi của Ngài;83 giúp họ có đủ khả năng và tư cách để loan báo Chúa Giêsu Kitô và cuộc đời của Ngài trong lịch sử cứu độ, vì việc dạy giáo lý phải mang tính cách quy Kitô cách rõ nét;84 và loan báo nhân danh Giáo Hội.85
58. Các ứng viên được tuyển chọn vào trách nhiệm giáo lý viên theo các tiêu chuẩn đầy đủ, chính xác và dễ phối kiểm do quyền bính của Giáo Hội địa phương thẩm định và đề ra.86 Họ phải được đào tạo để có được sự thống nhất và hài hòa trong nhân cách của giáo lý viên nghĩa là đạt đến sự thống nhất đời sống trên các bình diện thiêng liêng, thế tục và tông đồ;87 và có được một đức tin sâu sắc, gắn bó với Chúa Kitô và Giáo Hội, đồng thời nhạy cảm với các vấn đề của xã hội.88
59. Tóm lại, phải đào tạo giáo lý viên thế nào để họ có thể là thầy dạy, là nhà giáo dục và là chứng nhân,89 thành một người tốt, một tín hữu sốt sắng và một tông đồ nhiệt thành.90 Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải được đào tạo Thánh kinh và Thần học, được tiếp xúc với các khoa học tâm lý, xã hội, giáo dục và truyền thông, được đào tạo về sư phạm và được đào tạo giữa lòng các cộng đoàn Kitô hữu91 cũng như trong các trường dành cho giáo lý viên thông thường, cho người có trách nhiệm về huấn giáo và cho các chuyên viên về huấn giáo.92
Những địa điểm huấn giáo
60. Trong lịch sử, địa điểm hay trung tâm huấn giáo chính là cộng đoàn tín hữu dưới những dạng thức khác nhau, mẫu mực như Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương, gần gũi như gia đình, giáo xứ, trường học Công giáo, các hiệp hội và phong trào Công giáo, các cộng đoàn Giáo hội cơ bản…, ở những nơi ấy người Kitô hữu được sinh ra, được giáo dục và sống trong đức tin.93
Việc tổ chức mục vụ huấn giáo
- Cấp giáo phận
61. Việc dạy giáo lý là một sinh hoạt rất quan trọng trong đời sống của một Giáo Hội địa phương, đến nỗi không một giáo phận nào mà không cần đến một Ban giáo lý.94Ban giáo lý (BGL) là cơ quan qua đó giám mục, người chịu trách nhiệm cộng đoàn và thầy dạy đức tin, điều hành và hướng dẫn tất cả các sinh hoạt huấn giáo của giáo phận.95
Nhiệm vụ chính của BGL giáo phận là: a/ phân tích tình hình giáo dục đức tin để xác định nhu cầu liên quan đến huấn giáo, b/ soạn thảo một chương trình hành động ấn định rõ mục tiêu, phương hướng và hoạt động cụ thể, c/ khuyến khích và đào tạo giáo lý viên, d/ soạn thảo hay cung cấp cho giáo lý viên những phương tiện hỗ trợ cho việc dạy giáo lý, e/ tăng cường và nâng đỡ những học viện chuyên biệt về giáo lý của giáo phận, f/ cải thiện nguồn nhân vật lực ở cấp giáo phận, giáo hạt và giáo xứ, và g/ cộng tác với ủy ban Phụng vụ, đặc biệt trong việc dạy giáo lý khai tâm và dự tòng.96 Để hoàn tất những công việc trên, văn phòng giáo lý phải nhờ đến một nhóm linh mục, tu sĩ và giáo dân có khả năng chuyên môn.97
Cấp liên giáo phận
62. Các giáo phận khác nhau, đặc biệt các giáo phận gần gũi về mặt địa lý và đồng nhất về văn hóa, nên kết hợp những hoạt động riêng lại với nhau, góp chung những kinh nghiệm và những việc làm, những khả năng và những phương tiện, để những giáo phận có nhiều khả năng hơn giúp đỡ các giáo phận khác và người ta có thể soạn thảo một chương trình hành động chung mang tính địa phương.98
Cấp quốc gia
63. Bên cạnh Hội đồng Giám mục, phải thiết lập một ban huấn giáo hay trung tâm quốc gia về huấn giáo mà nhiệm vụ chính là giúp đỡ mỗi giáo phận về công việc dạy giáo lý, những công việc vượt qua khả năng của giáo phận hay của miền như xuất bản những tài liệu cấp quốc gia, tổ chức những hội nghị toàn quốc, phổ biến những thông tin và kế hoạch về huấn giáo, phối hợp sinh hoạt và giúp đỡ các giáo phận thiếu trang bị về vấn đề huấn giáo.99
Cấp quốc tế
64. Trong việc huấn giáo, tác vụ của Phêrô được thực thi một cách tuyệt vời qua những giáo huấn của người. Về vấn đề huấn giáo, Đức Thánh Cha hành động cách trực tiếp và đặc biệt qua trung gian của Bộ Giáo Sĩ.100
Tầm quan trọng của sự phối hợp
65. Các hoạt động loan báo Tin Mừng nói chung và huấn giáo nói riêng cần có sự phối hợp tốt.101 Sự phối này không chỉ là vấn đề thuần túy chiến lược để làm cho các hoạt động được hiệu quả hơn, nhưng còn là vấn đề thần học liên quan đến sứ vụ duy nhất và toàn vẹn của Giáo Hội: duy nhất vì khởi đi và quy hướng về Đức Giêsu Kitô, toàn vẹn vì bao gồm nhiều hoạt động từ loan báo Tin mừng đầu tiên đến tăng trưởng đức tin cũng như đem Tin Mừng thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hoá.102
66. Trong thực tế, cần có sự phối hợp giữa những hình thức dạy giáo lý cho các lứa tuổi và môi trường xã hội khác nhau, giữa việc dạy giáo lý với những hình thức khác của tác vụ Lời Chúa và loan báo Tin Mừng, giữa sinh hoạt truyền giáo và sinh hoạt dự tòng, giữa hoạt động giáo dục và giáo dục đức tin cho cùng một đối tượng nhất là ấu nhi, thiếu nhi, thiếu niên và giới trẻ.103
67. Kế hoạch giáo lý cấp giáo phận bao gồm những tiến trình dạy giáo lý khác nhau dành cho những người được thừa hưởng thuộc các lứa tuổi khác nhau”.104 Để các tiến trình dạy giáo lý khác nhau này có được sự liên kết chặt chẽ với nhau trong một kế hoạch giáo lý duy nhất, cần quan tâm đến việc dạy giáo lý cho người trưởng thành đồng thời lấy nó làm trục chính.105
2. Dạy giáo lý trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa
68. Công đồng Vaticanô II từ năm 1965 đã nhận ra những đổi thay sâu xa trong đời sống xã hội tác động lớn lao trong trên đời sống đức tin của các tín hữu: “nhân loại hôm nay đang sống vào một giai đoạn mới của lịch sử của mình. Đó là giai đoạn chất chứa những đổi thay sâu xa và mau chóng đang dần dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu. Những thay đổi do óc thông minh và nỗ lực sáng tạo của con người khơi dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con người, trên cách suy tư và hành động đối với sự vật cũng như con người. Như vậy, chúng ta có thể nói đến sự biến đổi đích thực về mặt xã hội cũng như văn hóa, sự biến đổi này đang lan tràn tới cả đời sống tôn giáo”.106
69. Từ những nhận định của Công Đồng, Đức Thánh Cha Chân Phước Gioan Phaolô II đã đưa ra chương trình mục vụ “Tân Phúc âm hóa” mà nội dung chính đã được Ngài diễn tả trong bài nói chuyện với các Giám mục Châu Mỹ La tinh nhân dịp kỷ niệm 500 năm rao giảng Phúc Âm tại châu lục này: “Công cuộc kỷ niệm bán thiên niên việc rao giảng Phúc Âm sẽ có đầy đủ ý nghĩa nếu chư huynh, là giám mục, cùng với hàng linh mục và giáo dân, dấn thân không phải trong việc Tái Phúc âm hoá (re-evangelization), nhưng trong cuộc Tân Phúc âm hóa (new evangelization): mới về lòng nhiệt thành, mới về phương pháp và mới về cách diễn tả.”
70. Trong tông huấn “Người Kitô Hữu Giáo Dân” (Christifideles laici), công bố năm 1988, ĐTC Chân Phước Gioan Phaolô II lại nói đến Tân Phúc Âm hóa nhưng trong một hoàn cảnh khác, hoàn cảnh của “nhiều quốc gia, trước đây có một đời sống Kitô phồn thịnh và có khả năng làm phát sinh những cộng đồng đức tin sống động, nay bị thử thách nặng nề hay có khi bị biến đổi sâu xa vì những hiện tượng thờ ơ, thế tục hoá và vô thần. Đây đặc biệt là hoàn cảnh của các nước thuộc thế giới tân tiến. Tại các vùng khác trên thế giới, các truyền thống đạo đức và các tâm tình Công giáo vẫn còn được bảo tồn sống động. Nhưng các gia sản thiêng liêng đó đang gặp nguy cơ bị tan biến dưới sức mạnh của nhiều trào lưu, trong đó có trào lưu tục hóa và sự lan tràn của các giáo phái (sects). Chỉ có cuộc Tân Phúc âm hoá mới có thể đoan chắc cho đức tin thăng tiến tinh nguyên và sâu xa, có khả năng làm cho những truyền thống ấy trở thành một sức mạnh tự do thật”.107
Tân phúc âm hóa là gì?
71. Những thay đổi trong xã hội ngày càng sâu rộng và gây ra cuộc khủng hoảng đức tin trong đời sống Giáo Hội. Vì thế, ĐTC Bênêđictô XVI đã coi Tân Phúc âm hóa như chương trình mục vụ chính yếu, qua việc thiết lập Hội đồng Giáo hoàng về việc cổ vũ Tân Phúc âm hóa và triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục khóa thường lệ, lần thứ XIII, tháng 10 năm 2012, với đề tài “Tân phúc âm hóa để thông truyền Đức Tin”.
72. Trong Tài liệu Chuẩn bị cho Hội Nghị vào tháng 10 năm 2012, Thượng Hội đồng Giám mục không chỉ muốn duyệt xét lại thái độ của chúng ta đối với việc LBTM trên bình diện hành động, nhưng còn muốn: “duyệt xét lại phẩm chất của đức tin của chúng ta, duyệt xét lại cách thức là Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, được sai đi để giới thiệu Ngài cho thế giới, là chứng nhân đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Lc 24,48; Cv 1,8), được kêu gọi để ra đi làm cho mọi người thuộc mọi dân nước trở thành môn đệ của Chúa Kitô (x. Mt 28,19). Câu hỏi về việc truyền đạt đức tin không được xoay vần chung quanh chiến thuật truyền đạt cho hữu hiệu hơn, hay chung quanh đối tượng của việc truyền đạt, nhưng phải được hiểu như câu hỏi nhắm đến chủ thể được trao phó trách nhiệm lo công việc thiêng liêng này. Phải trở thành một câu hỏi của Giáo Hội về chính mình”.108
Tân Phúc Âm hóa những gì?
73. Trong ba lãnh vực cần canh tân là lòng nhiệt thành, phương pháp và cách diễn tả, thì ưu tiên hàng đầu là canh tân lòng nhiệt thành nơi những người dấn thân trong các lãnh vực mục vụ của Giáo Hội, gồm các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân; sau đó, mới đến phương pháp và sau cùng là cách diễn tả.
Tân Phúc Âm hóa chủ thể dạy giáo lý
74. Để có thể đổi mới lòng nhiệt thành trong công cuộc “Tân Phúc Âm hóa”, trước hết cần đổi mới nhiệt tình của chủ thể giáo lý, nghĩa là đổi mới nhiệt tình loan báo Tin Mừng của chính giáo lý viên, những người trực tiếp tham gia dạy giáo lý. Điều này đòi hỏi tái xác định căn tính của giáo lý viên và khám phá lại linh đạo của giáo lý viên theo tinh thần Tân Phúc Âm hóa.
- Xác định lại căn tính của Giáo lý viên
75. Trong cái nhìn của Giáo Hội, giáo lý viên là: (1) “những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Phúc âm không thể thay thế; họ là những người tiêu biểu cho sức mạnh căn bản của các cộng đoàn Kitô hữu”;109 (2) “một giáo dân được Giáo Hội đề cử, tùy theo những nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và bước theo, nơi những người chưa biết Chúa và ngay cả nơi các tín hữu”;110 (3) một ơn gọi phát xuất từ bí tích Rửa tội và được củng cố bằng bí tích Thêm sức.111
- Khám phá lại linh đạo giáo lý viên
76. Trong bài nói chuyện với khoảng 1.600 giáo lý viên tại Đại Hội Quốc tế về Giáo lý diễn ra ở Rôma từ 26-29/9/2013, ĐTC Phanxicô cho thấy nét chính yếu trong linh đạo giáo lý viên: (1) kết hợp mật thiết với Đức Kitô, (2) noi gương Đức Kitô ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác, và (3) đến tận những vùng biên để loan báo Tin Mừng.
Theo Đức Thánh Cha, đổi mới lòng nhiệt thành là khởi sự lại từ Đức Kitô, là “đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình”,112 cụ thể là sống thân mật với Chúa trong thinh lặng, trong sự hiện diện của Ngài, để cho lửa tình yêu của Ngài sưởi ấm tâm hồn để có thể sưởi ấm tâm hồn những người khác; là học với Chúa để ra khỏi chính mình và gặp gỡ những người khác. Giáo lý viên phải ý thức rằng mình đã nhận được một món quà đức tin, đến lượt mình, cũng phải trao nó lại cho những người khác như một món quà; là đi với Chúa đến tận các vùng biên, nơi Chúa Giêsu chờ đợi chúng ta trong con tim của anh em chị em, nơi vết thương hằn sâu trên da thịt của họ, trong đời sống bị áp bức của họ, trong tâm hồn thiếu vắng niềm tin của họ.113
Linh đạo này giúp giáo lý viên đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui.
Tân Phúc Âm hóa phương pháp dạy giáo lý
77. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, ĐTC Phanxicô dành tất cả 14 số [160-174] để bổ sung cho những văn kiện của Tòa Thánh về việc dạy giáo lý. Sau khi xác định việc dạy giáo lý như là đòi hỏi của mệnh lệnh truyền giáo nhằm giúp người thụ giáo lớn lên trong đức tin (Gl 2,20) [160] nhờ tăng trưởng trong đức ái (1 Tx 3,12) [161] hay giúp họ được biến đổi trong Đức Kitô nhờ sống một đời sống “theo Thần Khí” (Rm 8,5) [162], Đức Thánh Cha đề cập tới trọng tâm của việc dạy giáo lý [163-165], khía cạnh khai tâm mầu nhiệm (mystagogic initiation) trong việc dạy giáo lý [166-168], đồng hành thiêng liêng [169-173] và nguồn mạch của việc dạy giáo lý [174]. Chúng ta cùng tìm hiểu các vấn đề này, ngoại trừ việc khai tâm mầu nhiệm sẽ được bàn tới trong đề mục sau.
- Lời loan báo Tin Mừng đầu tiên phải không ngừng vang lên
78. Theo Đức Thánh Cha, lời loan báo Tin Mừng đầu tiên “Đức Kitô yêu bạn và hiến mạng sống để cứu bạn. Ngài đang sống bên cạnh bạn để soi sáng, ban sức mạnh và giải thoát bạn” phải không ngừng vang lên trên môi miệng của giáo lý viên. Nó là lời rao giảng chính yếu mà giáo lý viên phải không ngừng nghe đi nghe lại cũng như lặp đi lặp lại bằng nhiều cách khác nhau trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp độ và mọi thời điểm, vì chính bản thân giáo lý viên cần được loan báo Tin Mừng.114Lời rao giảng này được phản ánh trong huấn giáo và không ngừng soi sáng huấn giáo. Nó phải diễn tả tình thương cứu độ của Thiên Chúa và đi trước mọi bổn phận luân lý hay tôn giáo. Nó không được áp đặt nhưng kêu gọi tự do đón nhận sự thật. Nó phải được đánh dấu bằng niềm vui, sự khích lệ, sức sống và sự cân bằng hài hòa để không bị giản lược vào mớ lý thuyết khô khan mang tính triết học hơn là tính phúc âm. Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải có thái độ gần gũi, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng ấm, niềm nở, tựu trung là không phê phán nhưng giúp người nghe mở lòng ra cho sứ điệp Tin Mừng.115
- Đồng hành với người thụ giáo trong tiến trình tăng trưởng đức tin
79. Trong thế giới mà con người đau khổ không những vì không được ai biết đến mà còn vì tò mò tọc mạch đời sống của người khác, thì kitô hữu phải học biết đồng hành với người khác trong sự tôn trọng huyền nhiệm của họ, phải thể hiện được thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của Đức Kitô để giúp chữa lành và khích lệ họ tăng trưởng trong đời sống kitô giáo.116
Đồng hành thiêng liêng phải dẫn người khác đến gần Chúa hơn, nơi Người họ đạt tới sự tự do đích thực. Nó sẽ phản tác dụng khi giúp họ trở nên tự mãn hơn và không còn lữ hành với Đức Kitô trên đường về với Chúa Cha.117
80. Việc đồng hành với người khác đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan ngoãn vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, cần phải biết lắng nghe người khác với lòng tôn trọng và cảm thông để có được những lời nói và cử chỉ thích hợp giúp đánh thức khát vọng lý tưởng kitô giáo, ước muốn đáp lại tình yêu của Thiên Chúa ở nơi họ và làm cho những gì Ngài gieo trong cuộc đời họ sinh hoa kết trái. Vì vậy, cần có khoa sư phạm dẫn người ta từng bước một tới sự lãnh hội đầy đủ mầu nhiệm, đạt tới sự trưởng thành thể hiện qua những quyết định tự do và trách nhiệm.118
81. Đồng hành viên cần hiểu hoàn cảnh và đời sống thiêng liêng của mỗi người là một huyền nhiệm không thể thấu triệt từ bên ngoài. Do đó, khi cần phải sửa lỗi để họ lớn lên, đồng hành viên sẽ giúp họ nhận ra điều xấu đã làm mà không quy trách và kết tội. Đồng hành viên giỏi không đầu hàng trước thất bại và sợ hãi nhưng mời gọi người khác bỏ lại mọi sự phía sau để lên đường loan báo Tin Mừng.119
Việc đồng hành thiêng liêng đích thực luôn khởi đầu và triển nở trong lãnh vực phục vụ cho truyền giáo. Khi đồng hành với các môn đệ, thánh Phaolô cống hiến cho họ những quy tắc cho đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ, chứ không can thiệp hay bỏ mặc họ tự thể hiện cách đơn độc.120
- Việc dạy giáo lý phải dựa trên Lời Chúa
82. Mọi hoạt động loan báo Tin Mừng phải dựa trên Lời Chúa, phải lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm chứng cho Lời. Lời Chúa chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng. Lời Chúa phải không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi hoạt động của Hội Thánh. Việc giảng Lời sống động và hiệu quả có tác dụng chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích và Lời đạt được hiệu quả tối đa trong bí tích.121
Thiên Chúa đã nói với chúng ta tất cả những gì chúng ta cần biết về Người trong Kinh Thánh. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đặc biệt đọc Lời Chúa trong tâm thế cầu nguyện (lectio divina). Lời Chúa phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng thông truyền đức tin của chúng ta trở nên phong phú.122
Tân Phúc Âm hóa cách diễn tả trong việc dạy giáo lý
83. Đức Thánh Cha nhắc nhở giáo lý viên phải quan tâm đến khía cạnh khai tâm mầu nhiệm (mystogogic initiation) trong việc dạy giáo lý. Việc khai tâm này đòi hỏi sự tham gia của cộng đoàn và việc đánh giá lại các dấu chỉ phụng vụ. Theo Đức Thánh Cha, nhiều thủ bản và chương trình chưa lưu ý đủ đến nhu cầu khai tâm mầu nhiệm vốn có nhiều dạng thức khác nhau tùy nhận thức của mỗi cộng đoàn giáo dục.
- Vận dụng các biểu tượng giầu ý nghĩa
84. Huấn giáo là việc công bố Lời và luôn tập trung vào Lời, nhưng cũng đòi hỏi môi trường thích hợp và sự trình bày hấp dẫn, việc sử dụng các biểu tượng giầu ý nghĩa vốn tháp nhập người nghe vào tiến trình tăng trưởng rộng hơn, việc toàn nhập mọi chiều kích của con người vào hành trình lắng nghe và đáp lại của cộng đoàn.123
- Vận dụng cái đẹp để thông truyền đức tin
85. Huấn giáo không chỉ nhấn đến sự thật nhưng cần chú ý và quý chuộng cái đẹp vì nó là phương tiện làm rung động lòng người và giúp cho sự thật cũng như sự tốt lành của Đấng Phục Sinh trở nên rạng rỡ trong lòng họ. Vì vậy, cần phải huấn luyện vận dụng cái đẹp để thông truyền đức tin. Mỗi Giáo hội phải khuyến khích dùng nghệ thuật cổ điển hoặc đương đại trong công cuộc Phúc Âm hóa, mạnh dạn khám phá những ký hiệu mới, những biểu tượng mới, những cách thể hiện khác nhau của cái đẹp cũng như những hình thức phá cách của nó trong các nền văn hóa để thông truyền đức tin.124
- Nhấn mạnh đến sự hấp dẫn và lý tưởng của đời sống trung thành với Tin Mừng
86. Về khía cạnh luân lý trong huấn giáo, cần nhấn mạnh luôn đến sự hấp dẫn và lý tưởng của đời sống khôn ngoan, thành toàn và phong phú khi trung thành với Tin Mừng. Nhờ sự hấp dẫn và lý tưởng đó, người ta hiểu được tại sao mình phải từ bỏ điều xấu. Giáo lý viên không nên là chuyên viên báo họa hay quan tòa khắc nghiệt, trái lại, nên là sứ giả vui tươi của những đề nghị đầy thách thức hay người bảo vệ cái tốt và cái đẹp trong đời sống trung thành với Tin Mừng.125
Nhận định chung
87. Hướng dẫn của Giáo Hội hoàn vũ về huấn giáo cho chúng ta thấy việc dạy giáo lý trước hết và trên hết phải phục vụ cho sứ vụ chung của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người, nhờ đó họ khám phá ra ý nghĩa đời sống và được lớn lên như những con người mới. Nếu như sứ vụ này có tính duy nhất vì khởi đi và quy hướng về Đức Giêsu và có tính toàn diện vì bao gồm nhiều hoạt động khác, từ loan báo Tin Mừng đầu tiên đến giáo dục đức tin trưởng thành và đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa, thì mọi hoạt động giáo lý cũng phải duy nhất và toàn diện: duy nhất khi công bố Danh Chúa Giêsu và toàn diện khi làm cho đức tin của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng thành và trở thành tác nhân biến đổi xã hội.
88. Trong bối cảnh Tân Phúc Âm hóa, huấn giáo hồi sinh đức tin cho những người đã được rửa tội, dẫn đưa họ đến cùng Chúa Giêsu, đến cuộc gặp gỡ cá vị với Ngài, để chính họ có thể trở thành người thông truyền đức tin, thông truyền kinh nghiệm gặp gỡ Chúa cho mọi người.
Như thế, dù có nhiều hình thức Phúc Âm hóa khác nhau và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau thì mọi nỗ lực và hoạt động giáo lý vừa phải trung thành với Thiên Chúa, nghĩa là trung thành với sứ điệp Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng làm người, đã chết và sống lại, vừa phải trung thành với con người, nghĩa là phải khởi đi từ những hoàn cảnh cụ thể và các mối quan tâm của họ, rồi quy về mối tương quan giữa con người với nhau cũng như giữa con người với Thiên Chúa.
(Còn tiếp)
————————–
36 x. PHAN TẤN THÀNH: “Catechesis – Catechismus – Catechetica” trong Thời sự thần học, s.59, Trung Tâm Học Vấn Đa Minh XB, 2/2013, tr. 11-45.
37 HÀ VĂN MINH, Thần học Bối cảnh tác động thế nào đến việc Đào tạo Giáo lý viên, trong Hội thảo Thần học tại TTMV.SG ngày 8/3/2014.
38 BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông huấn Lời Chúa, 74.
39 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 168.
40 Thực ra, tông huấn Evangelii Nuntiandi phân biệt ba môi trường của evangelizatio: 1) Loan báo Tin Mừng cho người ngoại đạo (ss. 50, 51, 53), tức là truyền giáo; 2) Mục vụ (s. 54), chú trọng đến việc huấn giáo; 3) Loan báo canh tân (ss. 52, 56), dành cho những nơi đã mất đạo, hoặc không thực hành đạo. Dù sao, tông huấnEvangelii Nuntiandi đã làm đảo lộn mối tương quan giữa missio và evangelizatio. Trước đây (trong Sắc lệnh Ad gentes số 6), evangelizatio ám chỉ một khía cạnh của công tác truyền giáo (missio). Bây giờ, evangelizatio bao trùm toàn thể hoạt động của Hội Thánh, trong đó missio chỉ là một lãnh vực của nó. x. PHAN TẤN THÀNH, Bài thuyết trình Loan báo Tin mừng, tái loan báo Tin mừng, loan báo Tin mừng cách mới mẻ: những bài học lịch sử, trong Forum Thần học 21/4/2012, UBGLĐT.
41 HDTQ 46.
42 HDTQ 48.
43 HDTQ 59; x. DGL 18.
44 HDTQ 61.
45 HDTQ 82.
46 HDTQ 78.
47 x. HDTQ 84.
48 HDTQ 56.
49 x. HDTQ 59.
50 DGL 5; x. HDTQ 80.
51 x. HDTQ 98 – 100.
52 x. HDTQ 84-86.
53 DGL 27; x. HDTQ 94.
54 x. HDTQ 96.
55 HDTQ 120.
56 HDTQ 121.
57 HDTQ 122.
58 HDTQ 123.
59 HDTQ 149.
60 HDTQ 147.
61 HDTQ 148.
62 HDTQ 222.
63 HDTQ 219.
64 x. LBTM 49-50; DGL 14. 35tt.
65 HDTQ 167.
66 HDTQ 163.
67 HDTQ 165.
68 HDTQ 219.
69 HDTQ 222-223.
70 HDTQ 224-225.
71 HDTQ 226-227.
72 HDTQ 228-229.
73 HDTQ 230-231.
74 HDTQ 230-231.
75 x. HDTQ 234.
76 x. HDTQ 232.
77 x. HDTQ 219. 234.
78 x. HDTQ 156.
79 x. HDTQ 233-234.
80 x. HDTQ 29.
81 x. HDTQ 59.
82 x. HDTQ 221.
83 x. HDTQ 235.
84 x. HDTQ 223-225. 235.
85 x. HDTQ 236.
86 x. HDTQ 16-17. 20-21. 23-25.
87 x. HDTQ 235-236.
88 x. HDTQ 237.
89 x. HDTQ 237.
90 x. HDTQ 238-239.
91 x. HDTQ 240-247.
92 x. HDTQ 248-251.
93 x. HDTQ 253.
94 x. HDTQ 267.
95 x. HDTQ 265.
96 x. HDTQ 266.
97 x. HDTQ 267.
98 x. HDTQ 268.
99 x. HDTQ 269.
100 x. HDTQ 270. Hiện nay là Hội đồng Tòa Thánh về việc cổ vũ Tân phúc âm hóa.
101 “… Trong Giáo Hội, ta không thể phó mặc mọi điều trên cho may rủi hay ứng biến bừa bãi. Chúng đòi một cam kết chung đối với một phương án mục vụ có thể gợi lên điểu chủ chốt nghĩa là đặt trọng tâm vào đấng chủ chốt, tức Chúa Giêsu Kitô”. x. Bài diễn văn ngày 14 tháng Mười 2012 của Đức Phanxicô với Hội Nghị Toàn Thể của Hội Đồng Giáo Hoàng về việc cổ vũ Tân Phúc Âm Hóa.
102 x. HDTQ 272.
103 x. HDTQ 273.
104 x. HDTQ 274.
105 x. HDTQ 275.
106 Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, 4.
107 GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 34.
108 Lineamenta, 1.
109 GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 73.
110 Hội nghị khoáng đại của Bộ Rao Giảng Phúc âm cho các dân tộc, 1.
111 x. HDTQ 230-231.
112 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 3.
113 x. Bài diễn từ của ĐTC Phanxicô gửi các giáo lý viên nhân dịp Hội nghị quốc tế về Giáo lý tại Rôma 27/9/2013.
114 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 164.
115 Sđd, 165.
116 Sđd, 169.
117 Sđd, 170.
118 Sđd, 171.
119 Sđd, 172.
120 Sđd, 173.
121 Sđd, 174.
122 Sđd, 174.
123 Sđd, 166.
124 Sđd, 167.
125 Sđd, 168.
Nguồn: bangiaoly.org