Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
về DẠY GIÁO LÝ TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA (HẾT)
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
IX. NHIỆM VỤ LIÊN QUAN ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA
+++
Sự Khích Lệ cho Tất Cả Những Ai Có Trách Nhiệm Dạy Giáo Lý
62. Giờ đây, các hiền huynh và các con yêu dấu, tôi muốn lời của tôi, có ý là lời khuyên nhủ chân thành và tận đáy lòng của tôi trong tác vụ là mục tử của Hội Thánh hoàn vũ, để đốt cháy lòng anh em, như các thư của Thánh Phaolô gửi cho các cộng sự viên trong Thánh Kinh là Titô và Timôthê, hoặc như Thánh Augustinô viết cho phó tế Deogratias, khi phó thế này nản lòng trước công tác làm Giáo Lý viên của mình, một tiểu luận về niềm vui dạy Giáo Lý.[112] Phải, tôi muốn gieo thật nhiều can đảm, hy vọng và sự hăng say trong lòng tất cả những người khác nhau có nhiệm vụ dạy về tôn giáo và huấn luyện về đời sống qua việc làm theo Tin Mừng.
Các Giám Mục
63. Để bắt đầu tôi xin quay sang các huynh đệ của tôi là các Giám Mục: Công Đồng Vaticanô II đã dứt khoát nhắc nhở cho các hiền huynh về nhiệm vụ của các huyền huynh trong lãnh vực dạy Giáo Lý,[113] và các Nghị Phụ của Đại Hội chung lần Thứ Tư của Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng đã nhấn mạnh điều ấy. Các hiền huynh thân mến, các hiền huynh có ở đây một sứ vụ đặc biệt trong các Hội Thánh của mình: Trên tất cả những người khác, các hiền huynh có nhiệm vụ chính yếu trong việc dạy Giáo Lý, là Giáo Lý viên đích thực nhất. Cùng với Đức Thánh Cha, trong tinh thần Giám Mục tập thể, các hiền huynh chịu trách nhiệm về dạy Giáo Lý khắp nơi trong Hội Thánh. Cho nên hãy đón nhận điều mà tôi nói với các hiền huynh tận đáy lòng của tôi.
Tôi biết rằng thừa tác vụ của các hiền huynh là Giám Mục càng ngày càng thêm phức tạp và nặng nề. Các hiền huynh có cả ngàn nhiệm vụ: từ việc huấn luyện các tân linh mục đến việc phải hiện diện tích cực với các cộng đoàn tín hữu, từ việc sống và cử hành cách xứng đáng các Bí Tích và các việc thờ phượng đến việc lo lắng cho sự tiến triển của con người và bảo vệ nhân quyền. Nhưng với bất cứ giá nào, đừng để việc dạy Giáo Lý cách hiệu quả phải nhường bước cho bất cứ việc nào khác. Sự quan tâm này sẽ dẫn đưa các hiền huynh đến việc truyền thông cách riêng đến các tín hữu của các hiền huynh Giáo Lý ban sự sống. Nhưng nó cũng dẫn đưa các hiền huynh đến việc đảm nhiệm công việc điều hành hàng đầu việc dạy Giáo Lý theo chương trình mà Hội Đồng Giám Mục của các hiền huynh đề ra, đồng thời cũng tụ tập quanh mình các phụ tá có khả năng và đáng tin cậy. Vai trò chính của các hiền huynh là tạo ra và duy trì trong các Hội Thánh của các hiền huynh một sự say mê dạy Giáo Lý thật sự, một sự say mê được thể hiện qua một tổ chức thích đáng và hữu hiệu, vận dụng nhân sự, phương tiện và công cụ cũng như tài nguyên cần thiết. Các hiền huynh nên biết rằng, nếu việc dạy Giáo Lý được thi hành tốt đẹp trong các Hội Thánh địa phương của các hiền huynh, thì tất cả những điều khác sẽ trở nên dễ dàng. Và không cần nói, nhiều khi sự nhiệt thành của các hiền huynh buộc các hiền huynh phải lãnh công tác mà không ai nhớ ơn cả là lên án những lệch lạc, sửa chữa những sai lầm, nó thường sẽ đem lại cho các hiền huynh niềm vui và an ủi là thấy Hội Thánh của các hiền huynh phát triển vì việc dạy Giáo Lý được thi hành ở đó như Ý Chúa.
Các Linh Mục
64. Phần các con, hỡi các linh mục, ở đây các con có một thửa ruộng mà trong đó các con là những người phụ tá trực tiếp của Giám Mục của các con. Công Đồng đã gọi các con là “những thầy dạy Đức Tin;”[114] không có cách nào tốt hơn cho các con để thành những thầy dạy như thế hơn là dồn hết nỗ lực tốt nhất để làm cho cộng đồng của các con được tăng trưởng trong Đức Tin. Dù các con coi sóc một giáo xứ hay là tuyên úy của các trường trung, tiểu học hay đại học, hay có các nhiệm vụ về các hoạt động mục tử ở bất cứ mức độ nào, hoặc là người lãnh đạo các cộng đồng lớn hay nhỏ, nhất là các nhóm trẻ, Hội Thánh kỳ vọng rằng các con không bỏ sót bất cứ điều gì cần thiết cho nỗ lực dạy Giáo Lý có tổ chức vững chắc và định hướng đúng đắn. Các phó tế hay các thừa tác viên khác mà chúng con may mắn có với các con đương nhiên là những người phụ tá của các con trong việc này. Tất cả mọi tín hữu có quyền được học Giáo Lý; và tất cả mọi mục tử có nhiệm vụ cung ứng việc dạy Giáo Lý. Cha sẽ luôn đòi hỏi các nhà lãnh đạo dân sự phải tôn trọng sự tự do trong việc dạy Giáo Lý; nhưng với hết sức mình, cha nài nỉ các con, các thừa tác viên của Đức Kitô: Đừng vì thiếu nhiệt tâm hay vì những thành kiến đáng tiếc nào đó mà để cho các tín hữu không được học Giáo Lý. Đừng để người ta nói rằng: “con cái nài xin thức ăn, mà không ai cho chúng.”[115]
Các Tu Sĩ Nam Nữ
65. Nhiều dòng tu cho nam giới và nữ giới được thành lập với mục đích để giáo dục về Kitô giáo cho trẻ em và người trẻ, nhất là những em hầu như bị bỏ rơi. Trong lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã tận tâm dấn thân phục vụ các công tác dạy Giáo Lý trong Hội Thánh, bằng cách chu toàn các công tác cách thích đáng và hiệu quả. Vào thời điểm mà những liên kết giữa các tu sĩ và các mục tử cần được nhấn mạnh cũng như sự hiện diện tích cực của các dòng tu và các thành viên của họ trong các chương trình mục vụ của các Hội Thánh địa phương, Cha hết lòng khuyên nhủ các con, là những người mà việc thánh hiến tu trì phải làm cho các con sẵn sàng hơn để phục vụ Hội Thánh, phải sửa soạn càng kỹ lưỡng càng tốt cho công tác dạy Giáo Lý tùy theo ơn gọi khác nhau của dòng các con và sứ vụ được trao phó cho các con, và phải mang sự quan tâm này đi khắp nơi. Các cộng đoàn hãy dành hết khả năng và phương tiện của mình cho công tác đặc biệt dạy Giáo Lý này.
Các Giáo Lý Viên Giáo Dân
66. Nhân danh Hội Thánh, Cha xin cám ơn các con, các thầy cô và Giáo Lý viên giáo dân trong các giáo xứ, các thanh niên cũng như rất nhiều thiếu nữ trên khắp thế giới đang hiến thân phục vụ việc giáo dục về tôn giáo cho nhiều thế hệ. Công việc của các con thường là khiêm hạ và âm thầm nhưng được thực hiện với lòng nhiệt thành hăng say và quảng đại, và là một hình thức xuất xắc của việc tông đồ giáo dân, một hình thức quan trọng đặc biệt ở những nơi mà các trẻ em và người trẻ không được huấn luyện về tôn giáo một cách thích hợp trong gia đình vì nhiều lý do khác nhau. Bao nhiêu người trong chúng ta đã nhận được từ những người như các con những khái niệm đầu tiên về Giáo Lý và việc sửa soạn cho việc Xưng Tội, Rước Lễ Lần đầu và Thêm Sức! Đại Hội chung lần Thứ Tư của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không quên các con. Cha cũng hợp thỉnh để khích lệ các con tiếp tục cộng tác vì đời sống Hội Thánh.
Nhưng trên hết từ “Giáo Lý viên” thuộc về tất cả các Giáo Lý viên trong các xứ truyền giáo. Được sinh ra trong một gia đình Kitô giáo hay đã trở lại Kitô giáo ở một thời điểm nào đó, và được các nhà truyền giáo hay một Giáo Lý viên khác dạy dỗ, rồi sau đó họ thánh hiến đời sống, năm này qua năm khác, để dạy Giáo Lý cho trẻ em và người lớn trong quốc gia của họ. Các Hội Thánh hôm nay đang phồn thịnh đã không được xây dựng nếu không có họ. Cha hân hoan vì những cố gắng mà Thánh Bộ Phúc Âm hoá các Dân Tộc đã làm để mỗi ngày một cải tiến việc đào luyện các Giáo Lý viên này. Cha tưởng nhớ đến những người đã được Chúa gọi về với Ngài với lòng biết ơn. Cha cầu xin những người đã được các vị tiền nhiệm của Cha nâng lên vinh quang bàn thờ cầu bầu cho chúng ta. Cha thành tâm khuyến khích tất cả những ai đang phục vụ công tác này. Cha mong muốn rằng nhiều người khác sẽ tiếp nối công việc của họ, và mong rằng số người này càng ngày càng đông để phục vụ một công tác thật là cần thiết cho việc truyền giáo.
Trong Giáo Xứ
67. Giờ đây tôi xin nói đến địa điểm thật sự mà tất cả các Giáo Lý viên này thường làm việc. Lúc này tôi trở lại, nói một cách tổng quát hơn, về “những địa điểm” để dạy Giáo Lý, mà một số địa điểm đã được nhắc tới trong chương VI là: giáo xứ, gia đình, trường học và các đoàn thể.
Thật đúng khi nói rằng có thể dạy Giáo Lý ở bất cứ nơi nào, nhưng tôi muốn nhấn mạnh, theo lòng mong ước của nhiều Giám Mục, thì cộng đồng giáo xứ phải tiếp tục là động lực chính và địa điểm ưu tiên cho việc dạy Giáo Lý. Phải thú nhận rằng, ở nhiều quốc gia, giáo xứ đã bị lung lay vì hiện tượng đô thị hoá. Có thể nhiều người đã dễ dàng chấp nhận rằng giáo xứ phải được coi là lỗi thời, nếu không đương nhiên là sẽ biến mất, để nhường chỗ cho những cộng đồng nhỏ thích hợp và hiệu quả hơn. Dù người ta nghĩ thế nào đi nữa thì giáo xứ vẫn là một tiêu điểm chính cho dân Kitô giáo, ngay cả cho những kẻ không hành đạo. Cũng thế, thực tế và sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục con đường nhằm phục hồi giáo xứ, nếu cần, với những cơ cấu đầy đủ hơn, và trên hết là một động năng mới qua việc gia tăng sự hợp tác của các thành viên có khả năng, trách nhiệm và đại lượng. Điều này được biết và kể đến sự đa dạng cần thiết của các nơi để dạy Giáo Lý (như là trong giáo xứ, trong các gia đình đón nhân trẻ em và thanh thiếu niên, phòng tuyên úy của các trường công lập, các cơ sở giáo dục Công Giáo, các phong trào tông đồ có những khoá dạy Giáo Lý, các hội đoàn mở ra cho giới trẻ nói chung, các khoá đào luyện tâm linh cuối tuần, v.v…), điều rất quan trọng là tất cả những phương thế dạy Giáo Lý này đều phải hội tụ về cùng một tuyên xưng Đức Tin, cùng là thành viên của Hội Thánh, và về cùng những quyết tâm sống cùng một tinh thần Tin Mừng trong xã hội: “một Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa và Cha.”[116] Đó là lý do mà tại sao mọi giáo xứ lớn, hay một nhóm giáo xứ ít giáo dân, có nhiệm vụ quan trọng là huấn luyện những người hoàn toàn hiến thân để làm nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Lý (các linh mục, tu sĩ dân nam nữ, và giáo dân), để cung cấp các công cụ cần thiết cho việc dạy Giáo Lý về mọi mặt, để gia tăng và thích nghi các địa điểm dạy Giáo Lý nếu có thể được và có ích khi làm như thế, và cũng phải lưu ý đến phẩm chất của việc đào luyện về tôn giáo của các nhóm khác nhau và việc hội nhập các nhóm này vào cộng đồng Hội Thánh. Tóm lại, không độc quyền hay đòi phải có sự đồng nhất, nhưng như tôi đã nói, giáo xứ phải là địa điểm ưu tiên nhất cho việc dạy Giáo Lý. Giáo xứ phải tái khám phá ơn gọi của mình, là một gia đình trong tình huynh đệ và hiếu khách, là nơi mà những người đã được Rửa Tội và Thêm Sức ý thức được rằng mình hợp thành Dân Thiên Chúa. Trong căn nhà ấy, bánh Giáo Lý chân chính và Bánh Thánh Thể được bẻ ra cho họ cách dư dật, trong khung cảnh của một hành vi phụng tự duy nhất;[117] và mỗi ngày họ được sai đi từ căn nhà này để thi hành sứ vụ tông đồ truyền giáo của họ trong tất cả các trung tâm sinh hoạt của đời sống thế gian.
Trong Gia Đình
68. Hoạt động dạy Giáo Lý của gia đình có một đặc tính riêng biệt, theo một nghĩa là không thể thay thế được. Đặc tính riêng biệt này đã được Hội Thánh, nhất là Công Đồng Vaticanô II, nhấn mạnh.[118] Việc giáo dục trong Đức Tin bởi cha mẹ, phải được bắt đầu từ tuổi măng sữa,[119] được thực hiện khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong Đức Tin bằng việc làm chứng cho đời sống Kitô, một chứng từ thường không phải bằng lời nói, nhưng qua việc kiên trì sống một đời sống thường nhật theo Tin Mừng. Việc dạy Giáo Lý này càng thêm sâu sắc khi trong các biến cố của gia đình (như lãnh nhận các Bí Tích, mừng các lễ lớn trong năm Phụng Vụ, ngày sinh nhật của một đứa con, tang chế) cha mẹ cẩn thận giải thích nội dung tôn giáo hay Kitô giáo của các biến cố này trong gia đình. Nhưng như thế chưa đủ: các cha mẹ Kitô giáo phải cố gắng làm theo, và lập đi lập lại, trong khung cảnh đời sống gia đình, các giáo huấn có phương pháp nhận được ở những nơi khác. Thực ra các chân lý này về những vấn đề chính của Đức Tin và đời sống Kitô hữu được lập đi lập lại như thế trong khung cảnh gia đình thấm nhuần bằng tình yêu và sự kính trọng thường sẽ có thể ảnh hưởng đứa bé một cách mãnh liệt suốt đời. Chính cha mẹ cũng được ích lợi nhờ cố gắng mà điều này đòi hỏi, vì trong việc đối thoại về Giáo Lý cách này, mỗi cá nhân cả hai bên đều nhận được và cho đi.
Như thế việc dạy Giáo Lý trong gia đình đi trước, đi theo và phong phú hoá tất cả mọi hình thức dạy Giáo Lý khác. Hơn nữa ở những nơi có những luật lệ chống tôn giáo đang cố ý ngăn cản việc giáo dục về Đức Tin, và ở nơi mà vô tín ngưỡng hay chủ nghĩa thế tục lan tràn, làm tôn giáo không thể tăng trưởng được, thì chỉ còn lại “hội thánh tại gia”[120] là nơi mà các trẻ em và người trẻ được học Giáo Lý cách chân chính. Cho nên việc cha mẹ Kitô giáo sửa soạn cho thừa tác vụ này, là trở thành các Giáo Lý viên cho chính con cái mình và thi hành với một nhiệt tình bền bỉ, không thể ddược coi là một cố gắng quá lớn lao. Cũng phải khuyến khích những cá nhân hay cơ quan mà qua việc tiếp xúc cá nhân, các buổi hội họp, và mọi phương tiện giáo dục khác, đã giúp các phụ huynh thi hành công tác của họ: việc phục vụ họ đang làm trong việc dạy Giáo Lý thật là vô giá.
Ở Trường Học
69. Cùng với gia đình và liên hệ với gia đình, trường học cũng cống hiến cho việc dạy Giáo Lý những khả năng đáng kể. Trong các quốc gia, tuy càng ngày càng họa hiếm, mà ở đó việc dạy về Đức Tin có thể được thực hiện trong khuôn khổ nhà trường, thì Hội Thánh có nhiệm vụ thi hành việc này càng chu đáo càng tốt. Đương nhiên là điều này trước nhất và trên hết là nói về các trường Công Giáo: bất kể trường đó sáng giá cách mấy vì trình độ dạy học cao về những vấn đề không liên quan đến tôn giáo, nó vẫn không đáng được gọi là trường Công Giáo nếu có những lý do chính đáng để khiển trách nó vì lơ là hay lệch lạc trong việc giáo dục tôn giáo cách đúng đắn. Không được nói rằng việc giáo dục (tôn giáo) luôn được thực hiện cách kín đáo hay gián tiếp. Căn tính riêng biệt và cũng là lý do sâu xa của trường Công Giáo, và lý do tại sao phụ huynh chọn nó, chính là phẩm chất của việc giáo dục tôn giáo được lồng trong việc giáo dục các học sinh. Trong khi các cơ sở Công Giáo phải tôn trọng sự tự do lương tâm, nghĩa là tránh áp đặt trên lương tâm những áp lực về thể chất hay luân lý từ bên ngoài, nhất là trong trường hợp các sinh hoạt tôn giáo của thanh thiếu niên, nhưng các cơ sở này vẫn có nhiệm vụ quan trọng là đưa ra việc đào luyện về tôn giáo thích hợp với hoàn cảnh tôn giáo thường thì rất đa dạng của các học sinh. Các cơ sở này cũng có nhiệm vụ làm cho các em hiểu rằng, mặc dù lời Thiên Chúa mời gọi phụng sự Ngài trong Thần Khí và chân lý, theo các Giới Răn của Thiên Chúa và các điều răn Hội Thánh, không ép buộc con người, mà cũng không bó buộc cả lương tâm.
Nhưng tôi cũng nghĩ đến các trường không thuộc về tôn giáo hay các trường công lập. Tôi tha thiết mong ước rằng, để đáp ứng quyền lợi rất rõ ràng của con người và của gia đình, và vì tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người, tất cả các học sinh Công Giáo có thể được phát triển trong việc đào luyện tâm linh của các em với sự trợ giúp của giáo dục tôn giáo tùy thuộc vào Hội Thánh, nhưng tùy theo hoàn cảnh của từng quốc gia, có thể được dạy trong trường học hay trong khung cảnh trường học, hay trong phạm vi của môt thỏa thuận với công quyền về chương trình của nhà trường, nếu việc dạy Giáo Lý chỉ xảy ra trong giáo xứ hay một trung tâm mục vụ khác. Thực ra, ngay cả ở những nơi có những khó khăn bên ngoài, cũng có thể xắp xếp chương trình nhà trường một cách nào đó để có thể giúp các học sinh Công Giáo đào sâu Đức Tin và kinh nghiệm tôn giáo, với các thầy cô có khả năng, dù là linh mục hay giáo dân.
Phải công nhận rằng, ngoài trường học ra, còn có những yếu tố khác trong đời sống có ảnh hưởng đến não trạng của người trẻ, thí dụ, giải trí, hoàn cảnh xã hội và môi trường làm việc. Nhưng những ai học gì thì phải mang dấu của những điều mình học, được ddưa vào các giá trị văn hoá hay luân lý trong bầu khí của nơi mà người ấy được giáo dục, và phải đương đầu với nhiều tư tưởng gặp phải ở nhà trường. Việc dạy Giáo Lý cần phải hết sức lưu tâm đến ảnh hưởng này của trường học trên các học sinh để thực sự nối kết với những yếu tố khác trong sự hiểu biết và giáo dục của học sinh; như thế Tin Mừng sẽ thấm nhuần não trạng của các em trong lãnh vực giáo dục của các em, và sẽ đạt được sự hoà hợp của nền văn hoá của các em trong ánh sáng Đức Tin. Vì thế, cha khuyến khích các linh mục, các tu sĩ và giáo dân là những ngưởi đang dấn thân để nuôi dưỡng Đức Tin của các học sinh này. Hơn nữa, đây cũng là một dịp cho tôi tái xác nhận sự xác tín của tôi rằng việc tỏ ra tôn trọng Đức Tin Công Giáo của người trẻ trong phạm vi làm cho dễ dàng việc giáo dục, việc ghi nhớ, củng cố, cùng sự tự do tuyên xưng và thực hành của các em chắc chắn phải là một vinh dự cho bất cứ một chính phủ nào, bất kể dựa trên một chế độ nào hay ý thức hệ nào mà từ đó chế độ này rút ra được cảm hứng của mình.
Trong các Tổ Chức
70. Sau cùng, phải khuyến khích các đoàn thể, phong trào, và các nhóm giáo dân, dù mục đích là thực hành các việc đạo đức, làm việc tông đồ trực tiếp, làm việc từ thiện hay cứu trợ, hay chứng tỏ sự hiện diện Kitô trong những vấn đề trần thế. Tất cả các đoàn thể này sẽ đạt được mục đích của mình, và phục vụ Hội Thánh cách tốt hơn, nếu họ biết thật sự dành cho việc huấn luyện về tôn giáo của các thành viên một chỗ đứng quan trọng trong việc tổ chức nội bộ và các phương pháp hành động của họ. Bằng cách này, thì theo định nghĩa, mọi đoàn thể của các tín hữu trong Hội Thánh đều có nhiệm vụ giáo dục Đức Tin.
Điều này chứng tỏ rõ ràng vai trò của giáo dân trong việc dạy Giáo Lý hôm nay, luôn luôn dưới sự hướng dẫn mục vụ của các Giám Mục, như những đề nghị mà Thượng Hội Đồng Giám Mục đã để lại và đã được nhấn mạnh vài lần.
Các Cơ Sở Đào Luyện
71. Chúng ta phải cảm tạ Chúa vì sự đóng góp này của giáo dân, nhưng cũng là thách đố cho nhiệm vụ của chúng ta là các mục tử, vì những Giáo Lý viên giáo dân này cần phải được chuẩn bị chu đáo cho một nhiệm vụ ít ra là rất quan trọng trong Hội Thánh, tuy không phải là một thừa tác vụ được chính thức thiết lập. Việc chuẩn bị cho họ đòi hỏi chúng ta phải tổ chức những trung tâm và học viện đặc biệt, mà các Giám Mục phải chuyên cần chú tâm đến. Đây là lãnh vực mà trong đó sự hợp tác trong giáo phận, liên giáo phận, hay quốc gia chứng tỏ là phong phú và có kết quả. Cũng ở đây, sự trợ giúp về vật chất các Hội Thánh giàu cho các Hội Thánh nghèo tỏ ra rất hữu hiệu, vì có sự giúp đỡ nào một Hội Thánh này có thể cung cấp cho Hội Thánh khác hơn là giúp cho nó phát triển như một Hội Thánh với sức mạnh riêng của nó?
Cha cũng muốn nhắc lại cho những ai đang làm việc cách đại lượng trong việc phục vụ Tin Mừng, và với họ, cha đã diễn tả rõ ràng ở đây sự khích lệ sống động của Cha, lời dặn bảo của Đấng Tiền Nhiệm của Cha là Đức Thánh Cha Phaolô VI: “Là những người Rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải cống hiến… một hình ảnh của những người trưởng thành trong Đức Tin và có khả năng tìm thấy một điểm gặp gỡ đằng sau những căng thẳng thật sự, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách thành khẩn và vô vị lợi. Phải, vận mệnh của việc Phúc Âm hoá chắc chắn được gắn liền với việc làm nhân chứng cho sự hợp nhất của Hội Thánh. Đó là một nguồn mạch của trách nhiệm và cũng của niềm an ủi.”[121]
KẾT LUẬN
Chúa Thánh Thần là Thầy Dạy Nội Tâm
72. Ở cuối của tông huấn này, lòng tôi hướng về Ngài là Đấng linh hứng tất cả mọi công việc của Giáo Lý và tất cả những người thi hành công việc này – Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con, là Chúa Thánh Thần.
Để diễn tả sứ vụ của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh, Chúa Giêsu đã dùng những lời đầy ý nghĩa: “Ngài sẽ dạy các con mọi sự, và nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”[122] Và Người nói thêm: “Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ hường dẫn các con đến tất cả chân lý… Ngài sẽ công bố cho các con những gì sẽ xảy đến.”[123]
Như thế, Chúa hứa Thần Chân Lý cho Hội Thánh và cho từng Kitô hữu như một vị Thầy nội tâm, là Đấng hoạt động cách bí mật trong lương tâm và tâm hồn, làm cho một người hiểu điều người ấy đã nghe nhưng chưa có khả năng hiểu. Thánh Augustinô nói về điều này: “Ngay cả bây giờ Chúa Thánh Thần dạy các tín hữu tùy theo khả năng tâm linh của mỗi người. Và Ngài đốt lòng họ bằng những ao ước lớn lao hơn tùy theo sự tiến bộ của mỗi người trong đức ái, là nhân đức làm cho người ấy yêu điều người ấy đã biết và ao ước điều người ấy chưa biết.”[124]
Hơn nữa, Chúa Thánh Thần cũng có sứ vụ biến đổi các môn đệ thành nhân chứng cho Đức Kitô: “Ngài sẽ làm chứng về Thầy; và các con cũng là nhân chứng.”[125]
Nhưng như thế chưa hết. Theo Thánh Phaolô, là đấng tổng hợp một thần học về điểm này, là một thần học tiềm tàng khắp nơi trong Tân Ước, thì toàn thể “con người Kitô hữu”, toàn thể đời sống Kitô, đời sống mới của con cái Thiên Chúa, là một đời sống theo Chúa Thánh Thần.[126] Chí có Chúa Thánh Thần có thể làm cho chúng ta thưa cùng Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha.”[127] Không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể nói: “Chúa Giêsu là Chúa.”[128] Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta các đặc sủng để xây dựng Hội Thánh, là cộng đồng các Kitô hữu.[129]
Chính theo nghĩa này mà Thánh Phaolô dạy bảo mỗi môn đệ của Đức Kitô rằng: “Hãy được tràn đầy Thần Khí.”[130] Thánh Augustinô nói thẳng: “Cả hai (việc chúng ta tin và việc chúng ta làm) là của chúng ta vì đó là sự chọn lựa của ý chí chúng ta, nhưng cả hai cũng là hồng ân của Thần Khí của Đức Tin và Đức Ái.”[131]
Việc học Giáo Lý, sự lớn lên trong Đức Tin và sự trưởng thành của đời sống Kitô hữu tiến đến sung mãn, là kết quả việc làm của Chúa Thánh Thần, một công việc chỉ mình Ngài có thể khởi sự và giữ vững trong Hội Thánh.
Nhận thức này, dựa vào những câu dẫn chứng ở trên và nhiều câu khác trong Tân Ước, thuyết phục chúng ta hai điều.
Trước hết, rõ ràng là khi thi hành sứ vụ dạy Giáo Lý, Hội Thánh – cũng như mỗi cá nhân Kitô hữu hiến thân cho sứ vụ ấy trong Hội Thánh và nhân danh Hội Thánh – phải ý thức rõ ràng rằng mình hành động như một công cụ sống động và mềm dẻo của Chúa Thánh Thần. Phải cầu khẩn Thánh Thần này không ngơi, hiệp thông với Ngài, cố gắng hiểu biết những gì Ngài thật sự linh hứng, đó phải là thái độ của Hội Thánh và của mỗi Giáo Lý viên.
Thứ đến, mong ước sâu xa để hiểu rõ hơn tác động của Chúa Thánh Thần và phó thác chính mình cho Ngài cách trọn vẹn – ở thời điểm khi mà “trong Hội Thánh chúng ta đang sống mùa thuận lợi của Chúa Thánh Thần”, như Đấng Tiền Nhiệm của tôi là Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nhận xét trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi[132] – phải đem lại một nhận thức rõ ràng về việc dạy Giáo Lý. Để việc“canh tân trong Chúa Thánh Thần” được chân chính và có nhiều kết quả thật sự trong Hội Thánh, không tùy theo việc nó gây ra nhiều đặc sủng phi thường, nhưng tùy theo việc nó dẫn đưa càng nhiều tín hữu, trong khi họ lữ hành trên đường hằng ngày, đến việc cố gắng cách khiêm nhường, kiên nhẫn, và kiên trì để biết mầu nhiệm Đức Kitô mỗi ngày một hơn, và làm nhân chứng cho mầu nhiệm này.
Tôi khẩn cầu Thần Khí của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con xuống trên Hội Thánh, và nài xin Ngài canh tân động lực dạy Giáo Lý trong Hội Thánh.
Đức Mẹ Maria, Mẹ và Mẫu Gương của Môn Đệ
73. Nguyện xin Đức Nữ Trinh của Lễ Ngũ Tuần cho chúng ta được điều này qua lời chuyển cầu của Mẹ. Nhờ một ơn gọi đặc biệt, Mẹ đã thấy Con Mẹ là Chúa Giêsu “càng lớn càng thêm khôn ngoan, và đẹp lòng (Thiên Chúa và con người).”[133] Như khi Người ngồi trong lòng Mẹ, và sau này khi Người nghe lời Mẹ trong suốt đời ẩn dật tại Nadareth, người Con này, là “Con Một từ Chúa Cha”, “đầy ân sủng và chân lý”, được Mẹ đào luyện kiến thức nhân loại về Thánh Kinh và lịch sử của chương trình Thiên Chúa dành cho dân Ngài, và trong sự tôn thờ Đức Chúa Cha.[134] Còn Mẹ lại là môn đệ đầu tiên của Chúa. Mẹ là môn đệ đầu tiên trong thời gian, bởi vì ngay cả khi Mẹ tìm thấy người con còn niên thiếu của Mẹ trong đền thờ Mẹ đã học được của Người bài học mà Mẹ giữ kín trong lòng.[135] Mẹ là môn đệ đầu tiên trên những người khác vì không ai đã“được Thiên Chúa dạy”[136] ở một chiều sâu như thế. Mẹ “vừa là Mẹ vừa là môn đệ”như Thánh Augustinô đã nói về Mẹ, mà còn dám nói thêm rằng đối với Mẹ, việc làm môn đệ của Mẹ quan trọng hơn làm Mẹ.[137] Cho nên không phải là vô lý khi trong Thượng Hội Đồng có những tôn vinh Mẹ là “một sách Giáo Lý sống” và là “Mẹ và gương mẫu của các Giáo Lý viên”.
Nguyện xin sự hiện diện của Đức Chúa Thánh Thần, qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria, ban cho Hội Thánh một lòng hăng say vô tiền khoáng hậu trong công việc dạy Giáo Lý, là một việc thiết yếu cho Hội Thánh. Nhờ đó Hội Thánh có thể thi hành một cách hữu hiệu, trong thời điểm ân sủng này, sứ vụ bất khả nhượng và phổ quát này, là sứ vụ mà Vị Thầy của Hội Thánh đã trao phó cho Hội Thánh: “Vậy các con hãy đi làm cho muôn dân thành môn đệ”[138]
Ban hành tại Rôma, Công Trường Thánh Phêrô, ngày 16 tháng 10, năm 1970, năm thứ hai của giáo triều của tôi.
Gioan Phaolô II
——————-
[112] De Catechizandis Rudibus, PL 40, 310-347.
[113] Xem Sắc Lệnh về Chức Vụ Mục Vụ của Giám Mục trong Hội Thánh Christus Dominus, 14: AAS 58 (1966), tr. 679.
[114] Sắc Lệnh on the Mục Vụ và Đời Sống Linh Mục, Presbyterorum Ordinis, 6: AAS 58 (l966), tr. 999.
[115] Lam. 4:4.
[116] Eph. 4:5-6.
[117] Xem CĐ Vaticanô II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 35, 52: AAS 56 (1964), tr. 109, 114; cũng xem Institutio Generalis Misalis Romani, được công bố bởi Sắc Lệnh của Thánh Bộ Phụng Tự ngày 6, tháng 4, 1969, 33, và những điều nói ở trên về Bài Giảng.
[118] Từ cuối thời Trung Cổ, các công đồng điạ phương đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ của phụ huynh trong việc giáo dục Đức Tin của con em:xem CĐ Arles thứ VI (813), Canon 19, CĐ Mainz (813), Điều Khoản 45, 47; CĐ Paris thứ VI (829), Quyển 1, Chương 7: Mansi, Sacrorum Conciliorum Nova et Amplissima Collectio, XIV, 62, 74, 542. Trong số những tài liệu gần đây của Huấn Quyền, có Thông Điệp Divini illius Magistri của ĐTC Piô XI ngày 31, tháng 12, 1929: AAS 22 (1930), tr. 49-86; nhiều bài giảng huấn và sứ điệp của ĐTC Piô XII; và nhất là các bản văn của CĐ Vaticanô II: the Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 11, 35: AAS 57 (l965), tr. 15, 40; Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, 11, 30: AAS 58(l966), tr. 847, 860; the Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong Thế Giới Hiện Đại, Gaudium et Spes, n. 52: AAS 58 (l966) tr. 1073; và especially the Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô giáo Gravissimum Educationis, 3: AAS 58 (1966), tr. 731.
[119] Xem CĐ Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô giáo Gravissimum Educationis, 3: AAS 58 (1966), tr. 731.
[120] CĐ Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965), tr. 16; xem Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, 11: AAS 58 (1966), tr. 848.
[121] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 77: AAS 68 (1976), tr. 69
[122] Ga. 14:26.
[123] Ga. 16:13.
[124] In Ioannis Evangelium Tractatus, 97, 1: PL 35, 1877.
[125] Ga. 15:26-27.
[126] Xem Rom. 8:14-17; Gal. 4:6.
[127] Rom. 8:15.
[128] 1 Cor 12:3.
[129] Xem 1 Cor. 12:4-11.
[130] Eph. 5:18.
[131] Retractationum Liber I, 23, 2: PL 32, 621.
[132] 75: AAS 68 (1976), tr. 66.
[133] Xem Lc. 2:52.
[134] Xem Ga. 1:14; Dt. 10:5; Tổng Lược Thần Học, III, Q. 12, a. 2; a. 3, ad 3.
[135] Xem Lc. 2:51.
[136] Xem Ga. 6:45.
[137] Xem Sermo 25, 7: PL 46, 937-938.
[138] Mt. 28:19.
—————HẾT—————