Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
về DẠY GIÁO LÝ TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA (8)
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
VIII. NIỀM VUI CỦA ĐỨC TIN TRONG MỘT THẾ GIỚI ĐẦY KHÓ KHĂN
+++
Xác Quyết Căn Tính Kitô giáo
56. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy khó khăn mà trong đó mối lo âu vì thấy những sáng tạo tốt nhất của con người vượt ra khỏi tầm tay họ và chống lại họ, tạo ra một bầu không khí bất ổn.[99] Trong thế giới này việc dạy Giáo Lý phải giúp cho các Kitô hữu trở thành “ánh sáng” và “muối” cho chính mình được vui và để phục vụ mọi người.[100] Chắc chắn rằng điều này đòi hỏi việc dạy Giáo Lý phải củng cố họ trong căn tính của họ và phải luôn khác cái bầu khí ngần ngại, bất ổn và tẻ nhạt ở chung quanh. Mỗi khó khăn trong nhiều khó khăn là một thách đố cho Đức Tin, tôi sẽ vạch ra một số để giúp việc dạy Giáo Lý thắng vượt được chúng.
Trong Một Thế Giới Thờ Ơ
57. Một ít năm vừa qua, người ta nói nhiều về thế giới trần tục, thời đại hậu-Kitô. Thời trang thay đổi, nhưng thực tại chính vẫn không thay đổi. Các Kitô hữu ngày nay phải được đào luyện để sống trong một thế giới mà phần lớn người ta không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay thay vì một cuộc đối thoại thân hữu và chính xác về các vấn đề tôn giáo để khuyến khích mọi người, thì người ta nếu không có một thái độ khinh miệt “nghi kỵ” nhân danh những tiến bộ đã đạt được về bình diện “giải thích” theo khoa học, thì họ cũng xiêu vẹo trong trong chủ nghĩa thờ ơ thấp hèn. Để giúp các Kitô hữu “đứng vững” trong thế gian này, và để cống hiến cho mọi người “một cuộc đối thoại về ơn cứu độ”[101] mà trong đó mỗi người cảm thấy được tôn trọng theo phẩm giá căn bản nhất, phẩm giá của một người đang tìm kiếm Thiên Chúa, chúng ta cần dạy Giáo Lý cho những người trẻ và người trưởng thành của cộng đoàn chúng ta để họ tiếp tục hiểu rành mạch và kiên định trong Đức Tin của họ, để xác tín cách rõ ràng căn tính Kitô giáo và Công Giáo của họ, để “thấy Đấng vô hình”[102] và gắn bó chặt chẽ với tính tuyệt đối của Thiên Chúa, để họ có thể làm nhân chứng cho Ngài trong một nền văn minh vật chất đang chối từ Ngài.
Sư Phạm Đức Tin Nguyên Thủy
58. Tính độc đáo không thể giảm thiểu được của căn tính Kitô giáo có được như là kết quả và điều kiện của một phương pháp sư phạm không kém gì độc đáo so sánh với Đức Tin. Trong những khoa học thời danh nhất của con người mà ngày nay đạt được tiến bộ rộng lớn nhất, thì nghành sư phạm là một nghành khoa học quan trọng nhất. Các thành quả của những khoa học khác như sinh vật học, tâm lý học, và xã hội học, cung cấp cho nó những yếu tố giá trị. Khoa học giáo dục và nghệ thuật sư phạm đang tiếp tục và được xét lại thường xuyên, để làm cho chúng thích nghi và có hiệu quả hơn, với những mức độ thành công khác nhau.
Tuy nhiên, cũng có một phương pháp sư phạm của Đức Tin, và chúng ta không bao giờ diễn tả đủ những gì phương pháp này đem lại cho việc dạy Giáo Lý. Đương nhiên là cần phải thích ứng những kỹ thuật đã được hoàn bị hoá và thử nghiệm cho việc giáo dục thông thường vào việc giáo dục Đức Tin. Tuy nhiên, cũng luôn phải kể đến nguồn gốc tuyệt đối của Đức Tin. Phương pháp sư phạm Đức Tin không phải là vấn đề truyền thụ kiến thức của con người, dù cao sâu đến đâu đi nữa; nó là vấn đề truyền thụ trọn vẹn mặc khải của Thiên Chúa. Qua suốt dòng lịch sử thánh, nhất là trong Tin Mừng, Chính Thiên Chúa đã dùng một phương pháp sư phạm, và phương pháp này phải tiếp tục là khuôn mẫu cho phương pháp sư phạm về Đức Tin. Một phương pháp chỉ có giá trị trong việc dạy Giáo Lý nếu nó phục vụ Đức Tin được truyền thụ và được học hỏi, nếu không nó sẽ không có giá trị gì cả.
Ngôn Ngữ Thích Hợp Cho việc Phục Vụ Đức Tin
59. Một vấn đề rất liên quan đến vấn đề trên là ngôn ngữ. Đây thật là một vấn đề nóng bỏng thời nay. Thật là ngược đời khi thấy rằng, trong khi các nghiên cứu hiện đại, thí dụ như trong ngành truyền thông, ngữ học và nghệ thuật diễn đạt bằng biểu tượng, nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của ngôn ngữ, thì ngày nay người ta đã lạm dụng ngôn ngữ để gây ra tình trạng hoang mang về ý thức hệ, để làm cho mọi người phải đồng tư tưởng với số đông, và hạ con người xuống thành đồ vật.
Tất cả những điều này có ảnh hưởng sâu đậm đến phạm vi dạy Giáo Lý. Vì việc dạy Giáo Lý có một nhiệm vụ thúc bách phải nói một ngôn ngữ thích hợp với trẻ em và người trẻ thời nay cách chung và với nhiều loại người khác – ngôn ngữ của sinh viên, các nhà trí thức và khoa học gia, ngôn ngữ của những người thất học, hoặc của những người của nền văn hoá đơn giản, ngôn ngữ của những người khuyết tật, và vân vân. Thánh Augustinô đã chạm trán với cùng một vấn đề và đã đóng góp một giải pháp cho thời đại của chính ngài bằng tác phẩm nổi danh De Cetechizandis Radibus. Trong môn Giáo Lý cũng như trong thần học, chắc chắn rằng vấn đề ngôn ngữ được đặt lên hàng đầu. Nhưng có một lý do chính đáng cần nhắc lại ở đây là môn Giáo Lý không được thu nhập bất cứ ngôn ngữ nào mà hậu quả là thay đổi bản chất của nội dung Kinh Tin Kính, vì bất cứ lý do nào, ngay cả lý do khoa học. Những ngôn ngữ dối trá hay sảo ngữ cũng chẳng tốt hơn. Ngược lại, luật quan trọng nhất là những tiến bộ lớn lao trong khoa học ngôn ngữ phải được sử dụng để phục vụ việc dạy Giáo Lý, để giúp nó “nói” hay “truyền thông” với trẻ em, thanh thiếu niên, người trẻ và người trưởng thành hôm nay toàn thể nội dung Đức Tin mà không bị bóp méo.
Nghiên Cứu và Sự Chắc Chắn của Đức Tin
60. Một thách đố tinh vi hơn thỉnh thoảng xảy đến từ ngay cách mà người ta nhận thức về Đức Tin. Có một vài trường phái triết học hiện đại, có vẻ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến một số chiều hướng thần học và qua chúng đến việc mục vụ, như là việc nhấn mạnh rằng thái độ căn bản của con người là tìm sự vô cùng, một sự tìm kiếm không bao giờ có thể đạt được mục tiêu. Trong thần học, quan điểm này về sự vật khẳng định rằng Đức Tin không phải là sự chắc chắn nhưng là một sự chất vấn, không phải là điều rõ ràng, nhưng là một bước nhảy vào trong bóng tối.
Những dòng tư tưởng này chắc chắn có lợi điểm là nhắc nhở chúng ta rằng Đức Tin liên quan đến những gì chúng ta chưa chiếm hữu, nhưng đang hy vọng có được; như là chúng ta chỉ thấy “một cách lờ mờ trong gương;”[103] và Thiên Chúa luôn ngự trong ánh sáng không đến gần được.[104] Chúng giúp chúng ta biến Đức Tin Kitô giáo thành Đức Tin của một kẻ lữ hành trên đường tiến lên như với ông Abraham, chứ không phải của một người đã đến nơi. Hơn nữa, một người nên tránh trình bày những gì không chắc chắn như là chắc chắn.
Tuy nhiên, chúng ta không được rơi vào tình trạng cực đoan ngược lại, như thường xảy ra. Thư gửi Dân Do Thái nói rằng “Đức Tin là đảm bảo cho những điều chúng ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều chúng ta không trông thấy.”[105] Dù chúng ta không hoàn toàn chiếm hữu, nhưng chúng ta có một bảo đảm và một bằng chứng. Khi giáo dục trẻ em, thanh thiếu niên, và ngưởi trẻ, đừng cho các em những tư tưởng về Đức Tin quá tiêu cực – như là chúng ta tuyệt đối không biết gì, một thứ đui mù, một thế giới tối tăm – nhưng hãy cho các em thấy việc khiêm nhường, nhưng can đảm tìm kiếm của người có đức tin, thay vì khởi đầu từ hư vô, trong một sự tự lừa dối mình, một ý kiến có thể sai lầm và không chắc chắn, thì sự tìm kiếm này dựa vào Lời Chúa là Đấng không thể lừa dối và cũng không bị ai lừa dối, và không ngừng được xây dựng trên đá của Lời này. Đây là việc tìm kiếm của Ba Vua dưới sự hướng dẫn của ngôi sao,[106] việc tìm kiếm của Pascal, dùng câu nói của Thánh Augustinô, được viết thật xúc tích “Ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu người đã không tìm thấy Ta.”[107]
Một mục tiêu nữa của việc dạy Giáo Lý là cho các dự tòng trẻ một sự chắc chắn tuy đơn giản nhưng vững chắc rằng nó sẽ giúp các em tìm biết Chúa nhiều hơn và tốt hơn.
Dạy Giáo Lý và Thần Học
61. Trong phạm vi này, tôi muốn chắc chắn rằng sự liên quan giữa việc dạy Giáo Lý và thần học cần phải được hiểu rành mạch. Hiển nhiên là sự liên quan này thật sâu đậm và quan trọng đối với những người hiểu sứ mạng không thể thay thế được của môn thần học trong việc phục vụ Đức Tin. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên rằng mỗi xáo động trong khoa thần học đều vang dội trong khoa Giáo Lý. Trong giai đoạn ngay sau Công Đồng, Hội Thánh trải qua một thời điểm quan trọng nhưng nguy hiểm về việc nghiên cứu thần học. Cũng có thể nói như thế về việc giải thích Thánh Kinh trong khoa chú giải.
Các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục từ tất cả các lục địa đã giải quyết vấn đề này cách rất thẳng thắn: các ngài nói về nguy hiểm của một sự “thiếu cân bằng” trong việc chuyển từ thần học sang Giáo Lý và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải làm gì với khó khăn này. Chính Đức Thánh Cha Phaolô VI đã giải quyết vấn đề này một cách không kém thẳng thắn trong khi giới thiệu Bài Tuyên Xưng Đức Tin Trọng Thể của ngài[108] và trong Tông Huấn đánh dấu đệ ngũ chu niên ngày bế mạc Công Đồng Vaticanô II.[109]
Cần phải nhấn mạnh lại điều này. Ý thức được ảnh hưởng của các nghiên cứu và các lời tuyên bố của mình trên việc dạy Giáo Lý, các thần học gia và các nhà chú giải Thánh Kinh phải rất thận trọng để dân chúng không cho là điều chắc chắn những gì thật ra thuộc về phạm vi các vấn đề đang được bàn cãi hay thảo luận giữa các nhà chuyên môn. Phần các Giáo Lý viên, phải khôn ngoan chọn lấy từ lãnh vực nghiên cứu thần học những điểm có thể soi sáng những suy tư riêng của mình và việc giảng dạy của mình, được múc từ nguồn mạch chính, dưới ánh sáng của Huấn Quyền, cũng giống như trường hợp các nhà thần học. Họ phải từ chối làm tâm trí của các trẻ em và người trẻ bị bối rối ở giai đoạn này của việc học Giáo Lý, bằng những lý thuyết kỳ dị, những vấn đề vô ích, và những thảo luận vô bổ, là những điều mà Thánh Phaolô lên án trong các thư mục vụ của ngài.[110]
Một món quà quý giá nhất mà Hội Thánh có thể tặng cho thế giới hoang mang và lo âu của thời đại chúng ta là hình thành trong thế giới này những Kitô hữu tin chắc vào những điều gì là thiết yếu và vui mừng cách khiêm nhường trong Đức Tin của mình. Môn Giáo Lý sẽ dạy điều này cho họ, và cũng được hưởng ích lợi đầu tiên từ việc này: “Người nào muốn hiểu rõ mình – không theo những khuôn mẫu hay mực thước nhất thời, thiếu sót, thường thì chỉ phiến diện, hay ảo giác về bản chất của mình – phải đem sự thao thức và không chắc chắn của mình, cùng cả tình trạng yếu đuối và tội lỗi, với sự sống và sự chết của mình đến cùng Đức Kitô. Người ấy phải đi vào trong Đức Kitô với toàn thể con người của mình, phải ‘chiếm hữu’ Đức Kitô và đồng hoá với toàn thể thực tại của sự Nhập Thể và cứu độ để tìm thấy chính mình.”[111]
—————————
[99] Xem Thông Điệp Redemptor Hominis, 15-16: AAS 71 (1979), tr. 286-295.
[100] Xem Mt. 5:13-16.
[101] Xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam, Phần 3, AAS 56 (1964), tr. 637-659.
[102] Xem Dt. 11:27.
[103] 1 Cor. 13:12.
[104] Xem 1 Tm. 6:16.
[105] Dt. 11: 1.
[106] Xem Mt. 2: 1ff.
[107] Blaise Pascal, Le mystere de Jesus: Pensees 553.
[108] ĐTC Phaolô VI, Sollemnis Professio Fidei, 4: AAS 60 (1968), tr. 434.
[109] ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Quinque Iam Anni: AAS 63 (1971), tr. 99.
[110] Xem 1 Tm. 1:3ff.; 4:1ff.; 2 Tm. 2:14ff.; 4:1-5; Tit. 1:10-12; cũng xem Tông Huấn, Evangelii Nuntiandi, 78: AAS 68 (1976), tr. 70.
[111] Thông Điệp Redemptor Hominis, 10: AAS 71 (l979), tr. 274.