Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
về DẠY GIÁO LÝ TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA (6)
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ ***
VII. LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRUYỀN DẠY GIÁO LÝ
+++
Các Phương Pháp Khác Nhau
51. Tuổi tác và sự phát triển về trí thức của các Kitô hữu, mức độ trưởng thành về Hội Thánh và nhiều hoàn cảnh cá nhân khác nhau đòi hỏi rằng việc dạy Giáo Lý phải áp dụng rộng rãi nhiều phương pháp khác nhau để đạt được mục đích riêng của nó là giáo dục Đức Tin. Trên một bình diện chung, các hoàn cảnh xã hội và văn hoá mà trong đó Hội Thánh thực thi việc dạy Giáo Lý cũng đòi hỏi các phương pháp khác nhau này.
Sự đa dạng của các phương pháp được sử dụng là một dấu chỉ của sự sống động và sung túc. Các Nghị Phụ của Đại Hội thứ thư của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nghĩ như thế, tuy nhiên các ngài cũng chú tâm đến các điều kiện cần thiết cho sự đa dạng này được hữu dụng mà không phương hại đến tính thống nhất của việc dạy về Đức Tin.
Để Phục Vụ Mặc Khải và Việc Hoán Cải
52. Câu hỏi chung đầu tiên được đặt ra ở đây về những nguy hiểm và cám dỗ trong việc pha lẫn việc dạy Giáo Lý cách không hợp lý với các quan niệm ý thức hệ hoặc công khai hoặc tiềm ẩn, nhất là những tư tưởng chính trị hay xã hội, hoặc với những chọn lựa chính trị có tính cách cá nhân. Khi đặt những ý thức hệ như thế trên sứ điệp chính được truyền thụ, đến nỗi làm lu mờ nó, và xếp nó xuống vị thế thứ yếu, hay chỉ chỉ dùng nó làm bình phong để đạt được mục đích riêng, thì việc dạy Giáo Lý bị hoàn toàn bóp méo. Thượng Hội Đồng Giám Mục khẳng định đúng về việc phải đặt Giáo Lý lên trên các khuynh hướng một chiều – để tránh “phân đôi” – ngay cả trong phạm vi giải thích thần học về những vấn đề ấy. Chính trên căn bản mặc khải mà việc dạy Giáo Lý sẽ cố gắng đưa ra quy luật cho mình, mặc khải như được truyền lại từ Huấn Quyền phổ quát của Hội Thánh, dưới hình thức trọng thể hay thông thường. Mặc khải này nói cho chúng ta về việc tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa, mà Con của Ngài đã đến giữa chúng ta bằng nhục thể và đi vào, không những chỉ lịch sử riêng của mỗi cá nhân, mà còn vào chính lịch sử nhân loại, bằng cách trở nên trọng tâm của nó. Như thế, mặc khải này nói về sự thay đổi toàn diện của con người và vũ trụ, của tất cả những gì làm thành mạng lưới nhân loại dưới ảnh hưởng Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu Kitô. Nếu nhận thức được như thế, thì việc dạy Giáo Lý sẽ vượt trên mọi thứ duy luân lý có tính cách hình thức, mặc dù nó bao gồm cả việc dạy về luân lý Kitô thật. Điều chính là nó vượt trên mọi loại “cứu chúa thuyết” trần thế, xã hội hay chính trị, mà tìm cách đi vào đáy lòng con người.
Sứ Điệp Lồng trong Văn Hoá
53. Bây giờ đến vấn đề thứ nhì. Như gần đây tôi đã nói với thành viên của Ủy Ban Thánh Kinh: “Từ ‘hoà hợp văn hoá’ hay ‘hội nhập văn hoá’ có thể là những từ mới, nhưng nó diễn tả rất đúng một yếu tố của mầu nhiệm Nhập Thể cao cả.”[94] Chúng ta có thể nói về việc dạy Giáo Lý, cũng như việc Phúc Âm hoá cách chung, là được gọi để mang quyền năng của Tin Mừng vào tận tâm hồn của văn hoá và các nền văn hoá. Vì mục đích này mà môn Giáo Lý sẽ tìm cách biết các văn hoá này và các thành phần chính của chúng; nó sẽ học cách diễn tả có ý nghĩa nhất; nó sẽ tôn trọng những giá trị và sự phong phú riêng của chúng. Bằng cách này nó sẽ có thể cống hiến cho các nền văn hoá ấy sự hiểu biết về mầu nhiệm còn bị che giấu[95] và giúp chúng làm nảy sinh ra từ chính truyền thống sống động của chúng những sự diễn tả nguyên thủy của đời sống, cử hành và tư tưởng Kitô. Tuy nhiên phải nhớ hai điều.
Một đàng, không thể cô lập sứ điệp Tin Mừng cách hoàn toàn hay cách đơn thuần khỏi nền văn hoá mà trong đó nó được đưa vào lần đầu (thế giới Thánh Kinh hay cụ thể hơn, cái khung cảnh văn hoá mà trong đó Chúa Giêsu thành Nadareth đã sống), hoặc cũng không thể cô lập nó khỏi các nền văn hoá mà trong đó nó đã được diễn tả từ nhiều kỷ nguyên, mà không tạo ra một mất mát lớn lao; nó không thình lình mọc lên từ bất cứ thửa đất văn hoá nào; nó luôn được truyền bá bằng cách đối thoại tông đồ, mà không tránh được việc trở thành một phần của cuộc đối thoại nào đó với các nền văn hoá;
Đằng khác, động năng của Tin Mừng là động lực biến đổi và tái sinh khắp nơi. Khi động lực này đi vào một nền văn hoá, thì không ngạc nhiên là nó sẽ sửa đổi nhiều yếu tố của nền văn hoá ấy. Sẽ không có việc dạy Giáo Lý nếu Tin Mừng phải thay đổi khi nó tiếp xúc với các nền văn hoá.
Nếu quên điều này người ta sẽ đi đến việc mà Thánh Phaolô gọi một cách hùng hồn là: “làm cho Thập Giá Đức Kitô ra vô hiệu.”[96]
Khi dùng sự khôn ngoan mà phân biệt để lấy ra một vài yếu tố nào đó, dù là tôn giáo hay không tôn giáo, là một phần của gia sản văn hoá của một nhóm người, và dùng chúng để giúp các phần tử của nền văn hoá này hiểu rõ ràng hơn toàn thể mầu nhiệm Kitô giáo là một vấn đề khác. Môn Giáo Lý chân chính biết rằng dạy Giáo Lý là “nhập thể” trong những nền văn hoá và khung cảnh khác nhau: một người phải nghĩ đến các dân tộc với những sự khác biệt lớn lao, đến giới trẻ hiện đại, đến nhiều hoàn cảnh khác nhau mà người ta gặp phải ngày nay. Nhưng người ta từ chối chấp nhận một sự bần cùng hoá môn Giáo Lý qua việc từ bỏ hay làm cho sứ điệp của Giáo Lý bị tối nghĩa, qua những sự thích nghi, dù trong ngôn ngữ, mà có thể làm “cái kho tàng Đức Tin quý giá” bị nguy hiểm,[97] hoặc qua việc nhượng bộ về những vấn đề Đức Tin và luân lý. Họ xác tín rằng môn Giáo Lý thật sẽ phong phú hoá những nền văn hoá này bằng cách giúp chúng vượt qua tất cả những sự thiếu sót hay ngay cả vô nhân đạo trong chúng, và qua việc truyền thông cho chúng những giá trị chân chính của sự sung mãn của Đức Kitô.[98]
Sự Đóng Góp của Các Việc Sùng Kính Phổ Thông
54. Một câu hỏi khác về phương pháp có liên quan đến việc sử dụng những yếu tố hợp lệ của việc sùng kinh phổ thông trong việc dạy Giáo Lý. Tôi đã nghĩ đến các cách sùng kính của các tín hữu trong những vùng nào đó với nhiệt tình và ý ngay lành, dù niềm tin làm nền tảng cho chúng cần phải được thanh lọc hay điều chỉnh về nhiều phương diện. Tôi cũng đã nghĩ đến một số hành vi trong các thói quen sùng kính chứng tỏ ước muốn chân thành để ăn năn hối cải hay để làm đẹp lòng Chúa. Khi nhấn mạnh đến hầu hết các kinh nguyện hay thói quen này, ngoài những yếu tố nên bỏ đi, thì có những yếu tố khác, nếu dùng đúng cách, có thể phục vụ rất tốt để giúp người ta tiến đến sự hiểu biết về mầu nhiệm Đức Kitô và sứ điệp của Người: tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, sự Nhập Thể của Đức Kitô, Thập Giá cứu độ và sự Phục Sinh của Người, hoạt động của Chúa Thánh Thần trong mỗi Kitô hữu và trong Hội Thánh, mầu nhiệm đời sau, các nhân đức theo Tin Mừng để thực hành, sự hiện diện của Kitô hữu trong thế gian, v.v…. Và tại sao chúng ta lại nại đến những yếu tố ngoài Kitô giáo – và ngay cả chống Kitô giáo – trong khi từ chối không chịu xây dựng trên những yếu tố, dù cần phải xét lại hay cải tiến, nhưng có một điều gì có tính Kitô giáo ngay tận nguồn gốc của chúng?
Học Thuộc Lòng
55. Ít ra nên nhấn mạnh đến vần đề cuối cùng về phương pháp đã được Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn luận khá nhiều, đó là học thuộc lòng. Việc dạy Giáo Lý Kitô giáo trong những thời gian đầu tiên, trùng hợp với nền văn hoá đặc biệt truyền khẩu, nên dùng đến trí nhớ rất nhiều. Từ đó việc học Giáo Lý được biết là có một truyền thống học các chân lý căn bản bằng phương pháp thuộc lòng. Tất cả chúng ta đều ý thức rằng phương pháp này có thể có một số bất lợi, ít là nó đưa đến việc thiếu hiểu biết hay không hiểu biết gì cả; nó biến tất cả mọi kiến thức thành công thức được lập đi lập lại mà không hiểu chính xác. Các bất lợi này và những đặc tính khác của nền văn hoá mà chúng ta có ở vài nơi đưa đến việc hoàn toàn loại bỏ – theo một số người là dứt khoát phải loại bỏ – việc học thuộc lòng trong môn Giáo Lý. Nhưng trong Đại Hội của Thượng Hội Đồng Giám Mục, chúng ta đã nghe được một số tiếng nói có thẩm quyền kêu gọi phục hồi một sự cân bằng cách thận trọng giữa suy nghĩ và bộc phát, giữa đối thoại và im lặng, giữa viết và học thuộc lòng. Hơn nữa một số nền văn hoá còn rất tôn trọng việc học thuộc lòng.
Ở thời điểm mà trong việc dạy các môn học đời ở một số quốc gia, người ta đang than phiền về hậu quả đáng tiếc của việc coi thường khả năng trí nhớ của con người, tại sao chúng ta lại không thử sử dụng khả năng này một cách khôn ngoan và ngay cả bằng phương thức nguyên thủy trong việc dạy Giáo Lý, và hơn nữa bởi vì việc cử hành hay “tưởng niệm” các biến cố vĩ đại trong lịch sử cứu độ đòi hỏi một sự hiểu biết chính xác về chúng? Việc học thuộc lòng một số lời của Chúa Giêsu, một số câu Thánh Kinh quan trọng, Mười Điều Răn, các công thức của việc tuyên xưng Đức Tin, các kinh trong Phụng Vụ, các kinh nguyện cần thiết, các tư tưởng giáo thuyết chính, v.v…, thay vì làm giảm nhân phẩm của các Kitô hữu trẻ, hay là một trở ngại cho việc nói chuyện riêng với Chúa, thì lại là điều thật sự cần thiết, như các Nghị Phụ đã mạnh mẽ nhắc nhở. Chúng ta phải có óc thực tế. Chúng ta có thể nói rằng các bông hoa này của Đức Tin và lòng đạo đức không thể mọc trong các nơi hoang địa của việc dạy Giáo Lý mà không có trí nhớ. Điều cần thiết là những gì phải nhớ cũng phải được từ từ hiểu biết một cách sâu sắc, để chúng trở thành nguồn mạch của đời sống Kitô hữu ở mức độ riêng và mức độ cộng đoàn.
Sự đa dạng củ các phương pháp trong việc dạy Giáo Lý hiện đại có thể là dấu chỉ của sức sống và tài khéo léo. Trong mọi trường hợp, phương pháp được chọn lựa phải quy chiếu tuyệt đối vào một luật căn bản cho toàn thể đời sống Hội Thánh là luật trung thành với Thiên Chúa và với con người bằng một thái độ yêu thương duy nhất.
————————————————
[94] Xem AAS 71 (1979), tr. 607.
[95] Xem Rom. 16:25; Eph. 3:5.
[96] 1 Cor. 1:17.
[97] Xem 2 Tm. 1:14.
[98] Xem Ga. 1:16; Eph. 1:10