Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
về DẠY GIÁO LÝ TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA (3)
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
***
IV. TOÀN THỂ TIN MỪNG ĐƯỢC MÚC TỪ MỘT NGUỒN MẠCH
Nội Dung của Sứ Điệp
26. Vì việc dạy Giáo Lý là một thời điểm hay một bình diện của việc Phúc Âm hoá, nên nội dung của nó cũng chẳng là gì khác, mà là toàn thể nội dung của việc Phúc Âm hoá. Một sứ điệp duy nhất là – Tin Mừng về ơn cứu độ – sứ điệp này đã được nghe một lần hay hằng trăm lần và đã được đón nhận bằng cả tâm hồn, trong việc học Giáo Lý, sứ điệp này không ngừng được đào sâu bằng suy nghĩ và nghiên cứu một cách có hệ thống, bằng ý thức được các âm hưởng của nó trong đời sống riêng tư của một người – một ý thức đòi hỏi một quyết tâm lớn lao hơn – và bằng việc đưa nó vào một tổng thể hữu cơ và hoà hợp, tức là sống đời Kitô hữu trong xã hội và thế gian.
Nguồn Mạch
27. Môn Giáo Lý luôn múc nội dung của nó từ một nguồn hằng sống của Lời Chúa được truyền lại trong Thánh Truyền và Thánh Kinh, bởi vì “Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành một kho tàng duy nhất của Lời Thiên Chúa, đã được trao phó cho Hội Thánh” như Công Đồng Vaticanô II nhắc nhở chúng ta. Công Đồng muốn rằng “thừa tác vụ Lời Chúa – mục vụ giảng dạy, dạy Giáo Lý, và tất cả các hình thức giáo huấn Kitô khác… – phải được nuôi dưỡng đầy đủ và lớn mạnh trong sự thánh thiện nhờ Lời Thánh Kinh.”[57]
Nói về Thánh Truyền và Thánh Kinh là nguồn mạch của môn Giáo Lý làm cho người ta chú ý đến một sự thật là việc dạy Giáo Lý phải được tiêm nhiễm và thấm nhuần bởi tư tưởng, tinh thần và quan điểm của Thánh Kinh và của Tin Mừng qua việc chuyên cần đọc các sách này; nhưng cũng cần phải nhắc nhở rằng việc dạy Giáo Lý sẽ thêm phong phú hơn, và hiệu quả hơn, nhờ đọc với sự hiểu biết và với tâm hồn của Hội Thánh, nhờ múc được những cảm hứng từ hai ngàn năm suy niệm và đời sống Hội Thánh.
Giáo huấn của Hội Thánh, phụng vụ và đời sống nảy sinh từ nguồn mạch này và dẫn trở về nguồn này, dưới sự hướng dẫn của các mục tử và nhất là Huấn Quyền về tín lý được Chúa trao phó cho các ngài.
Kinh Tin Kính, Một Cách Diễn Tả Đức Tin Quan Trọng Đặc Biệt
28. Một cách diễn tả quan trọng đặc biệt về gia sản sống động được trao cho các mục tử coi sóc được tìm thấy trong Kinh Tin Kính, hay nói cách chính xác hơn, trong các Kinh Tin Kính, mà vào những giây phút trọng yếu, người ta đã tóm tắt Đức Tin của Hội Thánh bằng một tổng hợp khéo léo. Trải qua nhiều kỷ nguyên, một yếu tố quan trọng của việc dạy Giáo Lý được thành hình bởi traditio Symboli (việc trao lại bản tóm tắt Đức Tin), tiếp theo là việc trao lại Kinh Nguyện của Chúa (Kinh Lạy Cha). Ở thời đại chúng ta, nghi thức đầy ý nghĩa này lại được đưa vào việc khai tâm cho các dự tòng.[58] Còn cách sử dụng nào hơn của việc thích nghi hình thức này để đánh dấu giai đoạn quan trọng nhất mà trong đó người môn đệ mới của Đức Chúa Giêsu Kitô lãnh nhận, bằng cả ý thức và can đảm, nội dung của những điều mà từ đó trở đi sẽ là đề tài cho việc học hỏi chuyên cần của họ?
Trong Kinh Tin Kính của Dân Thiên Chúa, được công bố ở cuối kỷ nguyên thứ 19, đánh dấu việc Thánh Phêrô và Phaolô tử đạo, vị tiền nhiệm của tôi là Phaolô VI đã quyết định gom lại tất cả những yếu tố quan trọng của Đức Tin Công Giáo, nhất là những điều khó khăn hay có nguy cơ bị bỏ quên.[59] Đây là một điểm quy chiếu chắc chắn cho nội dung của Giáo Lý.
Những Yếu Tố Không Được Bỏ Qua
29 Trong chương thứ ba của Tông Huấn Evangelii nuntiandi, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nhắc lại “nội dung thiết yếu và thực chất sống động” của việc Phúc Ân hoá.[60] Việc dạy Giáo Lý cũng phải ghi nhớ mỗi yếu tố này và sự tổng hợp mà chúng là thành phần.[61]
Cho nên ở đây tôi sẽ tự giới hạn và chỉ nhắc lại một hay hai điểm.[62] Thí dụ ai cũng thấy tầm quan trọng của việc làm cho trẻ em, thiếu niên, những người đang tiến triển về Đức Tin hiểu rằng “những gì chúng ta có thể biết về Thiên Chúa;”[63] để có thể nói với họ bằng một cách: “Đấng mà quý vị thờ mà quý vị không biết, thì tôi xin công bố cho quý vị;”[64] để trình bày ngắn gọn cho họ[65] mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và hoàn thành việc cứu độ nhân loại bằng Lễ Vượt Qua của Người, nghĩa là, nhờ cái chết và sống lại của Người, mà còn bằng lời giảng dạy của Người, các dấu lạ Người làm, bằng các Phép Bí Tích của sự hiện diện mãi mãi của Người giữa chúng ta. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng thực sự đã được cảm hứng khi các ngài yêu cầu phải thận trọng đừng giảm Đức Kitô xuống mức độ nhân loại mà thôi, hay chỉ đóng khung các sứ điệp của Người vào khuôn khổ thế gian, nhưng phải nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa, Đấng Trung Gian làm cho chúng ta được tự do đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.[66]
Điều quan trọng là phải trình bày trước đôi mắt của lý trí và của tâm hồn, trong ánh sáng Đức Tin, bí tích của sự hiện diện của Đức Kitô được tạo thành bởi mầu nhiệm Hội Thánh, là một tập họp của loài người là những tội nhân, nhưng đồng thời cũng được thánh hoá, và tạo thành gia đình của Thiên Chúa, được Chúa quy tụ lại dưới sự hướng dẫn của những người mà “Chúa Thánh Thần đã đặt là …người giám hộ, để nuôi dưỡng Hội Thánh của Thiên Chúa.”[67]
Cũng cần phải giải thích rằng lịch sử nhân loại, được đánh dấu bằng ân sủng và tội lỗi, sự cao cả và đau thương, đã được Thiên Chúa nâng lên trong Con của Ngài là Chúa Giêsu, “đang báo hiệu bằng một cách nào đó thời đại sắp đến.”[68]
Sau cùng, điều quan trọng là phải bày tỏ cách thẳng thắn những đòi hỏi – liên can đến việc từ bỏ mình nhưng cũng với niềm vui – bởi điều mà Thánh Phaolô gọi là “đời sống mới,”[69] “một tạo vật mới”[70] được sống trong Đức Kitô[71] và được “sống đời đời trong Đức Kitô Giêsu,”[72] đó cũng là đời sống trên thế gian, nhưng sống theo Tám Mối Phúc Thật cùng được mời gọi được nối dài và được biến đổi từ đó trở đi.
Do đó, trong việc dạy Giáo Lý, điều quan trọng là dạy về những quyết tâm cá nhân trong lãnh vực luân lý để sống theo Tin Mừng, và những thái độ Kitô, dù anh hùng hay rất đơn giản trước cuộc đời hay trước thế gian – điều mà chúng ta gọi là các nhân đức của Phúc Âm. Cũng thế, trong cố gắng dạy về Đức Tin, điều quan tâm của môn Giáo Lý là không bỏ sót nhưng làm sáng tỏ cách đúng đắn những thực tại, như hành động của con người để tự giải phóng toàn diện[73], việc tìm kiếm một xã hội đoàn kết và huynh đệ hơn, việc tranh đấu cho công bằng và xây dựng hoà bình.
Ngoài ra, đừng nghĩ rằng chiều kích này của môn Giáo Lý là hoàn toàn mới mẻ. Ngay từ thời các Giáo Phụ, thánh Ambrôsiô và thánh Gioan Kim Khẩu – chỉ nhắc đến hai vị thôi – đã làm nổi bật những kết quả về xã hội của các đòi hỏi của Tin Mừng. Gần thời đại chúng ta hơn, sách Giáo Lý của thánh Giáo Hoàng Piô X đã liệt kê cách rõ ràng việc ức hiếp người nghèo, và bóc lột đồng lương chính đáng của thợ thuyền vào số những tội kêu thấu đến Thiên Chúa để Ngài báo oán.[74] Nhất là từ Rerum novarum, những quan tâm về xã hội đã hiện diện cách tích cực trong giáo huấn Giáo Lý của các Đức Thánh Cha và các Đức Giám Mục. Nhiều Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhất định rằng gia tài phong phú của giáo huấn của Hội Thánh về xã hội phải có một chỗ đứng trong việc giáo dục chung về Giáo Lý cho các tín hữu dưới một hình thức thích hợp.
Sự Toàn Vẹn của Nội Dung
30 Về nội dung của việc dạy Giáo Lý thời nay, cần phải chú ý đặc biệt đến ba điểm quan trọng.
Điểm thứ nhất nói về sự vẹn toàn của nội dung. Để của lễ Đức Tin của một người[75] được hoàn hảo, người trở thành môn đệ Đức Kitô có quyền lãnh nhận “lời Đức Tin”[76] không bị cắt xén, xuyên tạc, hay dưới dạng thu nhỏ, nhưng phải nhận được toàn thể và toàn vẹn, trong sự chặt chẽ và mãnh liệt của nó. Thiếu trung thành ở một vài điểm liên hệ đến sự vẹn toàn của sứ điệp có nghĩa là làm suy yếu việc dạy Giáo Lý một cách nguy hiểm và phương hại đến kết quả mà Đức Kitô và cộng đoàn Hội Thánh có quyền mong đợi ở nó. Chắc chắn không phải vì tình cờ mà mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng thánh Matthêu mang dấu hiệu của một sự toàn vẹn chắc chắn: “Mọi quyền hành … đã được ban cho Thầy … hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ … dạy họ tuân giữ tất cả … Thầy sẽ ở cùng các con luôn mãi”. Đó là lý do tại sao khi một người ý thức được “giá trị khôn sánh của việc biết Đức Kitô Giêsu,”[77] là Đấng mà người ấy đã gặp qua Đức Tin, và đương nhiên là có một ước muốn trong tiềm thức để biết Người nhiều hơn và rõ ràng hơn, bằng cách nghe giảng về Người và được giáo huấn phù hợp với chân lý, là chân lý trong Chúa Giêsu,[78] không có một lý do chính đáng nào được viện ra để từ chối người ấy bất cứ phần nào của sự hiểu biết này. Có một loại dạy Giáo Lý nào mà lại không dành chỗ để nói về việc tạo dựng con người và tội lỗi; về chương trình cứu độ của Thiên Chúa và một cuộc sửa soạn trường kỳ, đầy yêu thương, cùng việc thực hiện chương trình này; về việc nhập thể của Con Thiên Chúa; về Đức Mẹ Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, Trọn Đời Đồng Trinh, được sống lại cả hồn và xác lên hưởng phúc Thiên Đàng, và về vai trò của Mẹ trong mầu nhiệm cứu độ; về mầu nhiệm của tình trạng vô luật pháp đang hoành hành trong cuộc đời chúng ta,[79] và quyền năng của Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi tình trạng ấy; về việc cần hối cải và khổ hạnh; về những hành động bí tích và phụng vụ; về thực thể của việc Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí Tích Thánh Thể; về sự thông phần vào đời sống Thiên Chúa ở đời này và đời sau, vân vân? Như thế, không một Giáo Lý viên chân chính nào có quyền tự ý chọn lựa điều mà mình cho là quan trọng cũng như loại bỏ điều mà mình cho là không quan trọng trong kho tàng Đức Tin để dạy điều này và bỏ điều kia.
Dùng Những Phương Pháp Sư Phạm Thích Hợp
31. Điều này đưa đến nhận xét thứ hai. Có thể là trong hoàn cảnh hiện tại của việc dạy Giáo Lý, những lý do của phương pháp hay sư phạm đề ra rằng việc truyền thông sự phong phú của nội dung Giáo Lý phải được tổ chức cách này thay vì cách khác. Ngoài ra, sự toàn vẹn không miễn cho chúng ta sự cân bằng và tính chất thứ bậc có tổ chức mà qua đó các chân lý được giảng dạy, các tập quán được truyền lại, và cách sống Kitô giáo được biểu lộ, sẽ cho thấy sự quan trọng tương xứng của từng điểm trên. Cũng có thể xảy ra là một thứ ngôn ngữ đặc biệt nào đó chứng tỏ là thích hợp hơn cho việc truyền thụ nội dung này cho một cá nhân hay một nhóm riêng biệt. Việc chọn lựa sẽ chính đáng nếu được cảm hứng bởi lòng khiêm nhường quan tâm đến việc đi sát với một nội dung toàn vẹn, chứ không phải bị điều khỉển ít nhiều bởi những thuyết chủ quan hay những thành kiến bị ảnh hưởng bởi một ý thức hệ nào đó. Phương pháp và ngôn ngữ được sử dụng phải thực sự là phương tiện để truyền thông toàn thể chứ không phải chỉ một phần “các lời ban sự sống đời đời”[80] và “các con đường sống.”[81]
Khía Cạnh Đại Kết của Việc Dạy Giáo Lý
32. Một phong trào vĩ đại, chắc chắn là được linh hứng bởi Thần Khí của Chúa Giêsu, từ nhiều năm đã làm cho Hội Thánh Công Giáo cùng với các Hội Thánh Kitô giáo hay các giáo phái khác tìm cách phục hồi sự hợp nhất hoàn hảo mà Chúa mong muốn, đưa tôi đến tính chất đại kết của việc dạy Giáo Lý. Phong trào này đã được hoàn toàn nổi bật trong Công Đồng Vaticanô II,[82] và từ đó đã được mở rộng trong Hội Thánh, như đã được chứng tỏ cách cụ thể bằng hằng loạt những biến cố và sáng kiến mà bây giờ mọi người đều quen thuộc. Việc dạy Giáo Lý không thể tách biệt mãi khỏi khía cạnh đại kết này, bởi vì tất cả mọi tín hữu được mời gọi để tham gia vào phong trào đưa đến hợp nhất, tùy theo khả năng và vị trí của mình trong Hội Thánh.[83]
Việc dạy Giáo Lý sẽ có chiều kích đại kết nếu trong khi không ngừng dạy rằng sự viên mãn của chân lý được mặc khải và của phương tiện cứu độ mà Chúa Giêsu đã thiết lập được tìm thấy trong Hội Thánh Công Giáo,[84] và làm như thế với một sự chân thành kính trọng các cộng đồng hội thánh khác chưa hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh này qua lời nói và việc làm.
Trong phạm vi này, điều tối quan trọng là phải trình bày về các Hội Thánh và các cộng đồng hội thánh khác cách đúng đắn và công bằng rằng Thần Khí Đức Kitô không khước từ sử dụng họ như những phương tiện cứu độ; “hơn nữa, có một số, hay khá nhiều yếu tố tuyệt hảo hoặc những điều tốt lành dùng để xây dựng hay đem lại sinh lực cho chính Hội Thánh, có thể tồn tại được bên ngoài phạm vi hữu hình của Hội Thánh Công Giáo.”[85] Giữa những điều khác, trình bày này sẽ giúp người Công Giáo vừa có một sự hiểu biết sâu xa hơn về chính Đức Tin của mình, vừa quen thuộc và quý trọng các anh em Kitô hữu khác hơn, như vậy làm cho việc cùng nhau tìm kiếm con đường dẫn đến hợp nhất hoàn toàn trong chân lý được dễ dàng hơn. Nó cũng giúp những người ngoài Công Giáo hiểu biết và đánh giá Hội Thánh Công Giáo và niềm xác tín rằng mình là “một sự giúp đỡ phổ quát đối với ơn cứu độ” một cách cao hơn.
Việc dạy Giáo Lý sẽ có chiều kích đại kết nếu thêm vào đó nó tạo ra và nuôi dưỡng một ước muốn hợp nhất thật sự. Điều này càng đúng hơn nếu nó gợi hứng cho những cố gắng nghiêm chỉnh, kể cả cố gắng tự thanh luyện trong khiêm nhường và nhiệt tình của Chúa Thánh Thần để san phẳng đường lối, không phải với quan niệm là đạt được sự thỏa thuận bằng cách bỏ sót hay nhượng bộ ở mức độ tín điều, nhưng để được hoàn toàn hợp nhất, khi và bằng phương tiện nào mà Chúa muốn.
Cuối cùng, việc dạy Giáo Lý sẽ có chiều kích đại kết nếu cố gắng sửa soạn cho trẻ em Công Giáo và giới trẻ cũng như người trưởng thành, để sống trong sự tiếp xúc với những người ngoài Công Giáo, biết xác quyết căn tính Công Giáo của mình trong khi kính trọng niềm tin của những người khác.
Việc Hợp Tác Đại Kết trong Lãnh Vực Giáo Lý
33. Trong những hoàn cảnh đa tôn giáo, các Giám Mục có thể coi là một dịp, hoặc là điều cần thiết có một số kinh nghiệm hợp tác giữa Công Giáo và các Kitô hữu khác về lãnh vực dạy Giáo Lý, để bổ túc cho việc dạy Giáo Lý thông thường được tổ chức cho người Công Giáo cách này hay cách khác. Các kinh nghiệm như thế có một nền tảng thần học dựa trên những yếu tố mà mọi Kitô hữu đều cùng chia sẻ.[86] Nhưng sự hiệp thông Đức Tin giữa người Công Giáo và các Kitô hữu khác chưa đầy đủ và hoàn hảo; trong một số trường hợp còn có những khác biệt sâu xa. Do đó, việc hợp tác đại kết này tự bản chất của nó chỉ có giới hạn: nó không bao giờ được có nghĩa là “một sự giảm” xuống một mẫu số chung tối thiểu. Hơn nữa, việc dạy Giáo Lý không phải chỉ gồm có dạy về tín lý: nó còn có nghĩa là dẫn nhập vào toàn thể đời sống Kitô hữu, đưa đến sự tham dự hoàn toàn vào các Bí Tích của Hội Thánh. Cho nên, ở đâu có những thí nghiệm hợp tác đại kết trong lãnh vực dạy Giáo Lý, thì phải thận trọng để chắc chắn rằng việc giáo dục những người Công Giáo trong Hội Thánh Công Giáo được đảm bảo vững vàng trong những vấn đề tín lý và đời sống Kitô hữu.
Trong Thượng Hội Đồng, có một số Giám Mục đề cập đến điều mà các ngài gọi là những trường hợp hay hoàn cảnh càng ngày càng gia tăng là chính quyền dân sự trong một số quốc gia bắt các trường học phải dạy một giáo trình chung về Kitô giáo, dùng cùng một sách giáo khoa, cùng một giờ học, v.v…, cho cả học sinh Công Giáo lẫn không Công Giáo. Không cần phải nói thì ai cũng biết rằng đây không phải là dạy Giáo Lý. Nhưng việc dạy dỗ này cũng quan trọng về đại kết nếu nó trình bày các giáo thuyết Kitô một cách công bằng và trung thực. Trong những trường hợp mà hoàn cảnh bắt buộc, thì điều quan trọng là thêm vào đó việc dạy Giáo Lý riêng về Công Giáo phải được đảm bảo và hết sức thận trọng.
Vấn Đề Sách Giáo Khoa Viết về Các Tôn Giáo Khác Nhau
34. Đến lúc này, phải đưa ra một nhận xét khác về cùng một đề tài nhưng dưới một khía cạnh khác. Các trường nhà nước nhiều khi cung cấp cho học sinh các sách giáo khoa vì lý do văn hoá (lịch sử, luân lý hay văn chương) trình bày các tôn giáo khác nhau kể cả Công Giáo. Một trình bày khách quan về các biến cố lịch sử của các tôn giáo khác nhau và của các giáo phái Kitô khác nhau ở đây có thể giúp cho việc hiểu nhau hơn. Như thế phải cẩn thận dồn mọi nỗ lực để đảm bảo rằng trình bày ấy thực sự khách quan và không bị ảnh hưởng lệch lạc bởi các hệ thống tư tưởng và chính trị hoặc các thành kiến tự nhận là theo khoa học. Trong bất cứ trường hợp nào, cách sách giáo khoa như thế đương nhiên là không được coi là những tác phẩm về Giáo Lý: chúng thiếu chứng từ của các tín hữu nói rõ về Đức Tin của mình cho các tín hữu khác, và một sự hiểu biết về các mầu nhiệm Kitô giáo cũng như những gì đặc biệt của đạo Công Giáo, như được hiểu trong phạm vi Đức Tin.