GIÁO LÝ VÀ NỖ LỰC TÌM LẠI CĂN TÍNH
A. HÀNH TRÌNH TÌM LẠI CĂN TÍNH
Trong suốt chiều dài lịch sử, việc dạy giáo lý có những phương thức khác nhau. Vì thế, người ta thường hỏi đâu là bản chất đích thực và đặc điểm của nó. Câu hỏi trở nên cấp thiết khi công đồng Vatican II thực hiện một bước ngoặt quyết định làm thay đổi truyền thống trong việc dạy giáo lý của Giáo Hội. Để tìm được câu trả lời, thiết tưởng chúng ta phải nhìn lại một cách hệ thống chiều dài lịch sử của việc dạy giáo lý.
1. Trong thời hiện đại: việc dạy giáo lý giản lược vào việc “dạy thủ bản giáo lý”
Toàn bộ thời hiện đại, từ thế kỷ XVI cho đến giữa thế kỷ XX, chú tâm vào việc dạy thủ bản hay toát yếu giáo lý Kitô giáo (compendium), thủ bản trở thành công cụ ưu việt của việc dạy giáo lý.
Suốt thời hiện đại, đã có những ghi nhận về việc sử dụng và tầm quan trọng của những sách giáo lý truyền thống từ thời công đồng Trentô đến sách giáo lý của ĐTC Piô X, trong số đó, có những sách rất phổ biến như Canisio, Bellarmino, Astete, Ripalda, Deharbe, vv. Đã từ lâu việc dạy giáo lý được hiểu như việc ghi nhớ, giải thích và áp dụng vào cuộc sống những bản tóm tắt hay toát yếu giáo lý Kitô giáo này; chúng được biên soạn cách rõ ràng, cô đọng, dưới hình thức hỏi thưa, bao gồm những chân lý đức tin cần thiết cho ơn cứu độ, những giới luật hoặc nguyên tắc thực hành và những phương tiện hay công cụ siêu việt như ân sủng và bí tích.
Suy tư về giáo lý nghiêng về phương tiện ưu việt này và về mô hình sư phạm nghịch lại mô hình mục vụ. Bên cạnh những ưu điểm và lợi ích không thể phủ nhận, có thể đưa ra không ít những giới hạn của nó: chú trọng đến thần học nhiều hơn sư phạm của sứ điệp, sử dụng ngôn ngữ trừu tượng, sự nghèo nàn về Kinh Thánh và phụng vụ, quy trình diễn giải, sư phạm kiểu “lên lớp” và “hộ giáo”, vv. Không chỉ như thế, việc dạy giáo lý bị đồng hóa với việc “dạy thủ bản” cũng xuất hiện trong dòng lịch sử gắn với thời mà phần lớn “Kitô giáo” vẫn còn duy nhất và thuần nhất. Có thể nói rằng, trên nhiều bình diện, giáo dục tôn giáo tìm được trong môi trường gia đình và xã hội nhiều kênh truyền thông và ảnh hưởng bổ khuyết phần nào cho những thiếu sót của phương pháp dạy giáo lý này.
Thời gian trôi qua, việc bỏ đạo gia tăng, sự bất mãn và bận tâm cũng tăng lên; người ta thấy cần phải suy nghĩ lại thành phần của những hoạt động giáo lý khác nhau. Phong trào giáo lý nảy sinh và phát triển từ đó.
2. Thời tiền công đồng: từ việc “dạy thủ bản giáo lý” đến việc “dạy giáo lý”
Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, một sự xoay chuyển lớn về ý tưởng và những sáng kiến được phát triển dẫn đến việc canh tân và khuếch trương giáo lý trong Giáo Hội được gọi là “phong trào giáo lý”.
Một chuỗi gợi ý và chỉ dẫn mang tính chính thức của phong trào được ghi nhận bắt nguồn từ Rôma, sau đó ảnh hưởng tới những quốc gia và các Giáo Hội địa phương khác. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến công trình tiên khởi của ĐTC Piô X, với thông điệp “Acerbo Nimis” (1905) và những sách giáo lý mang tên ngài (1905 và 1912), bản tuyên ngôn “Provido Sane” năm 1935 và Hội nghị Giáo lý Quốc tế ở Rôma năm 1950. Trong các quốc gia, chúng thấy có những hội nghị giáo lý khác nhau, nỗ lực soạn thảo sách giáo lý cấp quốc gia, những công trình không biết mỏi mệt của những nhà khai sáng khác nhau trong việc canh tân giáo lý.
Phong trào giáo lý cũng tìm được một số quốc gia làm nơi thuận tiện để xem xét lại hoạt động giáo lý dưới ảnh hưởng của nền thần học và sư phạm đương thời cũng như việc sử dụng những phương thế phân tích và giải thích mới. Trong ý hướng này, phải tuyên dương đặc biệt các nước Đức, Áo và Pháp. Nhìn chung về phong trào giáo lý ở châu Âu, người ta có thể phân biệt ba ảnh hưởng mang tính quyết định đó là sư phạm, phụng vụ và thần học-mục vụ.
Ảnh hưởng sư phạm
Ảnh hưởng đầu tiên (từ cuối thế kỷ XVIII đến thế chiến thứ hai) phát xuất từ mối bận tâm về phương phápdạy môn tôn giáo và từ ảnh hưởng của những ý tưởng lớn về sư phạm và tâm lý (O. Willmann, J.F. Herbart, J. Dewey, G. Kerschenstainer, A. Ferrière, vv.). Bận tâm chính là tìm ra cách dạy giáo lý tốt hơn, đặc biệt là điều kiện và cách học của trẻ em. Điều này nhắc ta nhớ đến ảnh hưởng của “phương pháp đan sĩ (Monaco)” và công trình không mỏi mệt của những người tiên phong trong việc canh tân giáo lý như H. Stieglitz, A. Weber, W. Pichler, M. Pfliegler, C. Quinet, M. Fargues, F. Derkenne, M. Montessori, J.M. Dingeon, vv…
Ảnh hưởng phụng vụ
Ảnh hưởng phụng vụ phát xuất từ việc canh tân phụng vụ, đặc biệt từ cách giải thích mục vụ (B. Beaudin, Hội nghị Malines 1908 và Monserrat 1915). Nỗ lực canh tân này đưa những yêu cầu và phương thức phụng vụ như bài hát, cử hành, biểu tượng, cử chỉ, vv…vào trong giáo lý.
Ảnh hưởng thần học-mục vụ
Ảnh hưởng thần học-mục vụ xảy ra giữa thế chiến thứ hai và CĐ Vatican II, phát xuất từ vấn đề nội dung hoặc sứ điệp của giáo lý là “kerygma”. Người ta phản đối cấu trúc trừu tượng và giáo điều của sách giáo lý truyền thống và tán thành việc trở lại với “kerygma” của các tông đồ cũng như với truyền thống giáo lý chân thực của Giáo Hội. Người ta khám phá lại tính quy Kitô của giáo lý, trọng tâm của lịch sử cứu độ, chiều kích Kinh Thánh và phụng vụ của sứ điệp Kitô giáo, khái niệm giáo lý như là việc giáo dục đức tin. Một vài khuôn mặt đáng nhớ về ảnh hưởng này: J.A. Jungmann, F.X. Arnold, G. Delcuve, J. Colomb, F. Schreibmayr, K. Tilmann, J. Hofinger.
3. Bước ngoặt công đồng Vatican II:duyệt xét lại toàn bộ việc dạy giáo lý
Công đồng Vatican II có ảnh hưởng sâu rộng và quyết liệt trên việc dạy giáo lý. Có thể nói Công Đồng đã khép lại “thời đại dạy thủ bản giáo lý” và mở ra công cuộc rà soát lại nền tảng của việc dạy giáo lý. Mặc dù Công Đồng không đề cập trực tiếp đến giáo lý, nhưng toàn bộ công trình của Công Đồng buộc ta phải thay đổi cách hiểu về nhiệm vụ của việc dạy giáo lý, qua việc xem xét lại một số điểm căn bản về việc dạy giáo lý như Lời Chúa, đức tin và Giáo Hội.
Hậu Công đồng là một thời kỳ đầy chấn động về giáo lý cũng như về các vấn đề khác trong đời sống Giáo Hội, một thời kỳ thật phong phú nhưng cũng rất phức tạp. Phong phú vì có nhiều công trình nghiên cứu những đường lối mới, đầy nhiệt thành và sáng tạo. Người ta soạn thảo nhiều sách giáo lý mới với những bản văn và tài liệu hỗ trợ, lập ra những Học viện và Trung tâm Huấn giáo lý. Nỗ lực suy tư về giáo lý dẫn đến nhiều bình diện hay chiều kích mới trên bình diện thực hành như đòi hỏi về nhân học, trọng tâm Kinh Thánh, chiều kích chính trị và xã hội, ưu tiên cho người lớn, ảnh hưởng của truyền thông và cách riêng của truyền thanh và truyền hình, tầm quan trọng của cộng đoàn, vv… Những thúc đẩy và tác động lớn lao này có khả năng phác họa một khuôn mặt thực sự mới mẻ về hoạt động giáo lý.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng có một thời kỳ thực sự bất ổn và phức tạp không thể kiểm soát được do những biến đổi và những sự mới mẻ gây ra. Thông thường một hoàn cảnh bất ổn và phức tạpnhư thế sẽ làm cho toàn bộ hoạt động giáo lý bị khủng hoảng về nội dung, phương pháp, môi trường, đối tượng, nhân sự, vv… đồng thời tạo ra xung đột và rối loạn, tranh cãi và căng thẳng, khủng hoảng về nhân sự và tổ chức, những cố gắng không chuyên môn và những kinh nghiệm chín muồi tỏa sang. Chúng ta không được quên rằng tận sâu thẳm của mọi biến đổi đều có những nguy cơ và những khó khăn; đây là cái giá phải trả cho mọi nỗ lực canh tân nghiêm túc.
4. Sự đóng góp của Huấn quyền về việc dạy giáo lý
Trong thời hậu Công đồng, cũng có rất nhiều chỉ dẫn giúp canh tân giáo lý một cách đúng đắn và có trật tự. Chúng ta nhớ đến những văn kiện và tài liệu của Giáo Hội Phổ quát như Hướng Dẫn Giáo Lý Tổng Quát năm 1971, Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn” (OICA/RICA), Thượng Hội Đồng Gíam Mục năm 1974 và 1977 với các tông huấn kết thúc Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) và Dạy giáo lý (Catechesi Tradendae), tông thư Sứ vụ Đấng cứu độ (Redemptoris Mission – 1990), Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (1992) và văn kiện mới Hướng Dẫn Tổng Quát về việc Dạy Giáo Lý (1997).
Bên cạnh những chỉ dẫn đại thể này, còn có những tài liệu hướng dẫn không kém phần quan trọng và ý nghĩa của các Giáo Hội địa phương, chẳng hạn tài liệu của các Giáo Hội châu Mỹ la tinh: Medellín, Puebla và S.Domingo.
Cần có sự minh định
Dạy giáo lý là một trong những hình thức thực thi sứ vụ Rao giảng Lời Chúa hoặc thừa tác vụ Ngôn sứ của Giáo Hội, bên cạnh các hình thức khác như Loan báo Tin Mừng đầu tiên, giảng dạy trong phụng vụ, suy tư thần học, vv… Vì thế, việc dạy giáo lý chỉ có thể tìm lại căn tính của mình trong viễn tượng Rao giảng Tin Mừng (RGTM). Việc đề cao tính ưu việt của RGTM trong sứ mạng của Giáo Hội có vẻ làm mờ nhiều chức năng truyền thống của việc dạy giáo lý, chí ít buộc chúng phải được xem xét lại. Cặp từ “RGTM và Giáo lý” thường xuất hiện trong các văn kiện và chương trình mục vụ mà trước đây những tài liệu ấy chỉ nói đến giáo lý. Người ta cũng nói đến “giáo lý phúc âm hóa”, “giáo lý truyền giáo” vv… và ưu tiên chọn RGTM đến độ hoạt động giáo lý chừng như biến mất hay bị lu mờ.Do đó, thiết nghĩ cần phải làm sáng tỏ vấn đề này.
Một khó khăn khác nảy sinh từ việc giáo lý có rất nhiều hình thức khác nhaunhư lộ trình dự tòng, chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, các nhóm suy tư, các khóa huấn luyện, đọc Kinh Thánh, vv…, và hoạt động giáo lý cũng có nhiều tên gọi khác nhaunhư dạy đạo, giáo dục đức tin, dạy giáo lý, dạy tôn giáo, huấn luyện đạo đức, vv… Khi nói đến giáo lý, người ta cũng nói đến những hoạt động rất đa dạng nhưcử hành phụng vụ, cầu nguyện và chiêm niệm, các nhóm linh thao, sống & chia sẻ, các hiệp hội và phong trào, vv… Như thế, “giáo lý” dường như có mặt ở mọi nơi mọi chỗ, do đó, đánh mất ý nghĩa và căn tính của nó trong sự hòa hợp các chức năng khác nhau của cộng đoàn Kitô hữu. Một lần nữa, cần phải làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của việc dạy giáo lý.
B. CĂN TÍNH CỦA VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Bản chất và ý nghĩa của việc dạy giáo lý được xác định trong viễn tượng Rao giảng Tin Mừngcũng như trong khuôn khổ sứ vụ của Giáo Hội, tức thừa tác vụ Lời Chúa.
1. Rao giảng Tin Mừng
Từ “Rao giảng Tin Mừng” hay “Phúc Âm hóa” (evangelization), trong CĐ Vatican II, chưa được xác định rõ, nhưng sau Công Đồng không những được xác định rõ mà còn được biết đến cách rộng rãi, nhất là trong thập niên 70. Thuật ngữ này xuất hiện trong các văn kiện, tài liệu, hội nghị và chương trình mục vụ và ảnh hưởng một cách nào đó trên THĐGM năm 1974 và sau đó trên tông huấn Evangelii Nuntiandicủa ĐTC Phaolô VI năm 1975. Từ thập niên 80 và 90, xuất hiện lối diễn tả “Tân Phúc Âm hóa”, đặc biệt cho bối cảnh Âu Mỹ.
Thuật ngữ “Rao giảng Tin Mừng” hay “Phúc Âm hóa” (evangelization) ngày xưa được dùng cho những vùng “truyền giáo” và được hiểu như là sứ mạng chính yếu của toàn thể Giáo Hội:
“Chúng tôi muốn tái khẳng định rằng việc sai đi RGTM cho muôn dân làm nên sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Nhiệm vụ và sứ mạng này không giảm thiểu tính khẩn thiết của nó trong một xã hội nhiều chuyển biến lớn lao và sâu xa. Thật vậy, việc RGTM là ân sủng, là ơn gọi thiết yếu và là bản chất sâu xa của Giáo Hội” (EN 14).
Trong Tân ước, động từ “loan báo” (euanghelìzesthai) khi thì được dùng theo nghĩa hẹp là công khai và long trọng tuyên bố ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho mọi người trong Đức Giêsu Kitô – Đấng đã chết và đã sống lại, khi thì được dùng theo nghĩa rộng để chỉ toàn bộ hoạt động của Giáo Hội, bằng lời nói và cuộc sống, làm cho ơn cứu độ thành hiện thực.
Trọng tâm của việc RGTM luôn luôn là “Tin Mừng/Phúc Âm”. RGTM nghĩa là loan báo Tin Mừng Cứu độ, công bố Nước Trời, mạc khải “mầu nhiệm” được ẩn giấu nơi Thiên Chúa, loan báo cuộc Vượt qua của Đức Kitô – mạc khải siêu việt và kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa trong lịch sử.
Trong các văn kiện CĐ Vatican II, từ “RGTM” chuyển từ nghĩa hẹp là RGTM cho người chưa tin để họ hoán cải và gia nhập đạo, đến nghĩa rộng hơn là RGTM trong toàn bộ hoạt động ngôn sứ hoặc truyền giáo của Giáo Hội. Khảo sát thuật ngữ“RGTM” trong các văn kiện Công Đồng, Grasso kết luận như sau:
“Chúng ta có thể phân biệt ba ý nghĩa sau: hoặc chỉ việc dạy dỗ muôn dân (Ad gentes 6,26), hoặc chỉ toàn bộ thừa tác vụ lời (Lumen gentium 3,18; Christus Dominus 6,10; Gaudium et Spes 44,13; Apostolicam Actuositatem 2,20, vv.), hoặc chỉ toàn bộ hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes 23,6; 27,15, vv.)”
Trongcác văn kiện hậu Công Đồng, ý nghĩa của từ RGTM được xác định rõ và được hiểu theo nghĩa rộng, tức toàn bộ hoạt động truyền giáo của Giáo Hội được thực hiện dưới mọi hình thức. Tông huấnEvangelii Nuntiandi đã xác định nghĩa rộng của từ này, áp dụng nghĩa này trong cái nhìn phức hợp (17) và sự phong phú của mọi chiều kích (18-24).
“Chúng tôi đã tuyên bố, RGTM là một tiến trình phức hợp gồm nhiều yếu tố khác nhau: canh tân nhân loại, làm chứng, loan báo minh bạch, gắn kết tâm hồn, hội nhập cộng đoàn, chấp nhận những dấu chỉ, những sáng kiến tông đồ” (EN 24).
Nghĩa rộng của từ này cũng được Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy Giáo lý chấp nhận:
“Loan báo, làm chứng, giáo huấn, các bí tích, yêu tha nhân, thâu nạp môn đệ: tất cả những sắc thái ấy đều là những con đường và phương tiện cho việc truyền đạt Phúc Âm và làm thành những yếu tố của việc RGTM […]. Những thừa tác viên của việc RGTM phải biết hành động với một “cái nhìn tổng thể” về chính việc RGTM và đồng hóa nó với toàn bộ sứ mạng của GIÁO HỘI” (46).
“Việc RGTM phải được quan niệm như tiến trình mà qua đó Hội Thánh loan báo và phổ biến TM cho toàn thế giới dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần” (48).
Trong ý thức hiện tại của Giáo Hội, RGTM là loan báo và làm chứng cho Tin Mừng từ phía Giáo Hội, qua tất cả những gì Giáo Hội nói, Giáo Hội làm và Giáo Hội là. Nó bao gồm toàn bộ hoạt động của Giáo Hội nhắm đến việc loan báo và làm chứng Tin Mừng Nước Trời. Có thể nói định nghĩa này đánh dấu một bước ngoặt trong công cuộc Rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Giáo Hội sẽ “không có nghĩa gì nếu như nó không trở thành chứng tá, khơi lên lòng cảm phục và hoán cải, khi giảng dạy và loan báo Tin Mừng” (EN 15). Ý nghĩa của thuật ngữ RGTM giúp chúng ta xác định căn tính của việc dạy giáo lý, ngay bên trong tác vụ Lời Chúa.
2. Việc dạy giáo lý trong tác vụ Lời Chúa
Ngay từ thời các tông đồ, việc phục vụ Lời Thiên Chúa (Cv 6,2-4) đã được xem là yếu tố nền tảng của việc RGTM (x. HDTQ 50). Cùng với việc “làm chứng” (martyria), giáo lý là một phần của tác vụ Lời Chúa.
Các hình thức phục vụ Lời Chúa: Theo truyền thống của Giáo Hội, có ba hình thức chính yếu phục vụ Lời Thiên Chúa: loan báo Tin Mừng đầu tiên (kerygma), dạy giáo lý (catechesis) và giảng dạy trong phụng vụ (homily). Cách phân chia này vừa ám chỉ những đối tượng khác nhau (người chưa tin, người dự tòng, người tín hữu), vừa nói đến tiến trình tháp nhập vào nhiệm cục bí tích (hoán cải, rửa tội, thánh thể), cũng như những giai đoạn chính trong tiến trình năng động của đức tin (tiếp nhận đức tin, đào sâu đức tin, sống đức tin). Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy giáo lý (s. 51) phân biệt 5 hình thức của tác vụ Lời Chúa: qui tụ và mời gọi đón nhận đức tin, khai tâm, giáo dục đức tin thường xuyên, chức năng phụng vụ và chức năng thần học. Cách phân chia này không cho thấy hết toàn bộ lý thuyết cũng như thực hành mục vụ. Trên thực tế, không có sự phân biệt rạch ròi như thế; những hình thức đó thông thường, vì lý do mục vụ, phải đảm nhận cùng một lúc nhiều chức năng khác nhau (HDTQ 52). Cách phân chia truyền thống có thể làm sáng tỏ hơn.
Chứng từ Thánh Kinh và lịch sử: Các Giáo Hội tông truyền chứng minh một thực tế rất khác mà không ấn định các hình thức phục vụ Lời Chúa. Chính từ việc đáp trả trong đức tin lời loan báo Tin Mừng, rồi phát triển và đào sâu Lời Chúa dưới những hình thức khác nhau mà cộng đoàn hiện diện và làm chứng trước mặt mọi người. Sau đây là một vài hình thức đặc trưng được liệt kê một cách tổng quát:
“Việc loan báo Tin Mừng, nghĩa là việc loan báo Tin Mừng đầu tiên, với mục đích khơi dậy nơi người chưa có đức tin ước muốn gia nhập đạo; việc dạy giáo lý hay huấn giáo, là việc đào sâu, có mục đích giúp hiểu cặn kẽ và rút ra những hệ quả cho cuộc sống từ trọng tâm sứ điệp Tin Mừng; việc ngôn sứ, là việc thúc đẩy cộng đoàn phân định thánh ý Thiên Chúa trong lịch sử; làm chứng, là việc minh họa, bảo đảm và thuyết phục; khuyến thiện, là việc sửa dạy và làm cho thêm hăng hái”.
Những hình thức phục vụ Lời kể trên làm nên đời sống của các cộng đoàn, đời sống này trở thành điểm chuẩn để nối kết trung thành với sứ điệp cứu độ duy nhất. Dựa vào sự chuyển biến của từ ngữ tìm thấy trong Tân Ước, người ta có thể phân biệt giữa thời điểm đầu tiên của việc loan báosứ điệp, qua những động từ như “la lên” (krazein), “công bố” (keryssein), “truyền đạt” (euangelizein), “làm chứng” (martyrein), và thời điểm thứ hai của việc diễn giải và đào sâu,qua những động từ như “dạy dỗ” (didaskein), “dạy giáo lý” (katechein), “thuyết giảng” (homilein), “loan truyền” (paradidonai) và những từ tương tự. Vào thời điểm thứ hai của việc diễn giải và đào sâu, chúng ta tìm thấy từ “dạy giáo lý” (katechein):
“Keryssein có tương quan ngữ học với katechein. Keryssein (công bố) chỉ thể thức căn bản của một lời, một sứ điệp, so với katechein (dạy giáo lý) chỉ tiếng vang kéo dài dẫn đến việc thông hiểu sứ điệp”.
Từ “katechein” cho thấy tính mới mẻ của Tân ước, nhấn mạnh đến tính độc đáo của giáo lý, bao hàm việc “làm vang vọng” một Lời vượt trên hết mọi sự và không gì có thể thay thế được. Theo nghĩa đen,“katechein” có nghĩa là “vang vọng, làm vang vọng”, tương ứng với ý nghĩa của các từ như giảng dạy, lên tiếng dạy dỗ, tường thuật, kể lại (xem Lc 1,4; Cv 18,25; 21,21; Rm 2,18; 1 Cr 14,19; Gal 6,6).
Trong thời hậu các tông đồ và các giáo phụ, việc dạy giáo lý có một ý nghĩa chính xác nhất; đó là việc giảng dạy căn bản đức tin Kitô giáo trong bối cảnh dự tòng. Vào thời trung cổ, từ “dạy giáo lý” (catechesis) biến mất và được thay thế bằng những từ như “sách giáo lý” (catechism), “huấn thị” (instruction), thường ở dạng hỏi-thưa như thấy trong phần mở đầu nghi thức rửa tội. Trong thời hiện đại(thế kỷ XVI-XIX) hoạt động giáo lý trở nên hưng thịnh với những phương tiện (các sách báo về giáo lý được in ấn và phổ biến) và tên gọi khác nhau như dạy bổn, dạy đạo, dạy tôn giáo, vv. Chỉ với sự phát triển của phong trào giáo lý ở thế kỷ XX, người ta mới lấy lại định nghĩa truyền thống về “dạy giáo lý”, với ý định vừa khám phá lại ý nghĩa đích thực vừa giải thích lại ý nghĩa của nó dưới ánh sáng của những điều kiện lịch sử và văn hóa biến đổi.
3. Bản chất của việc dạy giáo lý
Truyền thống Giáo Hội cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các hoạt động được diễn tả bằng từ “dạy giáo lý” hoặc các từ tương đương. Trong những thời đại nhất định, các từ này biểu thị những hình thức hoạt động thường làm nên các tổ chức như dự tòng thời cổ đại, khai tâm bí tích, dạy đạo cho người lớn và trẻ em, dạy tôn giáo trong nhà trường, vv. Từ “dạy giáo lý” ngày nay, theo giáo huấn của Giáo Hội, được hiểu theo nghĩa rộng và xác thực hơn.
Hiện có rất nhiều định nghĩa về giáo lý; một vài định nghĩa được sử dụng và trích dẫn trong các văn kiện chính thức của Giáo Hội, chẳng hạn Công Đồng nói đến “việc dạy giáo lý” để “khơi dậy đức tin nơi mọi người và làm cho đức tin ấy, nhờ đạo lý soi dẫn, trở nên sống động, dứt khoát và tích cực» (CD 14); hoặc định nghĩa của THĐGM năm 1977:
«Công việc này … bao gồm việc giáo dục đức tin có tồ chức, phát triển và thống nhất với một tiến trình trưởng thành đức tin vững chắc».
Một định nghĩa khác trong Hướng dẫn Giáo lý Tổng quát năm 1971:
«Trong lãnh vực hoạt động mục vụ, giáo lý là hoạt động Giáo Hội dẫn dắt các Kitô hữu và các cộng đoàn đạt tới một đức tin trưởng thành» (HDGL 21).
Trong Hướng dẫn Tổng quátviệc Dạy Giáo lý năm 1997, “dạy giáo lý là một trong những thời điểm chính yếu của tiến trình rao giảng Tin Mừng … Thời điểm của việc dạy giáo lý là thời gian để hình thành cuộc trở lại với Chúa Giêsu” (s.63) và “đặt nền tảng cho tòa nhà đức tin” (s.64), “là sự khai tâm có tổ chức và hệ thống hướng về Mạc khải” (s.66). Đặc biệt việc dạy giáo lý khai tâm được diễn tả như là “một sự đào tạo có tổ chức và có hệ thống về đức tin” (s.67), hơn hẳn việc giảng dạy truyền thống:
«Việc đào tạo có tổ chức và có truyền thống này còn hơn là một sự giảng dạy: đó là một cuộc tập luyện toàn bộ đời sống Kitô giáo, “một sự khai tâm Kitô giáo trọn vẹn” dẫn đến cuộc sống đích thực theo chân Đức Kitô, tập trung vào Ngôi vị của Người. Thực vậy, đó là việc giáo dục để nhận biết và sống đức tin sao cho qua những kinh nghiệm sâu sắc của mình, con người toàn diện tự cảm thấy mình phong phú nhờ Lời Chúa»(HDTQ 67).
Dẫu có những diễn tả khác nhau, nhưng Giáo Hội hiện thời vẫn thống nhất ý kiến trong việc nhận ra căn tính của giáo lý xoay quanh 3 trục chính: Lời Chúa, Đức tin và Giáo Hội:
Dạy giáo lý là tác vụ Lời Chúa; vì vậy, dạy giáo lý là phục vụ Tin Mừng, là thông truyền sứ điệp Kitô giáo và loan báo Đức Kitô;
- Dạy giáo lý là giáo dục đức tin; trongcông cuộc giáo dục này, Giáo Hội giữ vai trò trung gian để giúp cho đức tin nảy sinh và tăng trưởng nơi từng người cũng như nơi cộng đoàn;
- Dạy giáo lý là hoạt động của Giáo Hội; hoạt động nàydiễn tả thực tại và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội.
Tóm lại, dạy giáo lý là hình thức phục vụ Lời Chúa của Giáo Hội nhằm mục đích làm cho từng người và từng cộng đoàn trưởng thành trong đức tin.
4. Một vài xác định và chọn lựa ưu tiên
Giáo lý là một thời điểm có ý nghĩa trong toàn bộ tiến trình Rao giảng Tin Mừng.Nếu như trong thực tế, Giáo Hội phối hợp loan báo và làm chứng cho Tin Mừng lại với nhau, thì giáo lý luôn là một hình thức Rao giảng Tin Mừng:
«Việc dạy giáo lý nằm trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội và được coi là ‘thời điểm’ chính yếu, nó kín múc trong công cuộc RGTM động lực truyền giáo đã đem lại cho nó sự phong phú nội tại và căn tính đặc thù»(HDTQ 59; x. DGL 18).
Về bản chất, giáo lý là một thời điểm khác biệt và tiếp nối thời điểm loan báo Tin Mừng đầu tiên(HDGL 61). Nó giả định bước loan báo đầu tiên này thúc đẩy sự hoán cải ban đầu. Điều này không luôn xảy ra nhưng xác lập biên giới giữa 2 thời điểm, thực tế, việc dạy giáo lý bao hàm việc hoán cải và kêu gọi hoán cải (HDGL 62). Hoàn cảnh mục vụ ngày nay khiến việc dạy giáo lý phải thực thi luôn chức năng truyền giáo, đặc biệt trong các Giáo Hội có truyền thống Kitô giáo lâu đời, nơi mà xã hội mang đậm tính Kitô giáo nhưng không hành xử theo đức tin.
Như vậy, điểm nổi bật trong toàn bộ hoạt động giáo lý là việc dạy giáo lý khai tâm dưới các dạng thức khác nhau, chẳng hạn việc đào tạo có tổ chức và có hệ thống về đức tin (HDGL 67), và việc dạy giáo lý có một chức năng không thể thay thế được trong tiến trình RGTM:
«Việc dạy giáo lý khai tâm, vì thế, là mắt xích nối kết hoạt động truyền giáo là mời gọi tin, với hoạt động mục vụ là làm sống lại cộng đoàn Kitô giáo. Vậy đây không phải là một hoạt động tùy tiện, nhưng là nền tảng phát huy chính nhân cách của người môn đệ cũng như cộng đoàn»(HDTQ 64).
Trong bối cảnh này, người ta dành ưu tiên cho giáo lý người lớn; một chọn lựa chín chắn trong thời hậu công đồng và được khắp nơi tán thành:
«Các mục tử cũng nên nhớ rằng việc dạy giáo lý cho người lớn là việc dạy giáo lý trực tiếp cho những người có khả năng gia nhập và dấn thân thực sự có trách nhiệm, hình thức dạy giáo lý này cùng với những hình thức khác, được xem là hình thức chính của việc dạy giáo lý, cho nên không được xem nhẹ nhưng phải xem là mệnh lệnh” (HDGL 20).
Chức năng dạy giáo lý của Giáo Hội rất rộng lớn và được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:cá nhân và cộng đoàn, tự phát và có tổ chức, cơ hội và có hệ thống. Đan cử những hình thức khác nhau: giảng dạy, khuyên răn, thảo luận, làm chứng, suy tư, vv. Những hình thức này được thực hiện trong những sinh hoạt đa dạng và cụ thể: những lộ trình dự tòng, chuẩn bị lãnh các bí tích, các khóa huấn luyện tôn giáo, suy tư cộng đoàn, giảng dạy phụng vụ, truyền thông đại chúng, vv. (x. HDGL 71).
Chức năng và những hình thức dạy giáo lý khác nhau không được làm mất đi căn tính của việc dạy giáo lý là phục vụ Lời Chúa hướng đến sự trưởng thành đức tin của người Kitô hữu. Cùng với những hoạt động khác của Giáo Hội, việc dạy giáo lý xác định rõ đặc điểm của mình là đào sâu (đối với đức tin ban đầu) và khai mở hoặc dẫn vào (những thực hành đạo đức khác nhau trong đời sống Kitô hữu như cầu nguyện, phụng vụ, cam kết, làm chứng, vv.). Cho nên, không phải mọi hình thức hoạt động trong đời sống Giáo Hội đều là “giáo lý”, cho dù có thể nói toàn bộ hoạt động của Giáo Hội luôn có mộtkhía cạnhhoặcchiều kích giáo lý.
Theo Emilio ALBERICH, La catechesi oggi. Manuale di catechetica fondamentale (Giáo lý ngày nay. Thủ bản nghiên cứu giáo lý căn bản), Elledici, TO, 2001, 61 – 77.
Md Phạm Thúy
Nguồn: UBGLĐT/HĐGMVN