HÀNH HƯƠNG TRONG LÒNG GIÁO HỘI – PHẦN 2: HÀNH HƯƠNG THỜI TRUNG CỔ
Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG
CHƯƠNG 3: HÀNH HƯƠNG TRONG LÒNG GIÁO HỘI
Phần 2: HÀNH HƯƠNG THỜI TRUNG CỔ
WHĐ (28/02/2025) – Thời kỳ Trung Cổ kéo dài gần 10 thế kỷ (5-15). Giáo hội nhìn nhận đây là thời kỳ vàng son của cuộc hành hương. Tuy nhiên, nhiều người ví von đây là giai đoạn “đêm trường Trung Cổ”. Về mặt chính trị, đế quốc Rôma mỗi lúc một yếu nhược và sụp đổ hoàn toàn (1453); trong khi đó, vài nước Phương Tây và cả các nước Hồi giáo đang bành trướng. Về mặt tôn giáo, sự chia cách Giáo hội Đông phương và Tây phương mỗi lúc một lớn; đầu thế kỷ 11, Giáo hội chính thức chia hai (1054). Tây Phương theo nghi lễ Latinh, Đông Phương theo nghi lễ Byzantin. Trong khi đó, Hồi giáo lan nhanh đe dọa cả châu Âu, và họ đã chiếm được Đất Thánh.
Trong thời Trung Cổ, Giáo hội Công giáo có một vai trò quan trọng trong cuộc sống xã hội và tôn giáo của Châu Âu và nhiều phần khác trên thế giới. Chẳng hạn từ mảnh đất này, các nhà truyền giáo đã đến Việt Nam (1615). Đây cũng là giai đoạn phát triển của Giáo hội Phương Tây, sự hợp nhất của nhiều quốc gia khác nhau và sự trao đổi ý tưởng và giá trị từ mọi nền văn minh châu Âu. Đó là bối cảnh lớn ảnh hưởng vào những kiến trúc, nghi thức và văn hóa hành hương. Dưới đây, tôi liệt kê vài điểm quan trọng về tình hình của Giáo hội Công giáo trong thời kỳ này:
– Quyền lực của Giáo hội: Giáo hội Công giáo trong thời Trung Cổ có quyền lực rất lớn. Thần quyền và thế quyền là một. Giáo hoàng thời này có ảnh hưởng tối cao cả về tôn giáo lẫn chính trị. Các giám mục và linh mục cũng có thể quyết định trong mọi lãnh vực. Vì điều này mà chúng ta thấy những công trình Đền Thánh được xây dựng với công sức của toàn dân.
– Kiểm soát vùng đất: Trước thời Cải cách của anh em Tin Lành (trước thế kỷ 16), Công giáo tại Italy, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vô cùng lớn mạnh và giữ vai trò đầu tàu. Giáo hội Công giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và sở hữu tài sản, đất đai và nguồn tài nguyên. Trong bối cảnh này, hành hương đã trở thành một phần quan trọng của đời sống tôn giáo và văn hóa của Giáo hội Châu Âu. Đi đâu cũng là nhà của Giáo hội!
– Tâm tình đạo đức bình dân[1]: Giáo dân thường thực hiện các cuộc hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Họ thực hiện hành trình này để tìm kiếm sự linh thiêng, xin ơn lành, hoặc đền tội, v.v.
Thời Trung Cổ, hành hương không chỉ mang giá trị tôn giáo mà còn có tầm quan trọng văn hóa và xã hội. Người hành hương lên đường để chiêm ngắm những công trình lộng lẫy, tìm hiểu những văn hóa tại địa điểm hành hương. Lý do là những nơi đó hội tụ những tinh hoa của tôn giáo, hội họa, kiến trúc và văn hóa! Ngoài ra, người hành hương cũng có cơ hội để xả stress, tìm kiếm ơn lành, và giao tiếp với các tín hữu ngoại quốc. Hành hương cũng có thể giúp kích thích kinh tế và phát triển vùng đất qua đó mà họ đi qua.
Hành hương để làm việc đền tội
Bí tích Giải tội (hoặc bí tích Hòa giải) là một phần quan trọng của đời sống thiêng liêng, và nó liên quan trực tiếp đến sự ăn năn và tha thứ. Thời Trung Cổ, hối nhân thường nhận được việc đền tội là đi hành hương. Tội nặng thì đi hành hương lâu dài hơn, tội nhẹ thì đi đường ngắn hơn. Chúng ta ghi nhận vài cách mà hành hương có thể liên quan đến bí tích Giải tội:
Tẩy lỗi và sửa đổi: Người hành hương có thể dùng thời gian trên đường để suy tư về cuộc đời, xem xét lỗi lầm và hành động sai trái, và quyết tâm sửa đổi bản thân. Họ đi bộ để cầu nguyện và hãm mình. Đây thực sự là đúng với từ hành hương. Với hệ thống giao thông hiện nay, chúng ta không đi bộ nhiều, nhưng hy vọng cũng mang tâm tình như người “cầu nguyện bằng đôi chân”.
Nhận sự tha thứ: Một phần quan trọng của bí tích Giải tội là việc hối nhân ăn năn hối lỗi trước mặt Chúa. Trong quá trình hành hương, tín hữu thường có cơ hội để làm điều này. Một số nơi thánh trên tuyến đường hành hương có những thánh tích[2], hoặc các lễ nghi tôn giáo được coi là cách để nhận sự tha thứ.
Khi đến nơi hành hương, họ nhận được chứng chỉ hoặc bằng chứng để đưa về cho cha giải tội. Khi đó, bí tích Hòa giải mới hoàn tất nơi hối nhân. Hơn nữa “trong thế kỷ X, các giám mục miền Nam nước Pháp hoặc miền Bắc Tây Ban Nha thường tha vạ cho khách hành hương đến Compostelle hay đến nơi khác”.[3]
Ơn lành và cứu rỗi: hành hương có thể đem lại các ơn lành và cứu rỗi. Trong ngắn hạn, người hành hương đổi mới đời sống, hướng về Chúa hơn. Càng thực hành đức tin, họ có sức thiêng để hành hương về Quê trời. Bởi Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2691 dạy: “Những cuộc hành hương nhắc nhớ các tín hữu: đời sống trần gian là cuộc hành hương về Nước Trời”. Khi đó có thể nói chúng ta đã đạt được mục tiêu của cuộc hành trình trên dương thế.
Hành hương thời Trung Cổ là một phần quan trọng của cuộc hành trình tâm hồn và đạo đức của người Công giáo.
Hành hương trong bối cảnh Thập tự chinh
Trong thế kỷ 12 và 13, Giáo hội Công giáo đã tổ chức các cuộc Thập tự chinh nhằm bảo vệ và mở rộng lãnh thổ Kitô giáo, đặc biệt là tại Trung Đông.
Hành hương thời Thập tự chinh, còn được gọi là “Cuộc hành trình Thập tự chinh” (Crusader pilgrimage), diễn ra trong bối cảnh của các cuộc Thập tự chinh vào thời Trung Cổ. Đây là những cuộc hành trình tôn giáo và quân sự mà các tín hữu Công giáo tham gia để chiến đấu vì Kitô giáo và để tái chiếm các địa điểm thánh ở Giêrusalem và khu vực xung quanh.
Dưới đây là một số ví dụ về những cuộc hành hương nổi tiếng trong thời Thập tự chinh:
– Cuộc Thập tự chinh đầu tiên (1096-1099): Đây là cuộc Thập tự chinh đầu tiên và nổi tiếng nhất, được tiến hành bởi một liên minh của các quân đội châu Âu với lời hiệu triệu của Đức Giáo hoàng Urban II (Cứu Đất Thánh). Cuộc chiến này dẫn đến việc tái chiếm Giêrusalem vào năm 1099. Từ đây mở ra nhưng chuyến hành hương từ châu Âu đổ về Đất Thánh.
– Thập tự chinh thứ hai (1147-1149) gồm hai chiến dịch chính: một do quân đội châu Âu tham gia, và hai do quân đội phương Đông tham gia. Cuộc Thập tự chinh này thất bại trong việc tái chiếm Giêrusalem. Con đường hành hương bị cản trở. Tuy nhiên người hành hương đến những nơi ở châu Âu.
– Thập tự chinh thứ ba (1189-1192): Đây là một trong những cuộc hành hương lớn và nổi tiếng. Nó được lãnh đạo bởi các vị vua nổi tiếng như Richard Cœur de Lion của Anh, Philip II của Pháp và Frederick Barbarossa của Đức. Tuy cuộc chiến này thất bại nhưng dẫn đến việc ký kết Thoả thuận Jaffa vào năm 1192. Giêrusalem tiếp tục nằm trong tay người Hồi giáo, nhưng khách hành hương Công giáo được quyền viếng thăm thành phố.
– Thập tự chinh thứ tư (1202-1204): Cuộc Thập tự chinh này bắt đầu như một cuộc hành hương do các quân đội châu Âu tự sắp xếp để tham gia. Tuy nhiên, nó đã biến thành một cuộc xâm lấn vào Byzantine và Constantinople (Istanbul hiện nay) vào năm 1204 thay vì tái chiếm Giêrusalem như kế hoạch ban đầu.
– Thập tự chinh thứ năm (1217-1221): Bao gồm các cuộc hành hương nhỏ hơn và quy mô nhỏ hơn so với các Thập tự chinh trước đó. Nó không đạt được sự thành công lớn và không chiếm lại được Giêrusalem.
Những cuộc hành hương Thập tự chinh trên đây mang đậm tính chất của những chiến binh. Tuy nhiên, người hành hương lại đóng vai trò nối kết giữa hậu phương (châu Âu) và tiền tuyến (Đất thánh). Thực vậy hành hương thời Thập tự chinh không chỉ là một cuộc hành trình tâm linh mà còn là cuộc chiến tranh. Những người tham gia thường cam kết tới bảo vệ và tái chiếm các nơi thánh bằng vũ khí. Người hành hương cử hành nghi lễ và nhận được sự chúc lành của Giáo hội. Nhiều người cũng cầu nguyện trong cuộc hành trình này, nhưng cũng phải đối mặt với khả năng chết trong chiến trận. Nếu không họ cũng gặp nguy hiểm trên đường biển (biển Địa Trung Hải, một cuộc hành hương trên biển). Hành trình này có thể rất khó khăn và nguy hiểm do tình hình thời tiết, tấn công từ kẻ thù, và bệnh dịch.
Ngoài những dòng tu có những đóng góp quan trọng trong linh đạo hành hương, chúng ta còn thấy hai dòng mới được thành lập trong thời kỳ này[4]:
– “Dòng Ðền Thờ” gọi là các Hiệp sĩ Ðền Thờ, được lập ra với mục đích giúp đỡ khách hành hương đến viếng Thánh địa. Về sau, họ đã biến thành nhóm chiến binh thiện nghệ trong Ðạo binh Thánh giá.
– Thứ hai là Dòng Bệnh viện Thánh Gioan (Hiệp sĩ Bệnh viện). Họ chuyên về việc săn sóc các khách hành hương bệnh tật hay khỏe mạnh đi lại viếng phương Ðông.
Cuộc Thập tự chinh đã tạo ra một loạt thay đổi trong lịch sử chính trị và tôn giáo, nhưng cũng đánh đổi nhiều cuộc chiến tranh và xung đột. Một số hành động trong Thập tự chinh đã gây ra cuộc thảm sát và xâm lấn, và có những tình tiết khá phức tạp về cuộc xung đột tôn giáo.
Thời Trung Cổ, ngoài Đất thánh và Rôma, chúng ta phải kể ra đây một con đường hành hương nổi tiếng cho tới ngày nay: Compostela. Đây có lẽ là một trong những con đường hành hương (đi bộ) nổi tiếng nhất ở mọi thời. Con đường hành hương Compostela, còn gọi là “the Camino – con đường“, là một hệ thống các tuyến đường hành hương nối liền với nhau, tạo nên một mạng lưới dẫn đến thành phố Santiago de Compostela ở Tây Bắc Tây Ban Nha.
Cũng như những nơi hành hương khác, người ta thường đi hành hương trên con đường này với nhiều mục đích thiêng liêng, tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống, khám phá văn hóa và lịch sử, và để thử thách bản thân. Ví dụ nhà toán học người Pháp, Descartes thề nguyện sẽ đi hành hương viếng Ðức Mẹ Loreto (Nước Ý) nếu tìm ra được cho đức tin một căn bản triết lý không thể lay chuyển. Ông đã tìm ra chân lý đó trong một mệnh đề: “Cogito, ergo sum – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại.”
Đối với nhiều người, hành hương Compostela là một trải nghiệm sâu sắc và thiêng liêng. Nếu hoàn thành con đường hành hương này, người hành hương nhận được Chứng chỉ Compostela (Compostela certificate), một giấy chứng nhận do chính quyền của Santiago de Compostela Cathedral cấp. Để nhận chứng chỉ này, họ cần chứng minh rằng họ đã đi ít nhất 100 km bộ hoặc 200 km xe đạp. Tôi cũng có dịp đi hành hương một đoạn (100 km) trên con đường này. Ngày cuối cùng tôi nhận được chứng chỉ.
Trên con đường này, tôi cũng như đoàn người hành hương có thể thấy nhiều thị trấn và làng mạc cổ kính, các nhà thờ, nhà nguyện lịch sử và cảnh quan thiên nhiên thơ mộng. Các dòng tu cũng lập những tu viện, những nhà khách hành hương dọc theo những tuyến đường này hoặc những vùng kế cận. Đích đến cuối cùng của hành hương là thành phố Santiago de Compostela. Nơi đây có nhà chính tòa được xây dựng vào thế kỷ 9. Trong nhà thờ có thánh tích của thánh Giacôbê Tông đồ (Saint James).
Mách nhỏ khi hành hương:
– Xin các thánh cầu bầu cho mình và gia đình.
– Hành hương là khi người lữ khách được truyền cảm hứng từ những câu chuyện, sự kiện và con người trong lịch sử.
– Trước khi khởi hành vào buổi sáng, nên đọc 1 đoạn Kinh Thánh, để vừa đi vừa cầu nguyện. Nếu có thánh lễ thì càng tốt. Tối đến, nếu đi chung với một vài người khác thì chia sẻ với nhau những gì cảm nhận được trong ngày
Trích trong tập sách Ý nghĩa và lịch sử của hành hương, Nxb Tôn Giáo, 03/2024
_____
[1] Chẳng hạn người rất thích đi hành hương thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II giải thích: “Lòng đạo đức bình dân chính là cách biểu lộ đức tin nhờ những yếu tố văn hóa của môi trường cụ thể, qua việc diễn tả và khơi gợi một cách mạnh mẽ và hữu hiệu tình cảm của những ai cùng sống trong môi trường đó. Lòng đạo đức bình dân được diễn tả qua những hình thức đa dạng và tiềm tàng, bắt nguồn từ chính đức tin khi là thành khẩn và do đó, cần phải được khuyến khích. Trong những biểu hiện chân chính nhất, lòng đạo đức này không đối nghịch với đặc tính trung tâm của Phụng vụ thánh”. (Sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II gửi Hội nghị khoáng đại bộ Phụng Tự & Kỷ luật Bí tích ngày 21/9/2001).
[2] Có được tôn kính các thánh tích không?
“Thánh tích có nghĩa là xương cốt của các vị thánh, hoặc là các vật dụng mà các ngài dùng. Tôn kính thánh tích là nhu cầu tự nhiên của con người, là cách tỏ lòng tôn kính sùng mộ các thánh. Tôn kính các thánh vì các ngài đã dâng hiến cả đời sống cho Chúa, đó là ta ca ngợi hành động của chính Chúa vậy. Thánh tích là những di vật của thân xác các thánh hoặc những đồ vật mà các ngài dùng.” (Youcat 275).
[3] Tân lịch sử Giáo hội, cuốn IIA thời Trung Cổ (600-1500), tr. 132.
[4] Tân Lịch Sử Giáo Hội, Cuốn IIB Thời Trung Cổ (600-1500), tr. 195