KỂ CHUYỆN, LOẠI HÌNH VĂN HÓA HỮU HIỆU ĐỂ CHUYỂN TẢI ĐỨC TIN
WHĐ (30.5.2021) – Thầy nhắn chúng ta, “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày và điều anh em nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 27). Nghĩa là, “không có truyền giáo đích thực nếu không rao giảng công khai về Đức Giêsu là Thiên Chúa” (Tông Huấn Ecclesia in Asia, 19) và sứ vụ truyền giáo “còn có những lãnh vực và hình thái khác: làm chứng, đối thoại, rao giảng, dạy giáo lý…” (EA 23). Lắng nghe Liên Hội đồng Giám mục Á châu, chúng ta chọn “kể chuyện”, làm loại hình văn hóa hữu hiệu để chuyển tải đức tin cho nhau.
1. Lược nét phương pháp “kể chuyện Chúa Giêsu”
Trong những con đường chuyển tải đức tin cho các anh chị em mình, có một nẻo đi giữa các xóm thôn làng mạc, phố thị được Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) chọn lựa và giới thiệu với các Giáo hội địa phương tại Á châu, gọi là Kể Chuyện Chúa Giêsu (chủ đề Hội nghị Á châu năm 1999 tại Bangkok, Thái Lan). Chuyện kể về Chúa Giêsu là một chuyện tình, tình Cha Con, tình anh em, tình thầy trò. Chuyện tình ở đâu, bao giờ cũng chẳng cũ nhưng luôn mới mẻ, không chỉ hấp dẫn cảm xúc, tình cảm nhưng lay động cả vùng kiến thức, trí tuệ và còn lôi kéo ý chí, để dấu ấn trong cả tầng sâu tiềm thức, siêu thức. Phương pháp kể chuyện Chúa Giêsu đáp ứng mọi tầng lớp, trình độ hiểu biết của các anh chị em. Người trí thức thích thú nghe, các bà nội trợ, anh thợ nề, thợ mộc cũng say sưa theo dõi.
Dĩ nhiên kể chuyện Chúa Giêsu không giản dị là “kể chuyện” về một nhân vật, một thời nào trong quá khứ, để gợi nhớ chút hương xưa, tìm nét hoài niệm. Nhưng kể chuyện Chúa Giêsu, chúng ta kể với ký ức sống động của Giáo hội về Chúa Giêsu. Ký ức không chỉ lưu giữ nhưng còn thích nghi và chia sẻ. “Tin vào Chúa Thánh Thần và trung thành với ký ức được truyền lại từ truyền thống Giáo hội toàn cầu, chúng ta đi tái khám phá những lối kể chuyện cho con người hôm nay” (Telling the Story of Jesus, tr.138).
Khi kể chuyện Chúa Giêsu, người kể không vận dụng lý luận để thuyết phục, không nại chứng cứ để hấp dẫn, nhưng giới thiệu một Thiên Chúa-Người mang dáng dấp người quen, người thân tới gõ cửa xin vào thăm, vào chơi, làm quen, làm thân. Và chính Siêu Nhân Vật này sẽ làm chủ mối tương giao ngay từ khởi đầu và tiếp nối tới tầm xa (Telling the Story of Jesus, tr.137). “Sứ vụ của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần được coi như câu chuyện riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là người kể chuyện” (Cook, tr. 39). “Chúa Thánh Thần kể chuyện về Chúa Giêsu cho Giáo hội. Thầy hứa, ‘Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi, Đấng Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ giúp anh em nhớ những gì Thầy đã nói với anh em” (Telling the Story of Jesus, tr. 139)
Kể chuyện không giản dị bằng lời tiếng của con người nhưng còn bằng kinh nghiệm, sức mạnh đức tin mình đang sống, kể bằng chính tình thương và hy vọng mình trải nghiệm. “Không thể có con đường khác cho Giáo hội tại Á châu. Thiếu kinh nghiệm sâu xa về Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế, làm sao tôi có thể kể chuyện thuyết phục về Người như một phần chuyện đời tôi (Telling the Story of Jesus, tr. 137). Kinh nghiệm của Phaolô (Gal 2, 20) đích thực là nguồn cội của sứ vụ, “Không phải tôi sống mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Giáo hội kể chuyện Chúa Giêsu từ kinh nghiệm của mình. Các Tông Đồ đầu tiên đã cảm nghiệm “ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8), điều họ đã nghe, đã thấy tận mắt, đã chứng kiến và tay đã rờ đến, về Lời ban sự sống (xem 1Ga 1, 1-4).
Chúng ta nhìn ra, chuyện kể về Chúa Giêsu tối kỵ những lời sáo rỗng, vô tâm, lạc hồn. Muốn kể chuyện về Thầy với sức thuyết phục, Đức Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại West Bengal, Ấn Độ (04.02.1986), nhắc Giáo hội cần “hiểu rõ tâm lòng và trí hiểu của người nghe, giá trị và phong tục của họ, khó khăn và vấn nạn đời họ, ước mơ và hy vọng của họ. Chỉ khi Giáo hội biết và hiểu những lãnh vực văn hóa khác nhau này, Giáo hội mới có thể khởi đầu đối thoại với ơn cứu độ…”
2. Kể chuyện Chúa Giêsu qua nhân chứng
Chuyện kể về Chúa Giêsu bước đầu chưa hẳn phải vào đề ngay câu chuyện lịch sử đời Chúa Giêsu nhưng chính những bác Hai, chú Tư, cô Năm nào đó hiện thân của Chúa đang sống ngay đây giữa làng xóm, trong xưởng thợ, nơi công trường có thể chưa lên tiếng ngỏ lời với ai nhưng cách ăn nếp ở hài hòa với mọi người, đặc biệt lòng bao dung nhân ái của họ đã là lời kể rất thuyết phục chuyện Chúa Giêsu. Họ là hiện thân Chúa Giêsu và đang chuyển tải Tin Mừng của Thầy cho anh chị em xung quanh. Họ mãi là nhịp cầu nối nhịp cho bà con anh chị em mình lắng nghe và đón nhận đức tin. Chuyện kể về Chúa Giêsu, cách nào đó được kể lại do những chứng từ sống, những hiện thân của Chúa. Riêng lời kể, con người hôm nay thích nghe nhất là “lời vô thanh”, lời không thành tiếng, không nên lời, tất cả chỉ là chứng từ, mẫu sống nhưng “chứng từ về đời sống thánh thiện, ngay lành, thẳng thắn vẫn là câu chuyện hay nhất về Chúa Giêsu tại Châu Á” (Third Bishops Institute for Interreligious Affairs, 1982, tr 105).
Giáo hội Á châu và Kitô hữu Việt Nam luôn nhận thức rõ sứ vụ, hiểu rõ trách nhiệm kể chuyện Chúa Giêsu cho các anh chị em mình, những người đồng hội đồng thuyền, cùng xuôi theo một dòng lịch sử, một truyền thống, cùng thấm nhuần những đạo lý đông phương và cùng vướng mắc những lầm lỗi từ quá khứ sang hiện tại. Kể chuyện về Thầy, cũng là làm chứng cho Thầy, cho Tin Mừng nhân ái được biết đến và người kể chuyện cũng là hiện thân của Chúa Giêsu Á châu. Đồng thời chuyện kể sẽ được kể bằng ngôn ngữ rất riêng của nền văn hóa, kể trong bối cảnh thực của cuộc sống nhưng kể về Đấng vượt trên thời gian. Như thế người kể chuyện đang sống, kể về Đấng là sự sống trong nền văn hóa sống động. Chứng từ trong ngôn ngữ, bối cảnh văn hóa và hoàn cảnh sống có thể đa dạng, nhưng chỉ làm chứng về một Đức Kitô Cứu Thế, một đức tin, một tình yêu và một niềm hy vọng.
Tông huấn Evangelii Nuntiandi đã đề cao: “Người thời nay sẵn sàng nghe nhân chứng hơn nghe thầy dậy, và nếu họ nghe thầy dậy, họ đã nghe vì thầy dạy chính là nhân chứng” (41). Giáo hội cũng nhận ra giá trị chứng từ về Thiên Chúa trong đời Kitô hữu, ở nhiều nơi, “chứng nhân thầm lặng của đời sống là cách duy nhất để rao truyền Nước Thiên Chúa tại nhiều vùng Á châu, nơi rao truyền công khai bị cấm đoán và tự do tôn giáo bị phủ nhận hay cấm cản do cả một hệ thống (EA 23). Dù sao, “Chứng từ vẫn là câu chuyện hay nhất về Chúa Giêsu tại châu Á (Third Bishops Institute for Interreligious affairs, 1982, tr 105)
Cuối cùng chúng ta cũng nhìn nhận không hẳn người kể thuộc một nền văn hóa chỉ kể cho người cùng nền văn hóa, chuyện kể mới “mùi mẫn?”. Vấn đề là Tin Mừng được hội nhập văn hóa, qua lối nghĩ, cách hành xử, kiểu diễn tả riêng, không vay mượn, chắp vá rồi thành lời kể, lời tâm thành thấm thía một nền văn hóa. Và từ những nhân chứng thuộc nhiều nền văn hóa, cùng với đà tiến chung của xã hội, Giáo hội cũng đang mời gọi tín hữu bước vào thế giới toàn cầu hóa làm nhân chứng cho Đức Kitô, “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
3. Nhân chứng toàn cầu hóa về Đức Giêsu
Chúng ta thường thích đề cao văn hóa, nguồn cội của mình, “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Trở về với nguồn cội với gốc gác văn hóa của dân mình là thuận hòa êm ả nhất. Nhưng đâu là nguồn cội Việt cần phải tìm về, đâu là căn tính Kitô hữu Việt Nam cần gìn giữ, vấn đề rộng dài, xa xôi thăm thẳm đòi chúng ta trăn trở kiếm tìm mãi không thôi! Thực sự văn hóa là điểm tinh hoa, là cốt cách cao quý của con người, theo dòng thời gian văn hóa cô đọng thành truyền thống, nề nếp phong tục. Nhưng văn hóa lại chuyển biến theo dòng lịch sử song hành với cuộc tiến hóa của dân tộc. Văn hóa không tù túng khép kín “Mình với nhau thôi” nhưng luôn mở ra mênh mông đón chất chân thiện mỹ từ các tôn giáo và những nền văn hóa khác. Trước đà tiến của cuộc toàn cầu hóa, Giáo hội vừa kêu gọi các Giáo hội địa phương hội nhập đức tin vào nền văn hóa bản địa, vừa đòi các Giáo Hội địa phương mở rộng đón các yếu tố cao quý từ các nền văn hóa khác. Học thuyết xã hội Công giáo cũng kêu mời các quốc gia, các tổ chức quốc tế sẵn sàng cộng tác với nhau mang lại hòa bình và phúc lợi chung.
Thực ra cuộc toàn cầu hóa đã manh nha từ rất lâu. Thomas Friedman sơ phác cuộc toàn cầu hóa thành ba giai đoạn: từ 1492-1800 là giai đoạn toàn cầu hóa các quốc gia, 1800-2000, toàn cầu hóa các công ty và 2000 tới hôm nay là toàn cầu hóa các cá nhân. Riêng trong lãnh vực văn hóa, Hy Lạp đã có ý tưởng về nền văn hóa thế giới với “cosmopolitan Culture” (từ Hy Lạp Cosmopolis là đô thị của thế giới. Tiếp theo đó Đường Tơ Lụa xuất hiện. Đến thời hoàng kim, người Hồi giáo và Do Thái nối kết với nhau buôn bán nông sản, đường, bông và trao đổi kỹ thuật. Hiện tượng toàn cầu hóa đã đẩy mạnh thương mại, lưu chuyển hàng hóa nhưng cũng gieo rắc bệnh thời khí, gây lây nhiễm cả những trận dịch hạch kinh hoàng. Hôm nay cuộc toàn cầu hóa nở rộ về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật nhưng đặc biệt là ngành truyền thông đã đạt mức phát triển lạ lùng. Mới đây các gia đình thuộc một họ đạo trên một doi đất vùng cực Tây đèo heo hút gió vẫn được theo dõi lễ Đăng quang của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Roma.
Cuộc toàn cầu hóa thực tế vừa là yếu tố quan trọng giúp các dân tộc phát triển cuộc sống nói chung, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều rắc rối nhân sinh như quyền tự do, tính công bằng, công ích, hòa bình thế giới… Học thuyết xã hội của Giáo hội đòi con người và xã hội phải dấn thân cho lợi ích chung đồng thời cương quyết bảo vệ phẩm cách con người và những giá trị của Nước Trời. ‘Opus solidaritatis pax’, ‘Bình an là kết quả của sự liên đới’”. Thật vậy, mục tiêu hoà bình “sẽ chắc chắn đạt được nếu không những thật sự thi hành công bằng xã hội và quốc tế, mà còn biết thực hành các nhân đức cổ võ sự đoàn kết, dạy chúng ta sống hợp nhất, cũng như xây dựng một xã hội mới và một thế giới tốt đẹp hơn bằng cách vừa cho đi vừa nhận lại” (Học Thuyết Xã Hội Công giáo c7, 203). Giáo hội xác định, “Không có tổ chức nào của đời sống xã hội – từ gia đình đến các tập thể xã hội trung gian, các hội, các tổ chức mang bản chất kinh tế, các thành thị, các khu vực, các quốc gia, cho đến cộng đồng các dân tộc và các quốc gia – có thể tránh né việc tìm kiếm công ích, vì đó chính là yếu tố làm nên ý nghĩa và là lý do hiện hữu của các tổ chức ấy” (HTXHCG c4, 164).
Hôm nay những người con Chúa thuộc những nền văn hóa, truyền thống khác nhau, tiếp tục kể Chuyện Chúa Giêsu giữa dòng đời qua những phương tiện toàn cầu hóa, với những tương giao giằng díu đa phương. Chuyện kể về Chúa Giêsu vẫn thế, chuyện kể bằng chứng từ sống động vẫn là câu chuyện hay nhất về Chúa Giêsu, thế giới hôm nay rất thích nghe, nhìn.
4. Những mẫu chuyện kể hay là những chứng từ về Thầy
a. Chứng từ về Ngọn Lửa Thiêng của Bác sĩ Carlo Urbani
Thầy chạnh lòng thương, giơ tay chạm vào anh và bảo, “Tôi muốn, anh sạch đi”.
Bình thường thời của Chúa cũng như hôm nay, người ta rất sợ sờ chạm vào người cùi nhưng vì tình thương, Thày chẳng ngại. Bác sĩ Carlo Urbani giống Thầy, ông cứ sát lăn vào với bệnh nhân vì khát mong cứu sống anh chị em mình.
Ngày 26.02.2003, bác sĩ Urbani đại diện WHO (Tổ Chức Y Tế Thế Giới) đến bệnh viện Việt Pháp tại Hà Nội. Bệnh nhân là ông Johnny Chen, một thương gia gốc Trung Hoa, đang viêm phổi. Ca bệnh của Johnny Chen tại Việt Pháp khiến bác sĩ Urbani nghi ngờ về khả năng gây tử vong và lây nhiễm của giống vi trùng lạ. Bác sĩ Urbani lập tức báo động với Bộ Y Tế Việt Nam và WHO. Khả năng chuyên môn của bác sĩ Urbani đã giúp hội đồng chẩn đoán phân biệt giống vi trùng ấy không phải nhóm cúm gia cầm. Đó chính là căn bệnh SARS, khởi phát từ Hồng Kông, và vào Việt Nam qua mầm bệnh từ một du khách ngoại quốc (www.who.int).
Những ngày thí nghiệm, khám định, chẩn đoán ấy đi qua trong hồi hộp. Mọi chuyên viên tiếp cận bệnh nhân được trang bị mọi kỹ thuật phòng chống lây nhiễm. Riêng bác sĩ Urbani được đồng nghiệp tại bệnh viện Việt Pháp và cả WHO cho biết ông có quyền rời khỏi Việt Nam.
Từng là chủ tịch tổ chức Bác Sĩ Không Biên Giới tại Ý (vào thời gian này, 1999, tổ chức bác Sĩ Không Biên Giới nhận giải Nobel), có tiếng tăm và vị thế, bác sĩ Urbani có thể dễ dàng tìm ra nơi công tác khác. Nhưng vị bác sĩ gốc Ý bốn mươi sáu tuổi đã từ chối rời khỏi điểm nóng SARS tại Hà Nội. Ông lý giải với vợ về quyết định của mình: “Nếu anh không thể làm việc trong những tình huống thế này, anh đến đây làm gì? Chẳng lẽ chỉ để trả lời email, đi ăn tiệc, rồi ký giấy tờ?” Ông tiếp tục lưu lại Hà Nội, hằng ngày tiếp xúc gần để khám bệnh và thường xuyên có mặt tại phòng thí nghiệm mong truy tìm giống vi trùng gây bệnh. Bác sĩ Urbani đã thành công. Ông tìm ra vi trùng SARS. Nhờ ông, căn bệnh SARS được khoanh vùng và không loạn phát.
Sang tuần đầu tháng 03.2003, bác sĩ Urbani rời Hà Nội sang Thái Lan dự hội nghị. Vào thời khắc máy bay đáp, Urbani thấy mình lên cơn sốt. Ông hiểu chuyện gì đang xảy ra. Khi bạn bè và đồng nghiệp đón ông tại phi trường, ông từ chối bắt tay họ và yêu cầu được cách ly. Ngày 11.03, ông chính thức nhận chẩn đoán dương tính với vi trùng SARS. Bà Giuliani, vợ ông, đưa các con sang gặp ông lần cuối để chỉ được nhìn nhau qua tấm kính cách ly. Bác sĩ Urbani qua đời một tháng một ngày sau lần đầu tiếp xúc với Johnny Chen!
“Không ai yêu bạn bằng người liều chết vì bạn (Ga 15,13).
Hôm nay nhiều nơi trên thế giới đang ngùn ngụt lòng thù hận, nhiều người liều đeo bom xông vào đám đông, lao vào cả khu trường học, phố chợ cho nổ chết người ta. Nhiều người sẵn sàng chết vì thù hận, nhưng mấy ai dám liều chết vì tình yêu như Carlo Urbani!
Urbani chỉ là một trong 80 ca tử vong do lây nhiễm từ Johnny Chen. Có khác là Urbani biết mình đang đối diện với tử thần nhưng không chạy trốn. Ông hiểu rõ mình đang trực tiếp chạm chân chạm tay vào loại vi trùng gây chết người. Tiếp tục chiến đấu tìm ra vi trùng SARS là nét liều của Tin Mừng, liều mạng mình cứu mạng anh em. Can đảm có mặt nơi thần chết lảng vảng để khoanh vùng lây nhiễm là nét hùng của kẻ dám bỏ đời mình vì sự sống anh chị em.
Có phải Urbani đã kể chuyện Đức Kitô và Núi Sọ bằng quyết định gắn bó với nhóm bác sĩ y tá bệnh viện Việt Pháp? Nếu lo lắng cho anh em là giúp đỡ chính Thầy. Urbani đã chọn ở lại đến cùng với Thầy trên đồi Calvê mà không bỏ Thầy trước khi gà gáy sáng.
Thầy đã ném lửa vào mặt đất và Thầy vẫn ước mong, phải chi ngọn lửa đó đã bùng lên (xem Lc 12,49). Ngọn lửa tình thân Thầy ném xuống đã bùng lên trong lòng Urbani, ước mong lửa cũng bùng lên trong lòng anh, trong lòng em, trong lòng chị chúng ta.
Những năm làm việc tại Hà Nội, Urbani hòa vào dòng người, cũng lái xe máy, cũng ăn uống quán chợ dọc đường. Ông sinh hoạt như dân bản xứ. Khoác áo trắng tại Việt Pháp, ông không làm mình khác người với thánh giá trên ngực. Hòa mình vào văn hóa bản địa khi còn sống như thế, Urbani đã làm sáng nét Kitô hữu lúc xuôi tay nằm xuống. Vị bác sĩ gốc Ý đã đến Việt Nam, ngồi cùng anh chị em, ăn uống với họ, và kể chuyện về Thầy bằng lối sống thấm đẫm Tin Mừng.
Bác sĩ Carlo Urbani được đưa về an táng tại quê hương Jesi, Ý, do Đức Giám Mục Oscar Serfilippi chủ tế. Câu kết trong chuyện bác sĩ Urbani kể về Thầy được Đức Gioan Phaolô II viết trong điện văn chia buồn: bác sĩ Urbani là người “dám chết cho anh chị em bớt những nỗi đau” (www.zenit.org).
b. Chứng từ Hòa bình của Đức Thánh Cha Phanxicô
“Phúc cho ai xây dựng hòa bình vì sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9)
Suốt đời, Phanxicô nung nấu khát vọng hòa bình. Để tránh đối kháng với cha mẹ, Phanxicô đã trần truồng thoát ly gia đình. Sinh vào thời chiến, anh phải nhập ngũ, nhưng sợ cảnh chém giết, anh đành bỏ quân ngũ. Trong cảnh nhiễu nhương giữa một vùng Hồi giáo với một nhóm Công giáo, anh chẳng coi những người Hồi giáo là kẻ thù, cứ đi ngờ ngờ trong lãnh địa Hồi giáo, anh bị bắt và suýt nữa bị thiêu vì bị buộc tội gián điệp. Anh nói, “Cứ đốt tôi đi, Chúa chứng giám cho tôi, tôi chẳng làm gián điệp cho ai!” Thấy anh hiền lành, người ta tha cho anh. Lòng hiếu hòa và hiếu sinh đã thắng. Lòng hiếu sinh, hiếu hòa của anh đã nên lời thành bài kinh thơ nổi tiếng, “Bài Ca Mặt Trời”. Ở đây Phanxicô chân chất đứng giữa bầu trời lên giọng ới ời anh mặt trời, anh mặt trăng, anh gió, gọi với trông vời nàng mây, chị nước. Anh làm như muốn rủ cả vũ trụ thụ tạo ca tụng Thiên Chúa với anh. Có thể nói Bài Ca Mặt Trời là tiền thân của Kinh Hòa Bình Phanxicô. Thực ra Kinh Hòa Bình không phải lời kinh của thánh Phanxicô, lời kinh này chỉ xuất hiện vào Thế Chiến Thứ Nhất. Ai đó đã viết lời Kinh Hòa Bình trên tấm ảnh của Thánh Phanxicô Assisi và dần dần lời kinh phổ biến khắp nơi. Từ đó lời kinh tự nhiên được coi là Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô. Dĩ nhiên tác giả có là ai thì ai biết. Quan trọng là tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phanxicô đã được diễn bày qua lời kinh. Hôm nay Đức Thánh Cha Phanxicô Assisi đã chọn đúng mẫu hòa bình của thánh Phanxicô làm mẫu của mình. Chúa đã chọn Bergoglio làm mẫu sứ giả hòa bình của Chúa. Một thứ hòa bình không dễ dãi, không thỏa hiệp với hòa bình giả tạo nên Chúa đã đòi ngài mua gươm mang đi theo Thầy.
Vào năm 2003 khi bác sĩ Urbani qua đời tại Thái Lan, có lời đồn về những tài liệu do Hoa Kỳ gửi sang Vatican về Giám mục Bergoglio. Wikileaks tiết lộ: tên của vị giám mục này xuất hiện trên văn bản tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Vatican khi Hoa Kỳ muốn vận động hành lang đưa ngài vào nhiệm vụ đứng đầu Giáo hội Công giáo. Đó là lời đồn đại vô căn cứ nhưng cho chúng ta liên tưởng tới hai chứng nhân của cùng một thời đại. Một người đã nằm xuống, Urbani chết cho các bệnh nhân, một người đang còng lưng gánh vác gánh nặng nền hòa bình của Giáo hội, của thế giới và đang dìu lên, vực dậy những người nghèo khổ.
Đức Bergoglio trở thành tổng giám mục Buénos Aires từ năm 1998. Từ trước đó, ngài liên tục có những quyết định và hành động cho thấy ngài đứng về phía người thấp cổ bé miệng. Đầu tiên là từ chối sống trong dinh thự riêng dành cho giám mục, không nhận xe riêng do tòa giám mục cấp. Ngài nhận mũ gậy giám mục và không bỏ lối sống đơn giản: ở chung cư, tự nấu ăn, thích đi xe đạp. Sau này khi sức yếu đi, ngài chọn xe buýt tìm thăm anh chị em.
Đất nước Argentina không khác nhiều quê hương Việt Nam. Có nắng cháy và có biển xanh. Có biệt thự tiền tỷ và có khu ổ chuột đầy rác. Có đại gia và người nghèo. Có chính quyền và dân chúng. Người ta có quyền chọn phía mát mẻ giàu sang và giữ khoảng cách xa xa với phía còn lại. Người ta cũng có quyền chọn đứng chung chung, lấy tiếng trung lưu tránh tiếng sang, như kiểu trong cái ngõ nho nhỏ có căn nhà to to. Đức Phanxicô đã chọn, nhưng chọn lựa của ngài đưa ngài đến gần rất đông những người dân nghèo khó. Chọn ở chung cư là chọn ngủ nghỉ như phần lớn những người dân sống trong giáo phận của ngài. Chọn xe buýt là chọn phương tiện di chuyển của đại đa số. Chọn tự nấu ăn cho mình cũng là muốn chuyện hầu hết dân chúng đang thực hiện tại nhà mình. Dấn thân sống nghèo, giao tiếp bình dị với người nghèo, Đức Phanxicô đã hội nhập văn hóa để kể chuyện về Thầy như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II kêu gọi: “Từ bối cảnh này, đã rõ hơn vì sao truyền giáo và hội nhập văn hóa tự nhiên liên hệ mật thiết với nhau… Đây là lối đi bắt buộc cho các nhà loan báo Tin Mừng khi trình bày về đức tin Kitô giáo và đưa đức tin vào thành phần di sản văn hóa của một dân tộc… Cũng không thể bỏ qua nhu cầu thiết thực của người nghèo, di dân, người tị nạn, giới trẻ và phụ nữ trong mọi tiến trình đích thực đưa phụng vụ hội nhập văn hóa…” (EA 21, 22).
Ngày 13.03.2013, Đức Hồng y Bergoglio tiến ra ban công Vatican gặp gỡ giáo dân với phẩm phục giáo hoàng. Có người thông cảm: “Thôi, thế là từ nay áo đen với thánh giá sắt và xe buýt phải giã từ. Chắc sẽ ngột ngạt trong áo trắng, thánh giá vàng và Popemobile”. Không hẳn thế, Đức Phanxicô vẫn mang nét giản dị mục tử. Khi được yêu cầu chọn một trong ba mẫu thánh giá, ngài chọn chiếc thánh giá bằng bạc mạ vàng thay vì vàng ròng. Áo trắng là phẩm phục thì đành chịu, nhưng báo chí nói đến cú vấp dễ thương trong ngày thứ nhì tại Vatican khi gặp gỡ Hồng y đoàn: Đức Thánh Cha Phanxicô vấp chân, giầy vướng áo. Không biết vấp vì phẩm phục thùng thình hay vấp vì vội bước đến với anh em. Còn Popemobile có phải đi không? Không hẳn! Ngày đầu tiên trong nhiệm vụ Giáo hoàng Giáo hội Công giáo, Đức Phanxicô đã đi xe buýt. Nhưng ngài không đi một mình, Mũ Trắng ngồi cùng rất đông các Mũ Đỏ (www.cnn.com)
Tờ Telegraph của Anh và La Stampa của Ý ngày 14.03.2013 đăng hình Đức Phanxicô và các hồng y trên xe buýt ở trang nhất. Theo Telegraph, Đức Hồng y Dolan (New York) kể: “Xe buýt đưa hồng y đoàn từ điện Vatican về khách sạn Vatican đêm đó, và Đức Giáo hoàng đòi đi theo. Ngài nói ngài muốn tự lấy hành lý ở khách sạn, tự trả tiền khách sạn, và tự nói lời cám ơn nhân viên khách sạn. Ngày hôm sau sang điện Sistina làm lễ, ngài không chịu đi xe riêng. Ngài trấn an tài xế xe buýt của hồng y đoàn: ‘That’s OK. I just ride with the boys! Được mà, tôi đi chung với anh em!’”
“Mẹ ơi, mẹ đi đâu con theo đó,
Mẹ ở đâu con ở đó,
Dân của mẹ là dân của con,
Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (R 1,16)
Tới hôm nay người ta vẫn không chắc Đức Thánh Cha sẽ ở đâu. Có người sợ, ngài chẳng chịu về nơi chốn dành sẵn cho các vị Giáo hoàng. Thực ra chuyện ăn ở chẳng là chuyện lớn, như Thầy nói, “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người không có nơi tựa đầu”. Chuyện lớn trong đời môn đệ, Thầy bảo là “Ai muốn làm lớn hãy xuống làm đầy tớ hầu hạ anh em”.
Tới hôm nay, Đức Giáo hoàng Phanxicô vẫn chưa vào ở Dinh giáo hoàng dù công tác tu sửa đã hoàn tất. Ngài đã được đưa đi xem nơi ấy, và nhận xét: “To lớn quá! Chỗ này phải 300 người ở!” Tại khách sạn Casa Santa Marta, vào thời gian mật viện, ngài ở phòng 201. Khách sạn có 106 phòng suite, 22 phòng đơn, và một căn hộ hai phòng, có diện tích rộng rãi hơn một chút. Căn hộ này dành cho các vị thượng khách như Thượng phụ Bartholomew. Đó cũng là nơi vị tân giáo hoàng cư ngụ trong vài tuần chờ tu sửa Dinh giáo hoàng. Phát ngôn viên Tòa Thánh Lombardi nói Đức Phanxicô chưa nhắc gì đến việc dọn về Dinh giáo hoàng nhưng “ít nhất ngài đã đồng ý ở trong căn hộ hai phòng”. Hàng ngày ngài cử hành thánh lễ tại nhà nguyện của khách sạn (www.romereports.com). Ở đây, vị mục tử tình nguyện nhận những gì thô sơ, đơn giản, và nhất định muốn có mặt giữa anh em.
Đức Hồng y Dolan cũng kể với Charlie Rose, tay tổ truyền thông của đài PBS, về thái độ đến với anh em của Đức Phanxicô. Ngày khói trắng tỏa lên báo hiệu mật viện kết thúc, các hồng y tiến lên nói lời hứa vâng phục và trung thành, nhân viên nghi lễ đã xếp ghế trên bục để vị tân giáo hoàng ngồi đưa tay cho các hồng y hôn nhẫn. Thấy ghế vẫn trống, vị MC phải lên tiếng nhắc: “Thưa Đức Thánh Cha, ở trên đây cơ mà!” Đức Phanxicô dứt khoát: “Không! Tôi đứng dưới này!” Bỏ bục cao, bỏ ghế trắng oai vị, Ngài đứng bằng với các hồng y. Tối hôm đó, ngài cùng hồng y đoàn ăn tối. Đức Hồng Y Dolan nhớ lại: “Ngài vẫn bình dị và khôi hài như mọi khi. Lúc kết thúc bữa ăn, ngài nói: ‘Thôi anh em về ngủ ngon, anh em xứng đáng có giấc ngủ ngon. Tôi nâng ly mừng anh em, và… xin Thiên Chúa tha tội cho anh em!’ Ngài làm chúng tôi cười sập nhà!”
Nét văn hóa riêng của hồng y đoàn đã có đó từ trước mật viện qua bao nhiêu cuộc họp hành gặp gỡ. Những ngày mật viện, 115 vị đã ăn uống, trò chuyện, cầu nguyện, chia sẻ. Sau mật viện, một ở lại trở thành lãnh đạo tối cao, 114 vị hứa trung thành. Dù thế, Đức Phanxicô không chịu tách rời nét văn hóa đã tồn tại giữa các huynh đệ với nhau: vẫn bình dị, thân tình, và khôi hài. Hội nhập văn hóa như Đức Phanxicô chính là hội nhập để kiên vững niềm tin anh em, và ngỏ lời xin anh em cùng xiết tay đi kể chuyện về Thầy.
Đã bước lên ngôi vị Giáo hoàng từ buổi tối 13.3.2013, Đức Phanxicô không quên đi tìm anh em nghèo khó xung quanh. Hãng tin CNN tường thuật ngài mời những anh làm vườn, chị quét đường, nhân viên khách sạn và nhân viên báo L’Osservatore đến dự thánh lễ ngài cử hành mỗi ngày tại nhà nguyện của khách sạn Casa Santa Marta. Chắc Đức Phanxicô nhớ nhà và nhớ các anh chị em mình nhiều lắm, họ là những nghèo khó trên đất nước của ngài. Họ đang hít thở, ăn uống, lao lực, lao tâm. Tại Giáo hội địa phương này, Đức Bergoglio không ngại lên tiếng bênh vực người yếu thế, không sợ nói ngược với kẻ có quyền. Năm 2000, ngài kêu gọi toàn thể Kitô hữu Argentina mặc áo gai cầu nguyện cho những sai phạm của chế độ độc tài (L’espresso).
“Không ai kết tội chị Thầy cũng không, chị về đi và đừng phạm tội nữa.”
Bắt tội phạm quả tang là khó nhưng tìm được tấm lòng khoan dung biết tha thứ cho nhau còn khó hơn.
Với thẩm quyền giám mục, ngài khiển trách những linh mục từ chối rửa tội cho con cái của những cô gái không chồng. Ngài nhìn thấy nét thiết tha với niềm tin Kitô giáo khi những cô gái không chồng ấy “đi hành hương, từ giáo xứ này sang giáo xứ khác, cố gắng tìm vị nào đó rửa tội cho con”. Ngài gọi thái độ từ chối rửa tội cho các em bé con là thái độ của Pharisiêu, là “đánh cắp” bí tích, là “đuổi dân Chúa ra khỏi ơn cứu độ” (www.nydailynews).
Ngày xưa, giữa đám đông ngùn ngụt giận dữ, người phụ nữ lăng loàn gục xuống vì xấu hổ, run rẩy vì sợ hãi. Sau câu hỏi của Đức Kitô, chẳng ai dám ném viên đá đầu tiên. Hai ngàn năm sau, tại giáo xứ nào đó của Argentina, viên đá đầu tiên đã được ném đi, chẳng trúng vào người mẹ không chồng nhưng hướng thẳng đến đứa bé ra đời trong hoàn cảnh thiếu cha. Đức Giám mục Bergoglio chặn viên đá ấy. Chuyện về Đức Kitô bênh vực người phụ nữ tội lỗi đã được kể tại Buenos Aires như thế.
Dễ thương hơn, người kể chuyện chỉ muốn đóng vai kẻ giới thiệu về Thầy, không tô bóng mình. Năm 2009, Đức Tổng Giám mục Bergoglio rửa tội cho bảy em bé. Các em là con một phụ nữ nghèo đã có hai ông chồng. Ngài hẹn gặp, nói chuyện với bà, rồi sắp xếp rửa tội cho các em trong nhà nguyện của Tòa Giám mục. Ngài nhớ lại: “Sau lễ, chúng tôi ăn bánh mì và uống coca”. Người mẹ nghèo khổ nước mắt lưng tròng: “Thưa Đức Cha, con không thể tin được, Đức Cha làm con thấy mình quan trọng”. Đức Bergoglio trả lời: “Chị ơi, tôi dính dáng gì? Chính Đức Giêsu biến chị nên quan trọng” (www.zenit.org). Cách nào đó, từ Argentina, Đức Tổng Giám mục Bergoglio đã thực hiện lời kêu gọi của Liên Hội đồng Giám mục Á châu: “Không bao giờ đặt trọng tâm vào chính mình nhưng chú trọng giấc mơ của Thiên Chúa về thế giới đang biến thành hiện thực” (FAPA I, 333).
Từ Hoa Kỳ, Tổng thống Obama chắc chắn từng nghe về Đức Tổng Bergoglio, từng theo dõi lối kể chuyện về Thầy của ngài. Khi khói trắng bốc lên từ Điện Vatican, ông Obama đang họp với thành viên Đảng Cộng Hòa. Ông dừng cuộc họp thông báo với mọi thành viên: Đã có vị giáo hoàng thứ 266. Ông nói: “Là kẻ bảo vệ người nghèo và người yếu hèn nhất giữa mọi người, ngài mang thông điệp tình yêu và lòng cảm thông đã từng khởi hứng cho thế giới trên hai ngàn năm qua – để trong nhau, chúng ta nhìn thấy mặt Thiên Chúa” (www.nydailynews.com). Với riêng Obama, dạng diện Thiên Chúa đã dễ nhìn ra hơn, tình yêu Thiên Chúa được cảm nhận rõ hơn qua lối kể chuyện về Thiên Chúa của Đức Thánh Cha Phanxicô.
c. Kim Ngọc kể chuyện Đức Kitô thương khó chịu nạn và phục sinh
Chúng ta gặp giữa đời nhiều chứng nhân sống của những vụ tàn sát kinh hoàng như vụ người bị giết lấy nội tạng tại Trung Quốc, vụ thiêu người tại Trung Đông, chứng nhân sống vụ cướp tiệm vàng giết người tại Hải Dương, chứng nhân sống trở về sau hơn mười năm là nô lệ tình dục, chứng nhân sống trận hải chiến Hoàng Sa, chứng nhân sống cuộc thảm sát Mỹ Lai… Tất cả những con người được nhắc đến trên đây đều là nhân chứng của những nỗi đớn đau cùng tột, những cuộc sát nhân đẫm máu và những cái chết tức tưởi. Họ có thể đã lãng quên hết để hòa vào nhịp sống vui, hoặc có người vẫn sống để dạ, chết mang theo, lòng hận hờn không bao giờ phai lạt. Nhưng Kim Ngọc đang sống để làm chứng, làm chứng mẫu sống của Chúa Giêsu, sống quên đi thù hận và chết đi để giải phóng con người khỏi lòng thù.
Nếu em biết ơn Thiên Chúa và biết ai là người nói với em, “cho tôi xin miếng nước” hẳn em sẽ xin và người sẽ ban cho em nước hằng sống (x Ga 4). Chúng ta có thể để gió cuốn đi cả niềm vui nỗi buồn, cả những thành công và thất bại nhưng không thể để mất ân tình và lòng biết ơn.
Kim Ngọc ở tuổi hai mươi. Cô út thông minh có đôi mắt đẹp và làn da trắng là con gái rượu của ba mẹ, là cục cưng của các anh chị. Kim Ngọc học giỏi, hiền hòa, bặt thiệp. Ngày ba mẹ làm giấy tờ đi Mỹ, Ngọc nhất định xin ở lại Việt Nam một mình. Mẹ nhòa nước mắt, ba nhầu vầng trán vì con. Sao nơi văn minh an toàn con không chịu, lại chọn chỗ khó nghèo bấp bênh? Kim Ngọc thiết tha: “Con xin được học hành, sinh sống hít thở ngay trên quê hương này. Chúa Giêsu cũng đã nhận lấy mọi ràng buộc con người nơi vùng đất cằn khô Do Thái kia mà”.
Những cuộc tranh luận dai dẳng, có nước mắt, có giận hờn… rồi cũng kết thúc khi Kim Ngọc tiễn ba mẹ và các anh chị ở phi trường. Còn lại một mình, cô vừa học đại học vừa theo lối các sơ đến với bệnh nhân phong cùi. Một ngày, trên đường từ điểm thăm bệnh nhân về, cô bị hai kẻ trốn trại cai nghiện làm hại. Kim Ngọc từ chối thổ lộ về vụ việc ấy, chỉ mình vị bề trên là người cô chia sẻ. Mẹ cô tức tốc từ Mỹ về chăm sóc con. Những ngày dài dưỡng bệnh, người ta thường thấy Kim Ngọc vừa nức nở vừa cầu nguyện, dù vẫn không nói gì về chi tiết tai ương. Khi kết quả xét nghiệm mang dương tính HIV, người mẹ ngất xỉu, vị bề trên chết lặng, Kim Ngọc mặt tái trắng thẫn thờ. Giọng nói yếu ớt, cô vắn tắt: “Xin mẹ cho con được theo bề trên của con”. Không có than van, trách móc, nhưng lúc ấy cũng không có lời hứa sẽ vững tin, sẽ can đảm sống.
Hơn một năm sau, có người hỏi vị bề trên về Kim Ngọc, bà đề nghị: “Hãy để Kim Ngọc kể về mình”. Lúc ấy Kim Ngọc đang ngồi ở ghế đá trước phòng khách nhà dòng, lặng im một hồi, rồi nhỏ nhẹ thú nhận cô không rõ mình có thật sự và hoàn toàn tha thứ không. Cô nói cô đã đến thăm hai kẻ tội phạm trong tù và mô tả cảm giác của mình: “Không hận, mà thương. Không ghê tởm, nhưng thông cảm”. Cô kể, hai tay nghiện cũng không tin cô có thể tha thứ cho họ. Cô gái trẻ tiếp tục đến thăm hai người tù nhiều lần, và bắt đầu nói với họ về thần tượng của cô.
“Anh biết không, Ngọc đã kể cho hai người tù đó nghe về Chúa. Mà Ngọc không gọi là Đức Giêsu hay Đức Kitô hay Thiên Chúa, vì họ chưa biết về Chúa. Ngọc chỉ nói theo kiểu “hồi đó có anh chàng tên là Giêsu ở Do Thái”. Rồi Ngọc kể về Chúa xin nước bên bờ giếng, về vụ ném đá người đàn bà ngoại tình, về giây phút giang tay trên thập giá xin Cha tha tội cho họ… (xem Lc 23, 34). Dưới tàn lá rủ bóng, Kim Ngọc cười, ánh mắt đầy nắng: “Hai người tù đó hay khóc lắm, nhất là những khi Ngọc kể về người mù, người liệt, người tội lỗi, người thấp bé trong Tin Mừng… Cuối cùng một thời gian sau cả hai đã chịu bí tích Rửa Tội rồi đó anh! Cám ơn họ đã nghe Ngọc kể chuyện. Cám ơn các sơ, các thầy và các cha bỏ thời gian vào tù dạy giáo lý cho họ. Cám ơn Chúa cho Ngọc gặp họ, anh nhỉ!”
“Anh đã thấy và anh đã tin” (Ga 20, 8)
Sáng sớm hôm ấy Gioan ra thăm mộ Thầy, anh chỉ thấy ngôi mộ trống bên cạnh là rải rắc vải liệm, khăn liệm, không thấy gì khác. Không biết, anh đã thấy gì và tin gì? Thực ra ngôi mộ trống đưa anh về với lời Thầy và chính Lời đã làm anh tin. Còn Kim Ngọc, cô gái trẻ, trẻ người non dạ, chẳng “đủ cơ” cho ai tin lời nhưng lời kể của nàng đã đưa người nghe về với Lời của Đấng đang được kể cũng là Đấng kể về đời mình qua chứng nhân sống động Kim Ngọc. Có thể nói họ đã thấy và đã tin.
Lời cám ơn của cô gái trẻ làm người đàn ông rơi nước mắt, Kim Ngọc ơi, em đã kể câu chuyện về Thầy bằng nước mắt và cơn đau của chính mình, bằng niềm tin mãnh liệt nơi Đức Kitô và tình yêu thiết tha dành cho anh chị em. Không chỉ có thế. Em mang chuyện về Thầy rời khỏi giới hạn của cuốn Thánh Kinh trên bục Sách Thánh đến bên song sắt nhà tù. Kẻ giang hồ lão luyện chốn tội lỗi đã xúc động vì lối em sống và lời em kể. Dường như họ nhìn thấy Đức Kitô em đang tin, và quỳ xuống tin nhận “Thầy là Chúa và là Thiên Chúa” (???). Em không muốn làm nhân chứng sống, em chọn sống chứng nhân cho Thầy.
Kim Ngọc, tuổi đời và tuổi trời khiêm tốn đã kể chuyện về Đấng mình tin yêu. Chuyện đã hấp dẫn và thuyết phục người nghe cũng tin và yêu Ngài như cô. Ngọc không từ chối niềm tin dân gian về Trời của những bệnh nhân cùi, cô thường ghé thăm mỗi buổi chiều cuối tuần, nhưng cô giới thiệu với họ về Chúa mà lòng cô đang tin và cả Giáo hội tin. Cô không phủ nhận mất mát đau thương của các bệnh nhân khốn khổ này, nhưng lấy kinh nghiệm chính mình làm cầu nối cảm thông. Em nhạy cảm để không sử dụng những chuyên từ trong đạo với hai tay giang hồ thiếu hiểu biết về văn hóa lẫn tôn giáo. Em không khoác áo nhà truyền giáo thăm tù nhân, mà nỗ lực tìm gặp kẻ đã hại mình rồi nhỏ nhẹ kể về chàng thanh niên biết yêu, và yêu đến dám chết vì yêu. Em có lối tế nhị khi chuyển dịch ngôn ngữ chuyên biệt của Thánh Kinh sang ngôn ngữ thời sự làm duyên kể chuyện. Kim Ngọc đã nối được nhịp cầu cho Chúa và “người ta” gặp nhau. Phải chăng kể chuyện Chúa Giêsu cũng là làm ông tơ bà nguyệt cho Chúa với người ta bén rễ ân tình?
5. Thay lời kết
Bên hàng giậu phân cách giữa sân trường và xưởng tạc đá, mỗi ngày vào giờ ra chơi, các em học sinh bé dại thường đứng vịn tay lên hàng giậu tò mò nhìn những người thợ đục đá. Các em trố mắt ngưỡng phục tài nghệ các tay thợ đá. Bỗng một ngày có em bé lẻn sang đứng cạnh một anh thợ đã tạc gần xong bức tượng con sư tử sống động. Nó đang nhe răng, giương vuốt như sắp phóng ra khỏi khối đá. Em bé đứng tránh đầu chú sư tử dữ, chừng như sợ con thú bất chợt lao phải. Chú bé nhút nhát tới hỏi nhỏ vào tai người thợ tạc, Chú ơi, làm sao chú biết bên trong đá có con sư tử? / À chú cũng chẳng biết nữa, trong đá có con sư tử hay ở ngoài con sư tử có đá. / Cháu nghĩ sao? / Cháu nghĩ trong đá có con sư tử, cháu chỉ không hiểu sao con sư tử sống được trong đá! Trong đá có con sư tử, đó là ý tưởng ngộ nghĩnh của tuổi thơ. Nhưng thường chúng ta cũng không kém ngộ nghĩnh, khi luôn có sẵn trong đầu khuôn mẫu về một vật, một người chẳng bao giờ có trên đời. Người ta bảo đó là do chúng ta tổng hợp và trừu tượng hóa ra.
Khi kể chuyện Chúa Giêsu, xin đừng kể về một Chúa Giêsu do đầu óc chúng ta tổng hợp và trừu tượng ra, xin kể về Chúa Giêsu, Đấng chúng ta đang tin, đang yêu và đang sống với Người. Chúa Giêsu trong chuyện kể của chúng ta thấm nhuần tình thân thương. Người là người Á châu là lục địa nhà. Gần gũi hơn, đó cũng là sân nhà, cây nhà lá vườn, anh em trong nhà, nước nhà, quê nhà. Chúng ta, người Á châu, là người nhà với Thầy. Chúng ta mừng vui được kể chuyện về người thân, người nhà mình. Theo Tông huấn Ecclesia in Asia, “Giáo hội tại Á châu hát bài tạ ơn ‘Thiên Chúa Cứu Độ’ (Tv 68, 20) vì Người đã chọn khởi đầu kế hoạch cứu độ tại mảnh đất châu Á” (EA 1).
Têrêsa Dục Thúy
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 76 (Tháng 5 & 6 năm 2013)