SUY TƯ THẦN HỌC VỀ THÁNH GIUSE
I. SỰ CHUẨN BỊ CHO LỜI CHÚA
Đức Giám mục Christiani trong tác phẩm trứ danh của ngài “Saint Joseph” (Paris, 1962) được Imprimatur bởi Đức Giám mục J. Hottot ký ngày 15-05-1962, đã suy luận rất thuyết phục khi xem cảnh sống tại Nazarét là thời gian chuẩn bị cho Tin Mừng.
Khi nghĩ đến điều xảy ra trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, chúng ta được kêu mời tìm hiểu cuộc sống đã được chuẩn bị lâu dài vào thời ẩn dật, với cuộc sống của người thợ mộc. Có thể nói: Phúc Âm và những khuôn mẫu vàng được giới thiệu cho chúng ta khởi nguồn từ “bầu khí thiêng liêng” bao trùm tại Nazarét trong “ngôi nhà nuôi sống”, nơi mà Chúa Giêsu đã lớn lên. Qua đó, chúng ta biết rằng, Ngài không chỉ lớn lên như những đứa trẻ khác, mà Ngài còn “nên khôn ngoan, đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người”. Chúng ta cũng đã biết, cụm từ “lớn lên trong khôn ngoan” mang ý nghĩa Thánh Kinh, với một nghĩa đặc biệt. Cụm từ đó nói lên sự phát triển trong hiểu biết về Thiên Chúa và con người. Chính tại Nazarét mà Phúc Âm đã được ươm mầm. Vì vậy, chúng ta không ngần ngại khi gọi đời sống tại Nazarét là giai đoạn Tiền Phúc Âm (Pré- Évangile). Tất cả những điều Chúa Giêsu sẽ nói cho con người đã được suy nghĩ, chiêm ngắm trong môi trường của Thánh Giuse và Đức Maria. Ngài được gieo trồng những hạt mầm trong nơi mà chúng ta đã gọi là “bầu khí thiêng liêng”. “Bầu khí” này chính là bầu khí tại mái ấm Nazarét. Nếu Chúa Giêsu được coi là “vâng phục” cha mẹ mình là thánh Giuse và Đức Maria, chính là vì các vị đã cùng kết hợp với chính Ngài trong ánh sáng của Phúc Âm, trong nét đẹp của sứ điệp trước khi công bố cho nhân loại.
Quả đúng như vậy, nhất là những giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô qua Bài Giảng Trên Núi (Sermon sur la Montagne).
Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố những điều được coi như Bát Phúc (Béatitudes), chúng ta liên tưởng ngay là Đức Giêsu diễn tả điều mà Ngài đã sống trong suốt 30 năm gần Đức Maria và thánh Giuse.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,3-12)
Vậy ai là những người có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, nếu không phải là thánh Giuse và Mẹ Maria. Hai vị đã được thưởng công cho tâm hồn thanh sạch là họ đã được nhìn thấy Thiên Chúa trong suốt thời gian Đức Giêsu ở với họ. Bát Phúc của Chúa Giêsu không nghi ngờ gì: đó là một phần linh đạo của thánh Giuse. Chính vì sống gần kề với thánh Giuse và Đức Mẹ, mà Chúa Giêsu cũng đã suy nghĩ trước những lời sau:
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc…”
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy…”
“Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).
Cảm nghiệm trong đời sống tại Nazarét một “Khuôn vàng thước ngọc”: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Cũng tại đời sống bình dân tại Nazarét với họ hàng lối xóm, với những người bình thường có tốt có xấu, Chúa Giêsu cũng nói đến những nét tiêu cực của người dân, đặc biệt là giới Pharisêu: cốt để tìm tiếng khen.
Chúa Giêsu cũng nhìn thấy trong đời sống ẩn dật của ngài về sự công chính – Giuse là người công chính. Theo Phúc Âm, ngài là người công chính vì đón nhận Maria về nhà và nhận bà là hôn thê. Sự công chính của ngài đã không ngừng phát triển từ lúc đó. Nó hoàn toàn khác với sự công chính bề ngoài của Pharisêu:
“Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,2-4).
Sau việc bố thí, Ngài lại nói đến sự cầu nguyện:
“Và khi cầu nguyện , anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,5-6).
Và Ngài còn nói thêm:
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,7-8).
Ngài cũng nói về sự ăn chay:
“Rồi khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,16-18).
Thật đúng với tinh thần Chúa Giêsu đã sống tại Nazarét, ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất những gì Ngài bắt đầu, những điều mà Ngài đã dạy: “…tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy…” (x.Cv 1,1).
Giuse và Maria đã biết từ ngày đầu tiên, biết về sự cao trọng mang tính tiên tri của Giêsu – Con các ngài – qua xác nhận của thiên thần và của ông già Simêon và bà “tiên tri” Anna. Bí ẩn đã kéo dài suốt 30 năm hoặc với thánh Giuse khi còn sống. Không có lời cầu nguyện, sự bố thí, ăn chay nào tốt hơn là cách mà Maria và Giuse đã sống. Hơn nữa, Gioan Tẩy Giả đã đóng vai trò của mình, vì qua Dacaria là cha ngài, ngài đã nói lớn tiếng, trước cả sự hiện diện của Mẹ Maria: “…Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người…” (Lc 1,76). Chính trong đức tin, niềm hy vọng và tình yêu, họ đã chờ đợi điều mà Chúa Giêsu sẽ nói: “Giờ của Người” chính là giờ của Thiên Chúa. Thời giờ này đã được xướng lên trước cái chết của Tổ phụ Giuse: “Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em…” (x. St 50,25).
Dù là suy luận (argument), nhưng chúng ta cũng thấy nét tương đồng giữa lời của Chúa Giêsu và đời sống của Thánh Cả. Khẳng định đời sống tại Nazarét là thời gian Tiền-Phúc âm (un Pré-Evangile) cũng không sai gì.
II. NGÔN NGỮ THÁNH GIUSE
Trong tập Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ (Vũng Tàu – tháng 06 năm 2012), tôi đã viết và chia sẻ về ngôn ngữ của thánh Giuse là: Thinh lặng để Cầu nguyện – Yêu thương và Phục vụ. Chính 4 đặc tính này gói trọn cuộc đời thánh Giuse trước ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tôi cũng kết luận trong bài viết và chia sẻ đó: “Chỉ xin gởi lại một chữ tình vì đó là ‘cả một tấm lòng’. Đối với tôi, những chia sẻ này có thể được mô thức hóa (formulé) là: Kinh Tin Kính của đời tôi”[1].
Năm nay (2020-2021), năm đặc biệt kính thánh Giuse, tôi xin đóng góp một chút suy tư cá nhân với những trải nghiệm cuộc sống: Ngôn ngữ thánh Giuse: Thinh lặng để cầu nguyện kết hợp – lắng nghe và thực hành ý Chúa.
1. Hai bản văn nền tảng để suy tư
– Huấn từ của ĐGH Phaolô VI tại Nazarét (05-01-1964)[2]:
“Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi nơi mỗi chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng. Đây là điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ôi, ước chi sự thinh lặng của Na-da-rét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn.”
– Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục[3]:
“Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục ‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm, nhưng trái lại, là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động’[4]. Một sự thinh lặng, như của các tổ phụ xưa, ‘gìn giữ Lời Chúa được biết qua Thánh Kinh, hằng đối chiếu Lời ấy với các sự kiện trong đời Chúa Giê-su; một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa, tôn thờ thánh ý Người, và hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa’[5].
Trong sự hiệp thông của Thánh Gia Na-da-rét, sự thinh lặng của thánh Giu-se hoàn toàn hoà hợp với sự hồi tâm của Đức Maria, ‘hiện thân hoàn hảo nhất’ của sự vâng phục đức tin[6], Người đã ‘giữ kỹ tất cả những kỳ công của Đấng Toàn Năng và suy gẫm trong lòng’”[7].
2. Suy niệm về ngôn ngữ thánh Giuse[8]
a. Thinh lặng
Đời sống đức tin của Kitô hữu, và nhất là các linh mục và tu sĩ, sự thinh lặng phải là như “thời khắc ngưng nghỉ hoạt động bình thường” rất cần thiết.
Thinh lặng có thể được coi là “bầu khí thiêng liêng” bao phủ gần hết cuộc sống của thánh Giuse. “Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi mỗi người chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI). Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng nói: “Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục ‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm’” (Số 51).
Nói về sự thinh lặng, chúng ta có thể ghi lại nhiều tư tưởng của các văn gia nổi tiếng:
“Tiếng ồn làm phân tán, tản mác, lãng phí. Sự im lặng tiếp nhận, thâu hồi và cô đọng. Ai không biết dành một khoảnh khắc trong đời cho những khu vực yên tĩnh, thì tâm hồn kẻ đó sẽ dần dần sống một cách hời hợt, nông cạn” (G. Courtois).
“Thinh lặng là người bạn thân không bao giờ phản lại ta” (Tục ngữ Trung Hoa).
“Những người nào không biết nghe sự thinh lặng thì họ sẽ không thể biết họ đã mất mát đến chừng nào” (M. Zuldel).
b. Trong thinh lặng, ta cầu nguyện và kết hợp
Cũng trong Huấn từ, chúng ta nhận ra tâm tình của ĐGH Phaolô VI: “Ôi, ước chi sự thinh lặng của Nazarét dạy chúng ta biết suy đời gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa”.
Kim Chỉ Nam cũng ghi rõ: “Theo mẫu gương thánh Giu-se, … một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa”.
Thinh lặng để kết hợp. Tôi xin trích lại trong tập viết “Tìm Nơi Thinh Lặng” (Paris, 1999, trang 20-24):
“Ngày 11.8.1999, một ngày đặc biệt của năm cuối cùng của Thiên niên kỷ thứ hai: Nhật Thực. Tại Pháp, theo dự báo: khoảng 12g10-12g20, trục thẳng từ Chesbourg-Strasbourg, sẽ thấy nhật thực toàn bộ.” …
“Người ta tưởng tượng đây là một cuộc ‘kết hôn’, một sự ‘giao phối hoàn hợp’ giữa mặt trăng và mặt trời… Cứ 270 năm mới có một lần (lần trước đây tại Paris vào năm l724 lúc vua Louis XV mới 14 tuổi” (Cf. Famille chretienne N.24/29.7.99 trg 58). …
“Trong một góc hành lang: một tượng Đức Mẹ bằng gỗ mun, với kỹ thuật bắt điện cũng thật ý nghĩa. Tượng thật và bóng tượng trên tường cùng gọn trong một vầng sáng dịu như ẩn như hiện… và cũng hoàn toàn thinh lặng!
Âm thầm kết hợp… Âm thầm mà kết hợp… Âm thầm để kết hợp… Bạn hiểu thế nào cũng được… Kết hợp, một sự kết hợp hài hòa trong thinh lặng. Không một tiếng động mà dường như ta lại đang nghe thấy nhiều điều. Chỉ một cảnh trong thinh lặng nhưng lại nói lên thật đầy ý nghĩa. Để lòng mình thinh lặng mà như có sự đối thoại giữa trần thế với trời cao.”
Đúng thật: “Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19,4-5)
Thinh lặng “không biểu biểu lộ sự trống rỗng”. Tôi rất thích vần thơ thật dễ thương nhưng sâu sắc:
“Nói bằng ánh mắt nhau thôi,
Chi bằng thinh lặng đầy vơi tấm lòng”.
Đúng thật, thinh lặng “không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm” mà là môi trường lắng nghe được nhiều âm thanh huyền bí của Thiên Chúa, khác với sự “tràn ngập âm thanh và ánh sáng” khiến chúng ta bị vong thân, lao vào những sự kiện trần thế.
Thánh Augustinô cũng cảm nghiệm được Chúa – được mình trong thinh lặng nội tâm: “Lạy Chúa, Chúa biết con còn hơn con biết con”; “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Duret cũng nói:“Thầm lặng đích thực thì chan chứa tình yêu: Đó là im lặng để cầu xin… im lặng để quan sát… im lặng để quên đi”.
c. Trong thinh lặng, ta lắng nghe và thực thi ý Chúa
“Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI).
Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng viết: “Theo mẫu gương thánh Giuse … sự thinh lặng… là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động”.
Qua phần trình bày trên, ta thấy: Bước (1): Cần sự thinh lặng để xóa đi những ồn ào không cần thiết, có khi bị khuấy động; Bước (2): chính trong thinh lặng, nhất là thinh lặng nội tâm, ta bước vào cầu nguyện để kết hợp với Chúa; Bây giờ đến bước (3): lắng nghe được tiếng Chúa và thực hiện ý Chúa.
Trong đêm thanh vắng, Giuse nghe được lời Thiên sứ báo mộng. Tỉnh dậy, ngài “lập tức” thực hiện điều Chúa đã soi sáng.
Thời nay và nhất là hôm nay: quá nhiều lý thuyết gia mà ít nhân chứng. Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Noi gương thánh Giuse, hãy tìm những khoảnh khắc thinh lặng nội tâm, tạm gác qua mọi lo âu sinh hoạt bên ngoài, dọn tâm thế sẵn sàng để gặp Chúa (nhìn Chúa và để Chúa nhìn mình), rồi Chúa sẽ nói với ta. Đến phần ta: hãy trở lại cuộc sống và thực thi ý Chúa soi sáng.
Dietrich Bonhoeffer rất sâu sắc khi nói về cầu nguyện, cũng giống cách thế của thánh Giuse, ông nói: “Cầu nguyện là gác qua mọi lo lắng, liên hệ thường nhật để tìm gặp Chúa. Sau giờ cầu nguyện, Chúa lại sai chúng ta trở lại cũng với những con người, liên hệ và môi trường ta vẫn sống; nhưng với tâm tình của Chúa”.
“Muốn trở thành con người, trong đời sống thường ngày, bạn phải biết dành chút thời giờ cho thinh lặng. Bạn hãy học im đi để biết nói lên” (ĐHY Joseph Leo Cardijn).
“Tâm hồn phải lắng xuống trong sự im lặng. Chính lúc đó, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện và nói với ta” (M. Eckhart).
Tìm thinh lặng; trong thinh lặng ta cầu nguyện và kết hợp; và chính lúc đó, ta nghe được tiếng Chúa và Ngài thúc dục ta ra đi thực hiện. Đây chính là ngôn ngữ của thánh Giuse.
Bạn hãy tập đi! Tập đi vào thinh lặng để gặp Chúa, nghe được lời Chúa và thi hành điều Chúa dạy. Chỉ trong thinh lặng ta mới đạt được những sự ấy. Chẳng phải màu mè nhưng hành động đạo đức của chúng ta chính là hoa trái của thinh lặng. Và đúng như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Trích sách: Để Hiểu và Yêu Mến Thánh Cả Giuse Hơn
Lm. Giuse Trần Đình Thụy
Đón Xuân Tân Sửu 2021
Tài về sách này tại đây: file Word, file PDF
[1] Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ , trang 4-5.
[2] Trích Bài đọc 1, Kinh Sách lễ Thánh Gia Thất
[3] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[4] ĐGH Biển-đức XVI, Kinh truyền tin (18/12/2005): Enseignements I (2005), 1003.
[5] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[6] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 144.
[7] Sđd., 2599.
[8] Thái Bạch, Tìm Nơi Thinh Lặng, Paris, 2000.