CHA RƠI: KHÔNG KHÓC ĐƯỢC, ĐÀNH GỬI VÀO CÂU HÁT
WHĐ (19.6.2021) – Bộ phim truyện truyền hình 37 tập Cha rơi đã nhận được ba giải thưởng điện ảnh Cánh Diều Vàng 2014: (1) Cánh diều vàng thể loại phim truyền hình; (2) Biên kịch xuất sắc nhất (Nguyễn Quý Dũng) và (3) Nam diễn viên xuất sắc nhất (Thái Hòa).
Cha rơi không chỉ khiến khán giả truyền hình rơi… nước mắt, mà còn gửi đến xã hội một bức thông điệp nhiều ý nghĩa. Thông điệp về những “nỗi niềm riêng của đàn ông” (lời bà Nguyệt, nhân vật trong phim) và những gắng gỏi bền bỉ của họ bước đi trong cuộc sống. Cuộc sống với những nỗi niềm cứ đè trĩu cõi lòng những con người được gán cho tôn hiệu (hay… hỗn danh?): phái mạnh.
TOÀN, NGƯỜI CHA RƠI
Xưa nay, vẫn chỉ nghe “con rơi”, chưa thấy ai nói “cha rơi”. Vậy tại sao lại có cha rơi?
Nhà biên kịch Nguyễn Quý Dũng đặt tên “Cha rơi” cho kịch bản phim của mình, nói: “Trong cuộc sống, người ta thường chỉ đề cập đến người phụ nữ với những trăn trở đau buồn… Nhưng đàn ông chúng tôi cũng có nhiều tâm sự lắm. Mặt khác phụ nữ thường dễ khắc phục hậu quả, còn chúng tôi nỗi đau cứ âm ỉ, dai dẳng và kéo dài…” (Trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ ngày 28-12-2014).
Nhưng câu trả lời báo chí của nhà biên kịch này vẫn chưa tiết lộ lý do đặt tên cho bô phim. Phải đi vào nội dung tác phẩm qua câu chuyện cuộc đời nhân vật chính: Toàn (do diễn viên Thái Hòa thủ vai và được trao giải Nam diễn viên xuất sắc nhất).
Toàn là người đàn ông suốt 18 năm đằng đẵng đi lượm ve chai và “làm mọi việc người ta biểu” (dọn hàng, dọn nhà, dọn rác công trường…) để nuôi đứa con gái không phải con mình, được anh vớt lên lúc còn đỏ hỏn, bị mẹ đặt vào thau rồi thả trôi sông. Câu chuyện nhặt được đứa bé làm con nuôi, đã có lần được Toàn đúc kết với Triệu (chồng của bà chủ dãy nhà cho thuê):
“Không phải nó là con rơi mà tao mới là cha rơi. Tao nuôi nó, nhưng nó dạy tao làm người” (tập 26).
Câu nói như một trần thuật đúc kết: tao nuôi nó. Và như một lời thú nhận, mang ít nhiều cảm thán, thành thực và xấu hổ: Nhưng nó dạy tao làm người.
Sự thành thực của một người luôn suy xét bản thân, nhìn sâu vào cuộc đời của chính mình để thấy làm người tưởng dễ mà thật khó, rất khó. Rất khó, nếu muốn sống cho ra người. Thật dễ, nếu chỉ cốt sao thỏa mãn mọi nhu cầu bản năng. Toàn luôn đặt mình trong sự suy xét đó, từ ngày anh có con, dù chỉ là đứa con rơi được anh mang về nuôi. Nhờ luôn suy xét, anh đã thắng vượt con người bất lương để hoàn lương, đã từ bỏ cuộc sống cũ, để dựng một cuộc đời mới.
Trước khi vớt đứa bé trong chiếc thau bị thả trôi trên sông, Toàn hành nghề… đạo chích. Một mình với chiếc ghe nhỏ, Toàn dọc ngang trên những dòng kênh, con lạch, sông lớn sông nhỏ. Tay chèo, mắt ngó, anh ta quan sát động tĩnh, thấy nhà nào vắng vẻ liền lên bờ, đột nhập và ăn trộm thóc lúa.
Cái ngày lượm được bé Tâm -tên do Toàn đặt-, đánh dấu bước rẽ cho cuộc đời Toàn. Từ nay Toan đã là một người làm cha. Và cũng từ nay, Toàn bỏ nghề đạo chích.
Càng ngày, sự gắn bó giữa Toàn và đứa bé còn đỏ hỏn kia càng thêm sâu đậm. Lúc ở nhà đã đành, cả lúc đi làm thuê làm mướn anh cũng mang con theo. Anh không thể sống thiếu Tâm, đứa con nuôi của mình, lại càng không thể sống thiếu chữ “tâm”, nghĩa là có lòng, có dạ ngay thẳng chân thật.
Nhưng với Toàn, để mọi người nhận ra lòng dạ ngay thẳng của anh mới khó làm sao.
Chẳng dễ nhận ra “tâm” của một gã đàn ông lúc nào cũng lầm lì, mang một bộ mặt với chiếc sẹo trên má rất đáng gờm, đi đâu cũng kè kè cái bao ve chai và chiếc cù móc, với một bộ dạng rất khả nghi. Với một hành trạng như thế, chỉ có thể là gian phi, đạo tặc.
Ai cũng dè dặt, đề phòng khi tiếp xúc với Toàn. Hàng xóm ở dãy nhà cho thuê của vợ chồng Triệu và Cẩm Hường nhìn Toàn với đôi mắt cảnh giác, thậm chí nghi ngờ mối quan hệ cha con của anh và Tâm. Cẩm Hường, bà chủ dãy nhà cho thuê (đồng thời cũng là người chuyên cho không những chuyện đơm đặt) đã dựng chuyện Toàn “loạn luân” với đứa con nuôi! Một câu chuyện khủng khiếp, đến nỗi ông Ba Trí (người hàng xóm của Toàn) vốn điềm tĩnh và đứng đắn cũng thấy bị lung lạc, sinh nghi Toàn.
Biết mọi người trong cái xóm nghèo khốn khổ ấy hiểu lầm và dị nghị, Toàn vẫn mặc kệ, để ngoài tai mọi điều thiên hạ xầm xì, nói xấu sau lưng (cũng có khi nói thẳng vào mặt). Anh không thanh minh. Vả lại, anh cũng chẳng đủ từ ngữ, bởi vốn là người ít nói, lại chẳng được học hành, giao thiệp rộng để mở mang vốn liếng nói năng, nên cứ lặng lẽ, lầm lũi trước mặt bàn dân thiên hạ lắm lời và nhiều chuyện.
Sự lặng lẽ, ít nói, lầm lì của Toàn đã nén lại thành sự chịu đựng, cầm nén. Lâu ngày thành ra gan góc và lì lợm. Sự gan lì như một cách phản ứng trước những thị phi, đàm tiếu. Toàn gan lì trước những lời nói xấu. Như vậy, mới sống nổi giữa cái xóm trọ, ít tiền mà nhiều chuyện. Và gan lì trước cả ánh mắt ngờ vực. Như vậy, mới can đảm sống nghề lượm ve chai, bới rác và bươi móc bao ni lông ngoài chợ, vỏ chai trong thùng rác nhà giàu, dưới gầm bàn các quán nhậu.
Cuộc sống nhọc nhằn, chịu đói khát, hứng những lời thị phi, của Toàn đã nuôi con Tâm khôn lớn và rèn cái “tâm” của anh biết đập những nhịp bản lĩnh, bao dung.
Không ít ngày Toàn sống qua ngày chỉ với một ổ bánh mì không thịt, không cá, chỉ có ít nước tương được bà bán bánh mì rưới vào vì không muốn bị ông khách chai mặt và lì lợm này kèo nài, xin xỏ và nói khỉa nói kháy. Nhưng cái gã đàn ông chắt bóp từng đồng bạc rách ấy cũng chính là kẻ hào phóng, rộng rãi. Ngay sau khi kèo nài bà bán bánh mì rưới ít nước tương và cho thêm vài cọng hành ngò, Toàn đã rút trong chiếc túi rách 10.000 đồng tặng người ăn mày cõng đứa con nhỏ ốm yếu trên lưng. Dường như tất cả những đứa trẻ rách rưới, mồ côi nào cũng được Toàn nhìn thấy đó chính là “con Tâm” của mình. Toàn đã giúp Lượm, một cô gái mồ côi trạc tuổi Tâm, vừa bị chủ đuổi việc, kiếm được chỗ làm mới và được anh săn sóc như con. Sự chăm sóc chu đáo, không kèm theo một lời hoa mỹ, cũng không với vẻ dịu dàng và chẳng chút ân cần nào. Vậy mà, mọi người được anh giúp đỡ, từ “đại gia” Hai Bảnh đến cô gái mồ côi Lượm, và hai mẹ con người đàn bà hành khất, đều nhìn thấy rõ rệt sự chu đáo và “cái tâm” trong ngần của Toàn, gã đàn ông thô kệch, người lượm ve chai lầm lì.
Mới hay, người xưa bảo “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” và “đói cho sạch, rách cho thơm”, quả là một định hướng sống, cứ luôn xuất hiện phía trước, như một lời vẫy gọi, cao đẹp và lãng mạn.
Quả vậy, nhân vật Toàn là một hiện thân tuyệt đẹp của câu tục ngữ răn đời “đói cho sạch, rách cho thơm”. Cả đời anh không hề được mặc chiếc áo lành lặn, thơm tho nào (dù có lần được “đại gia” Hai Bảnh, người được Toàn cứu mạng, tặng chiếc áo mới, nhưng anh cất đi, không mặc), nhưng “hương” từ cái tâm “hữu xạ” của anh vẫn tỏa ra. Một thứ hương âm thầm, dịu nhẹ, lan tỏa tự nhiên giữa cõi đời bùn lầy, nước đọng.
Toàn trung thành sống với chân lý “đói cho sạch, rách cho thơm” giản đơn, dân dã, ngàn đời của cha ông một cách bền bỉ, dứt khoát, tự giác. Một thứ tự giác đã thành bản năng tự nhiên, để khi đứng trước sự chọn lựa, lập tức trở thành một phản xạ dứt khoát, không khoan nhượng, không cân phân. Đó là phản ứng của Toàn khi được thuê dọn nhà của ông Ba Trí đã bị hai đứa con của ông này bán đi, sau khi vừa nhận được quyền thừa kế do chúng ép cha mình (tức ông Ba Trí) phải chuyển quyền sở hữu căn nhà cho chúng. Toàn nói với người thầu dọn nhà: “Dù chết đói cũng không làm cho bọn phản phúc đó” (tập 20). Đó cũng là tuyên ngôn sống của Toàn. Tuyên ngôn về thái độ dứt khoát trước sự phản phúc: không cộng tác, không nhận đồng tiền từ tay “bọn phản phúc”. Bọn phản phúc ở đây là Oanh, con gái, và Tiệp, con trai ông Ba Trí. Hai đứa con “phản phúc”, bất hiếu với cha mình. Đối với Toàn, ở đời này, không thể để cho mọi loại phản phúc có đất sống: bất hiếu với cha mẹ, vong ân người làm phúc, bội nghĩa vợ chồng, phản trắc bạn bè…
Đó là sự sạch, thơm của một con người cả đời sống trong đói rách, nghèo khổ.
Để sống sạch và thơm giữa bùn nhơ của đời, trước hết cái “tâm” phải sáng. Tâm sáng, nghĩa là đã được thanh tẩy khỏi những đọng cặn của mọi ham muốn thấp hèn, thoát ra khỏi hệ thống những giá trị ảo, được xây dựng trên dục vọng, kể cả trên những mong muốn bình thường. Toàn đã đạt đến cái “tâm” đó. Cái “tâm” của Toàn chẳng còn mong muốn gì, ngoại trừ mong có sức khỏe, để ngày ngày lượm ve chai kiếm tiền nuôi con. Nếu có mong muốn chăng, chỉ là mong sao không nợ nần ai, về bất cứ điều gì, đồng thời cũng muốn đừng ai mắc nợ mình, kể cả món nợ ân nghĩa. Vì thế anh tìm cách tránh mặt vợ chồng Hai Bảnh, để họ khỏi áy náy về món nợ anh đã cứu mạng của họ. Dù túng quẫn, anh vẫn không cho Tâm, đứa con nuôi của mình, đến làm việc ở xưởng máy Hai Bảnh, chỉ vì: “Ở đời tui sợ nhất là cái nợ ân tình” (tập 27).
Cuộc thanh tẩy cái “tâm” của Toàn diễn ra dữ dội và quyết liệt nhất, chính là cuộc chiến đấu với dục vọng của bản thân mình. Tập 36 của bộ phim là cao trào của diễn tiến câu chuyện cuộc đời làm “cha rơi” của Toàn. Sự kiện cao trào lại là một trường đoạn hồi ức của Toàn về một lần đương đầu với dục vọng. Hai cha con Toàn sống trong căn nhà nhỏ thuê của vợ chồng Triệu-Cẩm Hường. Căn nhà chỉ khoảng 10 mét vuông, chật và tuềnh toàng. Đêm xuống, sau một ngày lượm ve chai nhọc mệt, Toàn ngủ trên chiếc ghế bố, còn Tâm ngủ trên chiếc giường gỗ nhỏ. Hôm đó, thao thức không ngủ được, cơn thèm khát dục tình của đàn ông trỗi dậy, Toàn bước qua giường của đứa con gái nuôi. Anh đã đến rất gần tội lỗi. Tội loạn luân, đúng hơn, gần như loạn luân (vì giữa Toàn và tâm không có máu mủ ruột thịt). Nhưng anh kịp dừng lại. Tiếng lương tâm đã cất lên dõng dạc, mạnh mẽ, thôi thúc. Anh rời xa chiếc giường, rồi bước đến bàn thờ, với lấy chiếc đèn dầu, rót dầu lên tay và… đốt. Lửa bốc cháy. Tay Toàn bị phỏng. Chỗ phỏng trên tay khiến anh đau đớn, nhưng phần “người” đã lấn được phần “con” khiến tâm hồn anh bình an, thoát khỏi bóng tối tội lỗi, bước đến phía ánh sáng. Ánh sáng của ngọn lửa cháy phừng trên tay. Ánh sáng của thiên lương đang tỏa lan trong “tâm”. Hai luồng ánh sáng gặp nhau, chuyển hóa, thành khúc ca chiến thắng cám dỗ và soi vào nhãn giới của Toàn, giúp anh nhận ra vẻ sáng trinh bạch của Tâm, đứa con gái anh đã nuôi dưỡng, và từ nay, anh phải nhận thêm trách nhiệm giữ gìn cho đứa con ấy được trong trắng giữa cuộc đời, nhưng trước hết, trước phần “con” luôn rình rập đợi thời cơ lấn lướt phần “người” nơi anh.
Toàn nói với Triết, kết luận sau khi kể lại câu chuyện trên, như một lời xưng tội, để tâm hồn được cảm thông, và nhờ đó, được bình an: “Cũng may, phần người trong tôi đã về kịp để chiến thắng phần con” (tập 36).
Cùng với việc miêu tả niềm ăn năn, sự hoàn lương và cuộc phấn đấu cho phần người của Toàn, bộ phim Cha rơi còn đưa ra một số hình ảnh khác về sự ăn năn của một số nhân vật đàn ông, con trai khác.
Đó là sự hối lỗi và hoán cải của Tiệp, con trai ông Ba Trí, sau những ngày tháng bài bạc, cá độ, phung phá tài sản của cha để lại, đã trở lại cuộc sống lương thiện và hiếu thảo. Đó là sự tỉnh ngộ của Phong, kẻ đã lừa tình và cướp sạch tài sản của Oanh, con gái ông Ba Trí. Phong nói, trước khi xảy ra tai nạn dẫn đến cái chết bi thảm (ngã từ sân thương cao ốc xuống đường vì cứu Oanh): “Tao tự phán xét mình”. Cái gã bạc tình và lừa đảo này, cuối cùng, cũng đã tỉnh ngộ, bởi anh ta còn chút lương tri khi biết tình cảnh cùng quẫn của Oanh, người con gái bị mình lừa đảo.
Hình tượng nhân vật Toàn chính là câu chuyện của một người đàn ông “cha rơi”. Câu chuyện kể về một gã “trộm cắp, chôm chỉa” được một đứa bé con rơi chấp nhận làm cha mình và ban cho cuộc sống lương thiện, và quan trọng hơn, kể từ đó, biết mình có trách nhiệm phải chu toàn, có cả một thế giới con người đang cần được giúp đỡ, và có tiếng nói của Trời đang “bảo phải cứu người” (tập 36)
Như vậy, đối với Toàn, cô bé Tâm không phải là “con rơi”, mà chính anh là người “cha rơi” của cô vậy. Một người cha được rơi vào cuộc đời của một đứa trẻ.
ÔNG BA TRÍ, NGƯỜI CHA BỊ BỎ RƠI
Nhân vật thứ hai tạo nên sức lôi cuốn của bộ phim Cha rơi là ông Ba Trí (do Nghệ sĩ ưu tú Thanh Nam, Giám đốc Nhà hát Cải lương Kiên Giang, thủ vai).
Sức lôi cuốn của nhân vật không chỉ do tài nghệ diễn xuất của Thanh Nam, mà còn từ câu chuyện cuộc đời và tính cách Ba Trí.
Ba Trí đã về hưu, có một căn nhà trị giá 4 tỉ và hai đứa con tốt nghiệp đại học. Vợ ông mất sớm. Ông ở vậy, gà trống nuôi con suốt 18 năm trời. Nay ông làm bạn với bà Nguyệt (diễn viên Thanh Hằng), người bán tàu hủ rong. Chính mối quan hệ với người phụ nữ này đã khiến cha con ông trở nên xung khắc và sự thật về mỗi con người được biểu lộ. Dù bà Nguyệt góa chồng từ lâu, nay một mình nuôi con gái thành tài (làm cô giáo) và sống nhân hậu, nhưng Oanh và Tiệp, hai con của Ba Trí, nhất quyết phản đối. Phản đối vì nhiều lẽ. Cái lẽ được họ đưa ra với cha mình, là: sợ hàng xóm dị nghị, già rồi mà còn đòi lấy vợ. Nhưng đây mới là lý do chính, dù không bao giờ họ nói ra: họ sợ bà Nguyệt sẽ chiếm nhà của Ba Trí.
Để được tự do và sống thanh thản, không còn hằng ngày phải nghe những lời chì chiết lạnh lùng, phải thấy sự ngỗ ngược và thói ham của cải của hai đứa con, ông Ba Trí thuê nhà ở xóm trọ để ở riêng một mình. Dành cả đời chăm sóc con cái, nay về già, lại phải ra ở riêng, không muốn sống bên hai đứa con đang ngày càng lộ rõ thái độ ruồng rẫy và sự phản phúc. Dù đã tỏ rõ ý định sẽ để lại căn nhà cho hai con, nhưng lòng ông vẫn không an. Ông vẫn canh cánh lo, một ngày nào đó, chúng sẽ thẳng tay ruồng rẫy ông và tương tàn vì tranh giành của cải (tập 6). Ông tâm sự với bà Nguyệt: “Còn gì sợ bằng tuổi già lại nơm nớp lo mình bị ruồng rẫy bởi con cái mình đã từng cưu mang” (tập 14).
Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Vừa nhận bản công chứng chuyển giao quyền sở hữu nhà từ tay cha mình, hai đứa con ông Ba Trí lập tức phá nát tài sản ông đã một đời chắt chiu gây dựng. Oanh, người con gái lớn đưa hết phần tài sản của mình cho gã tình nhân (nhân vật Phong) để chung vốn “đầu tư” kinh doanh khách sạn (!). Còn Tiệp, đứa con thứ hai thì trả nợ thua cá độ bóng đá đến gần 1 tỉ. Ông Ba Trí thấy mình đã mất trắng. Mất của. Mất con. Hai đứa con đã hất ông ra khỏi cuộc đời chúng. Ông thấy mình bị bỏ rơi. Nỗi lo “bị con cái ruồng rẫy” mới ngày nào còn mơ hồ nay đã hiển hiện. Từ nay, ngày ngày, khi đêm về, ông thui thủi một mình trong xóm trọ nghèo khổ. Như một người không con cái, không cửa nhà, không ngày mai…
Nhưng người đàn ông bản lĩnh đó không hề tỏ ra nao núng trước thử thách của số phận.
Số phận đẩy ông vào tình cảnh làm một người cha bị con cái bỏ rơi, ông vẫn không bỏ rơi chúng. Lâm vào hoàn cảnh cô độc, ông vẫn gắn bó với mọi người đang cần một bàn tay giúp đỡ, một lời khuyên lúc bế tắc, kể cả một người đối ẩm bên bàn rượu buồn tênh của gã “cha rơi”. Ông luôn luôn tỏ ra vững vàng, điềm tĩnh, đưa ra những lời khuyên sáng suốt, thấu tình.
Có thể nói, xây dựng hình tượng ông Ba Trí, tác giả kịch bản Nguyễn Quý Dũng và đạo diễn Nguyễn Phương Điền như muốn khắc họa cái phần hoàn chỉnh về hình tượng người đàn ông, bên cạnh hình tượng Toàn “cha rơi’ vốn bị che khuất bởi những mảng tối thâm u, bí ẩn của số phận và nhất là tính cách.
Nhân vật Ba Trí là sự tổng hòa tuyệt đẹp giữa những lối ứng xử, giải quyết vấn đề và những lời khuyên kết tinh từ chân lý tiềm ẩn trong muôn vàn bi kịch cuộc sống.
Quả thật, những lời khuyên nhủ, sẻ chia của ông Ba Trí với các nhân vật khác, từ Tâm “con rơi” đến Triệu (chồng bà chủ dãy nhà trọ), Lượm (một cô gái mồ côi), bà Nguyệt (bà bạn già kết nghĩa tâm giao)…, là những điểm nhấn thông điệp của bộ phim.
Trong lần uống rượu say, Toàn đã khiến Tâm sợ hãi, chạy qua nhà ông Ba Trí… lánh nạn. Ba Trí an ủi, dỗ dành:
“Tâm à, tao nghe những lời ba mày nói lúc say mà thiệt là tỉnh đó con. Tao thấy có cái gì thảm sầu, u uất…”.
Rồi đưa một lời khuyên, đúng hơn, một định hướng sống cho cô gái đáng thương này:
“Đời người phải có lòng tin. Có lòng tin để cho người khác có cơ hội” (tập 8)
Một lời khuyên thật thấm thía.
Lòng tin, theo Ba Trí, không chỉ là thái độ sống của một người, mà đáng nói hơn, chính là cơ hội giúp người được tin lấy lại lòng tin đã mất, dựng lại những gì đã đổ vỡ, hàn gắn những gì đã tan nát…Lòng tin của người này sẽ trở thành điểm tựa cho người kia vịn vào mà đứng dậy.
Quả vậy, khủng hoảng niềm tin là đầu mối mọi khủng hoảng xã hội, gia đình và mọi định chế trong cuộc sống.
Thử thách của số phận mỗi ngày một thêm lên, đè trĩu đôi vai Ba Trí khiến ông đổ quỵ. Ông lâm bệnh, được đưa đi cấp cứu. Những ngày đau ốm, được bà Nguyệt tận tình chăm sóc, ông thấm thía nhiều lẽ đời. Một hôm, ông nói với bà Nguyệt, có lẽ từ những suy ngẫm rất lung về thế hệ trẻ ngày nay: “Bọn trẻ bây giờ hở chút là đánh nhau, đâm chém”. Rồi thở dài:
“Thời nay người ta quên dạy con nít hai chữ tha thứ. Chuyện gì cũng vậy, đâu cũng còn có đó, thủng thẳng rồi giải quyết, việc gì phải đâm chém, trả thù” (tập 34).
Lời buồn bã “Thời nay người ta quên dạy con nít hai chữ tha thứ” của Ba Trí trở thành điểm nhấn của bộ phim, mang nỗi khắc khoải dự báo về sự mất mát, tan biến của một giá trị nền tảng.
Xây dựng nhân vật Ba Trí, các tác giả bộ phim đã tô đậm sự tha thứ đã trở thành phương châm sống của nhân vật này. Ông tin tha thứ chính là phương cách giải quyết mọi tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn. Và chính ông đã thực hiện điều mình xác tín khi bao dung và kiên nhẫn với hai đứa con “phá gia chi tử” của mình. Kết quả, hai đứa con của ông lần lượt nhận ra lầm lỗi và quay về. Chúng đón nhận ông. Chúng đón nhận cả bà Nguyệt từng bị chúng coi là kẻ mưu đồ chiếm đoạt tài sản của ông Ba Trí. Sức mạnh của tha thứ và khoan dung là vậy đó. Chúng quật ngã thù hận. Chúng thổi bay thói ích kỷ ra khỏi lòng người.
Hình tượng nhân vật Ba Trí tạo nên sức lôi cuốn cho bộ phim dài 37 tập này. Mỗi khi xuất hiện, nhân vật Ba Trí đem lại bầu khí trầm tư cho diễn tiến câu chuyện. Sự trầm tư không cao đạo mà giản dị. Không ồn ào khẩu hiệu mà lắng đọng, tự nhiên. Một hình tượng nhân vật thành công của đạo diễn Nguyễn Phương Điền. Sự thành công của bộ phim Cha rơi cũng một phần nhờ sự xuất hiện của người cha bị bỏ rơi ấy.
HIỆN THỰC VÀ LÃNG MẠN
Viết kịch bản Cha rơi, biên kịch Nguyễn Quý Dũng cho biết ông muốn ghi lại những điều khiến ông rung động, thấm thía từ hiện thực cuộc sống:
“Phía trước nhà tôi ở có dãy nhà trọ gồm 18 phòng. Trong cuộc sống hằng ngày tại đó nảy sinh rất nhiều vấn đề. Từ chuyện mắt thấy tai nghe đó, tôi quyết định viết kịch bản Cha rơi. Trong bốn nhân vật chính của phim thì ba nhân vật người cha đều lấy từ hình ảnh có thật.
Nhân vật Ba Trí là hình ảnh bác vợ tôi. Người 84 tuổi vẫn quyết định lấy vợ và cuộc sống của họ khá thú vị. Nhân vật Toàn từ nguyên mẫu một người đang hành nghề đưa đò ở Cần Thơ…
Trong cuộc sống, người ta thường chỉ đề cập đến người phụ nữ với những trăn trở đau buồn… Nhưng đàn ông chúng tôi cũng có nhiều tâm sự lắm. Mặt khác phụ nữ thường dễ khắc phục hậu quả, còn chúng tôi nỗi đau cứ âm ỉ, dai dẳng và kéo dài…
Các nhân vật trong phim cũng vậy. Họ sống trong cùng xóm trọ, cuộc sống gặp những trúc trắc, va chạm nhau gây hiểu lầm… Và đến khi hiểu nhau, mến nhau thì đã quá muộn. Vậy tại sao mọi người không bỏ qua những lỗi lầm mà yêu thương nhau nhiều hơn…” (Trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ, 28-12-2014).
Những hình ảnh về cuộc sống và con người trong phim Cha rơi đưa khán giả đến với những xóm lao động nghèo ở những thành phố lớn. Những dãy nhà lụp xụp. Cảnh hàng quán bình dân. Những tiếng rao đêm. Những tiếng cãi cọ. Những cảnh xô xát. Kể cả những hiện thực đau lòng: nạn buôn bán người qua biên giới, nạn cá độ, cờ bạc, cho vay nặng lãi, ức hiếp người làm công…
Nhưng sức hấp dẫn của bộ phim vẫn ở về phía tiếng nói lãng mạn, như “thanh âm trong trẻo vang lên giữa một bản đàn mà nhạc luật xô bồ hỗn độn” (Nguyễn Tuân). Ấn tượng sâu đậm nhiều trường đoạn phim để lại là nhờ những “thanh âm trong trẻo” đó.
Sự trong trẻo của tình hàng xóm láng giềng khi bốn người đàn ông cùng “kết nghĩa vườn Đào”, sáng kiến của Triệu đưa ra trong giây phút cao hứng trước bầu khí ấm cúng của cuộc tụ họp bất ngờ bên bàn rượu đơn sơ của Toàn, và hứng khởi vì… tạm thời thoát khỏi sự kềm kẹp của bà vợ lắm điều (!). Triệu nhận mình là Triệu Tử Long, ông Ba Trí là Lưu Bị, Định (do Thành Lộc thủ vai) là Quan Công, còn Toàn “cha rơi” là Trương Phi, vì nóng nảy, cọc cằn. Bốn người đàn ông, bốn hoàn cảnh gia đình, tạm gác những lo toan thường nhật và những nỗi niềm riêng để tận hưởng tình hàng xóm đùm bọc, thương yêu, hết lòng cảm thông nhau (tập 24).
Sự trong trẻo và thanh thoát từ những cuộc ăn năn, hoán cải của Trực và Phong, hai gã lừa đảo và bạc tình, của Oanh và Tiệp kịp nhận ra lỗi lầm của mình đã bất hiếu với cha và tàn nhẫn với bà Nguyệt.
Sự trong trẻo bình dị và phúc hậu của bà Nguyệt bán tàu hủ hiền lành, tốt bụng và rất trải đời.
Kể cả sự trong trẻo của tâm hồn hai đại gia -vợ chồng ông Hai Bảnh- suốt đời đi tìm ân nhân Toàn để trả ơn cứu mạng. Một câu nói của Hai Bảnh đã bất ngờ làm lắng lại diễn tiến câu chuyện đi tìm con của Cô Út, người mẹ năm xưa đã đặt con (Tâm) vào chiếc thau rồi trả trôi sông, nay đã biết ai là ân nhân cứu mạng và nuôi dưỡng con mình:
“Sự gì cũng có trình tự của nó. Phải có lòng trong sạch mới nhìn thấu được mọi chuyện” (tập 34).
Hai Bảnh đề nghị mọi người hãy thong thả, đừng nôn nóng, bởi mọi việc đều có trình tự biến chuyển của nó. Một người mẹ từng bỏ con làm sao có thể dễ dàng được con đón nhận! Một người cha, dù là cha rơi, làm sao nhanh chóng để con rời khỏi vòng tay mình để đến với một người khác, dù là mẹ, nhưng còn quá xa cách, sự xa cách kéo dài đến gần 20 năm!
Vậy hãy chậm rãi nhìn vào lòng mình, tự hỏi đã sẵn sàng đón nhận tình thế và vai trò mới hay chưa
Những câu chuyện nghĩa tình của những con người ở dưới đáy xã hội đã làm nên sắc thái lãng mạn của bộ phim. Chính sắc thái này đã khiến người xem không ít lần phải dừng lại suy ngẫm. Suy chuyện đời. Ngẫm việc mình.
Cảnh kết thúc bộ phim là một trong nhiều phút giây như thế. Toàn nói với Lâm, người yêu của Tâm, trước khi Lâm đưa Tâm về quê gặp người mẹ ruột:
“Cái quý giá nhất tao đã cho mày rồi. Mày mà làm gì nó là tao vặn cổ. Thôi, nói vậy chứ, hãy nhường nhịn nhau mà sống” (tập 37).
Đó là lời cuối cùng của Toàn. Chan chứa yêu thương và trĩu nặng mong mỏi. Mong cho đôi trẻ được hạnh phúc
“Hãy nhường nhịn nhau mà sống”. Lời khuyên của một người đàn ông suốt đời ấp ủ mơ ước có được một mái ấm gia đình trọn vẹn, nhưng ước mơ bình thường đó chưa từng, và cũng sẽ chẳng bao giờ, trở thành hiện thực. Nhường nhịn, đó là phương châm giữ cho gia đình hạnh phúc. Toàn trải nghiệm phương châm này từ nỗi nhọc nhằn và cay đắng khi suốt đời cắm mặt nhặt ve chai và hứng chịu sự khinh miệt của thế gian.
Nhường nhịn, không chỉ nhằm “dĩ hòa vi quý”, mà chính vì muốn kiên nhẫn đợi chờ giây phút sự thật lên tiếng nói. Sự thật của lẽ phải. Sự thật của nhân cách. Biết bền bỉ và nhún mình đợi chờ, không gì đe dọa được hạnh phúc. Như vậy, nhường nhịn chính là tia hồi quang phản chiếu niềm tin và tình yêu. Có tin tưởng và thực sự yêu thương, sẽ chọn con đường nhường nhịn.
Vậy là Toàn đã bước ra khỏi cuộc đời cô con gái nuôi của mình. Cái bóng người lầm lũi ấy mất hút, không còn ai gặp lại trên những con đường thành phố. Mất hút như dòng nước sông Phụng Hiệp tan vào biển cả. Mất hút như giọt lệ khóc thầm trong đêm. Và như câu vọng cổ đã lịm tắt trong cái xóm nghèo Toàn từng ở và từng hát lên mỗi khi chuếnh choáng rượu:
“Ơi, con sông Phụng Hiệp nó chảy ra bãi,
Thì lệ của tôi cũng chảy đôi dòng”.
* * *
Để kết luận, xin trích bài phỏng vấn đạo diễn Nguyễn Phương Điền của báo Đại Đoàn Kết ngày 22-3-2015, để thấy qua bộ phim Cha rơi, là những tâm huyết và tâm sự của một đạo diễn về nền nghệ thuật điện ảnh đương đại của chúng ta:
PV: Thưa đạo diễn, khán giả thường bắt gặp những con người có thân phận hơi bi kịch, đời sống tình cảm phức tạp…trong phim của anh. Đó có phải là cái “gu”, sở thích của anh?
Đạo diễn Nguyễn Phương Điền: Tôi đã đi nhiều nơi và thấy rằng không ai sống tình nghĩa như người Việt mình. Cả nền văn hóa, phong tục của mình đều giáo dục, hướng con người đến lối sống tình nghĩa nhân ái, không quên ơn nghĩa cội nguồn và gia đình. Tôi là người yêu văn hóa Việt Nam, yêu thiên nhiên tươi đẹp, nhất là sông nước miền Tây, dù tôi là người Sài Gòn. Sống tình cảm nên tôi thích làm thể loại phim tâm lý xã hội, không thích dạng phim giả tưởng, hình sự, vì mình có làm cũng không bằng người ta, không hay bằng nước ngoài làm. Phim là người, xem phim của tôi là họ nhận ra con người của tôi cũng dạt dào tình cảm, chân thành, không màu mè. Với tôi, làm phim là phải để cho người xem nhớ đến bộ phim đó, tìm ra trong phim những bài học gì đó.
-Theo anh, điện ảnh và truyền hình của chúng ta giờ ra sao?
– Phim truyền hình cần quản lý lại chặt hơn nữa. Giờ nhà nhà làm phim, người người làm phim khiến chất lượng của phim bị thả nổi. Chúng ta cần định hướng lại cho phim truyền hình và điện ảnh. Hàn Quốc họ thành công vì họ có định hướng. Xem phim truyền hình của họ, nếu để ý sẽ thấy họ có sự định hướng khi đưa bản sắc văn hóa của họ lên phim. Mình nên học theo họ. Một số đài truyền hình ở ta mải mê chiếu những bộ phim bạo lực, xã hội đen của nước ngoài là không nên, có nhiều nguy cơ. Mình phải làm và chiếu những bộ phim mà xem nó người xem phải lay động, nhớ mãi. Muốn thế, đội ngũ làm phim phải chỉn chu hơn nữa, phải nâng tay nghề và có trách nhiệm với xã hội hơn nữa.
– Anh có thể nói cụ thể hơn?
– Chúng ta có nhiều hội thảo bàn việc nâng tầm điện ảnh Việt Nam ngang tầm khu vực, nhưng rồi vẫn còn loay hoay chưa thấy lối ra. Điện ảnh giờ có nhiều phim nhưng những tác phẩm đó không đại diện cho nền điện ảnh Việt Nam, không thấy hình ảnh cuộc sống Việt Nam trong đó là mấy. Chúng ta cần chuyển đổi cách nhìn cho điện ảnh Việt Nam. Những người làm điện ảnh, phim truyền hình ở ta hiện nay chủ yếu là học trò của những thầy từng học ở Liên Xô cũ, ở Đức về nên họ làm phim theo lối cũ, không đón nhận trào lưu mới. Cần đón nhận trào lưu mới, như các nhà làm phim Việt kiều… để có sự cạnh tranh tiến tới dung hòa và thay đổi diện mạo cho điện ảnh. Tôi từng qua Hàn Quốc học về truyền hình. Những giáo viên và đồng nghiệp Hàn Quốc nói với tôi là người Việt Nam rất thông minh, sáng tạo. Và họ nói với tôi là điện ảnh của các bạn giống như chúng tôi 50 năm trước. Lúc đó họ cũng loay hoay như ta hiện nay, nhưng rồi họ quyết tâm thay đổi.
– Anh nhấn mạnh người Việt Nam sống tình nghĩa, gia đình Việt Nam có những nét đẹp và bản sắc riêng, thiên nhiên Việt Nam cũng đẹp… Vậy có nên khai thác thế mạnh đó để làm phim, như một đối trọng với phim Hàn Quốc hiện nay?
– Theo tôi là rất nên, chúng ta phải làm những phim để quy về với cội nguồn văn hóa của mình. Văn hóa vùng miền, thổ nhưỡng vùng miền của ta mỗi nơi một khác, mỗi nơi có nét đặc trưng và bản sắc riêng. Gia đình chúng ta cũng có bản sắc riêng, từ đạo lý đến sinh hoạt, ngay cả trong mâm cơm cũng thể hiện nét văn hóa và bản sắc của Việt Nam. Cần khai thác cái đó để đưa vào phim (…)
Những lời bộc bạch tâm huyết thật đáng quý của một người nghệ sĩ. Và, mãi mãi đáng quý là những sáng tạo nghệ thuật khởi đi từ những rung động trước con người và đạo lý làm người. Một nền đạo lý giúp con người vững vàng trong mọi tình cảnh bi đát nhất.
Đó là những lúc “lệ của tôi cũng lã chã đôi dòng”, như “con sông Phụng Hiệp chảy ra bãi…”, trong câu ca vọng cổ Toàn vẫn thường hát. Như một lời than thân.
Không, như một sự ký thác của người “cha rơi” mong cho mọi nỗi niềm của mình “rơi” xuống dòng sông, rồi chảy ra biển cả. Nơi ấy, mở ra cuộc đời thênh thang cho đứa “con rơi” mình từng ấp ủ và dạy dỗ bằng tình yêu và niềm tin.
Tin vào nhân cách của mình. Tin vào vẻ đáng yêu đang còn ẩn giấu của người.
Câu vọng cổ buồn mênh mang kia hằng ẩn chứa một lòng tin và đang giấu dòng nước mắt của một người đàn ông nghèo khổ mà giàu nhân cách và nghĩa hiệp.
Gia Kỳ
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 88 (Tháng 5 & 6 năm 2015)