“Thiên Chúa là Tình Yêu”, hồn tôi run lên và trái tim chai đá nguội lạnh từ lâu bị chạm mạnh, nước mắt tôi cứ trào ra như suối khi mấy chữ này được lập đi lập lại trong buổi tĩnh tâm cuối tuần năm 1987.
Tôi đã nghe câu này nhiều lần rồi, nhưng cứ như gió thoảng mây bay, lọt qua tai rồi nhanh chóng tan biến đi chẳng để lại hơi tích gì. Lần này, tôi thật sự cảm nhận được Chúa Giêsu yêu thương tôi xiết bao, đến nỗi Ngài đã bằng lòng chịu chết cho tôi (cho chính tôi chứ không phải cho ai khác) dù tôi bất xứng. Tôi thầm thì với Giêsu: “Tại sao Ngài lại chết cho con?” “Con biết Ngài yêu và chết cho nhân loại, nhưng tại sao Ngài lại yêu con và chết cho chính con?” “Con không xứng đáng, Chúa ơi!” Tôi thổn thức trong cái nhìn trìu mến đầy yêu thương của Giêsu. Mỉm cười, Ngài dang rộng hai cánh tay đã bị treo lên vì tội tôi và như đang muốn ôm ấp vỗ về đứa con bé bỏng vào lòng. Chúa Giêsu đã chết để tôi được sống! Ngài chấp nhận chết để chuộc được tôi về từ sự chết! Một tình yêu vô điều kiện và lòng thương xót vô bờ! Giờ đây tôi mới cảm nhận được và muốn đáp trả lại tình yêu đó. Tôi muốn hét to lên cho thế giới biết rằng “Thiên Chúa là Tình Yêu,” “Thiên Chúa là Tình Yêu.” Đây là kinh nghiệm trở về đầu tiên trong cuộc đời đầy sóng gió của tôi.
Sau lần tĩnh tâm đó, tôi tham gia vào một nhóm cầu nguyện Đồng Hành họp mặt vào mỗi thứ sáu hàng tuần để cầu nguyện, chia sẻ đức tin và cùng nhau đồng hành trong Chúa Giêsu. Tôi nhận ra rằng Thiên Chúa đang dùng nhóm nhỏ bé thân yêu này để dạy tôi cầu nguyện. Với sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong nhóm, lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu mò mẫm đọc Kinh Thánh và bắt đầu yêu thích nó. Ngày qua ngày, đức tin tôi từ từ lớn lên và được nuôi dưỡng qua những lần bập bẹ đọc Lời Chúa. Trước khi tham gia vào nhóm cầu nguyện, tôi chưa bao giờ dám rờ vào cuốn Thánh Kinh, tôi tự ngụy biện vì đó là sách “thánh” nên tôi cảm thấy không xứng đáng rờ vào “thánh”. Một lý do khác là cuốn Kinh Thánh quá dầy, mà tôi thì không hứng thú gì với việc đọc sách. Biết người, biết ta. Biết sách dầy, chẳng bao giờ đọc cho hết thì thôi, thà đừng đọc. Bây giờ nghĩ lại, tôi mới thấy Thiên Chúa đã ban thần khí Ngài giúp tôi đọc hết cuốn sách và cảm nhận được tình yêu qua Lời Hằng Sống đó.
Cũng vào thời gian đó, tôi đang yêu một cô gái và muốn kết hôn với nàng. Tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời Kinh Thánh của phúc âm thánh Gioan: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” (Ga 14:13-14). Tôi tin tưởng vào điều tôi cầu xin. Sáu tháng sau, tôi ngỏ lời cầu hôn với nàng và bị từ chối phũ phàng. Tôi choáng váng ngỡ ngàng, trời đất như sụp đổ. Tôi thất vọng vào nàng thì ít, nhưng thất vọng nơi Giêsu thì nhiều, thất vọng nơi Người mà tôi đã đặt trọn niềm tin. Tôi cảm thấy như bị phản bội và tôi trút cơn giận lên Giêsu. Tôi đã sống trong điên cuồng và hạch hỏi Chúa Giêsu ba bốn tiếng mỗi ngày để thuyết phục Ngài rằng tôi đúng và tốt hơn hết Chúa nên thay đổi ý định của Ngài đi. “Hãy làm cho nàng đổi ý, Chúa ơi, tại sao Chúa nói bất cứ điều gì con xin thì Chúa sẽ cho, vậy mà thực tế là nàng từ chối lời cầu hôn của con.”
Lạ thay, càng “tranh luận hạch tội” với Giêsu, tôi càng hiểu Ngài hơn. Càng hiểu biết Ngài, tôi càng yêu mến Ngài nhiều hơn và muốn dâng hiến trọn đời cho Ngài. Lặng thinh chiêm ngắm tình yêu vô điều kiện của Chúa Giêsu, tôi càng thấm thía sâu xa sự khác biệt giữa tình yêu có điều kiện của con người và tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Sau sáu tháng chìm đắm trong cầu nguyện, tôi bâng khuâng không biết có nên lập gia đình nữa hay không. Tôi thưa với Ngài rằng tôi chỉ muốn sống mãi trong biển tình bao la của Giêsu. Đây là bước ngoặt thứ hai tôi trở về trong vòng tay của Chúa Giêsu để tình yêu và đức tin của tôi ngày càng lớn hơn. Kỳ diệu thay, tôi cứ ngỡ rằng tôi sẽ thuyết phục Ngài làm theo ý muốn tôi, thì chính Ngài lại đang thuyết phục tôi thực thi thánh ý Chúa Cha.
Trong cùng thời gian đó, năm 1988, có rất nhiều người Việt đang sống tại các trại tị nạn tại các nước Đông Nam Á. Tôi quyết định đến một trại tị nạn ở Hồng Kông để làm việc thiện nguyện. Tôi lên đường chỉ vỏn vẹn với một ba lô sau lưng và một trái tim nóng bỏng yêu thương mong muốn được san sẻ. Tôi làm việc ở đó hai năm phục vụ và giúp đỡ những người nghèo tị nạn, tôi yêu họ biết bao và yêu công việc bé nhỏ đơn sơn của tôi. Dầu vậy, sau hai năm làm việc, tôi cảm thấy sức tàn hơi kiệt: đời sống tâm linh khô khan, tinh thần mệt mỏi, thể xác rã rời và tài chánh kiệt quệ. Tôi trở lại Mỹ nghỉ ngơi lấy lại sức và đi làm để dành tiền để chuẩn bị cho chuyến đi tới. Sau khi để dành được chín ngàn mỹ kim, tôi lại lên đường đi Phi Luật Tân để làm việc trong trại tị nạn Palawan năm 1990. Mặc dù tôi rất yêu quý những kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống ở trại tị nạn, nhưng cũng như lần trước, sau vài năm làm việc, tôi lại rơi vào tình trạng khô khan khủng hoảng. Từ đó, tôi quyết định phải nhận định lại để tìm thánh ý Chúa cho cuộc sống tương lai của tôi.
Qua cầu nguyện và nhận định, tôi thấy rõ có ba con đường trước mắt. Con đường thứ nhất là tiếp tục công việc thiện nguyện đã mang lại cho tôi nhiều niềm vui phục vụ nhưng sau đó là tình trạng kiệt quệ về tài chánh cũng như đời sống tâm linh. Con đường thứ hai là lập gia đình để thoả mãn những nhu cầu đòi hỏi bình thường của một người đàn ông. Khi cân nhắc hai con đường này, tôi thấy niềm vui trong phục vụ thì sâu sắc và mãnh liệt quá đến nỗi tôi không muốn từ bỏ nó. Còn nếu lập gia đình ư? Tôi sẽ bị trói buộc vào những bổn phận của đời sống hôn nhân và sẽ không còn tự do để đi phục vụ những người nghèo tại các quốc gia đang phát triển nữa. Tôi cảm thấy Giêsu đang mời gọi tôi làm một cái gì đó khác hơn, cao cả hơn, vì thế tôi từ bỏ ý định lập gia đình. Con đường cuối cùng đang mở rộng trước mắt là gia nhập vào một dòng tu để có cơ hội tiếp tục làm những công việc thiện nguyện mà tôi yêu thích. Dòng tu đó sẽ giúp đời sống tâm linh tôi ngày càng phát triển hơn, sẽ nâng đỡ tinh thần tôi qua tình đồng môn những khi tinh thần tôi bị suy sụp, và giúp đỡ tôi về mặt tài chánh khi cần thiết. Kết quả là tôi vào Dòng Tên và trở thành tu sĩ của dòng từ năm 1993. Tôi chọn Dòng Tên vì tôi thích phương pháp Linh Thao của thánh I-Nhã thành Loyola. Chính nhờ phương cách thao luyện đời sống tâm linh này giúp tôi trong việc nhận định tìm thánh ý Chúa và giúp tôi trải qua các kinh nghiệm trở về.
Tôi vào Dòng Tên với niềm lo sợ về vấn nạn học hành vì tôi vốn không thích học. Tôi nghĩ mình không có khả năng để tiếp thu vì tôi đã bị rớt khi lấy bằng kỹ thuật trung cấp hai năm (Associate of Arts Degree) vào năm 1987.
Thiên Chúa đã làm tôi ngạc nhiên biết bao khi nhà dòng gởi tôi đi học đại học, buộc tôi phải học và tôi đã lấy được bằng Cử nhân (Bachelor’s Degree). Sau đó tôi hoàn tất bằng Cao học Thần học (Master’s Degree in Divinity). Thành thật mà nói, tôi không ngờ Chúa Giêsu đã dắt tôi đi một quãng đường xa như vậy. Gia đình tôi cũng kinh ngạc như tôi. Khi bước chân vào tập viện, anh trai tôi đã nói với tôi: “Nếu Chữ cảm thấy không thích hợp với đời sống tu trì thì yên tâm, gia đình mình lúc nào cũng sẵn sàng chào đón Chữ về”. Chị tôi mới đây thì nói: “Cả gia đình đều nghĩ rằng Chữ không thể học được vì Chữ không thích đọc sách và bị cà lăm từ nhỏ. Đó là lý do tại sao cha mẹ khuyến khích cậu học nghề như nghề nông hay mộc hơn là sách vở vì cậu có khiếu về các nghề đó hơn”.
Khi nhìn lại quãng đường đã qua, tôi tự nhủ: “Chắc Chúa điên rồi”! Tôi thường nghi ngờ hỏi Chúa: “Chúa ơi, Ngài có chắc là đầu tư đúng người không”? “Chúa biết con cà lăm và chậm hiểu. Làm sao con có thể nói cho thế gian biết tình Chúa yêu con và yêu thế gian lớn đến thế nào”? Càng biết Giêsu, tôi càng cảm nghiệm rằng tình yêu của Chúa Giêsu cho tôi vượt ngoài sự hiểu biết của tôi. Chỉ có tình yêu mới giải thích được!
Chỉ vì yêu tôi mà Ngài đã cùng đi với tôi một quãng đường xa như thế. Chỉ vì tình yêu “điên rồ” mà Thiên Chúa đã gọi tôi để yêu thương, để loan truyền tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Tôi muốn nói lên cho cả thế giới biết rằng Thiên Chúa đã gọi một người ngu si và bất xứng như tôi để tiếp tục sứ mạng của Ngài. Sứ mạng đó là loan truyền một tình yêu không sợ hãi, một tình yêu không điều kiện. Để nói được như thế, mục đích cuộc đời tôi là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa Tình Yêu, tất cả là cho Tình Yêu và vì Tình Yêu
Anh chị em thân mến, nguyện xin Thiên Chúa của tình yêu vô điều kiện đánh động tâm hồn mỗi người để anh chị em được tràn ngập niềm vui thánh thiêng. Xin hãy cầu nguyện cho tôi để tôi có thể tiếp tục trung thành loan truyền tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đến tận cùng chân trời góc biển.
Lm. Ngô Văn Chữ, SJ
(danchuahiepthong)