LINH MỤC VÀ VIỆC ĐÀO TẠO PHỤNG VỤ
NHẬP ĐỀ
Mỗi linh mục là một tư tế. Danh xưng “linh mục” nhấn mạnh đến tính cách hướng dẫn, cai quản các linh hồn; danh xưng “tư tế” liên quan đến việc cử hành Phụng vụ. Tuy nhiên, như Đức Phanxicô đã viết trong Tông thư Desiderio Desideravi: Phụng vụ là một chiều kích căn bản trong đời sống Giáo Hội[1], nên Phụng vụ không phải là việc dành riêng cho các linh mục, nhưng là của toàn thể dân thánh Chúa. Các linh mục cử hành Phụng vụ với tư cách là những “tư tế thừa tác”, phần còn lại của cộng đồng dân Chúa tham dự Phụng vụ với tư cách là những “tư tế cộng đồng”. Chức “tư tế thừa tác” của các linh mục được Chúa Giêsu thiết lập là để phục vụ chức “tư tế cộng đồng” của dân thánh, nhờ đó tất cả mọi người đều được tham dự vào việc phụng thờ Thiên Chúa.
Trước hết mỗi linh mục phải ý thức mình là những người nhờ bí tích Truyền chức thánh được tham dự vào chức Thượng tế của Đức Kitô và có nhiệm vụ cao cả là nhân danh Chúa Kitô cử hành Phụng vụ thánh cho toàn dân. Để có thể chu toàn nhiệm vụ ấy, các linh mục phải được đào tạo kỹ lưỡng về Phụng vụ ngay từ khi còn ở Đại chủng viện, và một khi đã trở thành linh mục vẫn phải được đào tạo thường xuyên về lĩnh vực này. Ngoài những việc đào tạo về lý thuyết và thực hành ấy, chính qua việc cử hành Phụng vụ, linh mục cũng được đào tạo để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Thượng Tế.
Ngoài ra, linh mục còn có bổn phận đào tạo về Phụng vụ cho các tín hữu, để họ có thể hiểu biết ý nghĩa của các cử hành mà họ tham dự, nhờ đó họ có thể tham dự cách ý thức và tích cực, và chính khi họ tham dự cách ý thức và tích cực như thế, các mầu nhiệm mà họ tham gia cử hành có sức biến đổi họ ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Đó là những đề tài mà chúng ta sẽ triển khai trong những trang sau đây, theo hướng mà Đức Phanxicô đã gợi ý trong Tông thư: “Ở đây tôi không có ý định giải quyết thấu đáo chủ đề rất phong phú của việc đào tạo Phụng vụ. Tôi chỉ muốn đưa ra một vài khởi điểm để suy tư. Tôi nghĩ chúng ta có thể phân biệt hai khía cạnh: đào tạo cho Phụng vụ và đào tạo qua Phụng vụ. Công việc thứ hai là thiết yếu và công việc thứ nhất phụ thuộc vào đó”.[2]
1. LINH MỤC THI HÀNH CHỨC TƯ TẾ THỪA TÁC QUA PHỤNG VỤ
Theo thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Kitô đã được Chúa Cha tôn phong làm Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melkixêđê (x. Dt 5,6.10; 6,20; 7,17). Người thi hành chức Thượng tế khi hiến dâng chính mình làm Hy lễ trên thánh giá và đã đổ máu mình ra để ký kết Giao ước mới với loài người (x. Dt 9,15-28). Người hiến tế chính mình chỉ một lần là đủ (x. Dt 7,27) để đem lại ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại, nhưng hy lễ ấy luôn luôn được hiện tại hóa qua dòng thời gian cho đến ngày tận thế.
Hiện nay, Đức Kitô đang thực hiện chức năng Thượng tế của Người trong các cử hành Phụng vụ. Đức Phanxicô đã viết: “Một lần nữa tôi quy chiếu về ý nghĩa thần học, như được mô tả cách tuyệt vời trong số 7 của Sacrosanctum Concilium: Phụng vụ là chức năng tư tế của Đức Kitô, được mạc khải và trao ban trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, được hiện tại hóa và tác động qua những dấu chỉ hữu hình (nước, dầu, bánh, rượu, cử chỉ, lời nói), để Thần Khí dìm sâu chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua, và biến đổi toàn bộ cuộc sống của chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”.[3]
Đức Kitô thực hiện chức năng Thượng tế của Người trong Phụng vụ qua các tư tế là các linh mục. Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis của Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Nhờ bí tích truyền chức thánh, các linh mục nên giống Chúa Kitô Tư tế… Khi lãnh nhận chức thánh, các ngài được thánh hiến cho Thiên Chúa theo một cách thức mới: các ngài trở nên những khí cụ sống động của Chúa Kitô Tư tế vĩnh cửu… Do đó, vì mỗi linh mục đều là hiện thân của Đức Kitô theo cách thức riêng của mình, nên ngài nhận được những ơn riêng để trong khi phục vụ dân được trao phó cho mình và phục vụ toàn thể dân Chúa, ngài có thể dễ dàng nên hoàn thiện như Đấng mà mình đại diện, và để sự yếu đuối của xác thịt loài người được chữa trị nhờ sự thánh thiện của Đấng vì chúng ta đã trở nên vị Thượng tế ‘thánh thiện, trong sạch, vô tội, tách biệt khỏi kẻ có tội’ (Dt 7,26).[4]
Cũng vậy, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Linh mục tìm gặp trọn vẹn sự thật về căn tính của mình trong sự kiện mình tham dự một cách loại biệt vào Đức Kitô và nối tiếp chính Đức Kitô, vị Tư tế tối cao và độc nhất của Giao ước mới: linh mục là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa Kitô linh mục… Bởi đó, qui chiếu về Chúa Kitô là chìa khóa tuyệt đối cần thiết để có thể thấu hiểu thực tại linh mục”.[5]
Đức Hồng Y Albert Vanhoye, một trong những nhà chú giải lớn về thư Do-thái, đã lưu ý rằng trong Chúa Giêsu vai trò của “các tư tế” (số nhiều) đã được thay thế bằng “tư tế” (số ít). Việc có nhiều trung gian không còn cần thiết nữa. Giờ đây, chỉ một tư tế duy nhất là vị Thượng tế muôn đời đã làm trọn vẹn cho mọi thời đại tất cả những gì mà các tư tế Cựu Ước đã cố làm trong khi hiến dâng hy lễ nhân danh dân Chúa. Giáo Hội đã dùng ý niệm này như một ẩn dụ hay loại suy về chức linh mục thừa tác trong Giáo Hội. Các linh mục được tách riêng để đặc biệt phục vụ cho dân Chúa, họ phải nhập thân trong mọi lãnh vực mà Đức Kitô đã hoàn tất cho mọi thời đại. Chức linh mục của chúng ta chỉ là một phản ánh mờ nhạt của chính chức linh mục của Đức Kitô, tuy nhiên chức linh mục thừa tác hiện hữu như một nhắc nhớ rằng vẫn còn có những giá trị trường tồn cần phải đạt đến hơn tất cả những gì mà thế gian có thể hiến dâng. Các linh mục ra sức trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô để thi hành sứ vụ của Người, nhân danh Người. Người là linh mục thật sự duy nhất, chúng ta chỉ tham dự vào chức linh mục của Người nhờ việc đặt tay và ơn Chúa Thánh Thần. Như vậy, Giáo Hội vẫn tiếp tục mời gọi các linh mục phục vụ cho thừa tác vụ này, trong khi vẫn nhìn nhận nguồn gốc chân thật của nó chỉ có ở nơi một vị Thượng Tế là Đức Giêsu Kitô. “Căn tính của linh mục, do vậy, bắt nguồn từ việc tham dự đặc biệt vào chức tư tế của Chúa Kitô, qua đó con người được thánh hiến này trở nên, trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, hình ảnh đích thật, sống động và trong suốt của Chúa Kitô Linh mục”.[6]
Trong số những yếu tố hữu hình mà Đức Kitô dùng để thể hiện chức năng Thượng tế của Người trong Phụng vụ là cử chỉ và lời nói của linh mục. Khi cử hành Phụng vụ, các linh mục là hiện thân của Đức Kitô. Vẫn biết rằng linh mục dầu sao cũng chỉ là con người, tuy nhiên linh mục là thành phần của Giáo Hội, tức là Thân Thể Đức Kitô. Cũng như đầu hành động qua các chi thể, thì Đức Kitô cũng hành động qua các linh mục là những chi thể của Người.
Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Các linh mục được Thiên Chúa hiến thánh qua tay Đức Giám mục, để khi đã được tham dự cách đặc biệt vào chức tư tế của Chúa Kitô, các ngài cử hành việc phụng tự thánh với tư cách là thừa tác viên của Đấng không ngừng nhờ Chúa Thánh Thần mà thực thi trong Phụng vụ tác vụ tư tế của Người để mưu ích cho chúng ta[7]. Thật vậy, nhờ bí tích Thánh tẩy, các ngài dẫn đưa nhiều người vào đoàn Dân Chúa; nhờ bí tích Giải tội, các ngài hòa giải tội nhân với Thiên Chúa và Giáo Hội; với dầu bệnh nhân, các ngài xoa dịu người đau ốm; đặc biệt nhờ việc cử hành Thánh lễ, các ngài hiến dâng cách bí tích Hy tế của Chúa Kitô”.[8]
Tuy nhiên, phải luôn luôn nhớ rằng chỉ có một Tư tế thật sự trong Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Người là Tư tế thật sự và vĩnh cửu. Có đôi lúc nào đó trong Giáo Hội, khi mà sự yếu đuối con người hay những sa ngã gây gương xấu của các con người linh mục trở thành những tin nóng hổi thì chúng ta phải luôn nhớ đến Đấng là linh mục thật sự. Các giám mục, những người có được “sự trọn vẹn” của chức linh mục cũng như các linh mục được truyền chức chỉ là phản ánh của vị Linh mục thật sự là Chúa Giêsu Kitô. Sự phục vụ thường xuyên và kiên định của Người kéo dài mãi mãi như chính thư Do-thái đã khẳng định: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13, 8). Như vậy, quan niệm về Chúa Giêsu Kitô như là vị Thượng Tế muôn đời không chỉ là một chân lý thần học mà còn là sứ điệp hy vọng và khích lệ cho hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Tóm lại, Phụng vụ là việc thực thi chức vụ Tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô. Đồng thời, chính trong Phụng vụ, tác vụ của linh mục với tư cách là những tư tế hướng đến việc tế lễ và được thành toàn trong chính hiến lễ ấy. Nhờ Phụng vụ, chẳng những chức tư tế của linh mục được thể hiện, mà còn làm cho bản thân linh mục ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nhờ đó linh mục có khả năng làm cho ơn cứu độ của Đức Kitô được thực hiện cho cộng đồng dân Chúa. “Từ dòng suối Phụng vụ, nhất là từ bí tích Thánh Thể, ân sủng chảy tràn vào chúng ta và thực hiện cách hữu hiệu việc thánh hóa con người trong Chúa Kitô, cũng như việc tôn vinh Thiên Chúa, mục tiêu của tất cả các hoạt động khác của Giáo Hội”.[9]
2. LINH MỤC ĐƯỢC ĐÀO TẠO CHO PHỤNG VỤ VÀ QUA PHỤNG VỤ
Cử hành Phụng vụ là bổn phận hằng ngày và là công việc quan trọng nhất của các linh mục, vì Phụng vụ là “tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội”.[10] Vì vậy, các linh mục phải được đào tạo kỹ lưỡng, theo hai hướng mà Đức Phanxicô đã vạch ra trong Tông thư, đó là đào tạo cho Phụng vụ và đào tạo qua Phụng vụ. “Guardini không ngần ngại khẳng định rằng nếu không có đào tạo Phụng vụ, thì việc cải cách các nghi thức và bản văn sẽ không giúp ích được gì nhiều”.[11]
2.1. Linh mục được đào tạo cho Phụng vụ
Được đào tạo cho Phụng vụ có nghĩa là được đào tạo để có một sự hiểu biết về ý nghĩa thần học của Phụng vụ nói chung và của các nghi thức Phụng vụ nói riêng, về cách thức thi hành các nghi thức Phụng vụ cho đúng để chúng đạt đến những hiệu quả như Giáo Hội mong muốn. Việc đào tạo này trước hết được thực hiện cho các chủng sinh tại đại chủng viện và sau đó được chính các linh mục tiếp tục sau khi thụ phong linh mục bằng cách tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm, cả về thần học lẫn thực hành, cách cá nhân hay trên qui mô giáo phận qua những cuộc hội thảo hay thường huấn.
Trải qua dòng thời gian, việc thực hành Phụng vụ đã phải chịu những bất cập hay thái quá, thậm chí có lúc bị biến thái, phần nào do sự cẩu thả của các linh mục, nhưng phần lớn do sự thiếu hiểu biết, khiến cho Phụng vụ thánh mất đi vẻ đẹp và hiệu năng. Vì thế Đức Phanxicô đã viết trong Tông thư: “Tôi muốn vẻ đẹp và những hiệu năng cần thiết của việc cử hành Kitô giáo trong đời sống của Hội Thánh không bị biến dạng bởi một sự hiểu biết hời hợt và giản lược về giá trị, hoặc thậm chí tệ hơn, bởi việc biến Phụng vụ thành công cụ phục vụ một quan điểm ý thức hệ, dù quan điểm ấy có như thế nào đi nữa. Lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly ‘để tất cả nên một’ (Ga 17,21), đang phán xét những chia rẽ của chúng ta chung quanh tấm bánh được bẻ ra, bí tích của lòng đạo đức, bí tích của sự hợp nhất, mối liên kết của tình bác ái[12].[13]
Chính Công đồng Vaticanô II đã ý thức thực trạng này, nên trong chiều hướng canh tân Giáo Hội, Công đồng đã đưa vấn đề canh tân Phụng vụ lên hàng đầu, như lời Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã phát biểu trong ngày bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng (ngày 04 tháng 12 năm 1963): “Chủ đề (Phụng vụ) đã được đề cập ngay từ đầu, theo một nghĩa nào đó, đây là vấn đề ưu tiên hơn tất cả các vấn đề khác, xét về giá trị nội tại và tầm quan trọng trong đời sống Giáo Hội và hôm nay tôi long trọng ban hành văn kiện về Phụng vụ”,[14] đó là Hiến chế Sacrosanctum Concilium về Phụng vụ thánh.
Trong Hiến chế này, Công đồng đã nhấn mạnh vấn đề đào tạo về Phụng vụ ngay từ chương trình đào tạo linh mục tại Đại chủng viện: “Môn Phụng vụ thánh phải được đặt vào hàng các môn học cần thiết và quan trọng tại các chủng viện và học viện dòng tu, và là môn học chính trong các phân khoa thần học; phải được luận giải từ những góc nhìn liên quan đến thần học, lịch sử, tu đức, mục vụ và giáo luật”.[15] Ở số trước đó, Hiến chế đã đề cập đến việc các giáo sư về Phụng vụ tại Đại chủng viện phải được đào tạo kỹ lưỡng mới có khả năng giảng dạy về Phụng vụ cho các chủng sinh, Hiến chế viết: “Các giáo sư được trao trách nhiệm giảng dạy môn Phụng vụ thánh trong các chủng viện, các học viện dòng tu, và các phân khoa thần học, phải được đào tạo đầy đủ về phận vụ của họ tại các trường chuyên khoa”.[16]
Về chương trình đào tạo về Phụng vụ cho các chủng sinh, Đức Phanxicô đã đưa ra những hướng dẫn cho thấy vị trí đặc biệt của việc giảng dạy về Phụng vụ trong tương quan với các môn học khác: “Chương trình học về Phụng vụ trong các chủng viện cũng phải lưu ý đến năng lực phi thường của chính việc cử hành là cung cấp một tầm nhìn mang tính hệ thống và thống nhất về tất cả các kiến thức thần học. Mỗi môn thần học, trong từng lĩnh vực riêng biệt, phải thể hiện mối liên hệ mật thiết với Phụng vụ, để trong ánh sáng của Phụng vụ, chương trình thần học biểu lộ rõ nét và thực hiện tính cách thống nhất của việc đào tạo linh mục (x. Sacrosanctum Concilium 16). Một hệ thống liên kết phụng vụ và kiến thức trong chương trình đào tạo thần học tại các chủng viện chắc chắn sẽ có những tác động tích cực trong hoạt động mục vụ. Không chỉ là kết quả của những chương trình được soạn thảo kỹ lưỡng, việc thực hành mục vụ mang tính tổng hợp, có hệ thống và toàn diện, là kết quả của việc đặt thánh lễ Chúa nhật, nền tảng của sự hiệp thông, làm trung tâm của đời sống cộng đoàn. Kiến thức thần học về Phụng vụ không cho phép hiểu những điều vừa nói có nghĩa là giản lược tất cả vào khía cạnh phụng tự. Một cử hành Phụng vụ mà không rao giảng Tin mừng là một cử hành không xác thực, và cũng là không xác thực, nếu lời rao giảng không dẫn đến gặp gỡ Chúa Phục sinh trong cử hành Phụng vụ. Và cả hai việc này, nếu không có chứng từ của lòng bác ái, sẽ giống như tiếng cồng chiêng ồn ào hay tiếng chũm chọe vang rền (x. 1Cr 13,1).[17]
Qua đoạn văn trên, chúng ta thấy Đức Phanxicô vẫn bước đi trong đường hướng canh tân của Công đồng Vaticanô II lấy Phụng vụ làm gốc và điểm xuất phát của việc đào tạo linh mục và của đời sống của người Kitô hữu, ngài còn đi xa hơn nữa khi cho thấy rằng việc nắm vững được vị trí quan trọng của giáo trình Phụng vụ trong hệ thống các môn thần học được giảng dạy tại Đại chủng viện còn mang một định hướng mục vụ rất rõ ràng, khiến cho toàn thể công việc mục vụ của các linh mục được nối kết với nhau và mang nhiều ý nghĩa.
Hơn nữa, việc giảng dạy về Phụng vụ tại các Đại chủng viện không chỉ nằm lại ở bình diện lý thuyết, mà phải được trải nghiệm qua những cuộc cử hành, ngài viết: “Ngoài chương trình học, chủng viện cũng phải cung cấp những trải nghiệm về việc cử hành Phụng vụ, không chỉ mẫu mực về phương diện nghi thức, mà còn phải xác thực và sống động, để có thể sống hiệp thông thực sự với Thiên Chúa, cũng là sự hiệp thông mà kiến thức thần học phải hướng tới… Đây là một trải nghiệm nền tảng để khi được truyền chức, các chủng sinh có thể đồng hành với các cộng đoàn trong cùng một hành trình nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm tình yêu”.[18]
Những trải nghiệm về các cử hành Phụng vụ là một điều rất quan trọng và cần thiết đối với các linh mục tương lai, bởi vì Phụng vụ là một môn học thực hành, các học viên cần phải có kinh nghiệm, cũng giống như các sinh viên “đi thực tế” vậy. Những trải nghiệm ấy không những giúp các chủng sinh biết cách thực hành, nhưng điều quan trọng hơn nữa là chúng giúp họ có được những kinh nghiệm trong việc tiếp xúc với Thiên Chúa và thế giới thần thiêng trong bầu khi linh thiêng của Phụng vụ thánh.
Tuy nhiên, để các chủng sinh có được những trải nghiệm tốt đẹp về Phụng vụ trong thời gian tu học tại Đại chủng viện, thì trước tiên các cha giáo phải là những người chẳng những đã được đào tạo kỹ lưỡng về Phụng vụ, mà còn biết gắn liền Phụng vụ với đời sống thiêng liêng, để họ cử hành các nghi lễ thánh cho các chủng sinh với một tâm hồn đạo đức có sức đánh động người tham dự, đồng thời chính cuộc sống của họ cũng thấm đượm tinh thần Phụng vụ.
Sau khi thụ phong linh mục, các linh mục còn phải được tiếp tục đào tạo cho Phụng vụ để bổ sung kiến thức qua việc nghiên cứu, học hỏi, trao đổi qua các khóa bồi dưỡng về Phụng vụ hoặc các cuộc thường huấn. Các linh mục trẻ có thể học hỏi kinh nghiệm cử hành Phụng vụ từ các linh mục cao niên. Một cám dỗ thường xảy ra là một khi đã đi làm mục vụ, các linh mục thường bỏ bê việc đọc sách, ôn lại những gì đã học và cập nhật những kiến thức và thực hành mới, khiến cho nhiều khi họ làm sai mà không biết. Chẳng có người giáo dân nào dám góp ý với cha về việc này cả.
Chúng ta hãy nghe lại những nhắc nhở của Công đồng Vaticanô II về vấn đề này: “Các linh mục phải chú tâm trau giồi kiến thức và nghệ thuật phụng vụ, để nhờ tác vụ của các ngài, cộng đoàn Kitô hữu biết ca ngợi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần ngày càng hoàn hảo hơn”.[19] “Các linh mục triều hay dòng, đang làm việc trong vườn nho Chúa phải được trợ giúp bằng mọi phương tiện thích hợp, để luôn am hiểu đầy đủ hơn về những gì các ngài thi hành trong tác vụ thánh, để sống đời phụng vụ và thông ban đời sống ấy cho các tín hữu đã được ủy thác cho các ngài”.[20]
2.2. Linh mục được đào tạo qua Phụng vụ
Như đã nói trên, Phụng vụ là một bộ môn vừa lý thuyết vừa thực hành. Do đó, trong khi cử hành Phụng vụ, các linh mục không những ngày càng thành thạo hơn trong việc cử hành, mà còn được đào tạo trong tư cách là người chủ sự, và ngày càng trở nên thánh thiện hơn, đồng hình đồng dạng hơn với Đức Kitô là Đấng mà họ nhân danh để cử hành Phụng vụ. Điều đó được gọi là đào tạo qua Phụng vụ, như lời Đức Phanxicô đã dạy: “Linh mục thông phần cách đặc biệt vào việc cử hành Phụng vụ nhờ ân sủng của bí tích Truyền chức thánh, và điều này thể hiện rõ trong vai trò chủ sự. Như tất cả các phận vụ khác, đây không phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ quả của việc tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục trong lễ truyền chức, để trao tác vụ này cho ngài. Linh mục cũng được đào tạo nhờ việc chủ sự trong cộng đoàn phụng vụ”.[21]
Trước hết là việc linh mục được đào tạo trong tư cách và phẩm chất của người chủ sự. Đức Phanxicô đã dành trọn số 60 của Tông thư Desiderio Desideravi để viết về việc đào tạo này. Lời lẽ và cách trình bày của ngài thật tuyệt vời, chúng ta hãy đọc nguyên văn đoạn này để hiểu được giáo huấn thâm thúy của ngài:
“Chính việc cử hành đào tạo linh mục hướng đến trình độ và phẩm chất này của người chủ sự. Tôi nhắc lại, đây không phải là thái độ ưng thuận của tâm trí, cho dù toàn bộ tâm trí cũng như cảm xúc của chúng ta phải tham gia vào đó. Như thế, linh mục được đào tạo qua việc chủ sự với những lời nói và cử chỉ mà Phụng vụ đặt trên môi và trên tay ngài. Linh mục không ngồi trên một ngai tòa[22] vì Chúa là Đấng cai trị với sự khiêm nhường của một người phục vụ. Linh mục không được cướp mất sự chú ý phải dành cho tính cách trung tâm của bàn thờ, một dấu chỉ của Chúa Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn bị đâm thâu, máu và nước chảy ra để nên nguồn mạch phát sinh các bí tích của Hội Thánh và là tâm điểm của việc ca ngợi và tạ ơn Chúa.[23]
“Khi dâng của lễ nơi bàn thờ, linh mục được dạy về đức khiêm nhường và thống hối qua lời cầu nguyện: ‘Lạy Chúa, xin thương nhận chúng con đang thành tâm khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm nay được đẹp lòng Chúa’.[24] Linh mục không được cậy dựa vào bản thân và tác vụ đã được trao phó, vì Phụng vụ mời gọi linh mục cầu nguyện để được thanh tẩy qua dấu chỉ nước: ‘Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy’.[25]
“Những lời mà Phụng vụ đặt trên môi miệng linh mục có những nội dung khác nhau, đòi hỏi những âm giọng đặc biệt. Tầm quan trọng của những lời này đòi hỏi một nghệ thuật đọc nói chuẩn xác. Những lời này định hình cho những cảm xúc nội tâm, lúc thì khẩn cầu Chúa nhân danh cộng đoàn, lúc thì ngỏ lời huấn dụ với cộng đoàn, lúc khác thì chung lời tung hô với toàn thể cộng đoàn.
“Trong Kinh nguyện Thánh Thể, đang khi tất cả những người đã được rửa tội cũng được tham dự bằng cách lắng nghe với thái độ tôn kính và thinh lặng, đan xen với những lời tung hô[26], thì chỉ một mình chủ tế mới có quyền nhân danh toàn thể dân thánh để xin Chúa Cha nhớ đến hiến lễ của Chúa Con trong bữa tiệc ly, để món quà cao cả đó lại được hiện tại hóa trên bàn thờ. Linh mục thông phần vào hiến lễ đó bằng cách dâng hiến chính mình. Linh mục không thể thuật lại bữa Tiệc ly cho Chúa Cha mà không làm cho mình trở thành một người thông phần vào đó. Linh mục không thể nói: ‘Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con’, mà không sống theo ước nguyện muốn dâng chính bản thân và sự sống cho những người đã được giao phó cho mình. Đây chính là những điều đang xảy ra khi linh mục thi hành tác vụ. Qua tất cả những điều đó và những điều khác nữa, linh mục liên tục được đào tạo bởi các cử hành Phụng vụ”.[27]
Tiếp đến là việc cử hành Phụng vụ giúp linh mục được dào tạo chiều kích thiêng liêng của chính chủ sự, nhờ đó linh mục ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, vì linh mục đã nhân danh Người mà cử hành Phụng vụ và được đồng nhất với Người.
“Qua tất cả những gì chúng ta đã nói về bản chất của Phụng vụ, có thể thấy rõ là sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô, một vấn đề mang tính quyết định cho cuộc đời chúng ta, không là việc tâm trí thấu triệt một ý tưởng nào đó, nhưng là sự gắn bó hiện sinh thực sự với con người của Người. Theo nghĩa này, Phụng vụ không thuộc lãnh vực “tri thức”, và chức năng chủ yếu không phải là sư phạm, mặc dù có giá trị sư phạm rất lớn (x. Sacrosanctum Concilium 33). Đúng hơn, Phụng vụ là lời ngợi khen, lời tạ ơn về mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Con, mầu nhiệm đang tác động đến đời sống chúng ta… Mức độ trọn vẹn của việc đào tạo là chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.[28]
Là thừa tác viên lo việc Phụng vụ, nhất là trong Hy tế thánh lễ, các linh mục là hiện thân của Đức Kitô, Đấng đã tự hiến mình làm hy lễ thánh hóa nhân loại; và như thế các ngài được mời gọi bắt chước điều các ngài đang thi hành, vì khi cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết, các ngài phải lo khắc chế chi thể mình khỏi tật xấu và dục vọng, như lời huấn dụ của Đức Giám mục cho các tiến chức trong thánh lễ truyền chức linh mục: “Khi cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại, các con hãy cố gắng chế ngự thân xác khỏi nết xấu và tiến bước trong đời sống mới”. Trong khi liên kết với hành động của Đức Kitô Thượng tế, hằng ngày các linh mục tận hiến toàn thân cho Chúa, và trong khi được Mình Thánh Chúa Kitô nuôi dưỡng, các ngài tham dự vào tình yêu của Đấng đã tự hiến làm lương thực nuôi dưỡng các tín hữu. Trong khi ban phát các bí tích, các ngài cũng hiệp nhất với ý muốn và tình yêu của Chúa Kitô.[29]
Tất cả công việc thánh hóa bản thân linh mục phải được uốn nắn theo khuôn mẫu hy lễ mà họ cử hành, như lời mời gọi trong sách nghi lễ giám mục: “Hãy xem xét việc các con làm, hãy bắt chước hy lễ các con dâng”. Cũng như cả cuộc đời Đức Kitô đã hướng về cuộc hy tế chính mình, thì toàn bộ cuộc đời linh mục vốn phải mô phỏng lại hình ảnh Đức Kitô, phải cùng với Người và trong Người trở thành một hy lễ tốt đẹp. Đó quả thật là một thách thức lớn đối với các linh mục.
Bí tích Thánh Thể mời gọi chúng ta sống, chết, làm linh mục và lễ vật hy sinh. Là linh mục, chúng ta dâng tiến Chúa Kitô trong thánh lễ, nhưng chúng ta cũng phải dâng hiến chính chúng ta để làm hy lễ với Người. Lẽ nào chúng ta tự ý tách lìa những điều Chúa đã kết hợp, tức là chức linh mục và tính cách hy lễ? Nếu không, làm sao chúng ta có thể tái diễn cái chết của Người nơi chúng ta? Truyền phép không phải là lặp lại một cách khô khan những lời trong bữa tiệc ly, nhưng là một hành động, một cuộc tái diễn, một cuộc tử nạn nơi chúng ta. Bẻ bánh là một nghi thức bất biến trong thánh lễ. Nó nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi lần chúng ta dâng thánh lễ là mỗi lần Chúa chịu bẻ ra làm lễ vật hy sinh vì tội chúng ta. Nhờ cử chỉ bẻ bánh, hai môn đệ làng Emmau đã nhận ra Chúa.
Đừng hy vọng Chúa sẽ hài lòng về chúng ta hơn các tư tế Cựu Ước nếu chúng ta chỉ muốn dâng tiến lễ vật, chứ không chịu làm hy lễ. Người đã không nhàm chán họ đấy ư, khi họ dâng cho Người những lễ vật hoàn toàn khác biệt với họ: “Ích gì bao của lễ của các ngươi. Ta đã chán ngán thịt dê và mỡ bò. Ta ớn máu bò chiên dê rồi” (Is 1,11). Chúa sẽ không phàn nàn vì chức linh mục của chúng ta còn thiếu sót sao, nếu chúng ta không ‘bẻ bánh’ là thân xác chúng ta? Người ao ước của lễ nào nơi chúng ta nếu không phải là con người chúng ta? Vì thế thánh Phaolô đã viết: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).
Cuối cùng, theo lời dạy của công đồng Vaticanô II trong Presbyterorum Ordinis, số 12, linh mục là người được hiến thánh cho Thiên Chúa cách đặc biệt. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, hiến thánh có nghĩa là để dành riêng như của lễ dâng lên Thiên Chúa. Như thế, thánh hiến đồng nghĩa với của lễ hy sinh, được thực hiện bằng sự hy sinh. Gương linh mục hy sinh làm phát sinh Giáo Hội thánh thiện. Giáo Hội không thể gây được ảnh hưởng nào nơi thế gian một khi những người ngoài Giáo Hội chỉ coi Giáo Hội như một xã hội đặc biệt, một tổ chức hay một trong những tôn giáo lớn. Vì thế Chúa đã phải đóng ấn sức truyền bá của Người bằng thánh giá. Những linh mục nặng óc thế tục làm cản trở bước tiến của Giáo Hội. Khi linh mục sống thua kém giáo dân, Giáo Hội sẽ bị thoái hóa.
Khi một linh mục bất xứng cử hành các bí tích, thì các bí tích ấy vẫn thành sự ex opere operato cho giáo dân được hưởng nhờ. Tuy nhiên, gương xấu của linh mục sẽ khiến cho giáo dân mất đi niềm tin và không còn thiết tha đến lãnh nhận các bí tích nữa, cũng như làm lu mờ ánh sáng của Tin mừng. Làm sao người giáo dân có thể yêu mến và siêng năng sốt sắng tham dự thánh lễ khi thấy linh mục cử thánh thánh lễ cách vội vàng, thiếu chuẩn bị, cử chỉ không trang nghiêm, lời nguyện như cái máy, thiếu tâm tình sốt sắng? Làm sao giáo dân có thể siêng năng đến tòa cáo giải nếu họ thấy vị giải tội có đời sống bất xứng? Chính đời sống thánh thiện của thánh Gioan Maria Vianney đã khiến nhiều người đến thú tội với ngài và được ơn tha tội.
3. BỔN PHẬN CỦA LINH MỤC TRONG VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO DÂN CHO PHỤNG VỤ VÀ QUA PHỤNG VỤ
Với tư cách là tư tế thừa tác, linh mục là người cử hành Phụng vụ. Tuy nhiên, Phụng vụ không phải là một hành vi cá nhân của Linh mục, nhưng là hành vi của toàn thể Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô gắn liền với Đầu là chính Đức Kitô. Do đó, sự tham dự của cộng đoàn giáo dân trong Phụng vụ cũng là một yếu tố quan trọng, vì người giáo dân thi hành chức tư tế cộng đồng khi họ tham dự vào việc dâng hy tế và lãnh nhận các bí tích. Chính vì thế, để tham dự Phụng vụ cách đúng đắn, các anh chị em giáo dân trước hết cần phải được giảng dạy, đào tạo về Phụng vụ. Đó là việc đào tạo giáo dân cho Phụng vụ. Người chịu trách nhiệm trực tiếp của việc đào tạo này không ai khác hơn là chính linh mục, vì linh mục là mục tử và thầy dạy của các anh chị em giáo dân. Và một khi tham dự Phụng vụ theo sự hướng dẫn của các linh mục, các anh chị em giáo dân cũng được biến đổi để trở nên xác tín hơn, sốt sắng hơn. Đó là việc đào tạo giáo dân qua Phụng vụ.
3.1. Đào tạo giáo dân cho Phụng vụ
Hiến chế Sacrosanctum Concilium về Phụng vụ thánh của Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Những mục tử chăn dắt các linh hồn phải chú trọng và kiên tâm thực hiện việc giảng dạy về Phụng vụ cho các tín hữu, giúp họ tham dự tích cực cả bề trong lẫn bề ngoài, tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh, cách sống và trình độ văn hóa tôn giáo của mỗi người, như vậy, các ngài sẽ chu toàn được một trong những trọng trách chính yếu của người trung thành phân phát các mầu nhiệm Thiên Chúa; đồng thời, trong lãnh vực này, các ngài phải dẫn dắt đoàn chiên không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng cả gương lành”.[30]
Việc đào tạo giáo dân cho Phụng vụ có thể bắt đầu từ những lớp giáo lý cho các em thiếu nhi và những lớp giáo lý cho các dự tòng. Có những dịp đặc biệt hơn cho việc đào tạo Phụng vụ cho các em thiếu nhi, chẳng hạn như các dịp xưng tội và rước lễ lần đầu, lãnh nhận bí tích Thêm sức. Việc này các linh mục có thể giao cho các giáo lý viên, nhưng các linh mục phải đặc biệt quan tâm và kiểm tra việc dạy của các giáo lý viên, cũng như việc học của các em. Đối với người lớn, có những lớp giáo lý hôn nhân và dự tòng. Các linh mục nên đích thân giảng dạy, vì hơn ai hết, các linh mục là những người có đầy đủ kiến thức về vấn đề này. Các tu sĩ, các thầy giúp xứ và anh chị em giáo dân có trình độ có thể phụ giúp phần nào các linh mục về vấn đề này. Việc dạy giáo lý cho các trường hợp chuẩn bị chịu các phép bí tích cần tập trung vào ý nghĩa thần học của việc cử hành các bí tích ấy hơn là chú trọng đến việc thực hành tỉ mỉ các nghi thức, như lời Đức Phanxicô đã viết: “Tôi đang nói về ý nghĩa thần học của Phụng vụ và, như Đức Piô XII đã khẳng định, “Phụng vụ chắc chắn không phải là một nghi lễ mang tính trang trí hoặc chỉ là một tổng hợp các luật lệ và qui định trong việc phụng tự”[31].[32]
Đức Phanxicô mong muốn rằng việc nghiên cứu về Phụng vụ không được đóng khung trong những môi trường chuyên môn, mà phải làm sao mở rộng đến quảng đai quần chúng. Ngài viết: “Cần phải tìm ra những đường dẫn cho việc đào tạo trong nghiên cứu Phụng vụ. Ngay từ đầu, phong trào Phụng vụ đã thực hiện nhiều việc trong lĩnh vực này, với sự đóng góp quý báu của các học giả và các học viện. Tuy nhiên điều quan trọng bây giờ là phải phổ biến kiến thức này ra ngoài môi trường học viện, có thể tiếp cận dễ dàng, để mỗi tín hữu có thể gia tăng kiến thức về ý nghĩa thần học của Phụng vụ. Đây là vấn đề mang tính quyết định, là nền tảng cho sự hiểu biết và thực hành Phụng vụ. Nó cũng hinh thành nên chính việc cử hành, giúp mọi người có khả năng hiểu được các bản văn kinh nguyện, tính năng động và ý nghĩa nhân học của các nghi lễ”.[33]
Tuy nhiên, mở rộng việc giảng dạy về Phụng vụ cho dân chúng hay dạy về ý nghĩa thần học của Phụng vụ cho giáo dân không phải là việc dễ dàng. Phần lớn giáo dân không có một kiến thức tổng hợp về thần học, họ giữ đạo theo kiểu “xưa bày nay làm”. Trong khi đó, Phụng vụ đụng chạm đến hầu hết các chân lý đức tin. Đặc biệt, việc cử hành Phụng vụ liên quan đến các mầu nhiệm là những điều mà người giảng dạy không thể trình bày cách rõ ràng và người nghe cũng không thể hiểu được cách dễ dàng.
Một điều khó khăn đặc biệt nữa là Phụng vụ phần lớn sử dụng các biểu tượng, nhất là trong việc cử hành các bí tích. Các biểu tượng là những dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để mạc khải các chân lý. Tuy nhiên, các biểu tượng thường mang đậm nét văn hóa và chỉ có thể hiểu được đối với những người có chung nền văn hóa. Theo Romano Guardini: “Đây là nhiệm vụ đầu tiên của việc đào tạo Phụng vụ: con người phải một lần nữa tìm lại được khả năng hiểu được biểu tượng’. Đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, của các thừa tác viên đã lãnh chức thánh cũng như của các tín hữu”.[34] Tuy nhiên, các biểu tượng trong Phụng vụ Kitô giáo mang đậm nét văn hóa Tây phương, dường như xa lạ với các tín hữu thuộc các nền văn hóa khác. Do đó, việc làm cho giáo dân thuộc các nền văn hóa khác với văn hóa Tây phương hiểu được các biểu tượng ấy không phải là điều dễ dàng, cần phải trải qua một quá trình hội nhập văn hóa lâu dài và không ít khó khăn.
“Do đó, vấn đề cơ bản là làm sao để phục hồi khả năng sống trọn vẹn các cử hành Phụng vụ? Đây là mục tiêu cải cách của Công đồng. Thách thức là vô cùng khắc nghiệt, vì con người hiện đại đang sống trong những nền văn hóa không ngang tầm nhau đã mất đi khả năng tham gia vào những hành vi mang tính biểu tượng, một đặc điểm thiết yếu của hành vi Phụng vụ”.[35] Khó khăn ấy càng trở nên khó giải quyết hơn nữa, vì chúng ta đang sống trong thời hậu hiện đại. Đức Phanxicô viết: “Trong thời hậu hiện đại, con người cảm thấy bản thân ngày càng lạc lõng hơn, không có điểm qui chiếu nào”.[36] Để hiểu được điều Đức Phanxicô viết, ta cần hiểu biết về thời hậu hiện đại.
Thế giới hiện nay đang sống trong một thời đại mà các nhà chuyên môn gọi là hậu hiện đại. Với sự sụp đổ của các ý thức hệ mạnh và sự rệu rã của các hệ thống triết lý, nhãn quan thống nhất của nền văn hóa đậm sắc nhân bản của thời trước đã rơi vào khủng hoảng. Bối cảnh văn hóa của những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX vì thiếu những lý tưởng mạnh nên đã rơi vào sự phân hóa và mất dần những điểm qui chiếu. Hans Küng gọi tình trạng văn hóa ấy là cuộc khủng hoảng của thời hiện đại và thế giới đang bước vào thời kỳ hậu hiện đại. Thuật ngữ “hậu hiện đại” được dùng để chỉ một phong cách sống và tư duy đang xa rời những ý tưởng chủ đạo của thời hiện đại. Đặc tính đầu tiên của văn hóa hậu hiện đại là sự chuyển đổi từ hệ thống sang cục bộ, từ toàn khối sang mảnh vụn. Đặc tính thứ hai của văn hóa hậu hiện đại là phủ nhận mọi chân lý phổ quát, không có một điểm qui chiếu chung, mỗi người trở thành điểm qui chiếu cho chính mình. Đặc tính thứ ba của văn hóa hậu hiện đại là nhấn mạnh tuyệt đối trên sự tự do cá nhân và phủ nhận mọi cơ cấu, hệ thống, dẫn đến một hình thức cá nhân chủ nghĩa tuyệt đối.
Vì phủ nhận mọi hệ thống giá trị có sẵn, nhất là khi những hệ thống giá trị ấy thuộc văn hóa Tây phương chịu ảnh hưởng Kitô giáo, người ta có khuynh hướng phủ nhận những điểm quy chiếu vốn có trong nền văn hóa Tây phương, và đặc biệt là trong Kitô giáo. Người ta đòi phải có một sự hội nhập văn hóa sâu rộng hơn nữa, nếu không thì họ không thể chấp nhận những hình thức thuần túy văn hóa Tây phương như các cử hành Phụng vụ. Sau Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã có những nỗ lực hội nhập văn hóa về mọi phương diện. Tuy nhiên, một sự hội nhập văn hóa đúng nghĩa không có nghĩa là hoàn toàn loại bỏ những gì mang dáng dấp Tây phương, nhưng là đưa Tin mừng vào các nền văn hóa để có sự trao đổi gặp gỡ giữa hai bên, như trong những thế kỷ đầu Kitô giáo đã hội nhập vào các nền văn hóa Tây phương và đã tạo được một nền văn hóa Tây phương mang dáng dấp Kitô giáo như hiện nay.
3.2. Đào tạo giáo dân qua Phụng vụ
Đào tạo cộng đoàn tín hữu qua Phụng vụ thật ra không phải là một ý tưởng mới mẻ gì, bởi vì từ Công đồng Vaticanô II chúng ta đã gặp điều đó. Thực vậy Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã dạy: “Mặc dù Phụng vụ thánh chủ yếu là hành vi phụng thờ Thiên Chúa uy quyền, nhưng cũng chứa đựng trong đó sự giáo dục quan trọng đối với đoàn dân tín hữu[37]. Thật vậy, trong Phụng vụ, Thiên Chúa nói với dân Ngài; Chúa Kitô tiếp tục loan báo Tin Mừng của Người. Còn dân chúng đáp lời Thiên Chúa qua tiếng hát lời kinh”.[38]
Ý tưởng này đã được Hiến chế nêu lên ngay từ đầu khi dạy: “Hằng ngày, Phụng vụ kiến tạo những người bên trong Giáo Hội thành đền thánh trong Chúa, thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa trong Thánh Thần (x. Ep 2,21-22), cho đến khi đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô (x. Ep 4,13), đồng thời cũng kiện cường cách kỳ diệu nơi họ sức mạnh để rao giảng Chúa Kitô, và như thế Phụng vụ bày tỏ cho những người ở bên ngoài thấy Giáo Hội như một dấu chỉ được đặt lên cao trước mặt muôn dân (x. Is 11,12), nhờ đó con cái Thiên Chúa đang tản mác được qui tụ nên một (x. Ga 11,52) cho tới khi thành một đàn chiên với một chủ chăn (x. Ga 10,16)”.[39]
Dĩ nhiên mỗi người giáo đân đều có thể và có bổn phận tự đào tạo này khi tham dự Phụng vụ, tuy nhiên để việc đào tạo này đem lại kết quả nhiều hơn thì cần có sự giúp đỡ của các linh mục là những mục tử có trách nhiệm hướng dẫn họ. Cũng chính Hiến chế Sacrosanctum Concilium của Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Các mục tử không chỉ chủ tâm tuân giữ các qui luật trong các hành vi phụng vụ để cử hành thành sự và hợp pháp, nhưng còn phải làm cho các tín hữu tham dự Phụng vụ cách ý thức, tích cực và mang lại nhiều hoa trái”.[40]
“Mẹ thánh Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể các tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành Phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và tích cực, đây là điều do chính bản chất của Phụng vụ đòi hỏi, và cũng là quyền lợi và bổn phận của đoàn dân Kitô giáo, nhờ phép Rửa tội, đã trở nên “dòng giống ưu tuyển, hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh thiện, đoàn dân được tuyển chọn” (1 Pr 2,9; x. 2,4-5)….Tuy nhiên, sẽ không có hy vọng đạt tới kết quả đó, nếu trước tiên chính những mục tử chăn dắt các linh hồn không thấm nhuần sâu đậm tinh thần và năng lực của Phụng vụ, cũng như không trở nên thầy dạy trong lãnh vực này, vì thế, rất cần phải chú trọng đến việc giảng huấn về Phụng vụ cho hàng giáo sĩ”.[41]
Đến lượt Đức Phanxicô, mặc dù đã có những giáo huấn của Công đồng Vaticanô II trên đây, nhưng ngài nhận thấy rằng vẫn có nhiều người trong Giáo Hội nghĩ rằng việc đào tạo qua Phụng vụ chỉ dành cho các linh mục chứ không phải cho giáo dân, nên một lần nữa ngài khẳng định lại vai trò của các linh mục trong việc giúp giáo dân tự đào tạo qua Phụng vụ khi ngài viết:
“Các thừa tác viên đã lãnh chức thánh sẽ thực thi tác vụ mục vụ có tầm quan trọng hàng đầu, khi các ngài cầm tay các tín hữu đã được rửa tội để đưa họ vào những trải nghiệm thường xuyên của mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chính Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là chủ thể cử hành chứ không chỉ là linh mục… Thật là quá rõ, để có thể dẫn dắt anh chị em của mình, các thừa tác viên chủ sự cộng đoàn phải biết đường đi, bằng cách vừa nắm rõ lộ trình bản đồ nghiên cứu thần học, vừa phải siêng năng cử hành phụng vụ, để có những trải nghiệm về một đức tin sống động, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, và chắc chắn không chỉ đơn thuần là thi hành một bổn phận bó buộc”.[42]
Đức Phanxicô nhắn nhủ: “Chúng ta cần thực hiện việc đào tạo Phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống”.[43] Lời nhắn nhủ này thật ý nghĩa đối với người giáo dân, bởi lẽ chức tư tế cộng đồng của họ được thực hiện cả trong Phụng vụ lẫn trong cuộc sống. Nếu trong Phụng vụ, với chức tư tế cộng đồng, họ là những người tham dự vào việc dâng hy tế Thánh Thể của các tư tế thừa tác, thì trong đời thường, cũng với chức tư tế cộng đồng, họ dâng lên Thiên Chúa chính cuộc sống của mình làm của lễ. Ho nối dài cử hành Phụng vụ trong nhà thờ đến cuộc sống đời thường. Đồng thời họ đưa tất cả những gì thuộc về cuộc sống thường ngày vào việc cử hành Phụng vụ, qua đó họ làm cho cuộc đời và mọi công việc của họ được thánh hiến.
KẾT LUẬN
Phụng vụ là một thực hành quan trọng trong Giáo Hội Công giáo và đối với mọi thành phần trong Giáo Hội. Phụng vụ cũng là một thực hành đã có từ đầu trong Giáo Hội cùng với việc loan báo Tin mừng và là di sản mà Giáo Hội qua mọi thời kế thừa từ các Thánh Tông đồ. Mặc dù mang tính tông truyền, nhưng trải qua thời gian, Phụng vụ đã có những bước cải cách và canh tân cho phù hợp với điều kiện xã hội của các thời kỳ. Chính vì thế, trong chiều hướng canh tân của Công đồng Vaticanô II, việc canh tân Phụng vụ đã được các Nghị phụ đặt lên hàng đầu.
Tuy nhiên, việc canh tân Phụng vụ cần phải đi liền với việc đào tạo Phụng vụ. Đức Phanxicô đã trích dẫn lời Guardini khi viết: “Guardini không ngần ngại khẳng định rằng nếu không có đào tạo Phụng vụ, thì việc cải cách các nghi thức và bản văn sẽ không giúp ích được gì nhiều”.[44] Và Đức Phanxicô đã đề nghị hai hướng đào tạo: đào tạo “cho” Phụng vụ và đào tạo “qua” Phụng vụ. Đào tạo cho Phụng vụ là việc đào tạo đi trước để chuẩn bị cho người ta có khả năng cử hành hoặc tham dự Phụng vụ. Đào tạo qua Phụng vụ là việc đào tạo diễn ra trong khi cử hành hoặc tham dự Phụng vụ. Đào tạo qua Phụng vụ là việc chính yếu, còn đào tạo cho Phụng vụ phụ thuộc vào đó.[45] Khi xác định một lộ trình như thế, chắc hẳn chúng ta thấy rằng đây không phải là vấn đề lý thuyết, mà là vấn đề thực hành, vấn đề sống và trải nghiệm Phụng vụ.
Hơn ai hết, là những tư tế, tức là những người mà chức năng chính là cử hành Phụng vụ, các linh mục phải là những người được đào tạo kỹ lưỡng chẳng những cho Phụng vụ mà còn qua Phụng vụ; và cũng hơn ai hết, là những mục tử, tức là những người có nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên, các linh mục có nhiệm vụ đào tạo giáo dân cho Phụng vụ và qua Phụng vụ.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng: “Đối với các thừa tác viên cũng như đối với tất cả những người đã được rửa tội, việc đào tạo Phụng vụ theo nghĩa chính yếu này, không phải là điều có thể đạt được một lần cho tất cả. Vì ân huệ của mầu nhiệm được cử hành vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, nên cùng với nỗ lực này, mọi người phải thực hiện chương trình thường huấn, đào tạo trường kỳ, với thái độ khiêm nhường của những kẻ bé mọn, một thái độ sẽ mở ra thành ngưỡng mộ thán phục”.[46]
Gm. Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Nguồn: gpquinhon.org (29.09.2023)
[1] Xem Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi gửi các giám mục, linh mục và phó tế, những người sống đời thánh hiến, về Đào tạo Phụng vụ cho Dân Thiên Chúa, ngày 29-6-2022, số 1.
[2] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 34.
[3] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 21.
[4] Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis về Chức vụ và đời sống các linh mục, ngày 7-12-1965, số 12.
[5] Đgh. Gioan Phaolô ii, Tông huấn Pastores Dabo Vobis về việc Đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay, ngày 25-3-1992, số 12.
[6] Bộ Giáo Sĩ, Kim chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục (Ấn bản mới 2013), Bản dịch của Đại chủng viện Huế, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2014, số 2.
[7] Xem Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium về Phụng vụ thánh, ngày 04.12.1963, số 7; ĐGH. PIÔ XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29.6.1943: AAS 35 (1943), tr. 230.
[8] Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 5.
[9] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 10.
[10] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 10.
[11] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 34.
[12] Xem T. Augustinô, In Ioannis Evangelium tractatus XXVI, 13.
[13] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 16.
[14] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 30.
[15] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 16.
[16] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 15.
[17] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 37.
[18] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 39.
[19] Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 5.
[20] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 18.
[21] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 56.
[22] Xem Quy chế tổng quát Sách lễ Roma, số 310.
[23] Lời nguyện cung hiến nhà thờ và bàn thờ.
[24] Sách lễ Rôma, Nghi thức Thánh lễ.
[25] Sách lễ Rôma, Nghi thức Thánh lễ.
[26] Xem Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 78-79.
[27] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 60.
[28] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 41.
[29] Xem Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, số 13.
[30] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 19.
[31] Đgh. Piô XII, Thông điệp Mediator Dei về Phụng vụ, ngày 20.11.1947, AAS 39 (1947) 532.
[32] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 18.
[33] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 35.
[34] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 44.
[35] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 27.
[36] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 28.
[37] Xem Công Đồng Trentô, khóa XXII, 17.9.1562, Giáo thuyết De ss. Missae sacrif., ch. 8: Concilium Tridentinum, xb. Soc. Goerresianae, bộ VIII, tr. 961.
[38] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 33.
[39] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 2.
[40] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 11.
[41] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 14.
[42] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 36.
[43] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 31.
[44] Xem 44 Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 34.
[45] Xem Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 34.
[46] Đgh. Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi, số 38.