LINH MỤC THÁNH THIỆN – NIỀM MONG ƯỚC LỚN NHẤT CỦA MỌI GIÁO DÂN
WHĐ (13.6.2021) – Ngày 6-6-2021 vừa qua, nhân dịp lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, Đức TGM Saigon Giu-se Nguyễn Năng đã viết một thư gửi các linh mục trong Tổng Giáo phận với chủ đề “Linh mục nên thánh”. Mở đầu lá thư, Đức Tổng Giu-se nhắc lại sự kiện là Đức Thánh GH Gio-an Phao-lô II đã đặt lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su là ngày cầu xin ơn thánh hóa các linh mục và ngài đã nhấn mạnh: “Hơn ai hết và trước mọi người, các linh mục nên thánh để giúp Dân Chúa nên thánh.”[1]
- Linh mục nên thánh
Nội dung lá thư gồm ba phần, trong đó ở phần đầu Đức Tổng Giu-se đề cập đến tình trạng Hội thánh hôm nay có nhiều điều đáng mọi người suy nghĩ để từ đó các mục tử cần suy tư và quan tâm nhiều hơn. Ngài viết:
“Tình trạng ‘Nhà Giáo hội’ hôm nay cũng có rất nhiều điều đáng ưu tư: tội lỗi nơi các thành phần Dân Chúa, thậm chí các xì căng đan nơi hàng giáo sĩ, hiện tượng xa rời và không thực hành đức tin, đời sống luân lý sa sút, lối sống thực dụng theo kiểu vô thần thực tiễn, tình trạng nguội lạnh thiếu lòng nhiệt thành dấn thân loan báo Tin Mừng…
“Để xây lại Nhà của Chúa, phải bắt đầu từ đâu? Chắc chắn phải từ sự hoán cải và sống thánh thiện theo Tin Mừng. Đó là con đường đầu tiên và là con đường duy nhất. Đó chính là lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
Tiếp đó, Đức Tổng Giu-se đã nêu ra điểm nhấn của vấn đề, đó là việc nên thánh là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của linh mục, được xem là chìa khóa vạn năng để giải quyết những khủng hoảng hiện nay trong đời sống Hội thánh nói chung và trong đời sống của các mục tử nói riêng. Ngài viết:
“Cách đây vài năm, sau khi báo chí phổ biến danh sách thật dài các vụ lạm dụng tình dục tại Mỹ, một phóng viên đã hỏi các linh mục, chủng sinh tại Học viện Bắc Mỹ ở Roma nghĩ thế nào về khủng hoảng này, một linh mục trẻ đã trả lời: “Chúng tôi sẽ là giải pháp chứ không trở thành vấn đề”, nghĩa là chúng tôi sẽ sống tốt để lấy lại uy tín cho Giáo hội chứ không gây nên xì căng đan nữa. Nói cách khác, trước tình trạng suy giảm đức tin với tất cả những hậu quả về phương diện luân lý, tinh thần, xã hội và văn hóa, giải pháp cho sự suy thoái không hệ tại ở sự cải tổ trên bình diện xã hội, cơ cấu, hay pháp lý, nhưng ở nỗ lực trở về với Tin Mừng, tức là đời sống thánh thiện.
“Bắt đầu từ các mục tử: Tất cả các Kitô hữu đều phải nên thánh, vì nên thánh là ơn gọi nền tảng, và anh em chúng ta, các mục tử, là người trước tiên phải nên thánh. Trước khi được xức dầu thánh hiến trong chức linh mục, chúng ta đã được xức dầu thánh hiến trong ơn gọi Kitô hữu. Chức tư tế thừa tác của chúng ta không xóa bỏ chức tư tế chung của mọi tín hữu mà chính chúng ta đã lãnh nhận khi được rửa tội. Chúng ta có thể áp dụng lời của thánh Augustinô cho linh mục: “Cho anh chị em, tôi là Giám mục, linh mục; cùng với anh chị em, tôi là Kitô hữu. Tước hiệu thứ nhất là trách vụ đã lãnh nhận, tước hiệu thứ hai là của ân sủng. Tước hiệu đầu nói lên mối nguy hiểm, tước hiệu sau nói lên ơn cứu độ.”
“Giáo huấn của Giáo hội thường nói rằng các linh mục nên thánh theo cách thế đặc thù của mình, bằng cách chu toàn thừa tác vụ của hàng linh mục. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ cần thi hành thừa tác vụ thì đương nhiên đã là nên thánh. Vấn đề là chúng ta thi hành thừa tác vụ với động lực nào, phong cách nào, theo tinh thần Phúc Âm hay theo cách của thế gian; và ngoài lúc thi hành tác vụ, lối sống của chúng ta có ăn khớp với mầu nhiệm thánh thiêng đã cử hành không.
“Chúng ta miệt mài chu toàn thừa tác vụ linh mục, nhưng đừng quên rằng trước hết, chính mình phải sống đời Kitô hữu thánh thiện theo Tin Mừng. Nếu chính mình không thực hành Lời Chúa là điều thiết yếu trong cuộc sống người môn đệ, thì chúng ta không thể tự mãn để nói: “Lạy Chúa, nhân danh Chúa, con đã trừ quỷ; nhân danh Chúa, con đã làm phép lạ; nhân danh Chúa, con đã nói tiên tri” (Mt 7, 21-27), hoặc nhân danh Chúa, con đã xây nhà thờ, tổ chức nhiều sinh hoạt, làm từ thiện, … thậm chí cũng không thể nói: con đã dạy giáo lý, đã cử hành biết bao bí tích…
“Khi được đặt làm mục tử dẫn dắt đoàn chiên, chúng ta phải là người tiên phong sống Tin Mừng. Chúng ta nghĩ sao nếu ngày nay Chúa nói với giáo dân: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3). Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng, đã từng ưu tư: “Bao giờ chúng tôi mới sửa được lỗi của người ta, nếu chúng tôi sao lãng đời sống của mình? Khi để tâm lo các việc đời, chúng tôi xem ra càng hăng say làm những việc bên ngoài, thì thật sự chúng tôi càng dửng dưng với những việc bên trong.”
Ở phần cuối thư, Đức Tổng Giu-se đã đưa ra mối liên hệ chặt chẽ giữa đời sống thánh thiện và việc truyền giáo bằng việc trích dẫn Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc của Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, như sau:
“Nếu không thánh thiện, sẽ chẳng có hồn tông đồ và lòng nhiệt thành truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã nói: “Việc canh tân động lực cho việc truyền giáo ‘ad gentes’ đòi phải có những nhà truyền giáo thánh thiện. Cập nhật những kỹ thuật mục vụ, tổ chức và điều hành các nguồn lực của Giáo hội, hay nghiên cứu sâu xa nền tảng Thánh kinh và thần học về đức tin, vẫn chưa đủ. Điều cần thiết là khơi dậy lòng hăng say nên thánh nơi các nhà truyền giáo, cũng như nơi khắp các cộng đồng Kitô giáo, đặc biệt nơi những ai làm việc gần gũi nhất với các nhà truyền giáo. Chúng ta hãy nhớ đến lòng nhiệt thành truyền giáo của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi … Bên dưới cái năng động truyền giáo này chính là đời sống thánh thiện của các Kitô hữu và các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi” (Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc, s. 92).
“Đừng bằng lòng với một cuộc sống tầm thường nhạt nhẽo… Đừng sợ nên thánh.”
- Các linh mục nên thánh để giúp Dân Chúa nên thánh
Như vậy, việc linh mục được ơn gọi phải trở nên thánh thiện chẳng những đó là thánh ý Chúa, là yêu cầu của sứ vụ, mà còn là niềm mong đợi lớn lao của cộng đồng Dân Chúa. Khi tiếp xúc với một linh mục nào đó, điều mong ước đầu tiên đối với người tín hữu, đó chính là được đón nhận sự thánh thiện tỏa ra từ ngài. Sự thánh thiện ấy âm thầm và sâu lắng, nó mang sức sống của hiện thân Đức Ki-tô, mang hơi ấm của tình yêu, sự dịu ngọt của Lời Chúa và sự thân ái của tình người.
Một giáo dân, trong bài viết có tựa đề “Lá thư tâm tình của một giáo dân gửi vị Linh mục” đã chia sẻ nhiều mong ước gửi linh mục, trong đó có đoạn sau:
“Xin hãy là người Cha của chúng con. Chúng con thật cảm kích khi thấy một linh mục tốt lành, thánh thiện, thương yêu giáo dân và ân cần khi tiếp đón và giúp đỡ chúng con khi chúng con cần đến sự hướng dẫn của Cha.
“Xin hãy dịu dàng, ôn tồn nhưng cũng thẳng thắn dạy dỗ và sửa sai chúng con. Thật là diễm phúc cho chúng con khi có được những người Cha hiền lành, khiêm tốn nhưng cũng cương trực như thế, khác xa kiểu cách của biết bao công chức thích quát nạt hay hành sách người khác ngoài đời hay cũng sẵn sàng xum xoe nịnh nọt những ai có thể trục lợi. (…)
“Chúng con mong ước các Cha vừa thuộc về Thiên Chúa vừa không xa lạ với con người, vừa hòa nhịp với xã hội mà vẫn trung thành với đức tin. Xin hãy là mẫu gương sống tiết độ và thánh thiện để chúng con noi theo, trong cách ăn uống, cách sống, cách nói năng…Chúng con thật hạnh phúc vì có những tấm gương sáng như thế ở giữa cõi đời này vốn dĩ còn nhiều lọc lừa, bon chen, vụ lợi và giả dối. Nếu cha không dạy chúng con, thì ai sẽ là người dạy chúng con những điều này đây? ” [2]
Có thể nói, dưới cái nhìn của tín hữu, linh mục trổi vượt hơn họ không phải do bằng cấp, sự thông thái, quyền bính, sự giàu có hay tài giỏi gì, nhưng chính là do sự thánh thiện, tỏa lan trong con người, trong cuộc sống và trong lúc thi hành sứ vụ.
ĐGM Phê-rô Nguyễn Soạn, nguyên GM chính tòa giáo phận Qui Nhơn, trong bài giảng về đề tài “Khủng hoảng trong đời sống linh mục”, đã chia sẻ như sau:
“Trong khi thi hành mục vụ, các linh mục thích đi vào chính trị, thích làm các công tác chuyên môn ở đời, muốn làm bác sĩ, kỹ sư, phi hành gia, nhà xã hội, nhà văn v.v… Trong lúc đó người ta cần nơi chúng ta không phải là điều họ có, mà là điều họ không có. Jean Guitton có lần viết trong báo Le Christ au Monde: ‘Chúng tôi không cần các linh mục làm những việc như chúng tôi, mà các linh mục làm sao làm các điều ấy có hiệu năng như chúng tôi được. Chúng tôi là những nhà chuyên môn. Còn các linh mục phải lo những chuyện của mình như bận đọc kinh, bận dâng lễ và các công tác mục vụ khác nữa. Điều chúng tôi cần, là đời sống chứng tá và các lời rao giảng của các linh mục…’ ”[3]
Quả vậy, điều mà giáo dân cần linh mục “ban cho” họ chính là gương sáng về đời sống nội tâm sâu xa, về cuộc đời từ bỏ, về đam mê phục vụ, về tình liên đới tha nhân, về chứng tá Tin Mừng Ki-tô giáo, về nếp sống tu trì khó nghèo khiêm hạ, về những thao thức truyền giáo vv.
Chúng ta nhận thức rằng: “Linh mục chính là quà tặng tuyệt vời từ Thiên Chúa. Linh mục là món quà vô giá và nhưng không mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại, con người không bao giờ có đủ lời để cám ơn Thiên Chúa về món quà vô giá ấy. Vì linh mục là nơi mọi linh hồn có thể kín múc được tình yêu của Thiên Chúa, thế nên Satan sẽ ghen tức và tìm mọi cách để phá vỡ mối quan hệ khắng khít của con người với Thiên Chúa. “Ơn gọi linh mục là một sự bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa, ơn gọi linh mục là một món quà vượt quá giới hạn của con người.” (Thánh GH Gioan Phaolô II).”[4]
- Giáo dân luôn trông đợi được chăm sóc bởi linh mục thánh thiện
Cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars đã từng nói: “Linh mục thánh thiện thì giáo dân tốt lành. Linh mục tốt lành thì giáo dân bình thường. Linh mục bình thường thì giáo dân khô khan. Linh mục khô khan thì giáo dân tội lỗi”. Vậy, nếu một cộng đoàn được chăm sóc và lãnh đạo bởi linh mục thánh thiện thì ắt cộng đoàn ấy sẽ có nhiều người tín hữu tốt lành, đạo đức. Một mối liên hệ chặt chẽ không thể phủ nhận được.
Linh mục thánh thiện thì sẽ luôn yêu mến và sẵn sàng hy sinh vì con chiên. Công đồng Vat II đã nêu rõ: “Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Ki-tô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn (x.1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (x.1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân, cho người Công giáo và ngoài Công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống…” (x. Vat II, LG 28).
Và Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống các linh mục (Presbyterorum Ordinis) cũng nói về những đòi hỏi của thừa tác vụ linh mục, “Thực hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh hồn, từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi”.
Linh mục thánh thiện thì sẽ luôn là hiện thân của Thầy chí thánh Giê-su, vị Mục Tử nhân lành ở giữa đoàn chiên mình.
Thực vậy, “vì linh mục là hiện thân của Chúa Kitô giữa trần gian, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội khắp nơi ngày một thêm “tục hóa” vô lương tâm và vô luân hiện nay, cho nên mọi linh mục đều được mong đợi sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu, dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với người phàm trong mọi chiều kích thế tục mà trở nên Con Người để cứu chuộc và thần linh hóa (divinize) loài người hầu cho giúp con người được sống hạnh phúc và “được thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” này, như Thánh Phêrô đã dạy (2 Pr 1,4)”.[5]
Linh mục thánh thiện thì sẵn sàng từ bỏ tất cả và chấp nhận sống nghèo vì Tin Mừng. Linh mục được gọi và chọn để theo Chúa, mà theo Chúa thì phải từ bỏ tất cả. Đó là một chọn lựa duy nhất, quyết liệt và dứt khoát. Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta đã từng nói: “Tôi muốn nên thánh, có nghĩa là tôi muốn từ bỏ tất cả những gì không phải là Chúa.”
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tuyên bố khá nhiều về lệnh truyền từ bỏ đối với người được tuyển chọn. Lời của Chúa thật dứt khoát, rõ ràng: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Chúa cũng đã khẳng định: “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy ” (Lc 14, 33).
Từ bỏ để đi vào mối liên kết mật thiết với Đấng kêu gọi mình và trở thành công cụ để Ngài hành xử theo như ý Ngài muốn.
Nói về vấn đề “Từ bỏ” của người mục tử, ĐGM GB. Bùi Tuần, giáo phận Long Xuyên đã chia sẻ như sau:
“Từ bỏ trước hết là dứt lìa những dính bén xấu, những ham muốn bất chính, không phải chỉ đối với những của cải vật chất, mà cũng đối với những của cải tinh thần như danh vọng, uy tín, ý riêng.
“Từ bỏ cũng là ra khỏi cái tôi ích kỷ, bỏ con người cũ, trở nên con người mới (x. Cl 3, 9-10).
“Từ bỏ chính là chấp nhận hy sinh, khiêm tốn chôn vùi như Lời Chúa dạy ‘Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái’ (Ga 12, 24).
“Từ bỏ đích thực là để gắn bó chặt chẽ với thánh ý Chúa, như Chúa Giê-su đã nói: ‘Không phải theo ý con, nhưng theo ý Cha mà thôi’ (Lc 22, 42).
“Người môn đệ nhờ từ bỏ theo giáo huấn của Chúa mà có thể tập trung vào Đức Kitô, chính nhờ Người, với Người và trong Người, và vì Người mà chúng ta sống và hoạt động.
“Ngoài ra, từ bỏ như thế là để sống phục vụ vị tha, không tìm vui sướng nào ngoài vui sướng được liên kết mật thiết với Đức Kitô, như lời Người phán: ‘Thầy là cây nho, anh em là cành’ (Ga 15, 5).”[6]
Mọi người nhận ra rằng linh mục thánh thiện sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả để hết lòng theo Chúa và thi hành trọn vẹn thánh ý Ngài. Và cụ thể nhất là các ngài chấp nhận sống nghèo để cảm thông với dân nghèo và làm gương cho cộng đoàn.
ĐTC Phan-xi-cô có lần đã thổ lộ: “Cha cảm thấy buồn khi thấy một linh mục hay một nữ tu đi chiếc xe hơi đời mới nhất: thật không thể như thế được!”. Trong một dịp khác, ngài cũng đã nói: “Nếu các con thích một chiếc xe xinh xắn, hãy nghĩ đến biết bao trẻ em đang chết đói, hãy nghĩ đến điều này thôi. Niềm vui không được sinh ra, cũng không đến từ những thứ người ta có!”.
Xét như thế, chúng ta có thể khẳng định là các linh mục, một khi đã tận hiến đời mình cho Chúa và Hội thánh thì mặc nhiên các ngài sẽ chấp nhận một đời sống từ bỏ, tự nguyện sống nghèo khó vì Tin Mừng theo gương thầy chí thánh Giê-su, “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58).
Linh mục thánh thiện thì biết rõ và yêu mến con chiên của mình. Ngài không chấp nhận một đời sống khép kín, cô lập, vô cảm trong khi con cái mình thì lại thao thức mong muốn tìm gặp chủ chăn mình. Linh mục thánh thiện sẽ luôn luôn là một “địa chỉ thân thương” mà mọi người có nhu cầu tìm đến.
Khi thi hành sứ mệnh phục vụ, các linh mục không an tâm khép kín ở chốn riêng tư, trái lại, các ngài phải đứng dậy, ra đi, lăn xả vào đàn chiên, phải mang vác chiên và thấm đẫm mùi chiên. Và để việc phục vụ đạt kết quả tốt, thì vị mục tử phải biết từng con chiên một. Như Chúa đã nói: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14).
“Biết đoàn chiên: Ta biết các chiên ta. Từ ‘Biết’ trong Kinh Thánh có một ý nghĩa đặc biệt sâu xa. ‘Biết’ không chỉ là nắm bắt thông tin về chiên mà còn là đi vào liên hệ gần gũi và tương giao mật thiết với chiên. ‘Biết’ như thế không chỉ là nghe biết, hiểu biết mà còn là thông biết, thấu biết, nghĩa là một sự hiểu biết đến từ cảm thông, yêu thương, gần gũi, phục vụ và sẻ chia cuộc sống.
“Người mục tử đi vào cuộc đời, lăn xả vào môi trường sống của chiên, để hiểu biết và cảm thông với đoàn chiên. Chính từ trường học cuộc sống, họ biết đoàn chiên một cách cụ thể, sống động và sâu xa qua những trang sách đời thường. Qua cách thế đó, mọi ưu tư và thao thức thầm kín nhất của đoàn chiên cũng được mục tử thấu biết và cảm thông.
“Mục tử cũng không chỉ biết đoàn chiên một cách chung chung mà ‘gọi tên từng con một’. Đó là một cái biết thấu đáo, cụ thể, sâu sát. ‘Gọi tên từng con’ nghĩa là có tương giao liên vị với mỗi con chiên, từng con chiên, dù là con chiên bé nhỏ và yếu ớt nhất, ‘vô danh tiểu tốt’ nhất, ‘thấp cổ bé họng’ nhất…
“Nói khác đi, mỗi con chiên có một chỗ đứng quan trọng và bất khả thay thể trong con tim người mục tử. Mục tử cần yêu thương mọi con chiên và mỗi con chiên. Trái tim mục tử không có quyền loại trừ hay dửng dưng với bất cứ con chiên nào.”[7]
Linh mục thánh thiện thì luôn quan tâm đến việc phục vụ tha nhân, nhất là những ai Chúa đã trao phó cho mình. Một linh mục thánh thiện thì không thể không biết rằng phục vụ trong đời sống tận hiến vừa là lệnh truyền của Chúa vừa là cơ hội để bản thân mình nên thánh và giúp người khác nên thánh.
Có thể nói rằng, linh mục phục vụ Dân Chúa với tinh thần và lời dạy của Chúa Giê-su thì không bao giờ mang trong mình căn bệnh quan liêu, căn bệnh vô cảm và nhất là căn bệnh “Giáo sĩ trị”. LM Đỗ Xuân Quế OP, trong bài viết có tựa đề “Điều giáo dân trông đợi nơi linh mục”, đã nhấn mạnh:
“Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp, dễ nhờ. Vì đức tính này mà linh mục được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thúy là con người “bị ăn”. Kiểu nói này là của một linh mục người Pháp, cha Chevrier, người lập ra Hội Linh mục Prado.
“Nhiều linh mục ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở nhà, mọi việc giao cho văn phòng giáo xứ, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà không được.
“Lại có những cha sở tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ vì tính lạnh lùng và hay bẳn gắt. Bởi vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là họa lại hình ảnh Chúa Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.”[8]
Đức Giê-su đã nhắn nhủ các môn đệ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10, 42-45).
Phục vụ là cung cách làm việc và hành xử của một đầy tớ chứ không phải của ông chủ. Hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ đã minh họa rõ ràng về điều đó. Và còn hơn thế nữa, đối với Chúa, tột cùng của phục vụ là hy sinh mạng sống và chịu chết vì đàn chiên. Cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh hùng hồn cho điều đó. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8); “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13).
Khi dấn thân vào đời sống phục vụ, linh mục chấp nhận sự sống mình phải chịu tiêu hao đi vì người khác. Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó linh mục được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài luôn tự nhủ rằng việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nếu ngày đưa đón cha về nhận giáo xứ mới, lòng đầy nỗi hân hoan, vui sướng bao nhiêu thì những ngày sau đó, là một núi công việc đang chờ đợi bàn tay và khối óc của linh mục. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
Linh mục sẽ luôn luôn phải thao thức về các nhu cầu của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Sự hy sinh của linh mục không chỉ là chịu đựng một vài khó khăn trong vấn đề ăn uống, nhà ở, phương tiện này nọ mà là “chỉ có một sự cần”, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái…để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, linh mục cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư…Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, linh mục sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh trong dịp tĩnh tâm thường niên các linh mục Gp Đàlạt năm 2009 đã nhắn nhủ các linh mục như sau:
“… ‘Yêu mến giáo dân như Đức Kitô, trao cho họ tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì họ nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô’ (Pastores dabo vobis). Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được.”[9]
Cha Andrew Greeley, một tác giả viết sách và một nhà xã hội học đã định nghĩa: “Linh mục là người để người ta tìm đến”. Điều đó cũng có thể hiểu được là mục tử trở nên chốn nương tựa, nên nơi nương náu của tín hữu. Cộng đoàn tìm đến mục tử của họ là để được nói tiếng nói của chiên với chủ chăn, được giãi bày tâm sự, được khuyên giải, được trấn an vv. Sự thất vọng lớn nhất của người giáo dân đối với vị mục tử của họ là khi tiếng nói của họ không còn được nghe nữa. Lúc đó giữa chiên và chủ chiên như có một bức tường ngăn cách vô hình nào đó, và mối tương quan “ta biết chiên ta và chiên ta biết ta” không còn ý nghĩa gì nữa!
ĐTGM John R. Quinn, nguyên là TGM San Francisco, California Mỹ, trong bài viết “Linh mục ngày nay” đăng trong tuần báo America, tháng 7- 2002 đã viết như sau:
“…Nhiều linh mục đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ sống thầm lặng không cần ai biết tới. Họ đặt nền tảng đời sống của họ vào lời cầu nguyện và niềm tin tưởng phó thác nơi Chúa. Họ luôn ấp ủ một niềm lắng lo sâu xa, tinh tuyền cho dân Chúa. Hiệu quả của đời sống chiêm niệm và phục vụ của các anh em linh mục đó là họ có thể nhìn thấy Chúa Giê-su trọn vẹn là đầu, là chi thể, là Thiên Chúa và dân Chúa. Đời sống chiêm niệm không khép kín các linh mục đó nơi Chúa Ki-tô mà quên dân Chúa.
“Các linh mục đó không chỉ nguyên lo cho đời sống thiêng liêng của mình, nhưng các ngài được nâng đỡ, được phong phú hóa và tìm thấy sức mạnh ngay khi sống cho giáo dân và sống giữa giáo dân. Họ gặp thấy Chúa Ki-tô ngay khi làm việc với giáo dân cũng như khi âm thầm cầu nguyện một mình. Họ thật sự đã sống sâu xa lý tưởng linh mục đã được ghi lại trong Phúc Âm thánh Gioan, chương 10: ‘Người mục tử tốt lành là người mục tử dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’…”[10]
Aug. Trần Cao Khải
[1] https://tgpsaigon.net/bai-viet/thu-gui-cac-linh-muc-nhan-dip-le-thanh-tam-2021-63729
[2] http://conggiao.info/la-thu-tam-tinh-cua-mot-giao-dan-gui-vi-linh-muc-d-49158
[3] http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/NamThanh/LinhMuc/10KhungHoangTrongDoiSongLM.htm
[4] https://www.facebook.com/phat.diem.kim.son.ninh.binh/posts/459344877599460/
[5] LM Ngô Tôn Huấn – Bài “Linh mục, Đức Ki-tô thứ hai (alter Christus) phải là người như thế nào?” – Đặc san Giáo sĩ Việt Nam, số 279, CN 17-7-2016
[6] ĐGM Bùi Tuần, Tuyển tập “Hành trình Phục sinh”, Gp Long Xuyên 1997, trang 86-87
[7] https://www.facebook.com/Xin-c%E1%BA%A7u-nguy%E1%BB%87n-cho-c%C3%A1c-Linh-M%E1%BB%A5c-538784006274385/
[8] https://donghanhonline.com/dieu-giao-dan-trong-doi-noi-linh-muc/
[9] ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên linh mục Giáo phận Đàlạt từ ngày 16 đến 22-02-2009, nguồn: VietCatholic News
[10] Đức Tổng Giám Mục John R. Quinn, “The Strenghts of Priests Today” , Tuần Báo America, July 1-8, 2002 – LM Anphong Trần Đức Phương dịch