Tiểu sử hai Thánh Francisco Marto và Jacinta Marto
được tuyên thánh ngày 13 tháng 5, 2017
***
JACINTA MARTO sinh ngày 11 tháng 3 năm 1910. Vào thời điểm của những cuộc hiện ra, cô được bảy tuổi. Cô là người trẻ nhất trong số những người được nhìn thấy Đức Mẹ. Trong những lần hiện ra, cô đã thấy và nghe mọi thứ, nhưng không nói với Thiên sứ cũng như với Đức Mẹ. Thông minh và rất nhạy cảm, cô rất xúc động khi nghe Đức Trinh Nữ Maria nói rằng Chúa Giêsu đã bị xúc phạm nhiều bởi tội lỗi nhân loại. Sau khi nhìn thấy thị kiến về hỏa ngục, cô quyết định dâng mình cho sự cứu rỗi các linh hồn.
Đêm Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên (tức là ngày 13 tháng 5 năm 1917), Jacinta, mặc dù đã hứa với Lucia không tiết lộ chuyện này với ai, đã kể cho mẹ cô nghe về cuộc hiện ra này: “Mẹ ơi, hôm nay con đã nhìn thấy Đức Mẹ ở cánh đồng Cova da Iria. Ôi, Đức Mẹ xinh đẹp là ngần nào!” Sau đó, Jacinta còn nhận được hai thị kiến quan trọng về Đức Thánh Cha. Cô thấy một vị Giáo Hoàng chịu đau khổ vì những cuộc bách hại chống lại Giáo Hội cũng như những cuộc chiến tranh và những tàn phá kinh hoàng trên thế giới. Jacinta nói, “Thật tội nghiệp Đức Thánh Cha, cần cầu nguyện cho ngài thật nhiều.” Từ lúc đó trở đi, vị thay mặt Chúa Kitô trên trần gian luôn hiện diện trong những lời cầu nguyện và sự hy sinh của tất cả những thị nhân, nhưng đặc biệt là của Jacinta.
Jacinta thường nói:
“Ước gì tôi có thể đặt trong trái tim của tất cả mọi người ngọn lửa hun nóng trong trái tim tôi, đã làm tôi yêu mến trái tim Đức Mẹ thật nhiều!”
Để cứu các linh hồn khỏi lửa hỏa ngục, Jacinta đã tự nguyện thực hiện các hy sinh. Vào mùa hè nóng nực, cô bỏ không uống nước. Như một hy tế cho vinh quang của Thiên Chúa, cô đã cho các trẻ em nghèo hơn cô phần ăn trưa của mình. Để cứu lấy linh hồn, cô đã tự chịu đựng đau đớn khi mang một sợi dây thừng bên cạnh mình. Cô đã chịu đựng những cuộc thẩm vấn mệt mỏi và những lời xúc phạm của những người không tin mà không hề than phiền chút nào. Cô nói: “Ước gì tôi có thể chỉ cho những người tội lỗi thấy hỏa ngục như thế nào. Tôi sẽ hạnh phúc biết bao nếu tất cả mọi người có thể lên thiên đường”.
Một năm sau những cuộc hiện ra ở cánh đồng Cova da Iri, bệnh tật dẫn đến cái chết đã bắt đầu hoành hành trên con người cô. Đầu tiên là bệnh viêm phổi, sau đó là áp xe trên phổi, cả hai đều làm cô rất đau đớn. Tuy nhiên, trên giường bệnh của mình cô vui vẻ nói rằng bệnh tật của cô chỉ là một cơ hội mới cho sự hoán cải của những người tội lỗi.
Sau hai tháng ở bệnh viện, cô trở về nhà, sau đó lại thêm một vết lở loét đã được khám phá ngay trên ngực của cô. Ngay sau đó, cô được chẩn đoán là bị bệnh lao. Trong suốt năm kế tiếp, cô mỏi mòn trông mong được thấy Đức Mẹ.
Cô hỏi chị Lucia “Liệu Chúa Giêsu có hài lòng với hy lễ là những đau khổ của em không?”. Vào tháng Hai năm 1920, cô được đưa đến một bệnh viện khác, lần này ở Lisbon. Khi thấy mình chỉ còn da bọc xương và sẽ chết đi mà không có sự hiện diện của bố mẹ yêu dấu của mình hay chị Lucia, cô tự an ủi mình với ý nghĩ rằng đây cũng là cơ hội để hy sinh đền tội. Tại bệnh viện Lisbon, cô được Đức Mẹ hiện ra an ủi ít nhất ba lần.
Cuối cùng, vào đêm 20 tháng 2 năm 1920, lời hứa của “Người phụ nữ rạng rỡ hơn mặt trời” đã được hoàn thành. “Mẹ đến để đưa con về bên Mẹ trên Thiên Đàng”.
Giống như Francisco, Jacinta giờ đây được chôn cất tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi ở Fatima.
FRANCISCO MARTO sinh ngày 11 tháng 6 năm 1908 là con của ông bà Manuel và Olimpia de Jesus Marto và là anh trai của Jacinta và là em họ của Lucia dos Santos. Cậu lên chín tuổi vào thời điểm của những cuộc hiện ra. Trong những lần xuất hiện của Thiên sứ và của Đức Trinh Nữ, cậu nhìn thấy tất cả, nhưng, không giống như hai người kia, cậu không được nghe những lời trò chuyện.
Trong lần hiện ra đầu tiên, chị Lucia hỏi Đức Mẹ liệu Francisco có được lên thiên đàng hay không, Đức Mẹ đáp: “Được, em con sẽ đến đó, nhưng em con phải đọc Kinh Mân Côi nhiều lần.”
Biết rằng mình sẽ sớm được gọi về thiên đàng, Francisco tỏ ra rất ít quan tâm đến việc học. Thông thường, khi đến gần trường, cậu nói với Lucia và Jacinta: “Chị và em cứ tiếp tục đi, tôi sẽ đến nhà thờ để giữ mối quan hệ với Chúa Giêsu kín nhiệm” (đó là một cách diễn tả về Bí Tích Thánh Thể của cậu). Nhiều nhân chứng đương thời khẳng định đã nhận được nhiều ân sủng, sau khi xin Francisco cầu nguyện cho họ. Cậu thường nói:
“Đức Trinh Nữ Maria và Thiên Chúa buồn vô cùng, chúng ta phải an ủi các Ngài!”
Tháng 10 năm 1918, Francisco ngã bệnh nặng. Nhiều người trong gia đình bảo rằng cậu sẽ nhanh chóng khỏi bệnh, nhưng cậu đã trả lời thẳng thừng: “Thật là vô ích, Đức Mẹ muốn con ở cùng với Người ở trên trời!”
Trong cơn bệnh hoạn, cậu tiếp tục hiến dâng những kinh nguyện để an ủi Chúa Giêsu đang bị xúc phạm bởi quá nhiều tội lỗi.
Một ngày kia cậu nói với chị Lucia:
“Chỉ một ít lâu nữa thôi, em sẽ được lên Trời. Trên đó, em sẽ an ủi Chúa và Đức Mẹ. Jacinta sẽ cầu nguyện rất nhiều cho những người tội lỗi, cho Đức Thánh Cha và cho chị. Chị sẽ ở lại đây vì Đức Mẹ muốn điều đó. Hãy làm tất cả mọi thứ như Đức Mẹ nói với chị”
Khi cơn bệnh trầm trọng và sức khoẻ cạn kiệt dần, Francisco không còn đủ sức để đọc Kinh Mân Côi. Một ngày, cậu gọi to:
“Mẹ ơi, con không còn có thể đọc được kinh Mân Côi. Như thể đầu con đang nằm giữa đám mây”
Ngay cả khi sức mạnh thể lý của mình đã suy sụp, tâm trí cậu vẫn hướng về cõi trường sinh. Cậu đã gọi cha mình, xin cho được nhận Chúa trong Bí Tích Thánh Thể (vào thời điểm đó cậu vẫn chưa được Rước Lễ Lần Đầu). Tự chuẩn bị để xưng tội, cậu gọi Lucia và Jacinta đến bên giường bệnh và xin hai người nhắc lại cho cậu những tội lỗi mà cậu đã phạm. Nghe thấy một số tội nhẹ mà cậu đã phạm, Francisco rơi nước mắt, nói “Tôi đã xưng thú những tội lỗi này, nhưng tôi sẽ xưng những tội này lần nữa. Có lẽ đó là vì những điều đó mà Chúa Giêsu rất buồn, xin cả hai người đều cầu xin Chúa tha thứ tất cả tội lỗi của tôi.”
Cậu được Rước Lễ Lần Đầu (và cũng là lần cuối cùng) trong căn phòng nhỏ bé mà cậu đang nằm chờ chết. Không còn đủ sức mạnh để cầu nguyện, cậu xin Lucia và Jacinta đọc Kinh Mân Côi thật lớn để cậu hiệp ý. Hai ngày sau, gần cuối cuộc đời, cậu kêu lên: “Nhìn kìa, nhìn kìa, ánh sáng thật đẹp, ở gần bên cửa.” Đến 10 giờ tối, ngày 4 tháng Tư năm 1919, sau khi xin tất cả các tội lỗi của mình được tha, cậu đã ra đi một cách thanh thản, không có dấu hiệu đau khổ, hay đau đớn nào nhưng mặt cậu sáng lên như thiên thần. Miêu tả cái chết của người em họ trong nhật ký của mình, sơ Lucia viết: “Francisco đã bay về Thiên Đàng trong vòng tay của Mẹ Trên Trời của chúng tôi.”