WHĐ (04.12.2023) – Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
BÀI 9: KINH LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON (KYRIE)
I/ VĂN KIỆN
Sau nghi thức sám hối, là luôn luôn đến kinh ‘Lạy Chúa, xin thương xót’, trừ khi đã dùng kinh này trong nghi thức sám hối. Vì là bài hát giáo dân dùng để tung hô Chúa và kêu cầu lòng thương xót của Người, bài này thường được mọi người hát, nghĩa là dân chúng, ca đoàn hay xướng ca viên, đều góp phần vào đó. Thường mỗi lời tung hô được hát hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể hát nhiều lần. Khi kinh ‘Lạy Chúa, xin thương xót’ được dùng như là phần của nghi thức thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng (QCSL số 52).
II/ LỊCH SỬ
“Lạy Chúa! Xin thương xót” (Kyrie eleison) là lời tung hô được dịch từ tiếng Hy Lạp (trong Bản Bảy Mươi), và là kiểu nói Kinh Thánh đã được sử dụng nhiều lần cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước (Tv 4,2; 6,3; 9,14; 40, 5.11; Mt 9,27; 15,22; 17,14; 20, 30-31; Mc 10,47; Lc 16,24; 17,13 v.v.).
Đối với Kitô giáo, đây là một trong những lời kinh cổ xưa nhất xuất hiện trong phụng vụ hồi thế kỷ IV tại Syria và Palestin.[1] Ngay từ cuối thế kỷ IV, theo cuốn Nhật ký hành hương của Egeria (Aetheriae Peregrinatio), điệp khúc “Lạy Chúa! Xin thương xót” được lặp lại sau các triệt của một Thánh vịnh và đi kèm với cuộc rước.[2] Egeria mô tả rằng, tại Giêrusalem, khi thầy phó tế xướng các ý nguyện thì một số bé trai đứng và luôn luôn lặp lại điệp khúc “Kyrie eleison” (tiếng La tinh là “Domine! Misere!”) sau mỗi ý nguyện.[3]
Kinh Kyrie cũng được đọc sau phần Phụng vụ Lời Chúa (tức là sau bài Phúc Âm và dẫn giải của chủ tế), trước khi giải tán cho anh chị em dự tòng ra về (Messe des catéchumènes) vì họ không được tham dự Thánh lễ tín hữu (Messe des fidèles). Rôma đã du nhập lời tung hô này từ Đông phương có lẽ từ thế kỷ V, và cũng như tại Đông phương, Kyrie thường được đọc sau những bài Sách Thánh. Đức Gelasio (492-496) đã thay thế Lời nguyện Chung vào lúc kết thúc Phụng vụ Lời Chúa bằng việc đọc kinh cầu (litania) theo kiểu Đông phương với những lời đáp Hy Lạp của kinh này.[4]
Kyrie thường theo sau mỗi câu xướng mà vẫn còn được cất lên trong những cuộc rước phổ biến ở Constantinopoli.[5]
Tại Gaul, Công đồng Vaison (529) xác nhận rằng hát Kyrie eleison là một thói quen đạo đức của Đông phương du nhập vào Rôma và nhiều nơi ở Tây phương cũng như nước Ý, Công đồng đòi hỏi lặp đi lặp lại Kyrie trong “Kinh Sáng, các Thánh lễ và Kinh Chiều.”[6]
Đức Grêgôriô Cả (540-604) cho rằng chắc chắn phụng vụ Rôma chứa đựng một số hình thức của Kyrie vào thế kỷ V.[7] Trong triều đại của mình (590-604), ngài đã đặt Kyrie một cách chắc chắn ở vị trí bắt đầu Thánh lễ (trước Gloria) như thấy xuất hiện trong cuốn Ordo Romanus I (OR I:52) và được hát bởi các giáo sĩ hay ca đoàn (schola) cũng như bởi các tín hữu.[8] Sở dĩ Kyrie chiếm vị trí này vì nó liên hệ với các kinh cầu đọc khi đi rước, đáng chú ý là Kinh Cầu Các Thánh.[9] Mặt khác, do muốn rút ngắn Thánh lễ, cho nên vào một số ngày nào đó (ngày thường) sẽ bỏ đi Kinh Cầu Các Thánh và các ý nguyện cầu và chỉ giữ lại Kyrie được hát xen kẽ với Christe (vốn không được biết đến trong nghi lễ Gallican và Đông phương) rồi đi thẳng vào lời tổng nguyện (Collecta) luôn. Cách đọc này trở nên thông dụng trong nhiều giờ phụng vụ.[10] Thậm chí kinh cầu rút vắn này trở thành một luật lệ. Số lần đọc Kyrie và Christe thay đổi tùy vùng. Tại Tây phương, có lẽ từ thế kỷ VIII, sau mỗi câu xướng, giáo dân phải thưa lại 7 lần/ 5 lần/ 3 lần/ hoặc là 9 lần Kyrie eleison, chia làm 3 đợt, mỗi đợt 3 lần.[11] Điều này đã đặt nền tảng cho sự diễn dịch Ba Ngôi của lời tung hô: 3 lần cho Ngôi Cha, 3 lần cho Ngôi Con và 3 lần cho Ngôi Thánh Thần.[12]
Hiện nay, kinh Kyrie được thực hiện sau hành động thống hối (post actum paenitentialem). Đây là một bài thánh ca (cantus) thuộc về cộng đồng, không còn là bài hát của riêng ca đoàn như thời Trung cổ. Thường mỗi lời tung hô được hát hay đọc hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể lập lại nhiều lần. Khi kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” được hát như là một thành phần của nghi thức thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng (QCSL 52).
III/ Ý NGHĨA
Căn cứ vào Nghi thức Thánh lễ, Kyrie rõ ràng không thuộc vào phần “Hành động thống hối.” Lịch sử của phụng vụ Rôma cho biết, kinh Kyrie sớm trở thành bài ca, một lời tung hô mừng vui hơn là cử chỉ kêu cầu ơn trợ giúp như thưở ban đầu. Tuy nhiên, khi dịch kinh này ra các thứ tiếng có vẻ như người ta lại hướng chiều về ý nghĩa cầu xin van lơn như trước kia.[13] Paul Turner kết luận rằng, trước kia và hiển nhiên là hiện nay, kinh Kyrie là “những lời tung hô Chúa Kitô và kêu cầu lòng thương xót của Người” (QCSL 52) hơn là kêu gọi sự tha thứ.[14]
Trong các sách Tin Mừng, nhiều lời khấn van Kyrie eleison của những người khốn khổ rõ ràng hướng đến Đức Giêsu để xin Ngài chữa bệnh cho họ hay cho con cái họ: người mù ở Giêricô kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,48; Xc. Mt 9,27; 20,30-31); những người phong cùi kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13); người phụ nữ Canaan (Mt 15,22) và người cha của đứa bé bị kinh phong (Mt 17,14) cũng kêu xin như vậy. Từ khi ấn định phải đọc 9 lần và chia thành 3 đợt nhằm tưởng nhớ chín ca đoàn ở trên trời,[15] người ta cho rằng Kyrie là lời tung hô dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa.[16]
Tuy nhiên, có những điểm dựa sau đây để chúng ta kết luận: Kinh “Lạy Chúa, Xin thương xót chúng con” là lời tung hô dâng lên Chúa Kitô, quy về Chúa Kitô chứ không phải quy về Chúa Ba Ngôi: [i] Thứ nhất, bản Kinh Thánh Bảy Mươi đã dùng từ Kyrios để dịch từ YHWH, tức ám chỉ thánh danh Thiên Chúa trong Cựu Ước nhưng khi dùng từ Kyrios trong các thư Rm 10,9/1Cr 12,3/Pl 2,11, thánh Phaolô lại áp dụng cho Chúa Kitô và thần tính của ngài; [ii] Thứ hai, cả 3 câu trong mẫu thống hối III đều hướng tới Chúa Kitô, luôn khấn nguyện Chúa Kitô chứ không phải khẩn cầu Chúa Ba Ngôi và được gọi là công thức ca ngợi phẩm tính Chúa Kitô.[17]
IV/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ
– Đừng bao giờ hát kinh Thương xót, rồi chỉ đọc kinh Vinh danh.[18]
– Vì kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” vừa để kêu cầu lòng thương xót của Chúa vừa là bài tung hô Chúa phục sinh mà sự hiện diện của Ngài làm chúng ta phải nhảy mừng lên trước lòng từ bi hải hà từ nơi Ngài chảy tràn trên chúng ta (x. QCSL 52),[19] bởi vậy, chúng ta không nên hát Kyrie theo kiểu ảm đạm thê lương, ngay cả trong Thánh lễ an táng (x. PV 81). Điều này có nghĩa là, trong Thánh lễ an táng, không nhất nhất cứ phải hát Bộ lễ mồ/cầu hồn, chúng ta vẫn có thể chọn hát những Bộ lễ khác nữa mà đã được giáo quyền chuẩn nhận, chẳng hạn như bộ lễ Sêraphim hoặc Ca Lên Đi 2...[20]
Đọc thêm loạt bài tìm hiểu về cử hành Thánh Thể:
Bài 9 – Kinh lạy Chúa, xin thương xót chúng con (kyrie)
Bài 8 – Hành động thống hối Bài 7 – Lời chào và lời dẫn nhập đầu lễ Bài 6 – Dấu thánh giá Bài 5 – Cúi chào – hôn kính – xông hương [bàn thờ] Bài 4 – Ca nhập lễ Bài 3 – Cuộc rước nhập lễ Bài 2 – Quy tụ Bài 1 – Cấu trúc thánh lễ |
[1] Paul Turner, At the Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 18; Le Gall, La Mess au fil de ses rites (Chambray: C.L.D, 1992), 30.
[2] Diary of Egeria 24:5, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 18.
[3] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể (Sài Gòn: ĐCV. Thánh Giuse, 2001), 49.
[4] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC: FDLC, NE, 2003), 16.
[5] John Baldovin, “History of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, ed. Edward Foley (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 121.
[6] Canon 3, CCL 148A:79, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 18.
[7] Trích lại trong John Baldovin, “History of the Latin Text and Rite”, 120.
[8] Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 30.
[9] PL 77:955-958, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 18.
[10] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 49.
[11] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith, 16.
[12] Johannes H. Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration (Collegeville: The Liturgical Press, 1997), 122.
[13] J. Gélineau, Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 1992), 249.
[14] Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 19.
[15] X. Jungmann, Missarum sollemnia, quyển II (Paris: Aubier, 1952), 88-103.
[16] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 49.
[17] X. Paul Turner, At the Supper of the Lamb, 18; James Martin, SJ, Celebrating Godd Liturgy (Chicago: Loyola Press, 2005), 13.
[18] J. Leben, Để sống Phụng vụ (knhxb, knxb), 88.
[19] X. Vincie, “The Mystagogical Implications,” trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, ed. Foley Edward, 130.
[20] X. Phạm Đình Ái, SSS, “Tinh thần của Nghi thức Thống hối trong Thánh lễ,” trong Nhìn lại một số Vấn đề Phụng vụ tại Việt Nam (1) (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2016), 97-102.