SỰ CHẾT:
THÁNH PHAOLÔ TRƯỚC SỰ CHẾT
Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu được mời gọi sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Chúa (x. Mt 16,24). Từ sau biến cố Đamas, Phaolô đã thật sự ý thức mình được Chúa chọn gọi làm Tông đồ (Gl 1,11tt) và đã hòan tòan đáp trả bằng cả cuộc đời loan Tin mừng, đạt cao điểm nơi chính sự chết theo gương Đức Giêsu, Đấng đã hòan tòan vâng phục thánh ý Chúa Cha và vâng phục đến chết trên thập giá (x. Pl 2,6-8). Phaolô đã khẳng quyết:“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi”(2 Cr 4,10). “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào Thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,19-20). Chọn Chúa làm lẽ sống, Phaolô là người môn đệ tuyệt vời của Đức Giêsu, thể hiện cao điểm nơi ý thức và thái độ trước sự chết.
Xin phép chia sẻ :
– Phaolô suy tư về cái chết thập giá của Đức Kitô
– Phaolô trước cái chết đang chờ đợi mình
I. PHAOLÔ TRƯỚC CÁI CHẾT THẬP GIÁ CỦA ĐỨC GIÊSU.
Trước khi xảy ra biến cố Đamas, Saolô, người Do thái thuộc chi tộc Bengiamin, tuân giữ Luật như một Pharisêu (Pl 3,5) đã nhìn Giêsu Nadareth bị treo trên cây gỗ là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa (Đnl 21, 23; Gl 3,13). Lòng nhiệt thành bảo vệ Đạo và Lề Luật khiến ông hết sức căm phẩm những ai tôn vinh Giêsu là Con Thiên Chúa, nên hùng hổ tìm bách hại (Cv 8,3; 9,1-2; 22,3-5; 26,9-12; Pl 3,5; Gl 1,13 tt).
Cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh trong biến cố Đamas đã biến đổi Phaolô cách tận căn (Gl 1,15tt; Pl 3,12). Ta gọi đây là cuộc hóan cải của Phaolô theo nghĩa Phaolô giác ngộ, từ niềm tin Do thái giáo ông tiến vào niềm tin Kitô giáo. Cảm nghiệm gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh cũng đã biến đổi tận căn các Tông đồ như các Tin mừng đã trình thuật. Phaolô nhận thức rõ ràng Đấng chịu đóng đinh Thập giá đã sống lại, đã tỏ mình (opthè) cho ngài cũng như cho các môn đệ (1Cr 15,3-7) và từ đó khám phá ra ý nghĩa thâm sâu của cái chết thập giá. Tâm hồn tràn ngập niềm vui và an bình vì được giao hòa với Thiên Chúa (Pl 3,7-14). Từ dạo ấy, Đức Kitô là lẽ sống của Ngài (Pl 3,8-14). Ngài quả quyết không còn muốn biết đến chuyện gì khác ngòai ĐGK chịu đóng đinh thập giá (1 Cr 2,2-5). Ngài khiển trách giáo đòan Galát bị mê hoặc mà quên đi hình ảnh ĐGK chịu đóng đinh (Gl 3,1). Ngài thêm vào Truyền thống về Thánh Thể lời xác quyết : loan truyền Chúa chịu chết cho đến khi Ngài lại đến (1Cr 11,26).
Trong thư 1Cr (năm 56), Phaolô đã sử dụng “Lời thập giá” để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Ngôn từ này gây vấp phạm cho người đương thời; nên sau này không ai dùng lại, ngay cả thánh Ignatiô Antiôkia và Jean Chrysostome. Có lẽ Phaolô dùng ngôn từ này trong bối cảnh tranh luận với những người Do thái và phái ngộ đạo. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, Phaolô khẳng định người môn đệ phải trải qua cái chết để loan báo Tin mừng, phải mang thập giá và cái chết của Đức Giêsu trên thân mình (2 Cr 4,10; 6,4-10; 12,9; Pl 3,4-11). Nói đến thập giá, Phaolô không đơn sơ nghĩ đến cái chết đau đớn và tủi nhục, nhưng nhắm đến sự cứu độ và vinh quang : Chính qua cái chết mà Đức biểu lộ sự vinh quang. Và đó chính là ý nghĩa then chốt của “Lời Thập giá”.
1. Cái chết cứu độ
a. Đức Kitô đã chiến thắng Thần Chết
Câu chuyện đã xảy ra từ buổi đầu sáng tạo (St 3). Tội đã nhập vào thế gian và bởi tội mà có sự chết (Rm 5,12.17; 1 Cr 15,21). Từ đó tất cả mọi người đều phải chết nơi Ađam (1 Cr 15,22). Thần Chết đã thống trị thế gian (Rm 5,14), Vương quyền Satan được thiết lập (x. Ga 8,44). Chính tội là nọc độc của Thần Chết và đem lại sức mạnh cho quyền lực Thần Chết (1 Cr 15,56) và sự chết là hậu quả của tội (Rm 6,16.21.23). Thân xác được Thiên Chúa tạo thành nay trở thành thân xác phải chết (Rm 7,24).
Để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực thần chết, Đức Kitô đã nhận cho mình thân phận hay chết của con người và nhận cái chết (Gl 4,5). Sự chết đến với Người không phải cách ngẫu nhiên; Người đã từng loan báo trước cho các Tông đồ (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Người đã từng khóc trước cái chết của bạn thân Ladarô (Ga 11,33.38), đã run sợ trước cái chết (Ga 12,27)và tha thiết nài van Chúa Cha cho mình khỏi chết (Dt 5,7; Lc 22,42). Ngài chấp nhận uống chén đắng (Mc 10,38) và sau cùng, để thực hiện trọn vẹn thánh ý của Chúa Cha, Người đã vâng lời đến chết (Pl 2,6-8). Cái chết của Đức Kitô như hạt lúa mì mục nát trong lòng đất để trổ sinh bông hạt (Ga 12,24-32), trở thành hy tế xá tội (Dt 9) cho tất cả mọi người (2 Cr 5,14). Người cho chúng ta một dấu chứng tình yêu tuyệt vời, đó là : Người đã chết vì chúng ta đang khi chúng ta là tội nhân (Rm 5,6tt;1Tx 5,10). Người không chết thay cho chúng ta nhưng vì lợi ích chúng ta: Người chết vì tội lỗi (1Cr 15,3) để hòa giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5,10). Người đã chiến thắng Thần Chết bằng sự Phục sinh, như lời Thánh Kinh (1 Cr 15,4) và trở nên Trưởng tử giữa mọi vong nhân (Cl 1,18; Kh 1,5), Thần chết mất hết quyền lực trên Người (Rm 6,9). Người giải thoát con người khỏi Luật của tội và sự chết (Rm 8,2). Sau cùng, khi thời gian viên mãn, Người sẽ phục sinh tất cả để hòan tất chiến thắng của Người hầu khai mạc Trời mới đất mới (Kh 22). Lúc đó Thần chết sẽ bị tiêu diệt mãi mãi (1 Cr 15,26).
b. Thập giá cứu độ
Chính nhờ mầu nhiệm Thập giá mà Chúa Giêsu đem lại ơn công chính hóa, cứu chuộc và giải thoát, giao hòa và thánh hóa.
* Công chính hóa.
Thánh Phaolô đã trình bày giáo thuyết này trong thư Galát (Gl 3), sau đó triển khai sâu sắc trong thư Rôma (Rm 3,21-4,25). Trọng tâm của thơ Galát đó là con người được công chính hóa không do việc giữ luật Môisê và cắt bì, nhưng nhờ đức tin vào Đức Kitô chết và sống lại (3,1-4,31). Việc tuân giữ Luật chỉ làm ta nô lệ cho Luật. Luật mới là Luật Thần Khí, Luật Tin Mừng có sức giải thoát ta khỏi con người xác thịt và làm trổ sinh hoa trái Thần Khí (Gl 5). Sống theo Thần Khí là sống theo, sống với Chúa Kitô, tức để Ngài sống trong ta (Gl 2,20). Giáo thuyết căn bản này sẽ được Phaolô tiếp tục triển khai và đào sâu trong thư Rôma. Nội dung chủ yếu của thơ Rôma, đó là : mọi người được công chính hóa không do việc tuân giữ Luật Môisê, nhưng nhờ đức tin vào Đức Kitô chết và sống lại (3,22). Ơn công chính hóa được ban nhờ Đức Kitô là Ađam mới (5,12-21). Bí tích Rửa tội giải thoát ta khỏi sự thống trị của tội lỗi, ban ơn thánh hóa để ta được làm con Thiên Chúa nhờ Thần Khí (8) và sống đời sống mới do Đức Kitô ban tặng nhờ sự chết và sống lại của Người (12,1-15,33). Điểm chính yếu trong thần học của Phaolô được trình bày ngang qua thơ Rôma, đó là : ân sủng nhưng không của Thiên Chúa ban nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô. Chúa Thánh Thần chứng thực ta được giải thoát khỏi tội và Luật để sống tinh thần nghĩa tử, được gọi Chúa là Cha (Abba). Thần học về ân sủng nhưng không này sẽ được tiếp nối và bổ sung bởi Tin mừng Gioan về hiệp thông Sự Sống : ân sủng chính là sự hiệp thông sống động của Tình Yêu.
Nếu đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, thì sự công chính hóa cũng hòan tòan lệ thuộc vào tác động cứu chuộc của Đức Kitô. Tác động đó biến cải thân phận con người, phá hủy con người củ, kiến tạo con người mới, giải thoát khỏi tội và làm ta nên con cái Thiên Chúa. Tin không chỉ là việc lý trí chấp nhận sứ điệp của Đức Kitô (Rm 10,9-10), nhưng tiên vàn là sự tín nhiệm, tuân phục, dấn thân trọn vẹn cho Đức Kitô.
Mọi tín hữu được liên kết vào biến cố thập giá của Đức Kitô. Bí tích Thánh tẩy biểu tượng cho sự chết và mai táng vơi Đấng-Chịu-Đóng-đinh, nhờ đó đạt tới sự sống mới nhờ sự Phục sinh của Đức Kitô (Rm 6, 5-11). Cũng như Đức Kitô đã chịu chết, mai táng và đã sống lại nhờ quyền năng của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy cũng dìm mình trong sự chết để được sống lại như Ngài trong đời sống mới. Tiếp nối tư tưởng trên, 1P nói dân ngọai nhờ Thánh tẩy được trở nên dân tuyển chọn, nghĩa là Bí tích Thánh tẩy sáp nhập họ vào cộng đoàn dân Thiên Chúa. Tin mừng Gioan nói đến Thánh tẩy bởi nước và Thần Khí, nghĩa là tái sinh bởi Trời (Ga 3). Người chịu Thánh tẩy được tái sinh trong đời sống mới, tức được đón nhận trực tiếp sự sống của Thiên Chúa với tư cách là con Thiên Chúa (Ga 1,12). Sách Công Vụ ghi lại diễn từ của Phêrô ngày lễ Ngũ Tuần: sau khi làm chứng Đức Kitô đã chết và sống lại, Phêrô kêu mời hóan cải và chịu thánh tẩy như điều kiện tin và theo Chúa Kitô. Như thế Thánh tẩy đi đôi với hóan cải để được gia nhập và thiết lập cộng đòan Dân Chúa.
* Cứu chuộc và giải thoát
Phaolô dùng từ cứu chuộc 7 lần trong các ngục thư (so với Tân ước 10 lần). Theo nghĩa thông thường, cứu chuộc là chuộc lại, giải phóng (go’el, ga’al : giải thoát) người hoặc vật đã thuộc quyền sỡ hữu của chủ khác bằng một món tiền tương ứng. Kinh thánh gọi Thiên Chúa là Go’el, Đấng cứu chuộc Israel. Đức Kitô đã giải thoát ta khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi bằng giá máu của Ngài đổ ra trên thập giá. Thiên Chúa đã đặt Ngài làm nơi xá tội nhờ máu của Ngài (Dt 9,5). Trong Cựu ước, ngày Yôm Kippour, người ta tiến dâng con dê làm lễ tạ tội cho dân (Lv 16,11-16), thì nay Đức Kitô tự hiến tế chính mình làm lễ đền tội cho ta để ta trở thành tôi tớ (doulos) của Ngài (1Cr 6,20; 7,23). Đức Kitô vừa là của lễ vừa là người dâng hiến (2Cr 5,21). Ngài là Chiên Vượt qua đích thực (1 Cr 5,7), là Con Chiên sát tế (Kh).
Nhờ cái chết thập giá, Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của tội và ban cho ta đời sống mới (Rm 6,12-14), đời sống làm con Thiên Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa (Rm 8,29). Đức Giêsu Kitô biến đổi chúng ta nên hình ảnh rạng ngời của Người nhờ tác động của Thần Khí (2 Cr 3,18) và làm cho thân xác yếu hèn của ta nên giống thân xác vinh hiển của Người (Pl 3,20-21).
* Giao hòa.
Tội lỗi đặt con người trong tình trạng đối kháng với Thiên Chúa và với anh em. Đức Giêsu đã dùng cái chết thập giá để tha thứ mọi tội lỗi và giao hòa ta với Thiên Chúa (2 Cr 5,18; 5,1-2.10). Thập giá nối chiều dọc và chiều ngang, là nơi gặp gỡ của hai chuyển động giao hòa : với Chúa và với anh em. Thánh Phaolo khẳng định sứ vụ của ngài là loan báo sự giao hòa (2 Cr 5,18-19), sự giao hòa trải dài trên tòan vũ trụ nhân lọai (Cl 1,19-20).
2. Đau khổ và hy vọng
Gặp gỡ Đấng Phục sinh, Phaolô xác tín Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và thập giá Đức Kitô mang ý nghĩa cứu độ. Sự chết đã bị đánh bại, thế nhưng đau khổ với mọi chiều kích vẫn còn đó gây lo âu và bất hạnh cho con người. Làm sao giải thích ?
Kinh thánh đã không đưa ra câu giải thích về đau khổ. Gióp đã có lần nghiêng mình trên mầu nhiệm đau khổ và sự chết để chỉ biết đón nhận bằng niềm tin trần trụi. Người Tôi trung của Giavê chấp nhận mang trên mình mọi khổ đau của dân để đền tội thay cho dân (Is 52,13-53,12). Người Do thái tin rằng chỉ đến ngày cánh chung (thời Thiên sai), đau khổ mới chấm dứt. Đức Giêsu, trong đời sứ vụ, đã từng sống nổi đau của nhân lọai và dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện (Dt 5,7).
Chiêm ngắm Đấng đã chết và sống lại, Phaolô đặt vấn nạn : nếu sự chết đã bị thập giá đánh bại, liệu đau khổ có biến mất khỏi thế gian ? Ngài xác định rằng niềm tin Đức Giêsu chết và sống lại không lọai bỏ đau khổ, nhưng giúp can đảm chiến đấu để lọai trừ và làm giảm bớt đau khổ. Đau khổ mang chiều kích cứu độ. Nhìn đau khổ trong tương quan với hy vọng.
a. Chúa Giêsu và niềm hy vọng của nhân lọai
Chúa Giêsu đã được vinh thăng bên hữu Chúa Cha và sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Giai đọan này, Thánh Thần họat động. Thánh Phaolô quả quyết Đức Giêsu vẫn đang tiếp tục hiện diện và họat động cho đến ngày cùng tận. Trong 1 Cr15,20-28 thánh Phaolô thuyết phục những ai nghi ngờ về sự sống lại cánh chung, đã đề cập đến ba điểm chính yếu : sự sống lại của Đức Kitô là nền tảng, sự sống lại của mọi người và sự chiến thắng cuối cùng. Điều mà Phaolô muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vai trò của Đức Kitô vào thời cùng tận, trước khi trao vương quốc lại cho Chúa Cha, Người chiến đấu đến tận cùng để đánh bại kẻ thù cuối cùng là sự chết, và cùng với sự chết là đau khổ. Và như thế, Đức Kitô luôn cùng với chúng ta và hướng dẫn chúng ta trong cuộc chiến này.
b. Đức tin chiến thắng
Trong cuộc chiến liên lỉ, đức tin sẽ thắng. Đó là điều mà Phaolô xác quyết dựa vào tấm gương của Abraham (Rm 4,17-21). Đức tin dựa vào Chúa có sức giải thoát ta khỏi sự dữ. Dĩ nhiên, Phaolô không đưa ra lời giải thích về đau khổ, nhưng đề ra một thái độ phải có để chiến thắng đau khổ. Trong đau khổ, ta tràn trề niềm hy vọng về vinh quang chờ đợi ở cuối đời (Rm 5,1-2).
c. Sống hy vọng
Phaolô không có ý đưa ra lời giải thích về đau khổ. Điều đó hòan tòan không thể, tốt nhất chấp nhận truyền thống về sự hiện diện của đau khổ : ngôn sứ phải chịu nhiều đau khổ, người công chính phải chịu bách hại, và đem lại cho nó một ý nghĩa. Theo Phaolô, tội lỗi là căn rễ của mọi sự dữ trong thế gian. Thập giá Đức Giêsu đã đánh bại tội lỗi, mang lại cho đau khổ chiều kích cứu độ. Kitô hữu hướng tầm mắt về Đức Giêsu là Đấng vẫn chiến đấu sự dữ đến tận cùng, để sẵn sàng đón nhận đau khổ hầu thông phần với đau khổ của Đức Giêsu và đặt đau khổ trong tương quan với vinh quang đang chờ đợi. Nhận thức đau khổ phát sinh từ tội không phải để chấp nhận định mệnh đau khổ nhưng để sống niềm hy vọng. Đức Giêsu không hề chúc phúc cho đau khổ, nhưng mời gọi kitô hữu cộng tác để chiến đấu chống lại tội lỗi, và như thế chống mọi đau khổ với niềm tín thác vào Đấng có thể giải thoát. Trong cuộc chiến này, tín hữu không đơn độc nhưng luôn hiệp thông với tòan thể vũ trụ đang rên xiết trong đau khổ, nhất là với Đức Kitô, Đấng vẫn chiến đấu đến thời cùng tận và luôn trợ lực và hướng dẫn ta. Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý định của Thiên Chúa và hướng ta về vinh quang. Đau khổ làm trào dâng niềm hy vọng và Chúa Thánh Thần làm cho niềm hy vọng này được phong phú. Hy vọng thôi thúc ta sống và hành động trong niềm tin và phó thác. Sách Khải huyền Gioan được coi như Tin mừng về Niềm Hy Vọng ngày khải hòan chiến thắng của những ai trung thành bước theo Con Chiên Sát tế.
II. PHAOLÔ TRƯỚC SỰ CHẾT CỦA CHÍNH MÌNH
1. Hai mặt của sự chết
A. Sự chết đáng yêu (Pl)
Trong 1 Tx (50), Phaolô nói đến số phận những người đã chết để trấn an những người đang sống : “Nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những ai đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu. Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên, rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chứng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi”(1Tx 4,14-17).
Trong thư Pl, Phaolô bộc bạch những tâm sự của mình – đang bị cầm tù, nóng lòng về việc loan Tin mừng mà ngài có trách nhiệm, và có những người loan báo Đức Kitô vì ghen tương với ngài tưởng thế sẽ gây khổ sở cho ngài (Pl 1, 17). Thay vì xót xa, Phaolô hướng cái nhìn về Đức Kitô, bày tỏ niềm vui và tạ ơn vì dù sao Tin mừng cũng được rao báo (Pl 1,18). Phaolô luôn vững tin vào Đức Kitô và tâm sự : “ Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi vì được hòan tòan ở với Đức Kitô (Pl 1,22). Đối với ngài, cái chết đáng yêu vì cho phép được ở với Đức Kitô như lòng hằng mong mỏi. Phaolô giải thích thêm : “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng : ao ước của tôi ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tột hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn vì anh em”(Pl 1,22-24).
1Tx nói Đức Kitô quang lâm ngự đến trên không trung, những kẻ đã chết sống lại và cùng với những người đang sống đi nghênh đón Ngài và được ở cùng Ngài mãi mãi (syn Christoi). Ở đây, chết là một biến đổi (x. Pl 3,20-21) để được ở với Đức Kitô (en Christoi). Như thế, ta nhận thấy có một bước tiến trong tư tưởng của Phaolô so về sự chết: sự chết đáng yêu vì được ở với Đức Kitô.
B. Sự chết đáng sợ (2Cr)
Lúc ấy, Phaolô đang gặp thất bại trước những người Do thái quá khích và buồn sầu trước sự sa sút của các tín hữu Corinthô. Ngài viết thư 2Cr. Tư tưởng của Phaolô về sự chết lúc này khá bi quan. Nếu trong Rm 6, Phaolô trình bày Mầu nhiệm Vượt qua : được thanh tẩy trong cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô, tín hữu chết đi cho tội lỗi và sống sự sống mới của Chúa, thì trong 2 Cr, Phaolô không nói chết để được sống mà lại ngắm nhìn sự chết đến với tất cả những khổ đau nó đem đến: “Chúng tôi phải chịu đứng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi”.
a. Tin tưởng vào Đức Kitô đang hành động
Trước những nổi đau ấy, Phaolô chỉ còn biết áp dụng cho chính mình những gì mà ngài đã từng nói về Abraham: như Abraham, phải “tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu, Chúa chúng ta, trổi dậy từ trong kẻ chết”(Rm 4,24) : “Chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân, để chúng tôi không còn tin tưởng vào chính mình mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết sống lại “(2 Cr 1,9-10).
Trong 2Cr 4,16 – 5,10, ta nhận ra thái độ của Phaolô trước sự chết đe dọa. Sau khi long trọng công bố ngài được vinh dự trao phó sứ vụ tông đồ, như một kho tàng vinh quang, ngài cũng ý thức mình chỉ là con người nghèo hèn yếu đuối : “Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”(2 Cr 4,7). Ngài khẳng định phải luôn tin tưởng Chúa luôn hiện diện và họat động qua các thừa tác của Người (x. 2Cr1,21; 2,14; 3,18; 4,6). Ngài bộc lộ những khổ đau phải chịu vì Đức Kitô, nhưng hòan tòan đặt niềm tin tưởng nơi Đức Kitô, Đấng hành động nơi người tông đồ và thông ban cho ngài sức sống của Ngài. Vinh quang hành động ngang qua sự khiêm hèn hầu mang lại chiến thắng trên sự chết : “Đấng làm cho ĐK sống lại cũng làm cho chúng tôi sốnong&i với ĐG và đặt chúng tôi bên Ngài (2 Cr 4,13-15). Hãy lắng nghe những tâm sự sau đây của Phaolô: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi”(2 Cr 4,8-11)”. Chính do sự chết của người tông đồ mà phát sinh sự sống cho các tín hữu : “Sự chết họat động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại họat động nơi anh em” (2Cr 4, 12). Chính vì thế, người tông đồ luôn can đảm đối diện với sự chết và đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Kitô, vì “khi mang trong mình cuộc thương khó của Đức Kitô, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác của chúng tôi”.
b. Hy vọng được ở với Đức Kitô.
Đối diện với sự chết, Phaolô bày tỏ niềm hy vọng sâu sắc, đó là khi nhà trần gian bị hủy diệt là ta đi vào nhà trên trời. Ngài nói : “Ngôi nhà của chúng ta dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cửu trên trời không do tay người thế làm ra (2 Cr 5,1-5). Ngôi nhà đó là gì ? Vinh phúc trên trời, thân thể vinh quang, Thiên đàng ? Cha A. Feuillet lưu ý: theo mạch văn, ngôi nhà này không do tay người làm ra – gợi lại lời Chúa Giêsu nói về Đền thờ- có nghĩa là ngôi nhà này đến từ Thiên Chúa; và đó không là gì khác ngòai chính con người Đức Giêsu. Thánh Phaolô không có ý nói chúng ta sẽ có một thân thể vinh quang, nhưng đang có bây giờ một ngôi nhà vĩnh cửu. Điều đó có nghĩa là thân thể vinh quang của Đức Kitô đang hiện diện trên trời. Điều này gợi lại cho ta sự xác tín của Phaolô về hai Ađam trong 1 Cr 15,45-49. Cũng như có hai Ađam, một Ađam từ bụi đất mà ra và một từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến. Và như thế, có hai chổ ở. Đức Kitô vinh hiển là nơi cư ngụ trên trời của chúng ta.
Trong thư Pl, thánh Phaolô nói Thiên Chúa sẽ biến đổi thân xác hay chết của chúng ta nên giống thân thể sáng láng của Đức Giêsu. Do đó, Khi chết cũng chính là lúc được ở với Đức Kitô. Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cả một khối vinh quang vô tận (2Cr 4,16-18).
Tất cả những điều này nói lên niềm hy vọng sâu sa của thánh Phaolô đứng trước sự chết đáng sợ đang mời chào: Qua cái chết, chúng ta sẽ được ở bên Thiên Chúa, ở cùng Đức Kitô vinh hiển; và như thế, niềm ước vọng sâu thẳm của chúng ta được thành tựu : “Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn vì biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, …và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa”(2 Cr 5,6-8; x. Pl 1,22).
2. Chịu đóng đinh với Đức Kitô
Đức Giêsu đã từng mời gọi các môn đệ : “ Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Thánh Phaolô đã thực hiện đến cùng lời mời gọi này. Ngài đưa vào thực tế đời mình lý thuyết “lời thập giá”.
Mầu nhiệm Đức Kitô chết và sống lại được diễn tả trong lời thập giá và trong việc thực hành thánh tẩy. Thập giá mang đến sự giao hòa với Thiên Chúa, bí tích Thánh tẩy đưa tín hữu vào mầu nhiệm vượt qua và làm nó nên tạo thành mới. Đước chết trong Đức Kitô và được sống lại, người tín hữu dấn thân vào tiến trình đời sống mới. Thánh Phaolô quả quyết : “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào Thập giá. Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20”. “Những ai thuộc về Đức Kitô, thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê”(Gl 5,24).
3. Hoa trái Thần khí (Gl 5, 16-24)
Thánh Phaolô trình bày một đối kháng giữa thần khí và xác thịt. Xác thịt thì ước muốn điều trái ngược với Thần khí. Xác thịt làm phát sinh những hoa trái xác thịt; còn hoa quả của Thần khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhịn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5, 16-23). Theo Phaolô, xác thịt là thừa kế của tội, trong khi Thần khí mang lại tất cả những gì là tốt đẹp. Chiến đấu với xác thịt không là gì khác ngòai chống lại sự tội, tức chống lại sự chết là hậu quả của tội. Kitô hữu thực hiện cuộc chiến này, vì lẽ Đức Kitô đã mang lấy xác thịt và biến thành tội lỗi vì chúng ta”(2 Cr 5,21), Người đã mang lấy thân phận tội lỗi (Pl 2,6; Rm 8,3) và Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình” (Rm 8,3) để ta được nên công chính trong Người (2 Cr 5,21; Rm 8,4). Tín hữu đóng đinh xác thịt vào Thập giá Đức Kitô và được đảm bảo cuộc chiến thắng vào ngày Quang lâm (x. Cl 3,1-4).
4. Từ sự chết đến sự sống
Thái độ sống của Phaolô cho thấy mầu nhiệm sự sống triển nở ngang qua cái chết. Ngài viết : “ Tôi coi tất cả, mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Người…Vấn đề là biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cỏi chết”(Pl 3,8-10).
Phaolô coi cuộc đời như một thao dợt và học tập cách chết, vì nghĩ rằng một khi cùng chịu đau khổ với Người thì cũng sẽ được hưởng vinh quang với Người “(Rm 8,17). Cuộc sống của Phaolô vì thế luôn là một cảm nghiệm sống thường xuyên về đau khổ. Ngài tuyên bố tuy sống nhưng hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giêsu (2Cr 4,11). Con người được nhận lãnh những hồng ân phi thường vẫn phải chịu một cái dằm trong thân xác để khỏi tự cao tự đại (2Cr 12,7). Ngài tâm sự : “ Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh “ (2 Cr 12,10). Ta hãy lắng nghe lời tâm sự sau đây : “Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm tông đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên thần và lòai người. Chúng tôi điên dại vì Đức Kitô…chúng tôi yếu đuối…chúng tôi bị khinh khi. Cho đến giờ này, chúng tôi phải chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang; chúng tôi phải vất vả làm lụng. Bị nguyền rủa.. bị bắt bớ…chúng tôi nên như rác rưởi của thế gian, như đồ phế thải đối với mọi người”(1 Cr 4,9-13). Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả vì nhận thức sâu sắc rằng trong mọi đau khổ phải chịu ấy, Ngài thật sự cộng tác vào sự cứu độ của Đức Kitô.
Thánh Phaolô viết : “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi ”(2 Cr 4,10), như thể muốn nói Đức Giêsu đã và nay vẫn tiếp tục chết ngang qua các môn đệ của Người. Sự chết vẫn đang họat động trong các tông đồ để sự sống được chuyển tới các tín hữu. Không phải là một thay thế, nhưng là một chuyển dời từ sự chết đến sự sống. Sự chết của Đức Kitô vẫn đang họat động cách huyền nhiệm để đản sinh sự sống trong Giáo hội của Người. Ngài nói : “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh”(Cl 1,24).
Gian nan thử thách (tribulations : thlipseis) gợi lại những thử thách mà Israel đã trải qua, đặc biệt nơi Ai cập (Xh 4,31) và thời lưu đày (Đnl 4,29). Từ này được dùng để nói lên những gian nan thử thách, nhất là những bách hại do đức tin mà các Tông đồ phải chịu. Thánh Phaolô đồng hóa những đau khổ của ngài với những gian nan thử thách mà Đức Kitô đã chịu trong suốt thời gian sứ vụ, đưa đến cái chết thập giá. Thánh Phaolô nói những gian truân của Đức Kitô còn thiếu, ngài xin mang vào thân cho đủ mức (antanaplèroô : remplir, compléter, combler). J. Kremer giải thích : Đức Kitô Phục sinh đang luôn hiện diện và họat động trong lịch sử cho đến ngày Quang lâm qua Giáo hội nơi những họat động của các Tông đồ. Điều này không diễn ra trước đó vì Đức Giêsu Nadarét bị giới hạn bởi thân xác và các định luật không và thời gian. Nhưng từ nay, Người tỏ mình ngang qua họat động và những gian truân của các môn đệ. Vì thế, thánh Phaolô cho rằng những đau khổ ngài chịu như bổ khuyết vào điều còn thiếu nơi những gian truân thử thách của Đức Giêsu; và ngài quả quyết mọi đau khổ truân chiên được đón nhận vì và cho Hội thánh, cũng như Đức Giêsu đã chịu mọi đau khổ để thiết lập và xây dựng Hội thánh là thân mình của Người.
Lm GB Hoàng Văn Khanh