TOÀN VĂN LÁ THƯ ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN ROMA
WHĐ (09.08.2023) – Hôm mồng 07.08 vừa qua, phòng Báo chí Toà thánh đã cho công bố lá thư Đức Thánh cha Phanxicô, với tư cách là Giám mục giáo phận Roma, gửi cho các linh mục thuộc Giáo phận của ngài. Thư được Đức Thánh Cha đề ngày mồng 05.08.2023, Lễ Cung hiến Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả ở Roma. Dưới đây là nội dung lá thư của Đức Thánh Cha:
THƯ ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN ROMA
Anh em linh mục thân mến,
Tôi muốn gửi đến anh em với một suy tư của sự đồng hành và tình bằng hữu, mà tôi mong rằng sẽ nâng đỡ anh em khi anh em thi hành thừa tác vụ, với vô số niềm vui và vất vả, hy vọng và thất vọng. Chúng ta cần trao cho nhau những cái nhìn đong đầy sự quan tâm và trắc ẩn, học hỏi từ Chúa Giêsu, Đấng đã nhìn các môn đệ với ánh nhìn này, không đòi hỏi ở họ một thời gian biểu theo tiêu chí hiệu quả, nhưng mang lại sự quan tâm và thanh thản. Vì thế, khi thấy các tông đồ đi truyền giáo trở về, lòng hăng hái xen lẫn sự mệt mỏi, Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).
Tôi nghĩ đến anh em, vào thời gian này, ngoài các hoạt động mùa hè, cũng có thể nghỉ ngơi đôi chút sau những công tác mục vụ trong những tháng qua. Và trước hết tôi muốn lập lại lời cảm ơn của tôi đã dành cho anh em: “Cám ơn anh em vì chứng tá và sự phục vụ của anh em; cám ơn anh em vì rất nhiều việc làm tốt đẹp âm thầm, vì sự tha thứ và an ủi mà anh em đã trao ban nhân danh Chúa… Cám ơn anh em vì thừa tác vụ linh mục, thường được thực hiện giữa nhiều khó khăn, nhưng ít được công nhận, và không phải lúc nào cũng được thấu hiểu” (Bài giảng Lễ Truyền Dầu, ngày mồng 06.04.2023).
Ngoài ra, thừa tác vụ linh mục của chúng ta không được đo lường bằng những thành công mục vụ (chính Chúa, theo thời gian ngày càng có ít thành công mục vụ hơn!). Tâm điểm của đời sống chúng ta không phải là hoạt động điên cuồng, mà là ở lại trong Chúa để sinh hoa kết trái (x. Ga 15). Chúa Giêsu là nguồn tĩnh dưỡng của chúng ta (x. Mt 11, 28-29). Và sự dịu dàng an ủi chúng ta bắt nguồn từ lòng thương xót của Người, từ việc đón nhận “magis – sự vĩ đại hơn” của ân sủng Người, vốn cho phép chúng ta tiến bước trong việc tông đồ, chịu đựng những thất bại và trở ngại, vui tươi với tâm hồn đơn sơ, hiền lành và kiên nhẫn, để không ngừng bắt đầu lại, và đến với người khác. Thật vậy, “những khoảnh khắc tái nạp năng lượng” cần thiết của chúng ta không chỉ xảy ra khi chúng ta nghỉ ngơi về thể chất và tinh thần, mà cả khi chúng ta mở lòng đón nhận cuộc gặp gỡ huynh đệ giữa chúng ta với nhau: tình huynh đệ an ủi, mang đến không gian cho sự tự do nội tâm, và giúp chúng ta không cảm thấy cô đơn khi đối diện với những thách đố của tác vụ.
Chính với tinh thần này mà tôi viết thư này cho anh em. Tôi cảm thấy mình đang đồng hành với anh em, và tôi muốn anh em cũng cảm thấy rằng tôi gần gũi với anh em trong niềm vui cũng như nỗi buồn, trong những kế hoạch và nỗ lực, trong những cay đắng và niềm an ủi mục vụ của anh em. Trên hết, tôi chia sẻ với anh em niềm khao khát được hiệp thông, một cách thiết thân và hữu hiệu, trong khi tôi dâng lời cầu nguyện hằng ngày xin cho Giáo hội Mẹ Rôma của chúng ta, được kêu gọi chủ sự trong đức ái, có thể nuôi dưỡng hồng ân hiệp thông quý báu trước hết và trên hết nơi chính mình, làm cho hồng ân ấy nảy mầm trong những thực tại và sự nhạy cảm khác nhau mà Giáo hội Mẹ được cấu thành. Chớ gì Giáo hội Rôma trở thành mẫu gương cho mọi người về lòng trắc ẩn và hy vọng, với các mục tử của mình luôn luôn, thực sự luôn luôn, sẵn sàng và sẵn lòng ban phát sự tha thứ của Thiên Chúa, như những kênh của lòng thương xót làm dịu cơn khát của con người ngày nay.
Anh em thân mến, và lúc này đây, tôi tự vấn: trong thời đại chúng ta, Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì, Thần Khí, Đấng đã xức dầu và sai chúng ta đi làm tông đồ của Tin Mừng dẫn đưa chúng ta đến đâu? Trong cầu nguyện, điều này trở lại với tôi: rằng Thiên Chúa yêu cầu chúng ta đi đến tận cùng cuộc chiến chống lại tính thế tục thiêng liêng (spiritual worldliness). Cha Henri de Lubac, trong một ít trang của một bản văn mà tôi mời anh em đọc, đã định nghĩa tính thế tục thiêng liêng là “mối nguy hiểm lớn nhất đối với Giáo hội – đối với chúng ta, như là Giáo hội – cám dỗ xảo quyệt nhất, sự cám dỗ luôn luôn tái hiện một cách ngấm ngầm, khi những cám dỗ khác bị đánh bại”. Và cha nói thêm những lời mà tôi thấy có vẻ rất đúng: “Nếu tính thế tục thiêng liêng này xâm chiếm Giáo hội và hành động để làm hư hỏng Giáo hội bằng cách phá hoại chính nguyên tắc của Giáo hội, thì điều đó sẽ vô cùng tai hại, hơn bất kỳ tính thế tục mang tính luân lý đơn thuần nào” (Meditation on the Church, Milan 1965, 470).
Đây là những điều mà tôi đã đề cập đến trong những dịp khác, nhưng tôi muốn lặp lại và xem là ưu tiên hàng đầu: tính thế tục thiêng liêng, thực sự, rất nguy hiểm vì nó là một lối sống hạ thấp đời sống thiêng liêng xuống vẻ bề ngoài: nó khiến chúng ta trở thành “những người buôn bán tinh thần“, những người khoác trên mình những hình thức thánh thiêng mà trên thực tế vẫn tiếp tục suy nghĩ và hành động theo kiểu thế gian. Điều này xảy ra khi chúng ta để mình bị mê hoặc bởi những cám dỗ phù du, bởi sự tầm thường và thói quen, bởi những cám dỗ của quyền lực và ảnh hưởng xã hội. Và, một lần nữa, bởi hư vinh và tự kỷ ái mộ, bởi sự cứng ngắc về tín lý và chủ nghĩa thẩm mỹ phụng vụ, những hình thức và cách thức mà tính thế tục “ẩn sau vẻ bề ngoài của lòng đạo đức và thậm chí là tình yêu dành cho Giáo hội”, nhưng trên thực tế “hệ tại việc không tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa mà là tìm vinh quang loài người và sự thỏa mãn của bản thân” (Tông huấn Evangelii gaudium, 93). Làm sao chúng ta lại không nhận ra trong tất cả những điều này chính là phiên bản cập nhật của chủ nghĩa hình thức giả hình mà Chúa Giêsu đã thấy nơi một số nhà chức trách tôn giáo thời bấy giờ và có lẽ đã khiến Người đau khổ hơn bất cứ điều gì khác trong cuộc đời công khai của mình?
Tính thế tục thiêng liêng là một cám dỗ “nhẹ nhàng” và vì lý do này, nó thậm chí còn ngấm ngầm hơn. Thật vậy, nó thấm vào, biết rõ làm thế nào để ẩn đằng sau vẻ bề ngoài đẹp đẽ, ngay cả trong những động cơ “sùng đạo”. Và, ngay cả khi chúng ta nhận ra nó và trục xuất nó khỏi chúng ta, thì sớm muộn gì nó cũng sẽ lại xuất hiện, ngụy trang dưới một hình thức khác. Như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng: “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi”. Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước” (Lc 11, 24-26). Chúng ta cần sự cảnh giác nội tâm, để bảo vệ tâm trí và tâm hồn, để nuôi dưỡng trong chúng ta ngọn lửa thanh tẩy của Thần Khí, bởi vì những cám dỗ thế tục quay trở lại và “gõ cửa” một cách lịch sự: “chúng là ‘những con quỷ tao nhã’: chúng xâm nhập một cách êm ái mà chúng ta không hề hay biết” (Diễn từ trước Giáo triều Rôma, ngày 22.12.2022).
Tuy nhiên, tôi muốn tập trung vào một khía cạnh của tính trần tục này. Khi nó đi vào tâm hồn của các mục tử, nó mang một hình thức cụ thể, đó là giáo sĩ trị. Xin thứ lỗi cho tôi vì đã lặp lại điều này, nhưng là những linh mục, tôi nghĩ anh em hiểu tôi, bởi vì anh em cũng chia sẻ những gì anh em tin một cách chân thành, phù hợp với nét đẹp điển hình của người Roma (Romanesque!), theo đó, sự chân thành của đôi môi xuất phát từ con tim, và có hương vị của con tim! Và tôi, với tư cách là một người cao tuổi và từ tận đáy lòng, muốn nói với anh em rằng tôi lo lắng khi chúng ta sa vào những hình thức của giáo sĩ trị; khi mà, có lẽ do không nhận ra điều đó, chúng ta tạo cho người ta ấn tượng rằng chúng ta vượt trội, có đặc quyền, được đặt “ở trên cao”, và vì thế, tách biệt khỏi phần còn lại của dân thánh Chúa. Như một linh mục tốt lành đã từng viết cho tôi, “giáo sĩ trị là một triệu chứng của đời sống linh mục và giáo dân bị cám dỗ sống theo vai trò chứ không phải trong mối dây thực sự với Thiên Chúa và anh chị em”. Nói tóm lại, giáo sĩ trị biểu thị một căn bệnh khiến chúng ta đánh mất ký ức về Phép Rửa mà chúng ta đã lãnh nhận, loại bỏ trong nền tảng việc chúng ta thuộc về cùng một Dân Thánh và dẫn chúng ta đến việc trải nghiệm quyền bính dưới nhiều hình thức quyền lực khác nhau, mà không nhận ra sự tráo trở, sự không khiêm tốn mà với thái độ tách biệt và kiêu căng.
Để thoát khỏi cám dỗ này, chúng ta nên lắng nghe điều mà ngôn sứ Ezekiel nói với các mục tử: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (34, 3-4). Khi nói về “sữa” và “len”, là nói về những thứ nuôi dưỡng và sưởi ấm; Do đó, sự rủi ro mà Lời đặt ra trước mắt chúng ta là rủi ro của việc nuôi dưỡng bản thân và sở thích riêng mang lại cho chúng ta một cuộc sống tiện nghi thoải mái.
Như thánh Augustinô khẳng định, dĩ nhiên là người mục tử cũng phải sống nhờ nguồn sữa của đoàn chiên mà mình chăm sóc; nhưng như vị Giám mục thành Hippo nhận xét: “Hãy để các mục tử hưởng nguồn sữa từ đàn chiên, và đón nhận những gì cần thiết cho nhu cầu của mình, nhưng họ không được bỏ bê sự yếu đuối của đàn chiên. Mục tử không được tìm kiếm tư lợi, kẻo khi ra vẻ rao giảng Tin Mừng nhưng lại là để kiếm sống; trái lại, họ cần làm vì mục đích mang lại ánh sáng của lời chân lý cho con người” (Bài giảng về mục tử, 46. 5). Tương tự như vậy, khi nói về len, thánh Augustinô liên kết nó với danh dự: len bao phủ con cừu, có thể khiến chúng ta nghĩ đến mọi thứ mà chúng ta có thể tô điểm cho vẻ bên ngoài của mình, tìm kiếm sự ca ngợi của con người, uy tín, danh tiếng, giàu sang. Vị giáo phụ Latinh vĩ đại viết rằng: “Người cung cấp len là người trao tặng vinh dự. Đây chính là hai thứ mà các mục tử, những người nuôi sống mình chứ không phải đàn chiên, tìm kiếm nơi dân chúng: những nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của họ cũng như đặc ân của sự tôn vinh và khen ngợi” (sđd., 46. 6). Khi chỉ quan tâm đến sữa, chúng ta nghĩ đến lợi ích cá nhân; khi chằm chằm tìm kiếm len, chúng ta nghĩ đến việc đánh bóng hình ảnh của mình và gia tăng thành công. Và như thế, chúng ta đánh mất tinh thần linh mục, lòng nhiệt thành phục vụ, và khao khát chăm sóc giáo dân, kết cục là chúng ta lý luận theo sự ngu xuẩn của thế gian: “Việc này can hệ gì đến tôi? Hãy để mọi người làm những gì họ muốn; miễn là sinh kế của tôi được đảm bảo, và danh dự của tôi cũng vậy. Tôi có đủ sữa và len, nên ai muốn làm gì tùy ý” (sđd., 46, 7).
Sau đó, mối quan tâm tập trung vào “Tôi”: sinh kế của chính tôi, nhu cầu của chính tôi, lời khen ngợi nhận được cho chính tôi thay vì cho vinh quang Thiên Chúa. Điều này xảy ra trong đời sống của những người rơi vào giáo sĩ trị: họ đánh mất tinh thần ngợi khen vì họ đánh mất cảm thức về ân sủng, sự kinh ngạc trước tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sự đơn sơ tín thác của con tim làm cho chúng ta hướng về Chúa, chờ đợi lương thực từ Ngài ban tặng đúng giờ (x. Tv 104, 27), với ý thức rằng không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì (x. Ga 15, 5). Chỉ khi nào sống trong sự vô vị lợi này, chúng ta mới có thể sống thừa tác vụ và các tương quan mục vụ trong tinh thần phục vụ, theo như lời Chúa Giêsu: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).
Chúng ta cần nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu, vào lòng trắc ẩn mà nhờ đó, Người nhìn thấy nhân loại bị thương tích của chúng ta, vào sự vô vị lợi mà Người đã tự hiến mạng sống cho chúng ta trên thập giá. Đây là liều thuốc giải độc hàng ngày cho tính thế tục và giáo sĩ trị: hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, mỗi ngày hãy dán mắt vào Đấng đã bỏ mình và hạ mình cho đến chết vì chúng ta (x. Pl 2, 7-8). Chúa Giêsu chấp nhận tủi nhục để nâng chúng ta lên khỏi sự sa ngã và giải thoát chúng ta khỏi quyền lực sự dữ. Như vậy, khi nhìn vào những vết thương của Chúa Giêsu, nhìn vào sự bị sỉ nhục của Người, chúng ta học biết rằng chúng ta được mời gọi hiến thân, biến mình thành tấm bánh bẻ ra cho người đói, để chia sẻ hành trình với những người mệt mỏi và bị áp bức. Đây là tinh thần linh mục: biến mình thành tôi tớ của Dân Chúa chứ không phải ông chủ, rửa chân cho anh chị em mình chứ không chà đạp họ dưới chân.
Do đó, chúng ta hãy tiếp tục cảnh giác đối với giáo sĩ trị. Xin Thánh Phêrô Tông đồ như truyền thống nhắc nhở chúng ta rằng, ngay cả trong giờ chết, ngài đã hạ mình để được lộn ngược xuống vì không xứng đáng ngang hàng với Chúa của mình, giúp chúng ta tránh xa nó. Xin Thánh Phaolô Tông đồ, người đã vì Đức Kitô, coi tất cả những lợi ích của cuộc sống và của cải thế gian là rác rưởi (x. Pl 3, 8), gìn giữ chúng ta khỏi mắc vào nó.
Chúng ta biết, giáo sĩ trị có thể ảnh hưởng đến tất cả mọi người, kể cả giáo dân và nhân viên mục vụ: thực vậy, người ta có thể khoác lấy “tinh thần giáo sĩ” khi thi hành các thừa tác vụ và đoàn sủng, sống ơn gọi của mình theo cách thức tinh hoa, khép kín trong nhóm của mình, và dựng lên những bức tường chống lại bên ngoài, phát triển những mối tương quan chiếm hữu đối với các vai trò trong cộng đoàn, nuôi dưỡng thái độ tự phụ, và khoe khoang đối với người khác. Và các triệu chứng thực sự là đánh mất tinh thần ngợi khen và vui tươi vô vị lợi, trong khi ma quỷ len lỏi vào, thúc đẩy sự phàn nàn, tiêu cực và sự bất mãn kinh niên với những gì sai trái, trớ trêu trở thành sự cay đắng. Nhưng, theo cách này, chúng ta để mình bị cuốn vào bầu không khí chỉ trích và giận dữ mà chúng ta hít thở quanh mình, thay vì trở thành những người, với sự đơn sơ và hiền lành của Tin Mừng, với sự tử tế và tôn trọng, giúp đỡ anh chị em của chúng ta thoát khỏi vũng cát lún của sự bất khoan dung.
Trong tất cả những điều này, trong những yếu đuối và bất toàn của chúng ta, cũng như trong cuộc khủng hoảng đức tin ngày nay, chúng ta đừng nản lòng! De Lubac kết luận bằng cách tuyên bố rằng: “Ngay cả ngày nay, bất chấp mọi sự mù tối của chúng ta […], Giáo hội giống như Đức Trinh Nữ, là Bí tích của Chúa Giêsu Kitô. Chẳng có sự bất trung nào của chúng ta có thể ngăn cản Giáo hội trở thành ‘Giáo hội của Thiên Chúa’, thành ‘nữ tỳ của Chúa‘” (Meditation on the Church, 472).
Thưa anh em, đây là niềm hy vọng nâng đỡ bước chân của chúng ta, làm nhẹ bớt gánh nặng của chúng ta, và mang lại động lực mới cho tác vụ của chúng ta. Chúng ta hãy xắn tay áo và quỳ gối (anh em, những người có thể làm được điều này!): chúng ta hãy cầu xin Thần Khí cho nhau, xin Người giúp chúng ta để trong đời sống cá nhân cũng như trong hoạt động mục vụ, chúng ta đừng rơi vào hình thức tôn giáo tuy đầy dẫy nhiều thứ nhưng lại trống rỗng về Thiên Chúa, để không phải là những quan chức của sự thánh thiêng nhưng là những sứ giả nhiệt thành của Tin Mừng, không phải là “những giáo sĩ của nhà nước”, mà là mục tử của dân chúng. Chúng ta cần hoán cải cá nhân và mục vụ. Như Cha Congar đã khẳng định, vấn đề không phải là khôi phục lại việc tuân thủ tốt hoặc canh tân các nghi lễ bên ngoài, mà là trở về với nguồn mạch Tin Mừng, khám phá những năng lượng mới mẻ để vượt thắng những thói quen, đưa một tinh thần mới vào các định chế giáo hội cũ, để cuối cùng, chúng ta không trở thành một Giáo hội “giàu có về quyền bính và an toàn, nhưng lại ít tính tông đồ và tính Phúc âm thì tầm thường” (Vera e falsa riforma della Chiesa, Milan 1972, 146).
Cảm ơn anh em đã đón nhận và suy niệm những lời này của tôi trong cầu nguyện và trước Chúa Giêsu trong giờ chầu hàng ngày; Tôi có thể nói với anh em rằng những lời này xuất phát từ trái tim tôi và từ tình cảm mà tôi dành cho anh em. Chúng ta hãy tiến bước với lòng nhiệt thành và can đảm: chúng ta hãy làm việc cùng nhau, giữa các linh mục và với anh chị em giáo dân, khởi xướng những hình thức và lộ trình hiệp hành, giúp chúng ta cởi bỏ những ràng buộc của thế tục và “giáo sĩ” của chúng ta để khiêm tốn tìm kiếm những cung cách mục vụ do Thần Khí soi dẫn, để niềm an ủi của Chúa thực sự đến với mọi người. Trước linh ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi Thành Roma (Salus Populi Romani) tôi đã cầu nguyện cho anh em. Tôi xin Đức Mẹ gìn giữ và bảo vệ anh em, lau khô những giọt nước mắt thầm kín của anh em, thắp lại trong anh em niềm vui thừa tác vụ, và làm cho anh em mỗi ngày trở thành những mục tử yêu mến Chúa Giêsu, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì tình yêu nhưng không của Người. Xin cảm ơn anh em vì những gì anh em làm và anh em là. Tôi chúc lành cho anh em và đồng hành với anh em trong lời cầu nguyện. Và, xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Trong tình huynh đệ,
Lisbon, ngày mồng 05.08.2023, Lễ Cung hiến Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả.
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (07. 08. 2023)