Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng
Trong diễn văn tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng của Đại hội lần thứ 7 các lãnh đạo thế giới và tôn giáo truyền thống, Đức Thánh Cha tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo; mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt; tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể; đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình; con người là đường của mọi tôn giáo.
Chúng ta đã cùng nhau đi trên con đường này. Cám ơn anh chị em đã đến từ những nơi khác nhau trên thế giới, mang đến đây sự phong phú về tín ngưỡng và văn hóa của anh chị em. Cám ơn anh chị em đã tham gia tích cực những ngày làm việc này, dấn thân và chia sẻ để phục vụ cho công cuộc đối thoại. Điều này càng có giá trị hơn bao giờ hết trong những thời điểm đầy thử thách, khi các vấn đề của đại dịch còn được cộng thêm bởi sự điên cuồng vô nghĩa của chiến tranh. Có quá nhiều hận thù và chia rẽ, nhưng thiếu sự đối thoại và hiểu nhau. Điều này còn nguy hiểm và tai tiếng hơn trong thế giới toàn cầu hóa. Chúng ta không thể tiến bước nếu đồng thời vừa có sự hiệp nhất và chia rẽ, liên kết và chia cắt bởi quá nhiều bất bình đẳng. Do đó, cám ơn anh chị em vì những nỗ lực hướng tới hòa bình và thống nhất. Cám ơn chính quyền địa phương, những người đã đón tiếp chúng tôi, chuẩn bị và tổ chức Đại hội một cách chu đáo. Cám ơn người dân Kazakhstan thân thiện và can đảm, có khả năng tiếp nhận các nền văn hóa khác trong khi vẫn bảo tồn lịch sử cao quý và truyền thống quý báu của mình. Kiop raqmet! Bolshoe spaibo! Cám ơn rất nhiều!
Khẩu hiệu cuộc thăm của tôi “Những sứ giả của Hòa bình và Hiệp nhất”, được viết ở số nhiều, vì đây là con đường chung. Và Đại hội lần thứ bảy này, trong đó chúng ta được tham gia nhờ ân ban của Đấng Tối Cao đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Kể từ khi bắt đầu vào năm 2003, sự kiện này đã được lấy làm mẫu là Ngày Cầu nguyện cho Hòa bình Thế giới do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triệu tập năm 2002 tại Assisi, nhằm tái khẳng định sự đóng góp tích cực của các truyền thống tôn giáo đối với đối thoại và hòa hợp giữa các dân tộc. Sau những gì xảy ra vào ngày 11/9/2001, cần phải phản ứng cùng nhau, trước bầu khí nóng rực mà bạo lực khủng bố muốn kích động và có nguy cơ khiến tôn giáo trở thành một yếu tố xung đột. Nhưng chủ nghĩa khủng bố tôn giáo giả, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa quốc gia được che đậy trong sự thánh thiêng vẫn làm dấy lên nỗi sợ hãi và lo ngại về tôn giáo. Như vậy, trong những ngày này, Thiên Chúa quan phòng đã cho chúng ta gặp nhau, để tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo.
Về vấn đề này, Tuyên bố của Đại hội chúng ta khẳng định rằng chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa khủng bố và tất cả các động cơ khác gây hận thù, thù địch, bạo lực và chiến tranh, bất kể động cơ hay mục tiêu của chúng, không liên quan gì đến tinh thần tôn giáo đích thực, phải bị từ chối theo những thuật ngữ quyết định nhất có thể (xem số 5): bị lên án, không có “nếu” và không có “nhưng”. Hơn nữa, dựa trên thực tế là Đấng Toàn Năng đã tạo dựng mọi người bình đẳng, bất kể họ thuộc tôn giáo, dân tộc hay xã hội nào, chúng ta đồng ý rằng sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau phải được coi là điều cần thiết và không thể thiếu trong việc giảng dạy tôn giáo (xem số 13).
Kazakhstan, trung tâm của lục địa lớn và quan trọng của châu Á, là nơi tự nhiên để chúng ta gặp gỡ. Lá cờ của quốc gia này nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết duy trì mối quan hệ lành mạnh giữa chính trị và tôn giáo. Thực tế, nếu đại bàng vàng được hiển thị trên lá cờ, gợi nhớ quyền lực trần thế và các đế chế cổ xưa, thì nền màu xanh lam gợi lên màu sắc của bầu trời, và sự siêu việt. Do đó, có một mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt, một hình thức chung sống lành mạnh giữ cho các lĩnh vực phân biệt. Phân biệt, nhưng không lẫn lộn hoặc tách biệt. Chúng ta hãy nói “Không” với sự lẫn lộn, vì lợi ích của con người. Con người giống như đại bàng, cần một bầu trời tự do để bay, một không gian tự do và rộng mở đến vô cùng không bị giới hạn bởi sức mạnh trần thế. Mặt khác, siêu việt không được nhượng bộ trước cám dỗ của việc biến mình thành quyền lực, nếu không, trời sẽ sập xuống, bên kia vĩnh cửu sẽ bị giam cầm trong trần thế hiện tại, tình yêu dành cho người lân cận trở thành mồi cho những quyết định đảng phái. Nói “Không” với sự lẫn lộn nhưng cũng nói “không” với sự tách biệt giữa chính trị và siêu việt, vì những khát vọng cao nhất của con người không thể bị loại trừ khỏi đời sống công cộng và chỉ được xếp vào lãnh vực cá nhân. Vì vậy, những người muốn bày tỏ niềm tin của họ một cách hợp pháp phải được bảo vệ ở mọi nơi và mọi lúc. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều người vẫn còn bị bắt bớ và phân biệt đối xử vì đức tin của họ! Chúng ta đã mạnh mẽ kêu gọi các chính phủ và các tổ chức quốc tế có liên quan hỗ trợ các nhóm tôn giáo và cộng đồng dân tộc bị vi phạm nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, cũng như bị bạo lực bởi những kẻ cực đoan và khủng bố, kể cả do hậu quả của chiến tranh và xung đột quân sự (số 6). Trên hết, cần phải dấn thân để tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể. Chúng ta hãy bảo vệ quyền tôn giáo, hy vọng, và vẻ đẹp cho tất cả mọi người. Bởi vì không chỉ Kazakhstan, như quốc thiều của họ tuyên bố, là “bầu trời của mặt trời vàng”, và điều này cũng đúng đối với mỗi người. Trong tính độc nhất tuyệt đối, mỗi người khi tiếp xúc với thần linh, có thể tỏa sáng đặc biệt trong thế giới chúng ta.
Do đó, Giáo hội Công giáo, vốn không bao giờ mệt mỏi trong việc loan báo phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,26), cũng tin vào sự hiệp nhất của gia đình nhân loại. Giáo hội Công giáo tin rằng “tất cả các dân tộc tạo thành một cộng đồng duy nhất, có một nguồn gốc duy nhất, vì Thiên Chúa đã tạo ra toàn thể loài người sống trên mặt đất” (Conc. Ecum. Vat. II, Dich. Nostra aetate, 1). Vì lý do này, kể từ khi bắt đầu Đại hội này, Tòa Thánh, đặc biệt qua Bộ Đối thoại Liên tôn, đã tích cực tham gia. Và Toà Thánh muốn tiếp tục như vậy: con đường đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình, và như vậy nó là cần thiết và không thể đảo ngược. Đối thoại liên tôn không chỉ là một cơ hội, nhưng là một sự phục vụ khẩn cấp và không thể thay thế đối với nhân loại, đối với sự ngợi khen và vinh quang của Đấng Tạo Hóa của tất cả mọi người.
Anh chị em thân mến, khi nghĩ về hành trình chung này, tôi tự hỏi: điểm hội tụ của chúng ta là gì? Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – người đã đến thăm Kazakhstan 21 năm trước – khẳng định rằng “mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến con người” và con người là “con đường của Giáo hội”. (Lett. enc. Redemptor hominis, 14) Hôm nay tôi muốn nói rằng con người cũng là con đường của mọi tôn giáo. Vâng, con người cụ thể, yếu nhược vì đại dịch, gục ngã bởi chiến tranh, bị tổn thương bởi sự thờ ơ! Con người, một thụ tạo mong manh và tuyệt vời, “biến mất nếu không có Đấng Tạo hóa” (Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. Gaudium et spes, 36) và không có người khác, không tồn tại! Chúng ta hãy nghĩ đến lợi ích của con người hơn là các mục tiêu chiến lược và kinh tế, lợi ích quốc gia, năng lượng và quân sự, trước khi đưa ra các quyết định quan trọng. Để đưa ra những lựa chọn thực sự lớn, hãy nghĩ đến trẻ em, thanh niên và tương lai của họ, người già và sự khôn ngoan của họ, những dân thường và nhu cầu thực sự của họ. Và chúng ta lên tiếng kêu lên rằng con người không bị thu hẹp vào những gì con người sản xuất và kiếm được; nhưng phải được chấp nhận và không bao giờ bị từ chối; gia đình, trong tiếng Kazakhstan là “tổ ấm của tâm hồn và tình yêu”, là thực tế tự nhiên và không thể thay thế, cần được bảo vệ và thúc đẩy để những các thế hệ mai sau lớn lên và trưởng thành.
Đối với toàn thể nhân loại, các nhà khôn ngoan và các truyền thống tôn giáo vĩ đại được kêu gọi để làm chứng cho sự tồn tại của một di sản tinh thần và đạo đức chung, vốn được xây dựng trên hai nền tảng: sự siêu việt và tình huynh đệ. Siêu việt, trổi vượt, tôn thờ. Thật đẹp khi mỗi ngày có hàng triệu triệu người, thuộc nhiều lứa tuổi, nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội, tụ họp cầu nguyện ở các nơi thờ phượng. Đó là sức mạnh âm thầm giữ cho thế giới tiếp tục. Và sau đó là tình huynh đệ, người khác, sự gần gũi. Vì người ta không thể tuyên xưng trung thành với Đấng Tạo Hóa mà không bày tỏ tình yêu đối với các thụ tạo của Người. Đây là tinh thần xuyên suốt Tuyên bố của Đại hội chúng ta, mà trong phần kết luận, tôi xin nhấn mạnh ba điều.
Đầu tiên là sự tổng hợp của tất cả, là sự thể hiện của một lời cầu xin chân thành, ước mơ và mục tiêu hành trình của chúng ta: hòa bình! Beybitşilik, mir, hoà bình! Hòa bình là cấp thiết bởi vì bất kỳ xung đột quân sự hoặc điểm nóng của căng thẳng và đối đầu ngày nay chỉ có thể gây ra “hiệu ứng domino” xấu làm tổn hại nghiêm trọng đến hệ thống quan hệ quốc tế (số 4). Nhưng “hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Gaudium et spes, 78). Do đó, hoà bình bắt nguồn từ tình huynh đệ, tiến triển qua cuộc chiến chống bất công và bất bình đẳng, nó được xây dựng bằng cách tiếp cận với những người khác. Chúng ta, những người tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa của tất cả, phải đi đầu trong việc truyền bá sự chung sống hòa bình. Chúng ta phải làm chứng, rao giảng, cầu xin cho hoà bình. Do đó, Tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới ngừng xung đột và đổ máu ở khắp mọi nơi, và từ bỏ những luận điệu hung hăng và phá hoại (số 7). Chúng tôi xin quý vị, nhân danh Thiên Chúa và vì lợi ích của nhân loại: hãy cam kết vì hòa bình, không vì vũ khí! Chỉ bằng cách phục vụ hòa bình, tên tuổi của quý vị sẽ còn vĩ đại trong lịch sử.
Nếu thiếu hòa bình, đó là vì thiếu sự quan tâm, dịu dàng và khả năng trao ban sự sống. Và do đó điều này phải được tìm kiếm bằng cách liên can nhiều hơn đến – điều thứ hai – phụ nữ. Bởi vì phụ nữ trao ban sự quan tâm và sự sống cho thế giới: họ là con đường dẫn đến hòa bình. Do đó, chúng tôi đã ủng hộ sự cần thiết bảo vệ phẩm giá của phụ nữ, và nâng cao địa vị xã hội của họ với tư cách là một thành viên bình đẳng trong gia đình và xã hội (số 24). Phụ nữ cũng phải được giao phó những vai trò và trách nhiệm lớn hơn. Có thể tránh được nhiều quyết định tai hại dẫn đến chết chóc nếu phụ nữ là trung tâm của các quyết định! Chúng ta hãy cam kết để phụ nữ được tôn trọng, công nhận và tham gia nhiều hơn.
Cuối cùng, điều thứ ba: các bạn trẻ. Họ là những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất của ngày hôm nay và mai sau. Hơn những người khác, chính những người trẻ là những người kêu gọi hòa bình và tôn trọng ngôi nhà chung của thụ tạo. Thay vào đó, lý luận của sự thống trị và bóc lột, tích trữ tài nguyên, chủ nghĩa quốc gia, chiến tranh và các khu vực ảnh hưởng phác hoạ một thế giới cũ, một thế giới bị những người trẻ từ chối, một thế giới khép kín với ước mơ và hy vọng của họ. Theo cách tương tự, tôn giáo cứng nhắc và ngột ngạt không thuộc về tương lai, nhưng thuộc về quá khứ. Nghĩ đến các thế hệ mới, tầm quan trọng của giáo dục đã được khẳng định ở đây, điều này tăng cường sự chấp nhận lẫn nhau và sự chung sống tôn trọng giữa các tôn giáo và nền văn hóa (số 11). Hãy cho những người trẻ cơ hội giáo dục chứ không phải vũ khí hủy diệt! Và chúng ta hãy lắng nghe họ, không sợ để mình bị họ chất vấn. Trên tất cả, chúng ta hãy xây dựng một thế giới nghĩ về họ!
Anh chị em thân mến, người dân Kazakhstan, hãy mở lòng đón nhận ngày mai và lưu tâm đến những đau khổ trong quá khứ, với sự phong phú về tôn giáo và văn hóa ngoại thường họ đã cung cấp cho chúng ta một tấm gương về tương lai. Họ mời gọi chúng ta xây dựng nhưng không quên tính siêu việt và tình huynh đệ, tôn thờ Đấng Tối Cao và sự chào đón của người khác. Chúng ta hãy tiếp tục như thế, cùng nhau bước đi trên trái đất với tư cách là những đứa con của Trời cao, những người dệt hy vọng và những nghệ nhân của sự hòa hợp, những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất!
nguồn: Vatican News Tiếng Việt