Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh Về Hiệp Nhất
Unitatis Redintegratio
Dàn bài tổng quát:
Lời Giới Thiệu
Lời Mở Đầu
Chương 1: Các Nguyên Tắc Công Giáo Về Hiệp Nhất
Chương 2: Cách Tham Dự Phong Trào Hiệp Nhất
Chương 3: Các Giáo Hội Và Cộng Ðoàn Giáo Hội Ly Khai Với Tông Tòa Roma
Lời Giới Thiệu
Sắc Lệnh này ghi dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử Kitô giáo. Khi Ðức Gioan XXIII loan báo triệu tập một công đồng chung, ngài đã nhắm đến nguyên nhân của việc hiệp nhất. Ðể đạt mục tiêu đó, ngài thiếp lập Văn Phòng Hiệp Nhất các Kitô hữu (ngày 5 tháng 6 năm 1960). Người ta có thể nhận ra rằng chiều theo ý định của Ðức Giáo Hoàng, nhiều lược đồ tiền công đồng đã đề cập thẳng đến vấn đề hiệp nhất các Kitô hữu. Lược đồ về Giáo Hội có chương XI nói về hiệp nhất. Ủy ban về các Giáo Hội Ðông Phương khởi thảo một lược đồ nhằm việc nối kết các Giáo Hội Ðông Phương ly khai với Giáo Hội Công Giáo. Văn Phòng Hiệp Nhất các Kitô hữu cũng đã soạn sẵn một lược đồ nghiêng về mục vụ. Trong kỳ họp I, Công Ðồng quyết định chỉ soạn thảo một sắc lệnh về Hiệp Nhất dưới sự giám sát của Văn Phòng Hiệp Nhất. Chính lúc ấy, chương XI chỉ đề cập đến các Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương.
Lược đồ nhất thống về Hiệp Nhất đã được đệ trình trong kỳ họp II của Công Ðồng. Lược đồ gồm 5 chương:
I. Các nguyên tắc Công Giáo về Hiệp Nhất.
II. Cách tham dự phong trào Hiệp Nhất.
III. Các Kitô hữu ly khai với Giáo Hội Công Giáo.
IV. Những tương giao giữa người Công Giáo với người ngoài Kitô giáo, đặc biệt với người Do Thái.
V. Tự do tôn giáo.
Lúc ấy hai chương cuối cùng do hai tiểu ban của Văn Phòng Hiệp Nhất đảm trách. Nhưng chẳng bao lâu các Nghị Phụ đã đi đến kết luận là phải bàn luận hai vấn đề này trong những văn kiện riêng biệt. Như thế, lược đồ mới chỉ gồm ba chương đầu cộng thêm lời mở. Sự phân chia này đã được duy trì trong bản văn cuối cùng.
Lược đồ này được tranh luận từ 5 đến 7-10-1964. Theo thỉnh nguyện của các Nghị Phụ, nhiều đề nghị tu chỉnh đã được thêm vào lược đồ bản văn hiệu chính. Ðáng lẽ lược đồ được biểu quyết ngày 20-11-1964. Nhưng trước ngày ấy, vị Tổng Thư Ký của Công Ðồng, Ðức Cha P. Felici, loan báo rằng có 19 điểm đổi thay đã được hoàn thành vào giờ chót theo yêu cầu của một thẩm quyền cao cấp. Vì thế vấn đề biểu quyết lược đồ được hoãn lại. Quả thực, Ðức Giáo Hoàng đã đề nghị một loạt các tu chính án; trong số đó, hội đồng thu hẹp của Văn Phòng Hiệp Nhất đã giữ lại 19 điểm. Do đó, các Nghị Phụ đã biểu quyết sắc lệnh ngày 21-11-1964 với 2,137 phiếu thuận,11 phiếu chống. Cũng chính hôm ấy, Ðức Phaolô VI đã phê chuẩn và công bố sắc lệnh này.
Sắc Lệnh mang tựa đề “Về Hiệp Nhất”. Hiệp Nhất là gì? Chúa Giêsu Kitô đã chỉ sáng lập một Giáo Hội và Người đã muốn tất cả các môn đệ kết hiệp với nhau trong Giáo Hội duy nhất ấy. Trước ngày tử nạn, Người đã khẩn thiết nguyện cầu cho việc hiệp nhất này: “Xin cho tất cả nên một” (Gio 17,21). Nhưng qua bao thế kỷ, đã xảy ra nhiều cuộc phân rẽ đau thương. Một số lớn các Giáo Hội Ðông Phương đã tách lìa khỏi Roma. Vào thế kỷ XVI, nhiều miền đã biến thành Tin Lành. Ở thế kỷ hiện tại của chúng ta, người ta mới ý thức hơn về những phân rẽ này. Nhiều người đã suy tưởng lại lời nguyện của Chúa Giêsu cũng như nghĩ đến việc cứu vãn mối bất hòa ly tán giữa các Kitô hữu. Vậy người ta đã gọi “Hiệp Nhất” là tất cả mọi nỗ lực trong những giáo phái Kitô giáo khác nhau, nhằm mục đích kết hiệp cộng đoàn Kitô hữu đang bị phân rẽ. Danh từ Hiệp Nhất phát sinh từ tiếng Hy Lạp “Oikoumene”; thời xưa, chữ này biểu thị một Giáo Hội phổ quát lan rộng khắp hoàn cầu. Như thế, Hiệp Nhất có nghĩa là ước muốn và nỗ lực đạt đến việc liên kết mọi Kitô hữu nên một trong Giáo Hội phổ quát của Chúa Kitô. Công cuộc hiệp nhất này đặt nền tảng trên khát vọng sâu xa của tất cả Kitô hữu thiện chí nhằm thể hiện sự hiệp nhất toàn vẹn mà Chúa Giêsu Kitô đã mong muốn. Phong trào hướng về hiệp nhất đã khởi sinh trước tiên giữa lòng các giáo phái Tin Lành. Phong trào nầy đã mặc một hình thức rất cụ thể khi “Hội Ðồng hiệp nhất các Giáo Hội” được thành lập năm 1948 tại Amsterdam. Người Công Giáo đã tham dự vào phong trào bằng tuần Bát Nhật cầu nguyện cho hiệp nhất các Kitô hữu (từ ngày 18 đến 25 tháng giêng mỗi năm). Ngoài sự tham gia đó, người ta đã không thể nói đến một phong trào hiệp nhất trong Giáo Hội Công Giáo, mặc dù các Ðức Giáo Hoàng đã nhiều lần mời gọi những cộng đoàn ngoài Kitô giáo hãy đến với Giáo Hội phổ quát. Chắc hẳn có nhiều người Công Giáo, với tư cách cá nhân, đã hoạt động cho việc hiệp nhất các Kitô hữu, như cha Paul Couturier (+1953) và cha Lambert Beaudoin dòng Benedictô (+1960). Dầu vậy, phong trào hiệp nhất nơi những người Công Giáo trước tiên đã nhờ vào hoạt động của Văn Phong Hiệp Nhất các Kitô hữu rất nhiều. Hơn nữa, công cuộc chuẩn bị Sắc Lệnh về Hiệp Nhất và chính sự tán dương của Công Ðồng Vaticanô II đã góp phần dồi dào vào việc đào luyện tâm thức hiệp nhất cho toàn thể các Giám Mục Công Giáo. Sắc Lệnh được Công Ðồng phê chuẩn, sự kiện nầy là một biểu hiện sáng chói của tâm thức ấy.
Từ đó, chúng ta có thể thẩm định tầm quan trọng của Sắc Lệnh về Hiệp Nhất. Quả thực, theo ngôn từ của Ðức Hồng Y Bea, Sắc Lệnh đã biểu lộ lập trường chính thức của quyền tối cao trong Giáo Hội Công Giáo trước vấn đề hiệp nhất các Kitô hữu nói chung và trước phong trào hiệp nhất nói riêng. Sắc Lệnh không chỉ trình bày một giáo thuyết, nó còn là một hành động: qua Sắc Lệnh đó, Công Ðồng đã ủy thác cho Giáo Hội Công Giáo nhiệm vụ hiệp nhất. Sắc Lệnh đã tạo nên một bầu khí Kitô giáo đầy tình huynh đệ giữa những phần tử của Giáo Hội Công Giáo và các anh em ngoài Công Giáo. Nó còn là khởi điểm cho nỗ lực hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo sau Công Ðồng.
Sắc Lệnh nhấn mạnh một số điểm quan trọng đối với phong trào hiệp nhất. Tất cả những ai đã được rửa tội đều kết hiệp với Chúa Kitô và thật sự là anh em với nhau trong Người. Qua phép Rửa Tội, họ cũng hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo một cách nào đó, cho dù mối thông hiệp này chưa toàn hảo. Những Kitô hữu ngoài Công Giáo cũng thừa hưởng các sản nghiệp phong phú đích thực về chân lý và ân sủng. Chúa Thánh Thần sử dụng các cộng đồng Kitô giáo khác nhau như những khí cụ ân sủng. Cho nên, những hành vi thánh mà họ thực hiện có thể làm nẩy sinh và tăng triển đời sống ân sủng của họ. Vậy nên Sắc Lệnh công nhận rằng: tín đồ của những cộng đồng ly khai này có khả năng đạt được ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, Sắc Lệnh không che dấu những gì tách biệt chúng ta khỏi các anh em Kitô hữu không Công Giáo. Họ không thừa hưởng sự hiệp nhất trọn vẹn mà Chúa Giêsu Kitô đã muốn ban phát cho tất cả những ai Người đã sinh thành và bồi dưỡng trong chính một thân thể. Vì thế, họ không hưởng thụ hết tất cả những kho tàng thiêng liêng Chúa Kitô đã ký thác trong Giáo Hội Người. Sau hết, Sắc Lệnh vạch ra một chương trình hành động hiệp nhất bao la. Kế hoạch này mở nhiều viễn ảnh rộng lớn và cống hiến một sự chọn lựa đề mục thật phong phú để đối thoại với những anh em ly khai của chúng ta. Một nhận xét về cách dụng ngữ của Sắc Lệnh có thể thật hữu ích. Thông thường, danh từ “Hiệp Thông” chỉ định những cộng đồng Kitô ngoài Công Giáo, không phân biệt Ðông Phương ly khai, Anh Giáo hay Tin Lành và không thẩm định giá trị tín lý của những cộng đoàn khác nhau này. Danh từ “Giáo Hội” thỉnh thoảng được áp dụng cho những cộng đoàn đông phương ly khai, những cộng đoàn quả thực có cơ cấu của một Giáo Hội. Lúc đề cập đến anh em Tin Lành, Sắc Lệnh nói đến những Giáo Hội và những “cộng đoàn” giáo hội. Những kiểu danh xưng ấy lúc đó hiểu theo một nghĩa rộng. Bởi lẽ, theo nghĩa hẹp, danh từ Giáo Hội dường như dòi buộc một cơ cấu bí tích và phẩm trật; cơ cấu nầy, nói cho đúng, không thấy có nơi những anh em Tin Lành. Hơn nữa, có vài nhóm Tin Lành từ khước danh hiệu “Giáo Hội” ấy. Vì thế “Cộng Ðoàn Giáo Hội” muốn diễn tả những cộng đoàn tín hữu có vẻ tương tự với một Giáo Hội: đó là một từ ngữ khá mơ hồ.
Lời Mở Ðầu
1. Cổ động việc tái lập sự hiệp nhất 1* giữa toàn thể các Kitô hữu là một trong những mục tiêu chính của Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II. Quả thực, Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo Hội và chỉ một Giáo Hội duy nhất, nhưng nhiều cộng đồng Kitô giáo tự xưng với mọi người mình là di sản đích thực của Chúa Kitô; thật vậy, tất cả đều xưng mình là môn đệ của Chúa nhưng lại cảm nghĩ và đi theo những đường lối khác nhau như thể chính Chúa Kitô bị phân rẽ vậy 1. Quả thực, sự phân rẽ này hiển nhiên vừa trái ngược với ý muốn của Chúa Kitô vừa là gương xấu 2* cho thế giới và phương hại cho công cuộc rất thánh thiện là rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật.
Tuy vậy, Chúa các thế hệ, Ðấng tiếp tục chương trình thi ân cách khôn ngoan và nhẫn nại đối với chúng ta là những kẻ tội lỗi, trong những ngày gần đây đã bắt đầu đổ dồi dào tinh thần thống hối và ước vọng hiệp nhất trên các Kitô hữu còn đang chia rẽ với nhau. Rất nhiều người ở khắp nơi được khích lệ bởi ơn này và nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, một phong trào tái lập sự hiệp nhất mọi Kitô hữu cũng được phát khởi mỗi ngày một rộng rãi hơn nơi những anh em phân ly với chúng ta. Tham dự phong trào tìm về hiệp nhất này, cũng được mệnh danh là phong trào hiệp nhất, là những người cầu khẩn Chúa Ba Ngôi và tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Ðấng Cứu Thế, 3* không những từng cá nhân riêng rẽ, mà còn tụ họp lại nơi những cộng đoàn trong đó họ đã được nghe Phúc Âm, và mỗi người gọi các cộng đoàn ấy là Giáo Hội của họ và của Thiên Chúa. Tuy nhiên hầu như 4* tất cả, dầu mỗi người mỗi cách, đều ngưỡng vọng một Giáo Hội duy nhất và hữu hình của Thiên Chúa, một Giáo Hội thực sự phổ quát và được sai đến với toàn thể thế giới, để thế giới trở về với Phúc Âm và nhờ vậy, được cứu rỗi hầu làm vinh danh Thiên Chúa.
Vì vậy, một khi hoan hỷ cứu xét tất cả những điều ấy, và sau khi công bố học thuyết về Giáo Hội 5*, Thánh Công Ðồng này cũng thiết tha mong mỏi tái lập hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công Giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa 6*.
________________________________________
Chương I
Các Nguyên Tắc Công Giáo Về Hiệp Nhất 7*
2. Giáo Hội hiệp nhất và duy nhất. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã hiển hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh toàn thể nhân loại bằng cách cứu chuộc họ và đoàn tụ họ nên một 2. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: “Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha vậy, để chính họ cũng được nên một trong Ta và cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Gio 17,21). Người đã thiết lập trong Giáo Hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo Hội. Người ban cho các môn đệ Người một giới răn mới là tình yêu thương nhau 3, và hứa ban Thánh Thần an ủi 4, Ðấng vừa là Chúa vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi.
Sau khi đã chịu treo trên thập giá và được vinh hiển, Chúa Giêsu ban Thánh Thần Người đã hứa. Nhờ Thánh Thần ấy, Người đã kêu gọi và đoàn tụ dân của Giao Ước Mới, tức là Giáo Hội trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến như Thánh Tông Ðồ dạy: “Chỉ có một thân thể và một Thánh Thần cũng như anh em được kêu gọi bằng một hy vọng của ơn kêu gọi anh em: một Chúa, một Ðức Tin, một phép Rửa” (Eph 4,4-5). “Thực vậy, những ai được rửa tội trong Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô… Vậy, tất cả đều là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gal 3,27-28), Bản Hy Lạp). Chúa Thánh Thần ngự trong lòng các tín hữu, đổ đầy ơn và cai trị Giáo Hội, Ngài thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu ấy nơi các tín hữu, và liên kết tất cả trong Chúa Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài chính là Nguyên Lý Hiệp Nhất Giáo Hội. Ngài phân phát các ân sủng và phận vụ 5 để nhờ có nhiều chức vụ khác nhau mà Giáo Hội Chúa Kitô nên phong phú “hầu cho các thánh được hoàn thiện trong việc thi hành chức vụ và trong việc xây dựng thân thể Chúa Kitô” (Eph 4,12).
Nhưng để thiếp lập Giáo Hội thánh thiện của Người khắp nơi trên mặt đất cho tới tận thế, Chúa Kitô đã ủy thác 6 cho cộng đoàn mười hai Tông Ðồ nhiệm vụ giáo huấn, cai trị và thánh hóa. Trong số ấy Chúa đã chọn Phêrô và đã công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin. Người hứa trao 7 chìa khóa nước trời cho Phêrô và sau khi ông đã tuyên xưng tình yêu đối với Người, Người trao phó 8 toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt 9 trong sự hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy, Chúa Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc 10 và chủ chăn linh hồn chúng ta11.
Nhờ các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài, là các Giám Mục cùng với thủ lãnh là đấng kế vị Thánh Phêrô, trung thành rao giảng Phúc Âm và ban phát các bí tích, lại nhờ sự điều khiển yêu thương dưới tác động của Thánh Thần, Chúa Kitô muốn dân Người lớn lên và hoàn thành sự thông hiệp trong hiệp nhất, nghĩa là: cùng tuyên xưng một đức tin, cùng cử hành một nghi lễ phụng tự, cùng hòa hợp trong tình huynh đệ của gia đình Thiên Chúa.
Như thế, Giáo Hội là đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa, như dấu chỉ nêu cao cho muôn dân 12, khi đem Phúc Âm hòa bình phục vụ toàn thể nhân loại 13. Giáo Hội hành trình trong hy vọng tiến về cùng đích 14 là quê trời.
Ðó là mầu nhiệm thánh của sự hiệp nhất Giáo Hội trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô, dưới tác động của Thánh Thần trong nhiều phận vụ khác nhau. Mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm này là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con trong Thánh Thần.
3. Tương quan giữa anh em ly khai và Giáo Hội Công Giáo. Ngay từ buổi sơ khai, trong Giáo Hội độc nhất và duy nhất của Thiên Chúa đã xuất hiện 15 ít nhiều rạn nứt mà Thánh Tông Ðồ đã nặng lời quở trách như là đáng kết án 16. Nhưng trong các thời đại kế tiếp, phát sinh nhiều phân rẽ trầm trọng hơn và nhiều cộng đoàn đáng kể đã hoàn toàn ly khai khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, mà đôi khi cũng tại lỗi những người ở cả hai bên. Vậy ngày nay, những người sinh trưởng trong các Cộng Ðoàn ấy và thấm nhuần đức tin nơi Chúa Kitô không thể bị kết tội chia rẽ và Giáo Hội Công Giáo kính trọng, yêu thương họ như anh em. Thật vậy những người tin ở Chúa Kitô và đã được rửa tội đúng phép vẫn còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo một cách nào đó 8* cho dầu không được hoàn hảo. Hiển nhiên là các dị biệt dưới nhiều hình thức giữa họ và Giáo Hội Công Giáo về vấn đề giáo lý, đôi khi về kỷ luật hay cơ cấu Giáo Hội, gây cho việc hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội khá nhiều trở ngại và có khi lại là những trở ngại lớn lao mà phong trào hiệp nhất đang cố gắng vượt qua. Tuy nhiên một khi đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu phép rửa tội, họ đã được tháp nhập 17 vào Chúa Kitô và vì thế có quyền mang danh Kitô hữu 9* và xứng đáng được con cái của Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa 18.
Hơn nữa, trong các yếu tố hoặc tài sản xây dựng và làm sống động Giáo Hội, một số khá nhiều và tuyệt hảo có thể không nằm trong bình diện hữu hình của Giáo Hội Công Giáo như: Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, đời sống trong ơn thánh, đức tin, cậy, mến và các ơn nội tâm do Thánh Thần ban, cùng những yếu tố hữu hình: tất cả đã phát sinh từ Chúa Kitô và dẫn đưa về chính Người, thì đương nhiên cũng thuộc về quyền Giáo Hội duy nhất của Người 10*.
Các anh em ly khai với chúng ta cũng cử hành nhiều lễ nghi phụng vụ của Kitô giáo. Những lễ nghi ấy, chắc chắn có thể thực sự phát sinh đời sống ơn thánh và phải được công nhận là đường đưa đến sự thông hiệp vào ơn cứu rỗi, tuy cách thức có khác nhau tùy hoàn cảnh của mỗi Giáo Hội hay Cộng Ðoàn.
Do đó, dù chúng ta tin là họ còn khiếm khuyết, nhưng chính các Giáo Hội 19 và các Cộng Ðoàn tách riêng 11* ấy vẫn chưa trở thành vô nghĩa và vô giá trị trong mầu nhiệm cứu rỗi. Thật vậy, Thánh Thần của Chúa Kitô không khước từ sử dụng họ như những phương tiện cứu rỗi mà năng lực phát xuất từ chính sự sung mãn của ơn thánh và chân lý đã được ủy thác cho Giáo Hội Công Giáo 12*.
Nhưng các anh em tách riêng khỏi chúng ta, cá nhân cũng như Cộng Ðoàn và các Giáo Hội của họ, không được hưởng sự hiệp nhất đã được Chúa Giêsu Kitô rộng ban cho những kẻ Người đã tái sinh và cho sống chung trong một thân thể duy nhất và trong đời sống mới, sự hiệp nhất mà Thánh Kinh và Truyền Thống đáng kính của Giáo Hội đều tuyên xưng. Chỉ nhờ Giáo Hội Công Giáo của Chúa Kitô là “phương thế cứu rỗi chung” 13* ta mới có thể đạt được đầy đủ các phương tiện cứu rỗi. Thật ra chúng tôi tin Chúa đã ủy thác cho Cộng Ðoàn Tông Ðồ được Phêrô lãnh đạo tất cả sản nghiệp Tân Ước để tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô ở trần gian. Tất cả những ai đã thuộc về dân Chúa một cách nào đó đều phải tháp nhập vào thân thể ấy. Trên đường lữ thứ trần gian, mặc dù các chi thể 14*còn có thể phạm tội, dân Chúa vẫn lớn lên trong Chúa Kitô và được Thiên Chúa dịu dàng hướng dẫn theo chương trình nhiệm mầu của Người cho đến khi họ sung sướng đạt tới vinh quang trường cửu và sung mãn trong thành Giêrusalem trên trời.
4. Phong trào hiệp nhất. Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất. 15*.
Phải hiểu danh từ “phong trào hiệp nhất” là những hoạt động và sáng kiên được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự “đối thoại” giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.
Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy 16*dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế.
Dĩ nhiên, công cuộc chuẩn bị và hòa giải của những cá nhân riêng rẽ 17*, những người ao ước hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, tự bản tính khác với phong trào hiệp nhất; tuy nhiên, chúng không đối lập nhau vì cả hai đều do sự an bài kỳ diệu của Thiên Chúa.
Trong khi hoạt động cổ võ sự hiệp nhất, chắc chắn các tín hữu công giáo phải tỏ ra ân cần đối với các anh em ly khai, cầu nguyện cho họ, thông đạt cho họ các việc của Giáo Hội, khởi xướng bước đầu đi đến với họ. Trước hết cần thành thực và chú ý cân nhắc những gì phải canh tân và thực hiện trong chính Gia Ðình Công Giáo để đời sống của Giáo Hội làm chứng cách trung thành và rõ rệt hơn về giáo lý và những định chế do Chúa Kitô truyền lại qua các Thánh Tông Ðồ.
Dù Giáo Hội Công Giáo được thừa hưởng toàn thể chân lý do Chúa mạc khải và tất cả những phương tiện ban ân sủng, nhưng các phần tử của Giáo Hội lại chưa nhiệt thành sống các mầu nhiệm ấy cho đủ nên khuôn mặt của Giáo Hội ít chiếu giãi rực rỡ trước mặt các anh em ly khai và toàn thế giới, và nước Chúa cũng chậm bành trướng. Vì thế, tất cả mọi người Công Giáo phải hướng đến sự hoàn thiện Kitô giáo 20, mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh của mình cố gắng làm cho Giáo Hội, tuy đang mang trên mình sự khiêm tốn và hy sinh của Chúa Kitô 21, mỗi ngày một thêm trong sạch và mới mẻ cho tới khi Chúa Kitô cho trình diện trước mặt mình Giáo Hội vinh quang không một vết ố, nét nhăn 22.
Khi bảo toàn sự hiệp nhất trong những điều thiết yếu, hết mọi người trong Giáo Hội, tùy theo chức vụ được giao phó, cần giữ sự tự do phải có trong những hình thức khác nhau về đời sống thiêng liêng và kỷ luật trong các lễ nghi phụng tự và ngay cả trong việc khảo cứu thần học 18* về các chân lý mạc khải: nhưng trong mọi việc, hãy thực hành đức bác ái. hành động như thế, chính họ sẽ biểu hiện càng ngày càng đầy đủ hơn tính cách công giáo và tông truyền chính danh của Giáo Hội.
Ðàng khác, người công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận và tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Ngài làm bao giờ cũng kỳ diệu.
Cũng đừng quên rằng những gì do ơn Chúa Thánh Thần thực hiện nơi các anh em ly khai cũng có thể góp phần xây dựng chúng ta. Bất cứ những gì thực sự Kitô giáo đều không bao giờ đối lập với những chân giá trị của đức tin, trái lại còn luôn luôn có thể giúp chúng ta đi sâu hơn vào chính mầu nhiệm của Chúa Kitô và Giáo Hội.
Tuy nhiên, sự chia rẽ giữa các Kitô hữu ngăn trở Giáo Hội thực hiện đầy đủ tính cách công giáo riêng biệt của mình nơi những con cái tuy đã thuộc về Giáo Hội nhờ phép Rửa, nhưng còn xa cách chưa hoàn toàn thông hiệp với Giáo Hội. Hơn nữa, chính Giáo Hội cũng diễn tả khó khăn hơn tính cách công giáo đầy đủ của mình dưới mọi khía cạnh trong đời sống thực tế.
Thánh Công Ðồng sung sướng nhận thấy sự tham gia hoạt động cổ võ việc hiệp nhất của các tín hữu công giáo đang ngày càng phát triển và giao phó công việc ấy cho các Giám Mục ở khắp nơi trên toàn thế giới để các ngài khéo léo cổ võ và khôn ngoan hướng dẫn công cuộc này.
________________________________________
Chương II
Cách Tham Dự Phong Trào Hiệp Nhất
5. Mọi người phải lưu tâm đến sự hiệp nhất. Mối bận tâm tái lập hiệp nhất liên hệ đến toàn thể Giáo Hội, tín hữu cũng như chủ chăn, mỗi người đều phải lưu tâm tùy theo sức riêng của mình, hoặc trong đời sống Kitô hữu thường nhật, hoặc trong các công trình khảo cứu thần học và sử học. 19* Nỗi bận tâm này chứng tỏ một phần nào sự liên kết huynh đệ vốn tiềm tàng giữa các Kitô hữu và dẫn đưa tới sự hiệp nhất đầy đủ và toàn hảo theo lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
6. Canh tân Giáo Hội. Vì mọi việc canh tân Giáo Hội 1 cốt yếu nhằm sống trung thành với ơn gọi của Giáo Hội hơn, nên chắc chắn đó là lý do giải thích tại sao có phong trào hiệp nhất. Trên đường lữ hành, Giáo Hội được Chúa Kitô mời gọi canh tân luôn mãi, một sự canh tân mà Giáo Hội vì là một định chế nhân trần, bao giờ cũng cần đến. Do đó, nếu vì hoàn cảnh mà tuân giữ ít chu đáo một vài điểm hoặc về luân lý hoặc về kỷ luật Giáo Hội hoặc cả trong cách trình bày giáo lý – cách trình bày này phải được thận trọng phân biệt với chính kho tàng đức tin – thì phải lo cải tổ cho đúng mức khi thuận tiện 20*.
Vì thế, sự canh tân này có giá trị rất lớn đối với công cuộc hiệp nhất. Giáo Hội thực hiện cuộc canh tân ấy bằng nhiều hình thức khác nhau của đời sống Giáo Hội như phong trào Thánh Kinh và phụng vụ, việc rao giảng lời Chúa và giáo lý, hoạt động tông đồ giáo dân, những hình thức mới trong đời tu trì, nền đạo đức hôn nhân, học thuyết và hoạt động xã hội của Giáo Hội; phải coi những hình thức ấy như là đảm bảo và là điềm báo những tiến bộ tương lai của phong trào hiệp nhất.
7. Hoán cải tâm hồn. Không thể có phong trào hiệp nhất chính danh mà không có sự hoán cải nội tâm. Thật vậy, những ước vọng hiệp nhất bắt nguồn và chín mùi nhờ sự đổi mới tâm trí 2, từ bỏ chính mình và bác ái một cách hết sức quảng đại. Vì thế, phải nguyện xin Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta ơn thành thật quên mình, khiêm nhượng và hiền hòa trong khi phục vụ, quảng đại trong tình huynh đệ đối với tha nhân. Vị Tông Ðồ dân ngoại đã nói: “Tôi đây tù nhân trong Chúa, tôi khẩn khoản nài xin anh em hãy tiến bước đàng hoàng theo ơn kêu gọi mình đã được với tất cả lòng khiêm nhượng và hiền hậu, hãy nhẫn nại chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo lắng duy trì sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần trong mối dây hòa bình” (Eph 4,1-3). Lời khuyên nhủ ấy trước hết liên hệ đến những ai được nhắc lên chức thánh để tiếp tục sứ mệnh Chúa Kitô, Người đến giữa chúng ta “không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ người ta” (Mt 20,28).
Lời chứng sau đây của Thánh Gioan vốn còn giá trị trước những lỗi lầm hủy hoại hiệp nhất: “Nếu ta nói rằng mình vô tội, ta kể Người là kẻ dối trá và Lời của Người không ở trong chúng ta” (1Gio 1,10). Vậy chúng ta hãy khiêm nhường xin lỗi Chúa và xin lỗi những anh em ly khai, cũng như chúng ta tha kẻ có nợ chúng ta 21*.
Hết mọi Kitô hữu hãy nhớ luôn là càng cố gắng sống trong sạch hơn theo Phúc Âm, càng cổ võ và thực hiện sự hiệp nhất các Kitô hữu cách hữu hiệu hơn. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần, họ càng dễ dàng thắt chặt tình tương thân tương ái với nhau hơn 22*.
8. Hiệp nhất trong lời nguyện. Sự hoán cải tâm hồn và đời sống thánh thiện làm một với những lời khẩn cầu chung hay riêng cho sự hiệp nhất các Kitô hữu phải được coi như là linh hồn của tất cả phong trào hiệp nhất và xứng đáng mệnh danh là “sự hiệp nhất thiêng liêng”.
Người công giáo thường có thói quen hội nhau để cầu nguyện cho Giáo Hội được hiệp nhất, lời cầu nguyện mà chính Ðấng Cứu Thế trước ngày tử nạn đã khẩn khoản dâng lên Chúa Cha: “Xin cho tất cả nên một” (Gio 17,21).
Trong vài trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như những dịp được chính thức tổ chức để cầu nguyện “cho hiệp nhất” và trong các buổi hội thảo về hiệp nhất, chẳng những người công giáo được phép mà còn phải được khuyến khích hiệp nhau cầu nguyện với anh em ly khai. Những kinh nguyện chung như thế là phương tiện rất hữu hiệu để xin ơn hiệp nhất và tiêu biểu thực sự mối dây còn đang liên kết người công giáo với anh em ly khai: “Vì đâu có hai ba người nhân danh Thầy hội họp lại, Thầy sẽ giữa họ” (Mt 18,20) 23*.
Nhưng không được phép áp dụng bừa bãi việc “thông dự vào sự thánh” 24* như phương thế để tái lập hiệp nhất các Kitô hữu. Việc thông dự ấy đặc biệt tùy thuộc hai nguyên tắc: biểu hiệu sự duy nhất của Giáo Hội và tham dự các phương tiện ban ân sủng. Nhiều khi, việc biểu hiệu sự duy nhất của Giáo Hội ngăn trở sự hiệp thông, nhưng đôi khi nhu cầu ban ân sủng lại khuyến khích sự hiệp thông ấy. Về phương cách hành động trong thực tế, hãy theo mọi hoàn cảnh thời gian, không gian và nhân sự được Giám Mục bản quyền khôn ngoan định đoạt, trừ khi Tòa Thánh hay Hội Ðồng Giám Mục theo qui chế riêng ấn định thể khác.
9. Tìm hiểu nhau. Phải biết tâm trạng của các anh em ly khai. Vì thế, cần tìm hiểu họ trong chân lý và với lòng nhân hậu. Người công giáo đã được chuẩn bị đầy đủ cần phải tìm hiểu sâu rộng hơn về học thuyết và lịch sử, về đời sống tu đức và phụng tự, về tâm lý tôn giáo và văn hóa riêng của anh em ly khai. Ðể đạt được kết quả ấy, các buổi hội thảo song phương, nhất là khi bàn về các vấn đề thần học, sẽ giúp ích rất nhiều. Trong các cuộc hội thảo ấy, mọi người được bình đẳng bàn luận, miễn là những người tham dự, dưới sự giám sát của Giám Mục, thật sự là những nhà chuyên môn. Nhờ đối thoại như thế lập trường của Giáo Hội Công Giáo được nhận thức rõ ràng hơn. Rồi cũng như thế tư tưởng của anh em ly khai được am hiểu hơn và chúng ta có thể trình bày đức tin cho họ cách thích hợp hơn25*.
10. Sự huấn luyện trên phương diện hiệp nhất. Thần học và các môn học khác, nhất là sử học, cũng phải được trình bày theo chiều hướng hiệp nhất hầu đáp ứng với thực tại cách chính xác hơn.
Vậy các chủ chăn và linh mục tương lai phải am tường khoa thần học đã được trình bày xác đáng như thế, chứ đừng theo lối bút chiến 26*, nhất là trong những vấn đề liên hệ đến những tương quan giữa Giáo Hội Công Giáo và các anh em ly khai.
Sự giáo dục và huấn luyện tu đức thiết yếu của các tín hữu và tu sĩ tùy thuộc rất nhiều ở nền giáo dục của các linh mục.
Người công giáo dấn thân hoạt động truyền giáo trong những phần đất chung với các Kitô hữu khác, nhất là trong lúc này, phải am tường các vấn đề và các thành quả do phong trào hiệp nhất đem đến cho việc tông đồ của họ 27*.
11. Cách thức diễn tả và trình bày đức tin. Phương pháp và cách diễn tả đức tin công giáo không được gây trở ngại cho việc đối thoại với những người anh em. Cần phải trình bày rõ ràng nguyên vẹn giáo lý. Không gì phá hoại hiệp nhất cho bằng chủ trương xu thời sai lệch 28*, nó làm tổn thương giáo lý công giáo thuần túy và làm lu mờ ý nghĩa đích thực và chắc chắn của những giáo lý này.
Ðồng thời, đức tin công giáo phải được giải thích sâu xa và chính xác hơn bằng cách thức và ngôn từ để các anh em ly khai có thể hiểu đúng nghĩa.
Hơn nữa, khi cùng các anh ly khai tìm hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa trong cuộc đối thoại hiệp nhất, các nhà thần học công giáo gắn bó với giáo lý của Giáo Hội, phải tiến hành với lòng yêu mến chân lý, bác ái và khiêm nhường. Khi so sánh các giáo lý với nhau, phải nhờ rằng có một “phẩm trật”29* trong các chân lý của giáo lý công giáo vì liên hệ giữa các chân lý ấy với nền tảng đức tin không đồng đều. Quan niệm như thế tức là đã vạch ra được một đường hướng để nhờ sự tranh đua thân hữu, tất cả được thúc đẩy tìm hiểu sâu rộng và biểu hiệu rõ ràng hơn nguồn phong phú khôn lường của Chúa Kitô 3.
12. Cộng tác với anh em ly khai. Trước mặt muôn dân 30*, toàn thể các Kitô hữu hãy tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi, vào Con Thiên Chúa nhập thể, cứu chuộc và là Chúa chúng ta; và trong sự tôn trọng lẫn nhau, hãy cùng nỗ lực làm chứng cho niềm trông cậy của chúng ta, niềm trông cậy không bao giờ luống công. Vì ngày nay sự hợp tác trong các hoạt động xã hội đang được thiết lập rộng rãi, nên hết mọi người đều được kêu gọi để chung lưng làm việc, huống chi những người tin nơi Chúa nhất là các Kitô hữu, vì họ đã được mang danh Chúa Kitô. Sự hợp tác của tất cả các Kitô hữu nói lên cách hùng hồn tình liên kết đang thắt chặt họ lại với nhau và biểu dương khuôn mặt của Chúa Kitô Tôi Tớ cách rực rỡ hơn. Sự hợp tác này đã được thiết lập trong nhiều quốc gia và cần được cải thiện thêm mãi, nhất là trong những vùng tiến bộ về mặt xã hội cũng như kỹ thuật bằng cách làm cho nhân phẩm được tôn trọng đúng mức, bằng cách cổ võ hòa bình hoặc nỗ lực áp dụng Phúc Âm vào đời sống xã hội, bằng cách phát triển khoa học và nghệ thuật trong tinh thần Kitô giáo, bằng cách áp dụng đủ loại phương dược chống các khổ nạn của thời đại chúng ta, như nạn đói ăn, thiên tai, mù chữ, nghèo túng, vô gia cư, bất bình đẳng trong việc phân phối phẩm vật. Nhờ sự cộng tác ấy, tất cả mọi kẻ tin vào Chúa kitô có thể dễ dàng học hỏi cho biết cách tìm hiểu, tôn trọng nhau hơn và dọn đường tiến tới hiệp nhất các Kitô hữu.
________________________________________
Chương III
Các Giáo Hội Và Cộng Ðoàn Giáo Hội 31*
Ly Khai Với Tông Tòa Roma
13. Phân loại. Giờ đây, chúng ta đưa mắt nhìn đến hai khối phân ly chính xúc phạm đến chiếc áo liền một tấm của Chúa Kitô 32*.
Khối phân ly thứ nhất đã nẩy sinh ở Ðông Phương, hoặc vì để phản đối các công thức tín lý của các Công Ðồng Ephêsô 33* và Calcedonia 34*, hoặc sau này vì sự cắt đứt 35* hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Chủ Ðông Phương và Tòa Thánh Roma.
Thứ đến, hơn bốn thế kỷ sau, khối phân ly thứ hai phát sinh ở Tây Phương do những biên cố cùng được mệnh danh là Cải Cách. Từ đó, nhiều Cộng Ðoàn, quốc gia hoặc giáo đoàn đã ly khai với Tòa Thánh Roma. Trong số ấy còn có những Cộng Ðồng duy trì phần nào những truyền thống và cơ cấu công giáo, đáng kể nhất là Cộng Ðoàn Anh Giáo.
Các mối chia rẽ ấy rất khác nhau chẳng những về nguồn gốc, không gian và thời gian, nhưng nhất là về bản chất và tầm quan trọng của các vấn đề liên hệ đến đức tin và cơ cấu Giáo Hội.
Vì thế, tuy không coi thường những hoàn cảnh dị biệt của các Cộng Ðoàn Kitô hữu khác nhau ấy, tuy không bỏ qua những mối liên lạc còn đang nối kết họ với nhau, bất chấp những mối chia rẽ hiện có, Thánh Công Ðồng này quyết định đề ra những nhận định sau đây để mọi người biết khôn ngoan hành động mưu cầu hiệp nhất.
I. Nhận Ðịnh Ðặc Biệt Về Các Giáo Hội Ðông Phương
14. Tính chất lịch sử riêng biệt của các Giáo Hội Ðông Phương. Trong nhiều thế kỷ, các Giáo Hội Ðông và Tây Phương đã đi theo đường lối riêng của mình, nhưng vẫn liên kết với nhau trong tình huynh đệ nhờ hiệp thông trong đức tin và đời sống bí tích; do sự thỏa thuận chung, Tòa Thánh Roma can thiệp mỗi khi các Giáo Hội ấy bất đồng quan điểm với nhau về đức tin hay về kỷ luật. Thánh Công Ðồng hân hoan nhắc lại cho mọi người một trong những điều quan trọng là, ở Ðông Phương đang phát triển nhiều Giáo Hội riêng biệt hay địa phương 36*, đứng đầu là các Giáo Hội có Thượng Phụ 37*, trong đó có nhiều Giáo Hội hãnh diện vì được chính các Tông Ðồ thiết lập 38*. Vì thế các tín hữu đông phương đã và đang mang nặng mối bận tâm và âu lo duy trì những liên lạc thân hữu trong hiệp thông đức tin và đức ái, là những liên lạc phải có giữa các Giáo Hội địa phương như giữa anh em ruột thịt39*.
Cũng đừng quên rằng, các Giáo Hội Ðông Phương từ khởi đầu đã từng có một kho tàng cống hiến cho Giáo Hội Tây Phương nhiều yếu tố về phụng vụ, về truyền thống tu đức và luật pháp. Còn một sự kiện khác không nên coi thường là, những tín điều căn bản về đức tin Kitô giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể bởi Ðức Trinh Nữ Maria, đã được định tín trong các Công Ðồng Chung khai diễn tại Ðông Phương 40*. Các Giáo Hội ấy đã và đang chịu nhiều khổ đau để gìn giữ đức tin ấy.
Di sản do các Tông Ðồ truyền lại đã được đón nhận qua nhiều hình thức và cách thế khác nhau, do ngay từ thuở ban đầu của Giáo Hội, di sản ấy cũng được giải thích khác nhau đây đó tùy theo thiên tài và cảnh sống riêng. Không kể những nguyên nhân ngoại tại, bấy nhiêu yếu tố 41*, cộng với sự thiếu bác ái và thông cảm lẫn nhau, đã mở đường cho nhiều mối chia rẽ phát sinh.
Vì vậy, Thánh Công Ðồng khuyến dụ mọi người, đặc biệt là những ai muốn hoạt động tái lập sự hiệp thông trọn vẹn như các Giáo Hội Ðông Phương và Giáo Hội Công Giáo hằng mong mỏi hay nhận định chính xác về hoàn cảnh cá biệt đã khai sinh và phát triển các Giáo Hội Ðông Phương, và về đặc tính của mối liên lạc đã có giữa các Giáo Hội ấy với Tòa Thánh Roma trước thời phân ly cũng như hãy tạo cho mình một quan niệm chính đáng về tất cả những điểm nêu trên. Chu đáo giữ được những điều ấy là đã đóng góp rất nhiều cho cuộc đối thoại mong muốn kia 42*.
15. Truyền thống phụng vụ và tu đức của các Giáo Hội Ðông Phương. Mọi người đều thấy hiển nhiên là các tín hữu đông phương rất mộ mến cử hành phụng vụ Thánh, nhất là việc cử hành Phép Thánh Thể, nguồn sống của Giáo Hội và đảm bảo vinh quang đời sau, nhờ đó các tín hữu hiệp nhất với giám mục được đến gần Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con Ngôi Lời Nhập Thể đã chịu đau khổ và được hiển vinh, trong ơn tràn trề của Chúa Thánh Thần họ được thông hiệp cùng Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh và “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2P 1,4). Vì vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng Giáo Hội ấy, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và bành trướng 1, và sự thông hiệp giữa các Giáo Hội ấy tỏ rõ qua việc đồng tế.
Trong nghi lễ phụng vụ này, Ðức Maria trọn đời đồng trinh hằng được các tín hữu đông phương ca ngợi bằng những bài thánh ca tuyệt diệu. Công Ðồng Chung Ephêsô đã long trọng tuyên bố Ngài là Mẹ Thiên Chúa Rất Thánh, để Chúa Kitô được nhận thật là chính Con Thiên Chúa và là Con Người theo Thánh Kinh. Họ cũng ca tụng nhiều vị thánh, trong số ấy có các Thánh Giáo Phụ của toàn thể Giáo Hội.
Vì các Giáo Hội ấy, mặc dù ly khai, vẫn có các bí tích đích thực nhờ sự kế vị các Tông Ðồ, nhất là Chức Linh Mục và Phép Thánh Thể, bởi đó, họ còn liên kết chặt chẽ với chúng ta; cho nên một vài hình thức thông dự vào sự thánh, trong những trường hợp thuận tiện và với sự chấp thuận của giáo quyền, chẳng những là có thể thực hiện mà còn đáng khuyến khích nữa 43*.
Ở Ðông Phương cũng còn thấy nhiều truyền thống tu đức phong phú, tiêu biểu nhất là đời sống đan viện, vì tại đây, nền tu đức đan viện đã phát triển ngay từ thời vang son của các Thánh Giáo Phụ, và về sau, còn lan tràn sang nhiều nơi ở Tây Phương. Ðịnh chế dòng tu Latinh phát xuất, và sau đó, không ngừng nhận được sinh lực mới từ nền tu đức ấy như từ nguồn mạch của mình. Vì vậy, thiết tha kêu mời những người Công Giáo hãy nâng tìm đến kho tàng thiêng liêng của các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương hơn vì kho tàng ấy nâng toàn thể con người đến chỗ chiêm ngưỡng những sự thần linh.
Mọi người đều biết rằng: thông hiểu, kính trọng, giữ gìn và phát triển di sản phụng vụ và tu đức rất phong phú của các tín hữu đông phương là việc tối quan trọng để trung thành bảo toàn truyền thống Kitô giáo và để thực hiện sự giao hòa các Kitô hữu đông phương với tây phương.
16. Quy luật riêng của các Giáo Hội Ðông Phương. Hơn nữa, ngay từ buổi đầu, các Giáo Hội Ðông Phương đã theo những qui luật riêng được các Thánh Giáo Phụ, các Công Ðồng và cả các Công Ðồng Chung phê chuẩn. Vì sự khác biệt về phong tục và tập quán đã nhắc tới trên kia chẳng những rất ít cản trở sự hiệp nhất mà còn tăng thêm vẻ đẹp của Giáo Hội và góp phần không nhỏ vào việc chu toàn sứ mệnh của Giáo Hội, nên để đánh tan mọi nghi ngờ, Thánh Công Ðồng tuyên bố: các Giáo Hội Ðông Phương, đang khi nhớ đến sự hiệp nhất cần thiết của toàn thể Giáo Hội 44*, vẫn có quyền tự trị theo các kỷ luật riêng, vì điều này phù hợp với đặc tính của tín hữu họ và có thể mưu ích cho các linh hồn hơn. Ðây là một nguyên tắc truyền thống người ta thường không noi giữ, nhưng, giữ trọn được là đã thỏa mãn một trong những điều kiện tối cần để tái lập hiệp nhất.
17. Tính chất đặc biệt của các Giáo Hội Ðông Phương về những vấn đề giáo lý. Những gì đã trình bày về sự dị biệt chính đáng trên kia cũng áp dụng được cho những phương thức trình bày giáo thuyết thần học khác nhau. Thực thế, trên đường đi tìm chân lý mạc khải, ở đông cũng như ở tây phương, có nhiều phương pháp và tiến trình khác nhau để nhận thức và tuyên xưng những sự thần linh. Do đó, không đáng ngạc nhiên khi thấy có vài khía cạnh của mầu nhiệm mạc khải đôi khi được một bên hiểu đúng và trình bày sáng sủa hơn bên kia, thành thử những công thức thần học khác nhau ấy phải được coi là bổ túc hơn là đối lập nhau. Còn về những truyền thống thần học chân chính của các tín hữu đông phương, phải công nhận là chúng ăn rễ cách tuyệt hảo trong Thánh Kinh, lại được khai triển và biểu hiện trong đời sống PhụngVụ, được nuôi dưỡng bằng truyền thống Tông Ðồ, sống động trong các văn phẩm của các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương cũng như của các tác giả tu đức, chúng giúp xây dựng một cuộc đời chính trực và giúp chiêm ngưỡng đầy đủ chân lý Kitô giáo.
Tạ ơn Chúa vì nhiều tín hữu đông phương con cái Giáo Hội Công Giáo đang sống hoàn toàn hiệp thông 45* với các anh em thuộc truyền thống tây phương, mà vẫn giữ gìn và tha thiết sống phần gia sản ấy cho tinh ròng và đầy đủ hơn, Thánh Công Ðồng này tuyên bố rằng: toàn bộ di sản tu đức và phụng vụ, kỷ luật và thần học trong các truyền thống ấy thuộc về đặc tính công giáo và tông truyền trọn vẹn của Giáo Hội.
18. Kết luận. Sau khi nhắc tất cả những điều ấy, Thánh Công Ðồng này lập lại những gì đã được các Thánh Công Ðồng trước cũng như các Ðức Giáo Hoàng Roma tuyên bố: để tái lập và duy trì sự thông hảo và hiệp nhất, “chẳng còn buộc anh em gánh nặng nào khác ngoài những sự cần thiết” (CvSđ 15,28). Công Ðồng cũng tha thiết ước mong từ đây, mọi cố gắng đều nhằm thực hiện dần dần sự hiệp nhất 46* trong những định chế và hình thức khác nhau của đời sống Giáo Hội, nhất là trong kinh nguyện và đối thoại huynh đệ về giáo lý và về các nhu cầu mục vụ khẩn thiết hơn của thời đại chúng ta. Cũng thế Công Ðồng khuyên các chủ chăn và tín hữu của Giáo Hội Công Giáo hãy giao hảo với những kẻ không còn ở đông phương nhưng sống xa quê nhà, 47* để gia tăng sự cộng tác thân ái với họ hơn trong tinh thần bác ái và loại trừ những hình thức ganh đua, tranh tụng. Nếu mọi người hết lòng xúc tiến công cuộc này, Thánh Công Ðồng hy vọng rằng, sau khi bức tường ngăn cách Giáo Hội Ðông Tây bị phá đổ, sẽ chỉ còn ngôi nhà duy nhất được củng cố trên đá góc là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng sẽ làm cho cả hai nên một 2.
II. Các Giáo Hội Và Cộng Ðoàn Giáo Hội Ly Khai Tây Phương
19. Tình trạng chung. Các Giáo Hội Cộng Ðoàn Giáo Hội đã ly khai với Tông Tòa Roma trong thời khủng hoảng trầm trọng nhất phát sinh ở Tây Phương từ cuối thời Trung Cổ hoặc mãi về sau này, vẫn còn liên kết với Giáo Hội Công Giáo bằng một mối dây thân thích và một sự liên lạc đặc biệt vì lớp dân Kitô giáo ấy đã sống hiệp thông với Giáo Hội rất lâu trong những thế kỷ trước.
Các Giáo Hội và Cộng Ðoàn Giáo Hội ấy vì sự dị biệt nguồn gốc, giáo lý và đời sống tu đức chẳng những khác với chúng ta mà còn khác biệt với nhau nữa, nên rất khó diễn tả cho đúng các Giáo Hội ấy và chúng tôi có ý làm điều ấy nơi đây.
Mặc dù phong trào hiệp nhất và ước vọng sống hòa bình với Giáo Hội Công Giáo chưa được đề cao khắp nơi, nhưng chúng tôi cũng hy vọng rằng ý thức hiệp nhất và sự tôn trọng lẫn nhau sẽ dần lớn lên trong mọi người.
Phải nhìn nhận rằng, có nhiều dị biệt quan trọng giữa các Giáo Hội và Cộng Ðoàn Giáo Hội ấy với Giáo Hội Công Giáo, chẳng những về phương diện lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hóa, nhưng nhất là về cách giải thích chân lý mạc khải. Ðể có thể thiết lập cuộc đối thoại hiệp nhất dễ dàng hơn, bất chấp những dị biệt đó, sau đây chúng tôi muốn đề ra một vài điểm có thể và phải là nền tảng và yếu tố thúc đẩy cho cuộc đối thoại ấy 48*.
20. Việc tuyên xưng Chúa Kitô. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Kitô hữu đang công khai tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa, Ðấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, để làm vinh danh Thiên Chúa độc nhất là Cha, Con và Thánh Thần. Thực ra chúng tôi biết nơi họ có nhiều khác biệt quan trọng với giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, khác biệt ngay cả về Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, về công trình cứu chuộc, và do đó, về mầu nhiệm và chức vụ của Giáo Hội cũng như về vai trò của Ðức Maria trong công cuộc cứu thế. Nhưng chúng tôi vui mừng khi thấy các anh em ly khai hướng về Chúa Kitô như là nguồn mạch và trung tâm của sự hiệp thông Giáo Hội. Xúc động vì ước vọng kết hiệp với Chúa Kitô, họ được thúc đẩy để càng ngày càng tìm về hiệp nhất và làm chứng đức tin của mình khắp muôn dân thiên hạ.
21. Học hỏi Thánh Kinh. Lòng yêu mến, kính trọng và gần như tôn sùng Thánh Kinh khiến các anh em của chúng ta bền chí và hăng say học hỏi Sách Thánh: vì Phúc Âm “là quyền năng Thiên Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu, trước tiên là Do Thái, kế đến Hy Lạp” (Rm 1,16).
Nhờ cầu khẩn Thánh Thần, 49* họ tìm Thiên Chúa ngay trong Thánh Kinh, Ðấng như nói với họ trong Chúa Kitô, Ðấng các tiên tri loan báo trước và là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể vì chúng ta. Trong Thánh Kinh, họ chiêm ngưỡng cuộc đời Chúa Kitô và những gì Thầy Chí Thánh đã dạy và đã làm để cứu rỗi loài người, họ cũng chiêm ngưỡng các mầu nhiệm, nhất là mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Người.
Tuy các Kitô hữu ly khai với chúng ta xác nhận thần quyền của Sách Thánh, nhưng mỗi người mỗi khác, họ cảm nghĩ khác chúng ta về sự liên quan giữa Thánh Kinh và Giáo Hội; trong đó theo đức tin công giáo, giáo huấn đích thực đặc biệt có thẩm quyền trong việc giải thích và rao giảng Lời Chúa đã được ghi chép.
Tuy nhiên trong chính việc đối thoại, Lời Chúa là dụng cụ tuyệt hảo trong bàn tay toàn năng của Thiên Chúa để đạt tới sự hiệp nhất được Ðấng Cứu Thế tỏ bày cho mọi người.
22. Các bí tích. Nhờ Phép Rửa được ban đúng như Chúa đã thiết lập và được lãnh nhận với đủ dự kiện tâm hồn cần thiết, con người thật sự được tháp nhập vào Chúa Kitô đã chịu đóng đinh và vinh hiển, và được tái sinh để thông phần sự sống Thiên Chúa theo lời Thánh Tông Ðồ: “Anh em được mai táng với Người trong phép Rửa, anh em cũng sẽ được sống lại với Người bởi đã tin vào Thiên Chúa tác thành, chính Ðấng đã khiến Người từ trong kẻ chết sông lại” (Col 2,12) 3.
Vậy phép Rửa tạo nên mối dây hiệp nhất tất cả những kẻ đã được tái sinh. Nhưng phép Rửa, tự bản tính, mới chỉ là bắt đầu và khởi điểm, vì phép Rửa trọn vẹn nhằm đạt tới sự sống sung mãn trong Chúa Kitô. Như thế, phép Rửa qui hướng về việc tuyên xưng trọn vẹn đức tin, sát nhập trọn vẹn vào định chế cứu rỗi như chính Chúa Kitô đã muốn và sau cùng kết nhập trọn vẹn vào sự hiệp thông thánh thể.
Những cộng đoàn Giáo Hội ly khai với chúng ta, mặc dù không hiệp nhất đầy đủ với chúng ta như phép Rửa đòi hỏi, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của Mầu Nhiệm Thánh Thể nhất là vì thiếu bí tích Truyền Chứa Thánh 50*, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc Thánh họ đã tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa nhờ hiệp thông với Chúa Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người. Do đó, phải dùng giáo lý về Tiệc Thánh của Chúa, về các bí tích khác, về việc phụng tự cũng như về các thừa tác vụ của Giáo Hội làm đối tượng cho cuộc đối thoại.
23. Cuộc sống với Chúa Kitô. Ðời sống Kitô hữu của các anh em ấy được nuôi dưỡng bằng đức tin vào Chúa Kitô và được duy trì nhờ ân sủng của phép Rửa và nhờ nghe Lời Thiên Chúa. Ðời sống ấy biểu lộ trong kinh nguyện riêng, trong việc suy niệm Thánh Kinh, trong đời sống gia đình Kitô giáo, trong việc phụng tự của cộng đoàn tụ họp để ngợi khen Thiên Chúa. Hơn nữa, đôi khi trong các nghi lễ phụng tự của họ cũng thấy có những yếu tố nổi bật thuộc nền phụng vụ cổ kính chung.
Ðức tin vào Chúa Kitô đã kết quả trong những lời ngợi khen và cảm tạ vì các ơn lành nhận được do Chúa ban; thêm vào đó là ý thức mạnh mẽ về đức công bình và tình yêu chân thành đối với tha nhân. Ðức tin sống động ấy cũng phát sinh nhiều tổ chức nhằm xoa dịu sự cùng khổ tinh thần và thể xác, giáo dục, tuổi trẻ, cải tiến những hoàn cảnh xã hội của cuộc sống thành nhân đạo hơn và củng cố nền hòa bình thế giới.
Mặc dù, trước các vấn đề luân lý, có nhiều Kitô hữu không luôn hiểu Phúc Âm cùng một cách như người công giáo và không cùng nhận những giải pháp giống nhau trước những vấn đề khó khăn của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, như chúng ta, họ cũng muốn giữ vững lời Chúa Kitô như là nguồn mạch của đức hạnh Kitô giáo và tuân theo lời Thánh Tông Ðồ dạy: “Hết thảy công việc anh em làm, bất cứ lời nói hay hành động, hãy thực hiện tất cả nhân danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Người cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Col 3,17). Từ đó, có thể bắt đầu cuộc đối thoại hiệp nhất về việc áp dụng Phúc Âm vào các vấn đề luân lý.
Kết Luận
24. Sau khi đã vắn tắt trình bày những điều kiện và các nguyên tắc chỉ đạo để thực hiện công cuộc hiệp nhất, chúng tôi tin tưởng hướng về tương lai. Thánh Công Ðồng này khuyến cáo các tín hữu hãy tránh mọi sự nhẹ dạ và nhiệt thành thiếu khôn ngoan có thể phương hại tới việc phát triển công cuộc hiệp nhất. Thật vậy, hoạt động hiệp nhất của họ không thể thành tựu được, nếu nó không hoàn toàn và thực sự là công giáo, nghĩa là trung thành với chân lý do các Tông Ðồ và các Giáo Phụ 51* truyền lại và phù hợp với đức tin luôn được Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng, đồng thời hướng tới sự sung mãn nhờ đó Chúa muốn Thân Thể Người được lớn lên qua các thời đại.
Thánh Công Ðồng này luôn khẩn khoản ước mong cho các sáng kiến của con cái Giáo Hội Công Giáo được tiến triển hòa hợp với các sáng kiến của anh em ly khai mà không cản trở đường lối của Thiên Chúa Quan Phòng, cũng như không gây thiên kiến làm phương hại đến những ơn Chúa Thánh Thần thúc đầy sau này. 52* Hơn nữa Thánh Công Ðồng cũng tuyên bố là mình luôn ý thức rằng ý nguyện thánh thiện giao hòa toàn thể Kitô hữu trong sự hiệp nhất của Giáo Hội duy nhất và độc nhất của Chúa Kitô vượt quá sức lực và khả năng loài người. Vì thế, Thánh Công Ðồng đặt hết hy vọng vào lời Chúa Kitô nguyện cầu cho Giáo Hội, vào tình thương của Chúa Cha đối với chúng ta và vào quyền lực của Chúa Thánh Thần. “Hy vọng không bị hổ thẹn: vì tình yêu của Thiên Chúa giãi khắp lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần Ðấng đã được ban cho ta” (Rm 5,5).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
________________________________________
Chú Thích:
1* Cũng như tựa đề của Sắc Lệnh “Về Hiệp Nhất”, những tiếng “tái lập hiệp nhất” chỉ định mục đích của sắc lệnh. Lời mở đầu khai triển vắn tắt mục đích này nhằm vào việc hiệp nhất tất cả Kitô hữu.
1 Xem 1 Cor 1,13.
2* Sự phân ly giữa các Kitô hữu là một gương xấu, vì lời cầu hiệp nhất của Chúa Kitô mà mọi người đều tuyên xưng đã bị chà đạp và vì Kitô giáo rao giảng bác ái trong khi các Kitô hữu lại chia rẽ nhau. Sự phân rẽ này đã làm đình trệ công cuộc Phúc Âm hóa: bởi lẽ Phúc Âm do các cộng đồng Kitô hữu dị biệt loan báo ngay giữa mối bất đồng và cả đến mâu thuẫn với nhau.
3* Câu này ám chỉ về việc tuyên xưng đức tin mà Hội Ðồng Hiệp Nhất các Giáo Hội năm 1961 tại Tân Ðề Li đã chấp nhận.
4* Tiếng này đã được thêm vào theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng, bởi vì có vài anh em Tin Lành chối bỏ việc Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo Hội hữu hình.
5* Học thuyết này đã được tuyên bố trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, công bố cùng ngày với Sắc Lệnh Hiệp Nhất.
6* Dù không nói rõ, sắc lệnh này hủy bỏ và thay thế một số huấn giới ban hành trước kia do giáo luật hoặc do những sắc lệnh ngày 5 tháng 6 năm 1948 và 20 tháng 12 năm 1949 về mối tương quan với những người ngoài công giáo.
7* Tựa đề của chương này lúc trước là “Các nguyên tắc về hiệp nhất công giáo”. Qua đó, dường như người ta muốn nói rằng có nhiều “kiểu” hiệp nhất (Tin Lành, Công Giáo, v.v…). Thực ra chỉ có một sự hiệp nhất mà mỗi cộng đồng Kitô hữu tham gia vào theo những nguyên tắc riêng của mình. Bởi vậy người ta thay đổi tựa đề lại gọi là: “Các nguyên tắc công giáo về hiệp nhất”. Ðoạn đầu của chương này (số 2) là một lời nhắc lại vắn tắt học thuyết Công Giáo về tính cách duy nhất và hiệp nhất của Giáo Hội do Chúa Kitô sáng lập. Phải tôn trọng những chân lý này trong cuộc đối thoại với anh em ly khai.
2 Xem Gio 4,9; Col 1,18-20; Gio 11,52.
3 Xem Gio 13,34.
4 Xem Gio 16,7.
5 Xem 1Cor 12,4-11.
6 Xem Mt 28,18-20, so sánh với Gio 20,21-23.
7 Xem Mt 16,19, so sánh với Mt 18,18.
8 Xem Lc 22,32.
9 Xem Gio 21,15-17.
10 Xem Eph 2,20.
11 Xem 1P 2,25; CÐ Vat. I, Hiến chế Pastor Aetermus; Coll, Lac, 7,482a.
12 Xem Is 11,10-12.
13 Xem Eph 2,17-18, so sánh với Mc 16,15.
14 Xem 1P 1,3-9.
15 Xem 1Cor 11,18-19; Gal 1,6-9; 1Gio 2,18-19.
16 Xem 1Cor 1,11tt; 11,22.
8* Sắc Lệnh này tránh gọi: những Kitô hữu không công giáo là phần tử của Giáo Hội, họ liên kết một cách nào đó với Giáo Hội Công Giáo nhất là nhờ phép Rửa Tội, nhưng họ không được hưởng dụng trọn vẹn sự sung mãn của Giáo Hội.
17 Xem CÐ Firenze, khóa VIII (1439), Sắc Lệnh Exultate Deo: Mansi 31, 1055A.
9* Tất cả những ai kết hiệp với Chúa Kitô qua phép Rửa Tội thành sự đều được gọi là Kitô hữu.
18 Xem T. Augustinô, In Ps. 32, Enarr, II 29: PL 36, 299.
10* Tất cả những tài sản thiêng liêng mà những người không công giáo thừa hưởng đã được Chúa Kitô trao gởi cho Giáo Hội Người là Giáo Hội Công Giáo.
19 Xem CÐ Lateranô IV (1215), Hiến chế IV: Mansi 22, 990. – CÐ Lyon II (1274), tuyên xưng đức tin của Michael Palaeologiô: Mansi 24, 71 E. – CÐ Firenze, khóa VI (1439), Ðịnh tín Laerentur coeli: Mansi 31, 1026 E.
11* Sắc lệnh này dùng tiếng latinh “seiunctae” nghĩa là “tách riêng”, tiếng này có vẻ nhẹ hơn là “ly khai”.
12* Ðức Giáo Hoàng đã thêm tiếng “Công Giáo”; quả thực Giáo Hội Công Giáo là chính Giáo Hội đã được Chúa Kitô sáng lập.
13* Câu này trích từ một bức thư Tòa Thánh gửi Ðức Hồng Y Cushing ở Boston (ngày 8 tháng 8 năm 1949) nói rằng Giáo Hội Công Giáo là một phương tiện cứu rỗi cần thiết; đồng thời tài liệu ấy cũng cho biết mối liên lạc nào với Giáo Hội Công Giáo đủ để được cứu rỗi. Dẫn chứng câu này, Công Ðồng chuẩn nhận học thuyết ấy làm học thuyết của mình.
14* Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng, tiếng các “chi thể” đã được thêm vào để nhấn mạnh rằng Giáo Hội “tự bản tính” không thể nhiễm tội (Eph 5,27), song chính các chi thể của Giáo Hội mới chịu trách nhiệm về tội lỗi của họ.
15* Sắc lệnh mời gọi tất cả những người công giáo góp phần tích cực và khôn ngoan vào công cuộc hiệp nhất.
16* Ðoạn này đề nghị vài phương thế có thể hỗ trợ cho nguyên nhân hiệp nhất: tránh tất cả những gì có thể đụng chạm tới các anh em ly khai, đối thoại, cầu nguyện, canh tân đời sống thiêng liêng và cải cách những gì cần thiết.
17* Trước tiên là vấn đề những người đi đến Giáo Hội với tư cách cá nhân. Người ta tránh dùng chữ “trở lại”. Những đoạn tiếp, theo sự mô tả các phương thế khác nhau, biểu lộ một tâm thức hiệp nhất đích thực.
20 Xem Giac 1,4; Rm 12,1-2.
21 Xem 2 Cor 4,10; Ph 2,5-8.
22 Xem Eph 5,27.
18* Ðề cập đến các phương pháp và cách thức tìm hiểu, đào sâu và diễn tả những chân lý mạc khải mà ý nghĩa vẫn luôn đồng nhất đối với mọi người.
19* Những cuộc nghiên cứu sử học và thần học có thể giảm thiểu các thiên kiến và chứng tỏ rằng đã xảy ra nhiều hiểu lầm, như vậy mối liên kết sẽ thêm dễ dàng hơn.
1 Xem Lateranô V, khóa XII (1517), Hiến chế Constituti: Mansi 32, 988 B.C.
20* Cách diễn đạt một chân lý mạc khải có thể thật rõ ràng trong môi trường lịch sử của nó, song lại rất khó hiểu trong một hoàn cảnh lịch sử khác. Trong trường hợp này nên tìm một công thức khác, nhưng không thay đổi ý nghĩa đã được mạc khải.
2 Xem Eph 4,23.
21* Tinh thần hiệp nhất là tinh thần hòa giải và bác ái với nhau. Do đó người công giáo và không công giáo phải tha thứ cho nhau những lỗi phạm chống lại tinh thần này.
22* Bằng nhiều cách khác nhau, trọn số này diễn tả một chân lý rất căn bản: để hiệp nhất các Kitô hữu, trước tiên tất cả mọi người công giáo hãy sống trọn vẹn và trung thành với tôn giáo của mình.
23* Công Ðồng khuyến khích việc cầu nguyện chung giữa người công giáo và không công giáo khi tiện dịp. Những kinh nguyện chung có thể là Lạy Cha, Sáng Danh, các Thánh Vịnh hay bài đọc Thánh Kinh.
24* Có “thông dự vào sự thánh” khi một người công giáo tham dự vào sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn không công giáo, hay trái lại. Lúc ấy người ta gọi những kinh nguyện chung như sự tham dự nào đó được ban phép và cổ võ. Ðiều kiện để một hoạt động tôn giáo được chuẩn nhận là nó phải biểu hiệu được tính cách hiệp nhất của Giáo Hội và thực sự là một phương thế ban ân sủng. Ðiều kiện thứ nhất thường thiếu sót; trường hợp ấy, người công giáo không được phép tham dự. Cũng thế, lễ Tiệc Ly Tin Lành và Thánh Lễ Công Giáo không có cùng ý nghĩa; do đó người công giáo không được quyền tham dự vào Tiệc Ly Tin Lành. Vậy nên, các Giám Mục phải ban hành những tiêu chuẩn chính xác để các tín hữu biết rõ điều nào được phép, điều nào không trong vấn đề tế nhị này.
25* Ðể tán trợ tinh thần hiệp nhất, người công giáo và không công giáo phải tìm hiểu nhau. Một sự hiểu biết hỗ tương như thế quả thật rất cần thiết trước nhất cho các linh mục và các thừa sai (xem số 10).
26* Khi gặp những sai lầm về giáo lý, cần phải bình tâm và khách quan chứng tỏ căn nguyên của sai lầm, không nên buộc tội hay công kích những người chủ trương cách sai lầm ấy.
27* Tinh thần hiệp nhất không cho phép công kích những nhà thừa sai ngoài công giáo, song phải biểu lộ niềm tôn kính họ theo như đức ái đòi buộc, cho dù, tùy hoàn cảnh cũng cần phải gìn giữ các tín hữu tránh khỏi những sai lầm mà họ có thể truyền bá.
28* Danh từ “xu thời” (irenismus) phát xuất từ tiếng hy lạp “eirene” có nghĩa “chủ hòa”. Trong những tương giao với người không công giáo phải nhằm sự hòa hợp với nhau. Tuy nhiên nếu chúng ta che giấu một chân lý Công Giáo nào đó hoặc thay đổi ý nghĩa đích thực của một học thuyết Công Giáo cốt cho người không công giáo dễ chấp nhận hơn, quả thực đó là một phương thế giả tạo để đạt tới sự hòa hợp vừa nói. Ðó cũng chính là chủ trương xu thời sai lệch bị Sắc Lệnh này ngăn cấm.
29* Danh từ “phẩm trật” ở đây hiểu theo nghĩa bóng, nó biểu thị một sự dị đồng về giá trị, về sự cần thiết về lợi ích của những chân lý khác nhau mà Giáo Hội Công Giáo truyền dạy. Trong Giáo Huấn ấy có những chân lý đức tin, nên bất biến và những chân lý khác không thuộc đức tin. Trong những chân lý đức tin, dù cần phải tin toàn thể tất cả, song cũng có một số chân lý buộc phải hiểu biết cách minh bạch. Khi đối thoại với người không công giáo, không được quên những dị biệt ấy để khỏi bó buộc họ phải tin tất cả giáo thuyết cùng một mức độ như nhau.
3 Xem Eph 3,8.
30* “Muôn dân” ở đây ám chỉ toàn thể những người ngoài Kitô giáo mà tất cả Kitô hữu công giáo hay không công giáo đều có bổn phận làm gương sáng hiệp nhất trong một số các chân lý nền tảng và trong đức bác ái qua việc cộng tác mật thiết với nhau nhất là trên bình diện xã hội.
31* Tĩnh từ “Giáo Hội” (ecclesilis) ở đây là một ngôn từ mới, phát xuất từ giáo phái Tin Lành, chỉ một điều gì liên quan đến Giáo Hội trong tư thế một mầu nhiệm siêu nhiên. Theo dụng ngữ công giáo, tiếng này không bao hàm ý tưởng một Giáo Hội thuần túy vô hình và thiêng liêng. Chữ “thuộc Giáo Hội” (ecclesiasticus) thường chỉ nghĩa diều gì thuộc riêng của Giáo Hội Công Giáo.
32* Sau khi đóng đinh Chúa Kitô, lúc chia nhau y phục của Người, mấy người lính chợt nhận thấy tấm áo dài liền kim không có đường may (Gio 19,23). Ngay từ thời sơ khai Kitô giáo, người ta đã thấy qua tấm áo không đường may này một hình ảnh của Giáo Hội không phân rẽ do Chúa Giêsu Kitô thiết lập. Nhưng thực tế đã có nhiều cộng đoàn Kitô giáo tách rời khỏi Giáo Hội chân thực của Chúa Kitô, và như vậy mở đường cho những cuộc phân ly. Trong chương này, sắc lệnh lưu ý tới hai khối phân ly chính: một ở Ðông Phương và một ở Tây Phương (gồm Tin Lành và Anh Giáo).
33* Công Ðồng Ephêsô (năm 431) đã truyền dạy một cách bất khả ngộ rằng Chúa Giêsu Kitô là một Ngôi Vị đơn nhất, Con Thiên Chúa làm người và Ðức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Phái Nestorianô đã chối bỏ những chân lý ấy và tự tách khỏi Giáo Hội phổ quát.
34* Công Ðồng Calcedonia (năm 451) tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật cũng là Người thật và trong Người có hai bản tính, thần tính và nhân tính, hoàn hảo, phân biệt chứ không hòa trộn lẫn nhau. Song có những cộng đoàn địa phương quả quyết nơi Chúa Kitô chỉ có một bản tính. Ðó là những người theo nhất tính thuyết, họ cũng đã ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo.
35* Sự cắt đứt này đã xảy ra năm 1054 khi Ðặc Sứ của Ðức Giáo Hoàng, Hồng Y Humbert, dứt phép thông công Thượng Phụ thành Constantinopla là Micae Cerulariô. Ðáp lại, Thượng Phụ Cerulariô cũng dứt phép thông công vị Ðặc Sứ đó và tách khỏi Roma. Sự cắt đứt này đã thành toàn diện và dứt khoát vào thế kỷ XIII. Ngày 7 tháng 12 năm 1965 tại Roma, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI và tại Constantinopla Ðức Thượng Phụ Athenagoras long trọng hủy bỏ sự dứt phép thông công lẫn nhau ấy.
36* Giáo Hội riêng biệt là một cộng đoàn hay một giáo khu gồm mọi tín hữu cùng theo một lễ chế phụng vụ, cùng giữ một quy luật giáo hội và cùng chịu một quyền quản trị như nhau. Chỗ này chữ “địa phương” hiểu theo nghĩa rộng, vì một Giáo Hội riêng biệt có các tín đồ ở rải rác nhiều nơi.
37* Giáo Hội này là một Giáo Hội riêng biệt mà thủ lãnh là một thượng phụ như Giáo Hội Nga, Giáo Hội Constaninopla… Hiện nay, có ít nhất là 9 Giáo Hội có Thượng Phụ thuộc Ðông Phương ly khai.
38* Vì dụ như Giáo Hội Giêrusalem và Antiokia.
39* Những Giáo Hội Ðông Phương ly khai sống độc lập nhau. Họ coi nhau như những Giáo Hội huynh đệ, không có và không nhận một thủ lãnh chung trên họ. Trái lại, những Giáo Hội riêng biệt (địa phương) Công Giáo lại có cùng một thủ lãnh cao cấp chung: Ðức Giáo Hoàng. Ngài có quyền trên tất cả các Giáo Hội Công Giáo riêng biệt Ðông phương cũng như Tây Phương.
40* Những điều này quy chiếu về thời các Giáo Hội này còn liên kết với Roma. Lúc ấy, 7 Công Ðồng Chung đầu tiên đều nhóm họp ở phương Ðông.
41* Giáo Hội Ðông Phương càng phát triển, những người Tây Phương càng ít cảm thông tâm thức Ðông Phương, cũng như ngược lại; sự kiện đó đưa tới nhiều hiểu lầm và khi thị đáng tiếc ở cả hai bên và khích động thêm sự chia rẽ.
42* Ðoạn này đề cập đến những Giáo Hội Ðông Phương không công giáo (ly khai), không nói về các Giáo Hội liên kết với Roma. Công Ðồng đã công bố một sắc lệnh đặc biệt bàn tới những Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương nhan đề “Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương”.
1 Xem T. Gioan Kim Khẩu, In Joanem, Homelia, XLVI: PG 59,260-262.
43* Những tiêu chuẩn về sự tham dự hỗ tương trong các sinh hoạt tôn giáo này đã được trình bày cặn kẽ trong sắc lệnh về những Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương (số 26-29).
44* Toàn thể Giáo Hội chính là Giáo Hội phổ quát Công Giáo, Giáo Hội duy nhất Chúa Kitô sáng lập. Lúc Ðông Phương còn liên kết với Tông Tòa Roma, những Giáo Hội riêng biệt Ðông Phương đã hưởng dụng một quyền tự trị thật đáng kể. Ðức Giáo Hoàng ít khi can thiệp vào việc quản trị của họ. Sắc lệnh tuyên bố rằng quyền tự trị ấy vẫn được duy trì nếu họ liên kết lại với Giáo Hội phổ quát. Sự liên kết này bao hàm việc thừa nhận tối thượng quyền nơi Ðức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, Ðại Diện tối cao của Chúa Kitô. Tuy nhiên việc thừa nhận ấy vẫn dung hợp tốt đẹp với một quyền tự trị rất lớn của các Giáo Hội riêng biệt.
45* Nói về những Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương, nghĩa là có liên kết với Roma.
46* Những dự tính liên kết giữa Ðông Phương và Giáo Hội Công Giáo của Công Ðồng Lyon II và Công Ðồng Firenze đã thất bại, bởi vì tâm thức tín hữu đông phương ly khai lúc ấy chưa được chuẩn bị sẵn để đón nhận việc liên kết. Ở đây sắc lệnh nhắm tới việc chuẩn bị tinh thần và thiêng liêng cho các dân tộc Kitô Giáo Ðông Phương hầu đạt đến một mối liên kết tốt đẹp.
47* Ðây là những người Ðông Phương không công giáo di trú trong nhiều miền khác nhau tại Âu Châu, Mỹ Châu. Việc họ tiếp xúc với người công giáo tại đó có thể giúp đôi bên xích lại dần nhau dễ dàng hơn.
2 Xem CÐ Firenze, khóa VI (1439), Ðịnh tín Laetentur caeli: Mansi 31, 1026E.
48* Trong số này Sắc Lệnh chứng tỏ rằng có nhiều điểm dị biệt giữa anh em “ly giáo” tây Phương và Giáo Hội Công Giáo hơn là giữa Ðông Phương ly khai và Công Giáo Tây Phương. Do đó việc liên kết càng khó khăn hơn, tuy thế cũng cần phải mở một cuộc đối thoại. Trong những số tiếp theo, Sắc Lệnh nêu lên một vài học thuyết chung có thể làm khởi điểm cho cuộc đối thoại ấy.
49* Do lời yêu cầu Ðức Phaolô VI, người ta thay đổi hai điểm trong câu này. Thay vì tiếng “được tác động bởi Chúa Thánh Thần” bây giờ đổi lại thành “Nhờ cầu khẩn Chúa Thánh Thần”, và chữ “họ tìm” thay thế cho “họ gặp thấy”. Sở dĩ thay đổi như vậy là cốt tránh dáng vẻ chấp nhận giáo thuyết của những người cải cách. Theo giáo thuyết này, mọi tín hữu đều được Chúa Thánh thần ban cho đầy đủ ánh sáng để hiểu thấu ý nghĩa mạc khải của Thánh Kinh và để nhờ thế gặp thấy Thiên Chúa trong Sách Thánh, không cần nhờ đến quyền Giáo Huấn của Giáo Hội. Thực sự, người ta có thể gặp được Thiên Chúa trong Sách Thánh; nhưng không gặp Ngài một cách tất nhiên và trong bất cứ lúc nào; lý do là vì những ngăn trở về tâm tính chủ quan người ta có thể không gặp thấy Ngài.
3 Xem Rm 6,4.
50* Những cộng đoàn giáo hội Tin Lành không có bí tích Truyền Chức Thánh. Vì thế, các thừa tác viên của họ không có quyền thánh hiến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Lễ tiệc ly Tin Lành không bao hàm sự hiện diện thật sự; nó không phải là một hy lễ đích thực. Do đó, anh em Tin Lành đã không bảo tồn được “bản chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể”. Công thức này đã được Ðức Phaolô VI minh nhiên ưng thuận.
51* Giáo Phụ là những văn sĩ công giáo thuộc thời kỳ đầu của Giáo Hội, từ thế kỷ I thới thế kỷ VIII.
52* Ðoạn này bộc lộ niềm hy vọng vào tương lai. Ðường lối của Chúa Quan Phòng thật lạ lùng. Người ta không thể biết trước những ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Tuy nhiên, mỗi tín hữu nói riêng và mỗi cộng đồng nói chung phải luôn luôn tuyệt đối vâng theo Chúa Thánh Thần.