PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Thông cáo
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
về việc tôn kính tổ tiên
Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
I. Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa
và truyền thống các dân tộc
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoađèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ…) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.
Phụ lục 2:
NGHI THỨC ĐÍNH HÔN
(Cử hành tại nhà gái)
1. Lời mở đầu:
NHD: Thưa hai họ,
Chúng ta bắt đầu tiến hành lễ đính hôn cho hai em…
Thời gian qua, hai em đã quen biết nhau. Với lễ đính hôn này, gia đình hai bên tán thành tình yêu của hai em và tạo điều kiện để hai em tìm hiểu nhau cũng như tìm hiểu gia đình hai bên cặn kẽ hơn, hầu đem lại hạnh phúc cho cuộc sống hôn nhân sau này. Lễ đính hôn này cũng là dịp để gia đình hai bên bắt đầu chuẩn bị cho lễ thành hôn sắp tới. Việc tìm hiểu của hai em và việc chuẩn bị của hai gia đình đều rất quan trọng. Là Kitô hữu, chúng ta hiểu rằng trong những việc hệ trọng này, cần phải có ơn trên giúp đỡ. Vì thế, giờ đây chúng ta dành ít phút hướng lòng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin Ngài chúc lành và ban Thánh Thần của Ngài xuống trên hai em, hầu hướng dẫn hai em cũng như cả hai gia đình biết cách vun xới cho tình yêu này, theo như ý Ngài.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
CĐ : Amen.
Cầu xin Chúa Thánh Thần.
2. Lời Chúa (Kn 9,1-4.11)
Bài trích sách Khôn ngoan
Lạy Thượng Đế của bậc tổ tiên, lạy Đức Chúa từ bi lân tuất, Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật, dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên, và sống sao cho thánh thiện công chính mà chỉ huy cả vũ trụ này, cùng được một tâm hồn ngay thẳng mà phân biệt phải trái. Xin rộng ban cho con Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà Chúa. Vì Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả, sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm, lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con.
Đó là Lời Chúa
CĐ : Tạ ơn Chúa
3. Lời khuyên (của người đại diện nhà gái)
Các cháu thân mến. Từ hôm nay, gia đình hai bên chính thức tán thành tình yêu của các cháu. Cuộc hôn nhân sắp tới của các cháu là việc rất cao cả và thánh thiện. Các cháu hãy vun trồng và gìn giữ tình yêu chúng con thật trong sáng tốt đẹp. Để được vậy, các cháu rất cần ơn khôn ngoan của Chúa. Các cháu hãy luôn luôn cầu xin ơn Chúa soi sáng. Hãy trao đổi, học hỏi với những người khôn ngoan đạo đức, và hãy giữ vững lương tâm trong sáng. Các cháu hãy sống thời gian đính hôn thật xứng đáng để chuẩn bị một gia đình hạnh phúc, để là niềm vui cho cha mẹ họ hàng đôi bên và để tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta.
4. Lời hứa của hai người
(Bên nam nói thay):
Con xin thay lời bạn con để cùng nói lên tâm tình cảm tạ Chúa và biết ơn cha mẹ đôi bên. Chúng con xin hứa tận dụng thời gian này để vun trồng một tình yêu trong trắng, tích cực tìm hiểu nhau, tìm hiểu gia đình hai bên, học hỏi về trách nhiệm cuộc sống hôn nhân, và tập quên mình để có thể sống hòa hợp với nhau và đem lại niềm vui và vinh dự cho gia đình hai bên.
(Thắp hương trên bàn thờ tổ tiên rồi hai người đọc chung):
Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên của hai gia đình chúng con. Hôm nay gia đình hai bên đã chính thức chúc lành cho tình yêu chúng con. Chúng con kính xin anh linh các bậc tổ tiên thương tha thiết chuyển cầu cho chúng con trước toà Thiên Chúa để chuẩn bị cho chúng con trong thời gian chuẩn bị quý báu này. Chúng con nguyện cố gắng sống xứng đáng để làm rạng rỡ thanh danh hai họ.
5. Lời cầu
(Có thể chọn một trong hai mẫu sau đây)
MẪU 1:
(Bên nam nói thay)
Giờ đây, xin mọi người hiệp ý với chúng con trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa:
(Hai người cùng đọc ‘Kinh của đôi bạn sắp cưới’)
Lạy Chúa Giêsu, để dạy chúng con yêu nhau, Chúa đã trở thành một người như chúng con, trong lòng một người nữ đã đính hôn, rất trong sạch, là Đức Maria. Và Chúa cũng đã phán: “Chúng con hãy nên một như Cha và Ta là một”. Nay Chúa đã muốn hai chúng con đây sống cùng một đời sống trong Chúa, như hai cành nho của cùng một cây nho, mà Chúa quan phòng đã cho sống gần nhau. Chớ chi tình yêu giữa chúng con, do Chúa nối kết, sẽ thực hiện sự hiệp nhất hoàn toàn, chẳng những giữa trái tim chúng con, mà giữa tâm hồn chúng con nữa. Chớ chi tình yêu đó mỗi ngày một lớn, đồng thời tăng thêm sự sống Chúa nơi chúng con. Xin Chúa giúp chúng con, để chúng con đưa về cho tổ ấm chúng con nhiều vẻ đẹp, nhiều sức khoẻ, nhiều nghị lực, nhiều lý tưởng, để tổ ấm chúng con trở nên hình ảnh của Nước Thiên Chúa, mà chúng con muốn cùng Chúa xây dựng nên. Chớ chi gia đình chúng con được cống hiến cho Chúa những linh mục, tu sĩ hay những tông đồ giáo dân. Chớ chi chúng con đừng quên rằng, chính qua chúng con mà Nước Chúa trị đến, dưới đất cũng như trên trời. Xin Chúa chấp nhận những lời chúng con đã hứa theo tinh thần của Chúa. Chớ chi, trong một ngày sắp tới, nhờ lời Chúa chúc lành, chúng con sẽ dâng hiến cho nhau tất cả và mãi mãi. Amen.
HOẶC MẪU 2:
NHD : Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện, xin Chúa chúc lành cho thời gian đính hôn của…
– Chúa là nguồn mạch mọi tình yêu cao đẹp, xin thương chúc lành cho tình yêu của… và…. Xin ban ơn hướng dẫn để hai người biết vun trồng một tình yêu vị tha, theo gương Chúa đã yêu thương chúng con.
CĐ : Xin Chúa nhận lời chúng con.
– Chúa hằng săn sóc và hướng dẫn chúng con trở nên con cái thánh thiện của Chúa. Xin ban cho… và… biết can đảm giúp nhau sửa đổi những tật xấu và khuyết điểm có hại cho cuộc sống hôn nhân sau này. Xin ban ơn cho hai người biết tận dụng thời gian đính hôn, học hỏi kỹ lưỡng để sau này có thể chu toàn điều Chúa chờ đợi họ trong cuộc sống gia đình và xã hội.
– Xin Chúa ban ơn hướng dẫn, nâng đỡ, ủi an chúng con là bậc phụ huynh của… và… trong thời gian chuẩn bị và chúc lành cho việc tổ chức lễ cưới sắp tới được tốt đẹp, gây thêm tình thân ái giữa bà con hai họ.
6. Kinh Lạy Cha (đọc chung)
7. Lời nguyện(Người đại diện nhà trai)
NHD : Lạy Cha rất nhân lành, Cha luôn âu yếm chăm sóc mọi con cái Cha. Giờ đây chúng con cử hành lễ đính hôn cho hai cháu… và… Cha thấu suốt tình yêu và thiện chí của hai cháu. Cha thấu suốt nỗi bận tâm, sự lo lắng cũng như niềm hy vọng của hai gia đình chúng con. Cha cũng đã đón nhận mọi ý nguyện của các bậc tổ tiên đang chuyển cầu cho chúng con trước toà Cha. Kính xin Cha đoái thương chúc lành và thánh hoá thời gian đính hôn của hai cháu. Xin dẫn dắt từng bước chân của hai cháu. Cũng xin Cha thương ban cho mỗi người chúng con đầy lòng quảng đại, để ai nấy đều tích cực góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc gia đình của hai cháu và tình thân ái giữa hai gia đình và hai họ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
CĐ: Amen.
8. Kết thúc
Một bài thánh ca tạ ơn.
Phụ lục 3:
NGHI THỨC VU QUI – TÂN HÔN
I. TẠI NHÀ GÁI (XUẤT GIÁ)
Khi họ nhà trai đến, nhà gái đón vào. Chương trình được tiến hành như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu và trình lễ vật
Kính thưa quý ông bà và quý họ nhà gái,
Nhờ ơn Chúa và sự xếp đặt của gia đình, hai cháu… đã nên vợ chồng. Qua mối dây liên kết thánh thiện này, hai gia đình và hai họ chúng ta cũng được gần gũi liên hệ mật thiết với nhau.
Hôm nay, chúng tôi họ nhà trai xin đưa lễ vật đến chào mừng và cám ơn gia đình cũng như quý họ.
Để tiện xưng hô, trước hết chúng tôi mạn phép xin được giới thiệu bên họ nhà trai.
(Đại diện bên nhà trai giới thiệu…)
2. Nhà gái ngỏ lời, đón nhận lễ vật
Kính thưa quý ông bà và quý họ nhà trai
Chúng tôi thành thật cám ơn họ nhà trai đã có lòng thương đến con gái chúng tôi và biếu tặng lễ vật. Chúng tôi hân hạnh đón nhận và cho cháu ra mắt quý vị đồng thời làm lễ gia tiên.
3. Kinh nguyện Tạ ơn Thiên Chúa
(Mời mọi người đứng dậy, hướng về bàn thờ)
Người Hướng dẫn: Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất. Nhờ Người mà chúng ta có cha có mẹ, ông bà, tổ tiên. Vậy giờ đây, kính xin mọi người hợp ý với hai cháu dâng lên Thiên Chúa lòng cảm tạ tri ân.
Hai cháu hãy tiến đến trước bàn thờ Chúa, thắp hương và dâng lời cảm tạ.
– Dấu Thánh giá, hát kinh Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh, một bài hát về Đức Mẹ.
Gia trưởng (hoặc vị trưởng tộc bên nhà gái) cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu và sáng tạo muôn loài, chúng con cảm tạ Chúa đã cho con cái chúng con được làm người và làm con Chúa. Ngày hôm nay chúng con cử hành lễ thành hôn cho con cái chúng con, trước sự chứng giám của vong linh Ông Bà Tổ Tiên và họ hàng hai bên nội ngoại.
Chúng con cầu xin Chúa cho hai con chúng con đây được hạnh phúc bên nhau suốt đời, và luôn sống xứng đáng là con cái chúa để làm vinh danh Chúa và vẻ vang dòng họ.
Xin Thánh Gia chúc lành cho cuộc hôn phối này được suốt đời hạnh phúc trong tình yêu Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Cô dâu chú rể vái 3 lần trước bàn thờ rồi cắm hương.)
4. Kính nhớ tổ tiên
Người Hướng dẫn:
Nghi lễ tạ ơn Thiên Chúa đã xong. Bây giờ là nghi lễ kính nhớ Tổ Tiên.
Gia trưởng (hoặc vị trưởng tộc bên nhà gái) cầu nguyện:
“Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, ông bà.
Nhờ phúc đức tổ tiên, ông bà, gia đình ông bà…. đây sinh hạ được người con gái là…. và đã giáo dục cháu nên người. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu…. Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý Thiên Chúa”.
Cô dâu và chú rể cùng đọc:
Chúng con là… xin dâng nén hương trầm tỏ lòng thành kính và biết ơn Ông Bà Tổ Tiên. Xin các ngài phù hộ cho tình yêu chúng con. Vái một lần, rồi cắm hương.
Vái một lần, rồi cắm hương.
Hát Cầu cho cha mẹ.
5. Cám ơn cha mẹ
Cô dâu: Thưa ba mẹ kính mến.
Hôm nay con về nhà chồng, bước sang quãng đời mới với trách nhiệm mới. Tuy không còn sống chung trong gia đình với ba mẹ, nhưng lòng con không bao giờ dám quên công ơn sinh thành dưỡng dục của ba mẹ. Con quyết lòng sống tốt đẹp với mọi người, chu toàn bổn phận và hết lòng trung thành với Chúa để đền đáp công ơn ba mẹ. Xin Chúa gìn giữ ba mẹ khoẻ mạnh, bình an. Con xin ba mẹ lưu tâm nâng đỡ và cầu nguyện chúng con.
– Cô dâu và chú rể vái ba mẹ một vái
– Cha mẹ đáp lời.
6. Tiệc trà hoặc tiệc rượu
7. Xin dâu
Đại diện nhà trai: Kính thưa ông bà và họ nhà gái, nghi lễ đã đầy đủ và mọi tâm sự đã được giãi bày. Giờ đây xin phép ông bà cho chúng tôi đón cháu về để nhập tiệc thành hôn.
Đại diện nhà gái: Kính thưa họ nhà trai, chúng tôi vui mừng và cám ơn tấm thạnh tình quý vị đã dành cho chúng tôi và đặc biệt cho con gái chúng tôi. Hai gia đình chúng ta cũng đã như một, rất sung sướng được gửi cháu… cho gia đình ông bà. Mong ông bà nâng đỡ các cháu để gia đình mới được hạnh phúc lâu bền.
II. TẠI NHÀ TRAI (RƯỚC DÂU VỀ)
Đoàn đưa dâu về tới nhà trai. Cô dâu được đưa vào phòng nghỉ một lát rồi ra lễ gia tiên.
1. Giới thiệu
Chủ lễ giới thiệu cô dâu và họ nhà gái cho quý khách hiện diện và có đôi lời chào mừng, trình bày lý do.
2. Tạ ơn Thiên Chúa
Mọi người hướng về bàn thờ. Cô dâu và chú rể đến trước bàn thờ.
Dấu Thánh giá, hát kinh Chúa Thánh Thần.
Gia trưởng (hoặc vị trưởng tộc bên nhà trai):
Kính lạy Thiên Chúa là Cha chung và là gia chủ chúng con,
Kính trình ông bà tổ tiên,
Kính thưa quý vị họ hàng nhà gái và quý bà con thân thuộc xa gần.
Hôm nay, gia tộc chúng con rất vui mừng đi đón một người con về làm dâu con trong gia đình này. Vậy chúng con xin trình diện đôi vợ chồng mới lên Chúa và các bậc tổ tiên. Xin Chúa thương chúc lành, xin các bậc tổ tiên chứng giám, xin bà con thân thuộc cùng hợp lời cầu nguyện cho đôi trẻ được sắt cầm hoà hợp, trăm năm hạnh phúc.
Cô dâu và chú rể châm lửa hai cây đèn ở trước bàn thờ. Sau đó đốt hương, vái đều ba vái trước bàn thờ rồi cắm hương.
Bài chúc hôn, đọc Kinh nguyện gia đình, Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh.
Gia trưởng (hoặc vị trưởng tộc bên nhà trai) cầu nguyện:
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, thay mặt cho gia tộc. chúng con xin cảm tạ Chúa vì ngày hôm Chúa đã ban cho chúng con một người con dâu mới. Xin Chúa tuôn đổ muôn vàn phúc lộc xuống trên gia đình mới này, để họ luôn sống trong tình thương của Chúa. Xin cho đôi vợ chồng này luôn hoà thuận yêu thương nhau và hằng tuân theo ý Chúa. Xin cho họ biết chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, và góp phần làm rạng rỡ gia phong.
Xin Chúa cũng thương ban muôn ngàn ơn lành cho đôi bên gia đình đàng trai, đàng gái chúng con, để mọi người trong hai gia đình thông cảm và hiểu biết nhau hơn, cùng nhau xây đắp cho gia đình mới này ngày một bền vững và hạnh phúc. Chúng con nguyện xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen
– Hát một bài về Đức Mẹ.
3. Kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên
Người hướng dẫn nói ít lời hợp ý nghĩa. Cô dâu lạy ông bà tổ tiên
Chú rể và cô dâu cùng đọc:
Kính thưa ông bà tổ tiên,
Hôm nay chúng con kết hợp nên duyên sắt cầm. Chúng con ghi nhớ công ơn của ông bà tổ tiên và nguyện hết lòng yêu thương quý mến nhau, cố gắng trọn nghĩa, trọn tình, trọn hiếu, trọn đạo vợ chồng, hầu xây dựng gia đình hạnh phúc theo thánh ý Thiên Chúa. Kính xin ông bà tổ tiên phù hộ cho chúng con.
Thắp hương vái 1 lần. Có thể Hát bài “Cầu cho cha mẹ”.
4. Cám ơn cha mẹ
Người hướng dẫn nói ít lời hợp ý nghĩa. Cô dâu và chú rể thưa cha mẹ.
Chú rể và cô dâu: Kính thưa ba mẹ yêu quý, Hôm nay chúng con thành vợ chồng, kết quả tình thương này trước hết do ơn Chúa và sau là nhờ công ơn sinh thành dưỡng dục và xếp đặt của ba mẹ. Chúng con xin ghi tạc lòng dạ công ơn trời bể này. Để đền đáp lại, chúng con sẽ hết sức sống trọn nghĩa vợ chồng như Chúa dạy, theo gương Gia thất. Nguyện xin Chúa ban muôn phúc lành trả công cho ba mẹ.
Vái 1 lần. Cha mẹ đáp lời.
Kết thúc hát bài: “Hồng ân Thiên Chúa bao la”
5. Nhập tiệc
6. Đôi lời giã từ của họ gái
7. Đại diện họ trai đáp lời
Chào họ nhà gái. Cám ơn quý khách.
Bế mạc
Phụ lục 4:
GIỜ KINH TỐI TRONG GIA ĐÌNH
Mẫu 1:
1. Dấu Thánh giá
2. Kinh Chúa Thánh Thần
3. Xét mình và kinh Aên Năn Tội
4. Lời Chúa ( theo mầu nhiệm suy niệm)
5. Đọc và suy niệm kinh Mân côi:
-1 kinh Lạy Cha- 10 kinh Kính Mừng- 1 kinh Sáng Danh
6. Kinh Lạy Nữ vương.
7. Hát một bài kính Đức Mẹ.
(Trích theo mẫu Kinh Mân Côi. Toà TGM.Tp Hồ Chí Minh)
Mẫu 2:
1. Mở đầu: mọi người làm dấu thánh giá, người hướng dẫn nói lên ý chỉ của giờ kinh. Sau đó đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần, kinh Xét mình và kinh Ăn năn tội.
2. Lời Chúa: Nghe đọc lời Chúa. Thinh lặng. Chia sẻ và lời nguyện tự phát.
3. Ca ngợi: Một chục kinh Mân Côi. (Nếu suy gẫm về kinh Mân Côi, thì chọn đoạn Tin Mừng thích hợp với mầu nhiệm của ngắm: nghe đọc, thinh lặng, chia sẻ và lời nguyện tự phát, rồi sau đó đọc một kinh Lạy Cha, mười kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh).
Tiếp đến, kinh Lạy Nữ Vương, (cũng có thể đọc một kinh có tính cách gia đình, chẳng hạn kinh thánh bổn mạng…). Kinh vực sâu để cầu nguyện cho những người đã qua đời.
4. Kết thúc: Kinh Dâng mình, kinh Cám ơn hay hát một bài về Đức Mẹ, rồi người gia trưởng chúc lành cho mọi thành viên trong gia đình.
Phụ lục 5:
THỤ TINH NHÂN TẠO
Việc thụ tinh nhân tạo có hai phương pháp:
1. Cấy tinh nhân tạo: là đưa tinh trùng người nam vào cơ phận của người nữ để có thể thụ thai.
2. Thụ tinh trong ống nghiệm qua các giai đoạn sau đây:
– Lấy trứng trong buồng trứng người phụ nữ đúng lúc, đồng thời lấy tinh trùng của người nam,
– Cho hai nhân tố phối hợp thành phôi thai đầu tiên để cho phát triển thành một số tế bào (khoảng từ 35 đến 60 giờ),
– Cấy phôi thai vào trong tử cung phụ nữ. Đây là giai đoạn khó khăn nhất vì chỉ khoảng 20% trường hợp cấy vào màng tử cung thành công và phôi thai không bị đào thải ra bên ngoài.
Cả hai trường hợp cấy tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm có thể được thực hiện trong vòng vợ chồng hay với tinh trùng hoặc trứng của một người thứ ba.
Lập trường của Giáo Hội về thụ tinh nhân tạo
– Việc cấy tinh nhân tạo cũng như việc thụ tinh trong ống nghiệm với tinh trùng hoặc trứng của người thứ ba là trái ngược với tính cách một vợ một chồng của hôn nhân. Nó đi ngược phẩm giá của đôi vợ chồng và với ơn gọi riêng của bậc làm cha mẹ. Hơn nữa đứa con phải được thụ thai và sinh ra trong hôn nhân và do hôn nhân.
– Việc cấy tinh nhân tạo thuộc phạm vi hôn nhân: Huấn thị ngày 27/02/1987 của Bộ Giáo lý Đức Tin viết: sự cấy tinh nhân tạo trong phạm vi vợ chồng, nghĩa là trong khuôn khổ hôn nhân không có nhân tố của người thứ ba, chỉ có thể chấp nhận được khi phương pháp kỹ thuật không thay thế cho tác động vợ chồng, nhưng chỉ giúp cho tác động này đạt được mục đích dễ dàng hơn.
– Việc thụ tinh trong ống nghiệm thuộc phạm vi hôn nhân: theo giáo lý truyền thống về hôn nhân và về phẩm giá của con người, Giáo Hội tiếp tục chống lại phương thức thụ tinh trong ống nghiệm vì đây là điều không phù hợp với phẩm giá của việc truyền sinh và sự kết hiệp giữa hai vợ chồng, kể cả khi phương pháp này cố gắng làm cho các phôi thai khỏi phải chết.
Đôi vợ chồng son sẻ mong ước có con, đó là một ước muốn rất hợp lý và hợp pháp. Tuy nhiên việc thụ tinh trong ống nghiệm bao hàm việc huỷ hoại nhiều phôi thai người. Người ta phải cho nhiều trứng và tinh trùng phối hợp với nhau rồi chọn một trứng đã thụ tinh tốt để cấy vào cơ phận người mẹ. Các phôi thai còn lại thường bị huỷ đi và đây là hình thức phá thai xâm phạm tới sinh mạng của những người vô tội đang ở trạng thái thành hình.
Hơn nữa, cho dù không có phôi thai nào bị huỷ đi, thì việc thụ tinh trong ống nghiệm cũng không thể chấp nhận được vì hành động này tách rời hai ý nghĩa căn bản của tác động vợ chồng. Tác động này có công hiệu nhằm liên kết hai vợ chồng lại, đồng thời làm cho họ có thể sinh sản ra những sự sống mới. Khi dùng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm tức là ngoài cơ thể của đôi vợ chồng, người ta “đặt sự sống và căn tính của bào thai vào tay các bác sĩ và những nhà sinh học, và như vậy là thiết lập quyền thống trị của kỹ thuật trên nguồn gốc và số phận con người. Liên hệ thống trị này tự nó nghịch với phẩm giá con người và sự bình đẳng phải có giữa cha mẹ và con cái” (Huấn thị “Donum vitae” 2, 5).
“Xét về luân lý, việc sinh sản sẽ mất đi sự tuyệt hảo riêng của nó khi không còn là hoa trái của hành vi phu thê, nghĩa là hành vi đặc loại của sự phối hợp vợ chồng (…). Chỉ sự tôn trọng mối liên lạc giữa những ý nghĩa của hành vi phu thê và sự tôn trọng tính hiệp nhất của con người mới bảo đảm được một sự sinh sản phù hợp với nhân phẩm con người” (Huấn thị “Donum vitae” 2, 4).
Kết luận:
Sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, mà vẫn phải chịu đựng nỗi đau khổ vì vô sinh, Giáo hội mời gọi những cặp vợ chồng này liên kết với thập giá Đức Kitô, là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi, hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân (x. GLHT, số 13783-1379).
Nihil Obstat
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh
Imprimatur
Mỹ Tho, ngày 03.09.2004
Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc
Chủ tịch Uỷ Ban Giáo lý Đức tin