CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA LỄ GIÁNG SINH 2021
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐÊM THÁNH ÂN (*) – Chú giải của Noel Quesson. 16
HOÀN CẢNH GIÁNG SINH CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 24
NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG THẬT- Trích Manna. 39
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 42
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG- Lm. Trương Đình Hiền. 46
ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 59
NHẬP THỂ, MỘT TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI– Lm. Pet. Trần Thanh Sơn 64
TÌNH YÊU NHẬP THỂ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 70
MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC BAN TẶNG CHO NHÂN LOẠI- Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu 74
TẠI SAO THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 79
CHÚA GIÁNG SINH GIỮA NHỮNG NGƯỜI ĐAU KHỔ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 90
HÀI NHI GIÊSU, QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 95
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 100
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA- Chú giải của Fiches Dominicales 116
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 129
CẤT LỜI CHÚC TỤNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 133
LOAN TIN CHÚA GIÁNG SINH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 137
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ- Lm. Giuse Vũ Thiên Trường, SVD.. 142
EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Trích Logos C.. 150
ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 154
CHUYỆN TÌNH EMMANUEL- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
GIÁNG SINH CỦA MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH 2021- Lm. JB> Trương Đình Hà
LỄ GIÁNG SINH 2021
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
“Chúa ban Con của Người cho chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người..
Xướng: Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc..
Xướng: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
Xướng: Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành..
BÀI ÐỌC II: Tt 2, 11-14
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! – Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ðó là lời Chúa.
LỄ RẠNG ĐÔNG
BÀI ÐỌC I: Is 62, 11-12
“Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Xướng: Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
Xướng: Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
BÀI ÐỌC II: Tt 3, 4-7
“Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! – Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 15-20
“Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Ðó là lời Chúa.
LỄ NGÀY
BÀI ÐỌC I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
Xướng: Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
BÀI ÐỌC II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!”
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA
Alleluia, alleluia! – Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”.
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
HOẶC ĐỌC BÀI VẮN NÀY: GA 1, 1-5. 9-14
“Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta”
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.
ĐÊM THÁNH ÂN (*) – Chú giải của Noel Quesson
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm” nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề” thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là “Sebastos”, có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ”. Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông “vua trần gian” như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng… để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê”.
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng “Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta” . Và những biến cố là “những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta” (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca “giải thích” biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là “cứu Chúa” mà “một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, “trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê”, giữa những người nghèo khổ, thuộc “số nhỏ còn lại”… trong “thành của Đavít”. Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di… Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới “kín mật”, một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào “những nhà hữu trách” chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: “Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai”. Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là “trinh nữ” Vậy mà, cô lại “có thai”! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là “Cha” của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta” các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, ‘đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười… Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai…
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để “nhận ra” cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra ” Từ giờ trở đi”, Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở “củng chúng ta”. Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm “trong máng cỏ”, hiện diện trong một “hang” bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha”. (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những “người chăn chiên”, trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống “ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng “quê mùa”!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ “bé mọn”, những người “nghèo khổ” những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. “Vinh quang” là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. “Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói” của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi “Truyền đạt” của Thiên Chúa đều là “Tin Mừng tin vui”. Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ “phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời “truyền đạt” của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố “giấy chứng minh” đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách “Cứu Chúa” này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự “nghèo khó” và “yếu đuối”! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của “ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HOÀN CẢNH GIÁNG SINH CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Đêm Giáng Sinh tập trung mọi ánh sáng vào biến cố Giáng Sinh của Hài Nhi Bê-lem. Chính Hài Nhi này đã được ngôn sứ I-sai-a trước đó đến sáu thế kỷ loan báo là Đấng Cứu Độ của chúng ta và cũng được thánh Phao-lô sau này tuyên xưng là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta.
Is 9: 1-6
Bài đọc I là bài thơ chan chứa niềm hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Sáu trăm năm trước đó, vị ngôn sứ đã hân hoan loan báo cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Độ: “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu ta”.
Tt 2: 11-14.
Trong đoạn trích thư gởi cho Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là cộng tác viên của mình rằng ân sủng của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi biến cố Giáng Sinh của “Đức Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta”, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm ánh vinh quang rực rỡ của lễ Phục Sinh.
Lc 2: 1-14.
Khi thuật lại biến cố Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Vinh quang và bình an của Thiên Chúa tràn ngập cõi thế. Sứ điệp hân hoan mà các thiên sứ loan báo đã là khúc dạo đầu cho Sứ Điệp Tin Mừng cứu độ được gởi đến cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-6)
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en. Bài thơ này gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Trong bài thơ này, vị ngôn sứ hoan hĩ loan báo “Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu chúng ta”, chắc hẳn trẻ thơ nầy là Đấng “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê. Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã lưu đày thành phần ưu tú của dân Ga-li-lê đến Át-sua. Ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến nỗi khốn cùng này: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…”.
Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (9: 1-4).
Nhưng vị ngôn sứ loan báo một niềm vui vỡ bờ: Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Ông phác họa một bức tranh đầy sắc màu tươi vui: niềm tủi nhục biến thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa:
“Vì mọi giày lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9: 4).
Thiên hạ sẽ không cần những quân nhu chiến cụ nữa, vì chính Thiên Chúa đích thân can thiệp để đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử. Trước đây Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn lịch sử đau thương của họ, khi họ gặp phải quân Ma-đi-an bạo tàn thống trị, Ngài đã giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (9: 6).
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính là:
“Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta” (9: 5).
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).
Kiểu nói: “Người con đó gánh vác quyền bính trên vai” khiến người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương hay trao vào tay tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng quyền bính nầy đều được chứng thực trong nghi lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết:
“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập. Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). Danh hiệu “Người cha muôn thuở” thường được ban cho vua, vì vua được xem như người cha của dân tộc, để cầu chúc vương triều của vua muôn năm bền vững. Ngài được gọi là “Hoàng Tử Hoà Bình”, bởi vì một trong dấu hiệu thời Mê-si-a chính là nền hoà bình viên mãn sẽ ngự trị. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy. Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên khắp xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc miền Nam, ở kinh đô Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc Bắc và Nam sẽ được thống nhất dưới triều đại vua Mê-si-a?
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau đó. Miền Ga-li-lê rực lên ánh sáng Tin Mừng. Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê, nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam xưa. Bài ca hợp xướng của đoàn thiên sứ loan tin vui cho toàn dân (Lc 2: 10) hòa chung nhịp điệu với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
Ông Ti-tô đã là một người môn đệ và cũng là bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã trở lại đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông coi sóc các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Ở đây, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông phải đương đầu với những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái chịu ảnh hưởng Hy lạp mà chính thánh Phao-lô đã từng chạm trán ở những nơi khác. Vì thế, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo đối với ông Ti-tô.
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
Thần Tính của Đức Giê-su.
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở cho ông Ti-tô biết rằng giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt, đó là ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Các Ki-tô hữu đòi buộc phải từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của “Đức Giê-su Ki tô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng danh xưng Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách thức quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường dành riêng danh xưng “Thiên Chúa” cho Chúa Cha. Việc thánh nhân dùng danh xưng này cho Chúa Giê-su chúng ta chỉ gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki-tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Vfi thế, chúng ta có thể nghĩ rằng dường như những người Do thái bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
Lợi ích của bức thư.
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì trong đó thánh Phao-lô đã đưa ra những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các vị Tông Đồ của Đức Giê-su đã lần lượt qua đời, vì thế đây là thời kỳ của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét, cũng như việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô được thực hiện trên khắp xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, những ghi nhớ về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt trong tâm trí, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn bảo tồn trong kỳ ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a cùng đi theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
Hoàn cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su.
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi không có nơi tá túc qua đêm, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán vốn hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau ồn ào náo nhiệt trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng vào những dịp như thế này chắc chắn tiền thuê rất đắt, chỉ dành cho những người giàu có.
Hai dấu chỉ cùng một lúc.
Đức Giê-su chào đời ở “Bê-lem”, nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: không chỉ trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, nhưng còn vì tình yêu, Ngài làm cho mình trở thành một tấm bánh. Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của Hài Nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ này là từ ngữ pháp lý; từ ngữ này muốn nói rằng ngoài Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a không có người con nào khác. Cách nói “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký đề cập đến trong sách Tin Mừng của mình là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (x. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến, tức dâng hiến cho Thiên Chúa và được “chuộc lại” nhờ hy lễ như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo khó). Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới, Trưởng Tử của các vong nhân. Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, như lời của thánh Phao-lô: “người anh cả của một đàn em đông đúc”.
“Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân một Hài Nhi yếu hèn và bé bỏng hoàn toàn phụ thuộc vào tấm lòng ân cần săn sóc của cha mẹ trần thế. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng, tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao nhiêu con người khác.
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách tự mình trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn nơi chính bản thân mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một phạm nhân nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (l’Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách như vậy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những người bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, dù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
Các mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở ngoài đồng và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lê-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm sinh nhật của Ngài là nhằm đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối. Ngày lễ Giáng Sinh tự gốc tích là ngày lương dân mừng thần mặt trời.
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những mục đồng, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học và bị bị khinh bĩ nhất, được liệt vào hàng tội lỗi và những kẻ thu thuế. Vì thế, Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo hèn, khiêm hạ và bé nhỏ. Những mục đồng đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài. Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”: Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những mục đồng xứ Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Tân Đa-vít.
Sứ điệp của các thiên sứ.
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên quốc đã dời chỗ từ thượng giới xuống hạ giới bởi vì Hài Nhi Máng Cỏ này không ai khác hơn là Thiên Chúa tự thân.
Các thiên sứ loan báo: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo biết bao lần (ví dụ như bài đọc I), đây thật sự khúc dạo đầu niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
Sứ điệp mà các thiên sứ gởi đến cho họ thật vĩ đại biết bao với những ngôn từ làm nức lòng người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đã ra đời trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Sứ điệp này thật tương phản biết bao với lời kết rất mực khiêm tốn nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Sự tương phản nầy tiên trưng cho một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao phủ bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của đồi Can-vê. Vì Ngôi Lời hóa thành một phàm nhân, không phải là để phàm nhân nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm rất sâu sắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10: 5-7).
Bài ca tôn vinh của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô tôn vinh của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem được trích dẫn theo cùng những ngôn từ như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
Một sự trao đổi kỳ diệu.
Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa mặc khải Thiên Chúa vừa mặc khải con người. Trong một cuộc yết kiến vào thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.
NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG THẬT- Trích Manna
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “”Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG- Lm. Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy ” Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
– Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
– Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo ” một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
– Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
– Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
– Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
– Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh ” trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giê-su duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể – Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
– Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
– Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
– Tôi bán tất cả.
– Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
– Còn mua gì nữa nào?
– Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
– Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền…..khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại cò dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai ?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sỹ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc Lamã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đới thường rời cuộc đời trần thế bằng nắm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu .
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHẬP THỂ, MỘT TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI– Lm. Pet. Trần Thanh Sơn
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.” Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay. Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người.
Tin mừng được giải thoát. Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4). Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được. Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”. Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
Tin mừng được cứu độ. Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người…. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”. Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người.
Nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống. Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen.
TÌNH YÊU NHẬP THỂ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, giúp chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2017 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Hài Nhi Giêsu không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết : “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên thiên chúa”.
Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, đem ơn cứu độ đến trần gian (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Ngôi Lời đã nhập thể vì chúng ta và sống giữa chúng ta. Nơi bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể : “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đạo binh !”
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi nguời nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.
Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình không bao giờ vơi cạn. Tình yêu ấy chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con chiêm ngắm Chúa, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, tình yêu đã thôi thúc Chúa cởi bỏ vinh quang Thiên Chúa, để sinh ra sống giữa con nguời và chịu chết vì chúng con.
Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm nay, sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường Hòa Bình.
Lạy Chúa, Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An, Ðấng Cứu Chuộc nhân loại, đã giáng sinh vì chúng con, xin thi ân giáng phúc cho chúng con! Amen.
MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC BAN TẶNG CHO NHÂN LOẠI- Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ mà Người đã hứa, ngay sau khi Nguyên tổ phạm tội (x. St 3,15).
Tuy nhiên, thay vì trung thành với sứ vụ của mình, thì dân Israel đã nhiều lần bất trung. Nhưng dù dân Israel có bất trung, thì Thiên Chúa vẫn luôn tín trung. Người dùng miệng các ngôn sứ mà lặp lại lời hứa cứu độ và làm cho dân Israel nhớ lại lời hứa ấy.
Isaia là một trong những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để làm công việc ấy. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng: “Đoàn dân đang lẫn bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm vui mừng, hoan hỉ… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người là Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít…” (x. Is 9,1-6).
Người con được ban tặng cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo, đó chính là Đức Giê-su. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, muôn vật muôn loài nhờ Người mà được tạo thành…. Nhưng Người cũng là con của Đức Maria và thánh Giuse khi xuống thế làm người và làm Đấng cứu độ, Người được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không phải do tác động của nam nhân, Người được sinh ra nơi hang chiên lừa nghèo hèn, giữa trời đêm đông, trong cánh đồng Bê-lêm mà chẳng có ai hay ai biết, chỉ có thần thánh trên trời và các mục đồng mà thôi.
Dù được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, nhưng Người được gọi là ‘Tin mừng trọng đại cho toàn dân, là Đức Ki-tô và là Đức Chúa’. Người đến để làm cho lời hứa cứu độ được nên trọn, khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ‘Thiên Chúa ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế’ (x. Mt 28,20), kỷ nguyên Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ sự sống con người và giá trị của hôn nhân, gia đình.
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo, Chúa có trăm ngàn cách để cứu độ nhân loại, nhưng Chúa đã chọn cách thế làm người và làm người nghèo hèn nhất trong thế giới loài người, dưới dáng hình của một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.
Giáng sinh trong hoàn cảnh như thế, Chúa muốn dạy con người bài học về giá trị và phẩm giá con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, cần phải được tôn trọng bảo vệ. Sự sống con người là vô giá và linh thánh. Vô giá và linh thánh đến nỗi ‘không có gì trên trần gian này đổi được mạng sống con người’ (x. Mc 8,37), Thiên Chúa đành phải sai Con mình xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại, để cho con người ‘được sống và sống dồi dào’ (x. Ga 10,10).
Hơn nữa, khi xuống thế làm người, với quyền uy của mình, Con Thiên Chúa có thể ‘xé trời mà xuống’ (Is 63,19), đâu cần đến gia đình, xã hội và tôn giáo. Nhưng cũng như mọi người, Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha (Đức Maria và thánh Giuse) và thuộc về một dân tộc, xã hội và tôn giáo nhất định (dân tộc, xã hội và tôn giáo Do-thái).
Lựa chọn như thế, Chúa có ý tôn trọng và bảo vệ định chế hôn nhân, gia đình và xã hội mà Chúa đã thiết lập, đồng thời Chúa cũng mời gọi mọi người hãy tôn trọng và bảo vệ các giá trị của hôn nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo.
Tiếc thay, dù Chúa đã xuống thế làm người hơn hai ngàn năm và hàng năm sứ điệp giáng sinh của Chúa vẫn luôn được nhắc lại ít nhất một lần, nhưng xem ra phần đông nhân loại vẫn khước từ và dửng dưng trước sứ điệp của Người. Khủng bố, bạo lực, vi phạm nhân quyền, xúc phạm nhân phẩm, hủy diệt sự sống, đàn áp tôn giáo, phá vỡ định chế hôn nhân và gia đình vẫn luôn xảy ra khắp nơi trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam dường như sự sống con người, nhất là trẻ em và những người nghèo, bị bỏ rơi và phó mặc cho những thế lực đen tối thao túng, khiến người dân phải sống trong cảnh bất an và cơ cực… Đặc biệt trong những ngày gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân rúng động bởi những vụ việc ‘bà nội giết cháu ruột ở Thanh Hóa, chồng giết vợ…, vợ giết chồng rồi chặt xác phi tang ở Bình Dương…’ Phải chăng đó là hậu quả của một xã hội và một nền giáo dục được định hướng bởi chủ nghĩa “Tam vô”: vô tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo ?
Trước một xã hội dửng dưng, vô cảm và đầy bóng tối như thế, người Ki-tô hữu phải sống sứ điệp của Chúa giáng sinh một cách vui tươi và linh động, để làm chứng và biểu lộ tình thương, ân sủng của Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta và trong thế giới này. Nghĩa là ‘chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này’ (x. Tt 2,12), chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với Chúa, tôn trọng và bảo vệ sự sống con người trong mọi hoàn cảnh, nhiệt thành trong công việc tông đồ và bác ái xã hội, chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng con, dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ trong gia đình Thánh Gia, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ của xã hội và tôn giáo. Xin cho chúng con và thế giới này biết tận dụng mọi phương thế để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ sự sống con người, bảo vệ định chế hôn nhân và gia đình mà Chúa đã thiết định an bài. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ ĐÊM
TẠI SAO THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.
Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người ?
Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do : là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người.
Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân : hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết : “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định : “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp : “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi.Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người.
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói : “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng : “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết : “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết :”Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
CHÚA GIÁNG SINH GIỮA NHỮNG NGƯỜI ĐAU KHỔ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đôikhi nghe bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống theo người tình trăm năm hay không? Liệu dòng sông thơ mộng với cù lao xanh có mang lại hạnh phúc khi phải sống thiếu thốn dưới mái tranh nghèo và chiếc xuồng ba lá làm phương tiện sinh sống mà bài hát đã diễn tả thật rộn ràng hấp dẫn hay không?
Bằng lòng đi em về với quê anh
Một cù lao xanh một dòng sông xanh
Một vườn cây xanh hoa trái đơm hương
Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.
Bằng lòng đi em anh đón qua cầu
Mùa mưa cầu tre dẫu khó đưa dâu
Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo
Về đây người quê chỉ có tấm lòng
Có chiếc xuồng ba lá để yêu em
Ôi đóa hoa tím trôi líu riu
Dòng sông nước chảy líu riu
Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Hình như tình yêu của đôi uyên uơng này có gì khang khác với các đôi trai gái thời nay. Bởi vì khi yêu ai thì người ta muốn được giàu sang và có mọi phương tiện hiện đại, nhưng với anh này thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tấm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi!
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh rất khác so với nhiều người, nhưng quan niệm tình yêu ấy lại rất đúng vớicái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa yêu con người và tìm đến với con người nơi những mảnh đời khổ đau. Ngài đã bỏ tất cả để đến cư ngụ giữa những người mình yêu dầu chỉ là dưới mái tranh nghèo nơi cánh đồng hoang Belem và lớn lên sinh sống bên mái tranh nghèo miền thôn dã Nagiaret.
Đêm nay chúng ta cùng với muôn thiên thần hát lên thật to rằng: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi khó nghèo”. Đây là niềm vui và hạnh phúc cho những người thành tâm thiện chí xây dựng hoà bình, và đặc biệt là những gia đình đang khổ đau. Vì từ nay Con Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta. Từ nay Ngài đi vào cuộc đời để hiểu và đồng cảm những khó khăn của chúng ta.
Đây là cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người chúng ta, vì chính Ngài cũng từng nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi ”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không ? NhưngThiên Chúa là vậy! Ngài giáng trần không phải vì tìm kiếm sự giầu sang phú quý. Ngài càng không tìm đến những chốn phố thị nguy nga tráng lệ. Ngài đã đến để cư ngụ giữa những người khổ đau đang thất vọng vì cuộc sống có quá nhiều vất vả lầm than.
Điều quan yếu là Ngài đã tự nguyện đến và lưu lại nơi những người Ngài thương yêu đang còn đói nghèo, bất hạnh và khổ đau. Ngài mong tình yêu của Ngãi sẽ bồi đắp lại cho những bất hạnh của họ bằng chính tình yêu phục vụ của Ngài.
Năm nay với đường hướng đồng hành với gia đình khó khăn, giáo hội muốn nhắn nhủ các gia đình đang gặp những khó khăn hãy vui lên vì Chúa đang ở giữa anh chị em. Hãy tin tưởng và hân hoan vì Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt khổ đau cho anh chị em. Hãy tin tưởng vào tình thương của Ngài. Ngài sẽ đến và lưu lại nơi những mái tranh nghèo, nơi những con người lầm than bởi bệnh tật, bởi vất vả bôn ba với miếng cơm manh áo. Ngài sẽ đồng hành với anh chị em di dân đang lênh đênh nơi đất khách quê người.
Ước mong lời loan báo tin vui Chúa đã giáng sinh cho chúng ta được loan đi khởi đầu dành cho những mái tranh nghèo của các mục đồng hôm nay lại tiếp tục được loan báo đến cho những ai đang gặp bất hạnh hôm nay. Hãy vui lên vì Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. Hãy vui lên vì Ngài là hoàng tử bình an, là ông vua thái bình sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.
Cầu chúc cho mọi người một đêm giáng sinh an lành. Xin Chúa Hài đồng ngự đến từng mái nhà đơn sơ của chúng ta để chúc phúc và ban bình an cho nhữn ai thành tâm đón nhận Ngài. Amen
HÀI NHI GIÊSU, QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Vào mỗi dịp Giáng Sinh, người ta trưng Bày nhiều kiểu Hang Đá với những Hài Nhi Giêsu khác nhau : Hài Nhi Bằng sứ, Hài Nhi Bằng đồng, Hài Nhi Bằng thạch cao,… Hài Nhi mang phong cách nước Ý, Hài Nhi có hình dáng Pháp, Hài Nhi kiểu Mỹ…
Nhưng cách đây 5 năm, đã xuất hiện một Hài Nhi đặc Biệt: Hài Nhi Bằng xương Bằng thịt trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Câu chuyện lạ lùng này đã xảy ra tại một Giáo Xứ thuộc Giáo Phận Xuân Lộc, vào ngày 23 tháng 12, Mùa Giáng Sinh năm 1997.
Vào lúc 5 giờ sáng ngày hôm ấy, một gia đình ở sát nhà thờ giáo xứ đã nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc trong sân nhà thờ. Người ta đến xem thì phát hiện ra một điều hết sức kỳ lạ : một đứa Bé gái mới sinh khoảng hai ngày, Bọc trong hai chiếc khăn lông, được đặt ngay trong hang đá đang làm dở dang tại sân nhà thờ. Ngoài ra, người ta còn nhìn thấy một Bình sữa đã nguội ngắt từ Bao giờ, được đặt Bên cạnh đứa Bé.
Gia đình Công Giáo tốt Bụng kia đem đứa trẻ về nhà để chăm sóc. Nó có vẻ mệt lả vì đói và lạnh.
Người ta kể lại rằng : họ đã nghe thấy tiếng của một chiếc xe Minsk chạy vào sân Nhà Thờ, sau đó không nghe thấy gì nữa. Người ta đoán rằng chiếc xe Minsk đã chở người mẹ đến Bỏ đứa con thơ vào trong hang đá, rồi lặng lẽ ra đi.
Khi nghe tin, một người phụ nữ trong xứ tên là Lê Thị Tho thuộc Gia Đình An Phong, thường hay đón nhận và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, đã đến để nhận đứa Bé về nuôi.
Khi đến nơi, chị Tho nhìn thấy một cảnh tượng rất mủi lòng : đứa Bé được lót lưng Bằng một cái Bao dùng để đựng phân hóa học, đặt trên một cái Bàn, Bên trên úp một cái lồng Bàn. Lúc ấy, đứa Bé không còn khóc nổi nữa vì nó đã kiệt sức.
Chị Tho đã đưa đứa Bé về đặt tên là Lê Mai Thiên Ân : Lê là họ mẹ nuôi, Mai mang âm hưởng tên Maria, Thiên Ân là ơn Trời : nghĩa là “Ơn Thiên Chúa Ban qua tay Mẹ Maria”.
Bé Lê Mai Thiên Ân nay đã được 5 tuổi, đang sống chung với hai Bé mồ côi khác dưới mái ấm tình thương của người mẹ giàu tình thương.
Một lần kia, Bé Ân đã hỏi một cách rất ngây thơ :
Con Bị Bỏ vào hang đá có phải để làm cho Đức Mẹ vui không ? Vì Đức Mẹ ở một mình thì Buồn lắm !
Đó cũng chính là câu hỏi dành cho chúng ta trong đêm nay.
Có thể chúng ta sẽ trả lời là Đức Mẹ luôn luôn vui. Vui vì những Ân huệ mà Đức Mẹ đã nhận lãnh từ Thiên Chúa. Vui vì Đức Mẹ được trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Vui vì mọi người đang vui trong đêm Giáng Sinh với đèn hoa rực rỡ này.
Thế nhưng, chúng ta cũng có thể tìm thấy từ trong sâu thẳm của đôi mắt Mẹ Maria ẩn giấu một niềm vui chưa trọn vẹn :
Niềm vui chưa trọn vẹn khi vẫn còn những người mẹ đang đau khổ vì những nỗi Buồn trong gia đình, những Bất hạnh trong cuộc sống, những lo toan trong đời thường. Những giọt nước mắt của những người mẹ vẫn đang tiếp tục rơi xuống trên những mảnh đời thương đau.
Niềm vui chưa trọn vẹn khi vẫn còn những người mẹ đánh mất trái tim từ mẫu, đang tâm giết chết con mình ngay trong chính Bụng dạ mình.
Niềm vui chưa trọn vẹn khi vẫn còn những người cha chưa làm tròn trách nhiệm của mình trong gia đình : những người cha thay vì đem niềm vui và hạnh phúc đến cho gia đình, thì lại đang Biến gia đình thành một nơi đầy đau khổ vì những đam mê Bất chính của mình.
Niềm vui chưa trọn vẹn khi vẫn còn có những trẻ em Bị Bỏ rơi, những trẻ em thiếu thốn tình thương, những trẻ em hư hỏng, đang Bị cuộc đời chà đạp và lạm dụng.
Niềm vui chưa trọn vẹn khi Món Quà Tình Yêu là chính Chúa Hài Đồng Giêsu được Đức Mẹ đem đến cho nhân loại đang Bị con người khước từ.
Hôm nay tâm hồn chúng ta không còn chỗ trọ cho Chúa Hài Nhi, vì tâm hồn ta đang ngổn ngang những mưu toan của cuộc sống áo cơm gạo tiền, tâm hồn ta đang chất chứa những mối hận thù ghen ghét với tha nhân. Vì thế, vẫn còn những Hài Nhi đang Bị vất Bỏ nơi những Bệnh viện, những Hài Nhi đang suy dinh dưỡng và đói ăn, những Hài Nhi không Biết cười vì thiếu sự săn sóc vỗ về.
Hôm nay dấu hiệu để chúng ta nhận ra Chúa Hài Nhi chính là đôi mắt của những người anh chị em sống Bên cạnh, đang nhìn vào chúng ta và chờ đợi ở nơi chúng ta một điều gì đó.
Hãy Biết đánh lên một que diêm nhỏ Bé của tình yêu để thắp sáng một Bầu trời hạnh phúc Bao la, để có thể nhìn thấy những Hài Nhi Giêsu đang Bơ vơ lạc lõng trong Bóng đêm cuộc đời.
Hãy Biết mở rộng tâm hồn như Hang Đá, và mở rộng Bàn tay như Máng Cỏ để đón nhận Chúa Hài Nhi đang được Ban tặng cho chúng ta.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày đại lễ Giáng Sinh tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
Is 52: 7-10
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
Dt 1: 1-6
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
Ga 1: 1-18
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về mầu nhiệm Nhập Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, thời kỳ dân Do thái đang bị lưu đày tại Ba-by-lon khi đó có một ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
Bối cảnh:
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ khai mở cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho con cái thành Giê-ru-sa-lem biết là đoàn người lưu đày sắp hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.
Đối với thành thánh, vương quyền của Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa sắp ra cánh tay hùng mạnh giải thoát dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài cho thấy Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và là Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là Vua của dân Ngài. Vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Hai bài hoan ca sắp vang lên. Bài hoan ca thứ nhất là tiếng reo hò mừng vui của những người canh gác. Từ trên tường thành, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
Bài hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài phải lưu đày, khốn khổ, lưu lạc khắp nơi. Ấy vậy, chính mắt họ sắp phải thú nhận rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt mà nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ thời lưu đày muốn vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này tiên trưng cho một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, nhưng cảnh giam cầm của tội lỗi. Ngài sẽ thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
Bản văn này là lời mào đầu của thư gởi cho các tín hữu Do thái, trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày đại lễ Giáng Sinh này.
Chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Do thái:
Thư gởi các tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn là thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông muốn chứng tỏ chức tư tế Tân Ước trổi vượt hơn biết mấy so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa.
Kiện toàn Mặc Khải:
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: ông chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của mình)). Thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia. Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa: Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người và Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho hậu duệ của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
Ngài là Đấng Tạo Hóa:
“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Lời Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:
“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự mật thiết khôn sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26). Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết: “Ngôi lời là ánh sáng thật…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả: Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, như vậy, ông siết chặc gần hơn nữa ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
Bảo tồn vạn vật:
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki-tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: hy tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12).
Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như trong thế vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng vào việc phong vương của Thánh Tử ngự bên hữu Đấng Tối Cao trên trời những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít ban cho vua một hoàng nam kế vị ngai báu của vua: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14).
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan là một bài thánh thi được viết theo thể văn vần khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng được viết theo thể văn xuôi. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm.
Từ chủ chốt của Tựa Ngôn là từ “Ngôi Lời”. Tự nguồn gốc, từ “Ngôi Lời” được dịch từ “Logos” của Hy ngữ, nhưng được thánh ký sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy ngữ nầy thấm nhuần tư tưởng của từ “Đa-va” (“Lời”) của Cựu Ước. Trong Cựu Ước, Logos có nghĩa là lời Thiên Chúa nói ra, là điều Thiên Chúa mặc khải qua vũ trụ, qua biến cố và, nói chung, qua Thánh Kinh (Cn 8: 23-36; Hc 24: 1-22). Tất cả những tư tưởng ấy đều gặp trong Tin Mừng Gioan. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp “logos”với mạo từ không để diễn tả “Lời” cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Ngôi Lời ngay từ khởi thủy đã hiện diện trong cung lòng của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1: 15), là phản ảnh vẽ huy hoàng và trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1: 3). Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại (1Ga 1: 2). Tuy nhiên, thế gian đã không biết Ngài, dân Ngài cũng khước từ Ngài. Nhưng ai tiếp đón Ngài, Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Họ được quyền làm con Thiên Chúa như vậy, không phải do người phàm, mà là do Thiên Chúa (1: 12-13).
Do đó, chỉ vỏn vẹn mười tám câu, bài thánh thi được tạo dáng một cách nghệ thuật tóm tắt những chủ điểm Thần Học của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su Na-da-rét là Mặc Khải tối hậu của Thiên Chúa, Đấng có thẩm quyền giải thích Thiên Chúa. Nói cho cùng, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Trung Gian của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đích thực là Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa hiện thân để nói lời tối hậu của Thiên Chúa.
Trong bầu khí tươi vui của ngày lễ Giáng Sinh, tôi xin được chú giải câu 14:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm:
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt”. Theo thuật ngữ Kinh Thánh, “xác thịt” không chỉ xác thể phân biệt với linh hồn, nhưng trọn vẹn con người. “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” có nghĩa Ngôi Lời đã thật sự trở thành một phàm nhân như chúng ta, nhưng Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Điều này muốn nói rằng khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta hằng tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
Ngôi Lời cư ngụ giữa chúng ta:
Câu này được dịch sát từ: Ngôi Lời “dựng lều giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “dựng lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái dựng lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê Ngài sẽ đồng hành với dân về Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa dựng lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
Từ đó, “dựng lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong thời Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người:
Trong Cựu Ước, kiểu nói: “vinh quang của Thiên Chúa”, đồng nghĩa: “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những quyền năng mà Thiên Chúa đã thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, hiển lộ quyền năng và vinh quang của Ngài (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những dấu lạ mà Tin Mừng Gioan chỉ ghi lại “bảy dấu lạ” trong phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về Các Dấu Lạ” (ch. 1-12), và dấu lạ tuyệt mức cuối cùng là “Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài” trong phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về Vinh Quang” (ch. 13-21). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các dấu lạ Người làm lúc sinh thời”. Những dấu lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
Nói riêng, khi viết, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”, tác giả liên tưởng đặc biệt đến việc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, một sự kiện mà chính tác giả là một trong ba môn đệ được diễm phúc chứng kiến. Quả thật, so sánh câu phát biểu nầy với các bài trình thuật Nhất Lãm về cuộc Biến Hình đều có hai yếu tố: các tông đồ nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và Đức Giê-su được Chúa Cha công bố là Con Một của Ngài.
Nói tóm lại, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa và vinh quang của Ngài rực rỡ đến mức người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các dấu lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).
Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật:
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng” và “sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương” và “thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và hay tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng “Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu “trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta ” (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu – hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: “Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, “Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, ” (“L Evangile de Jean”, Centurion 1 992, trang 31).
Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu” liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu “như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người” (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến “Ngôi Lời Thiên Chúa” (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: “Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống” và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
– Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: “Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: “ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
– Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là “gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, “đã không đón nhận Người”.
+ “Còn những ai đón nhận Người – dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
– Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết “người phàm”, theo đúng chữ là “trở nên xác thịt”; từ “xác thịt” ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ “Người cư ngụ giữa chúng ta” ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến “nơi ở” của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: “Chúa nói về Đền thờ thân xác Người”).
+ “Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người” trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
– Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: “Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng “Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha”: đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: “Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3). Nhưng trong “tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (14,23)” (“Lire de Bible”, số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
Một câu không có “động từ ” thì không có nghĩa (“Bible du Dimanche” trang 51 1-512). (Trong tiếng Pháp, “verbe” vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
“Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: “Không ai đã được thấy Thiên Chúa’? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói “Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời (“động từ”) này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta”.
Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại. (L. Sintas trong “Parole de diệu pour la méditation ét l’homélte -Năm C”, Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
– Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán… và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. “Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa “đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. “Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ”.
Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược (“Célébrer” số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, “nhờ người”. Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa…
– Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng “chúng tôi” để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: “Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe…? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể – đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con”.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
-Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
-Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
-Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
-Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
CẤT LỜI CHÚC TỤNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Lễ Giáng Sinh tới rồi! Một mùa lễ với nhiều nội dung quá súc tích và phong phú: Hài nhi Giê-su giáng sinh tại Bê-lem trong khung cảnh đơn sơ nghèo hèn, một Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và đi vào kiếp sống của con người nhân loại, một Thiên Chúa khởi đầu việc thực hiện công trình cứu độ mà toàn nhân loại đã ấp ủ từ lâu… Lời Chúa của cả ba Thánh Lễ được cử hành trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là để trình bầy cho chúng ta ba mảng tư tưởng trên. Mỗi người chúng ta đều có thể chọn lấy cho mình một đề tài suy niệm riêng. Chính lúc này tôi lại muốn buông mình vào tâm tư của ngày lễ vọng (24/12) để tận hưởng cái tâm tình tuyệt vời của bài thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus), mà tôi vẫn thường đọc lên mỗi buổi kinh sáng. Bài ca này chứa đựng một tâm tưởng mà theo tôi nghĩ, phải là mục tiêu của suy niệm trong cả ba Thánh Lễ tiếp theo; đồng thời cũng phải trải dài suốt cả đời sống Ki-tô hữu: một tâm tình chúc tụng tạ ơn không ngơi nghỉ.
Da-ca-ri-a đã có cả một thời gian khá dài (09 tháng) để nghiền ngẫm về biến cố đang được khai mở, mà dầu trong tư cách là một tư tế, ông vẫn thấy mình chẳng hiểu tí gì. Điều quan trọng nhất ông làm trong suốt khoảng thời gian đó có lẽ không phải là suy tư, là học hỏi kinh thánh hoặc các lời tiên tri… mà chính là cảm nghiệm về thân phận của một người bị câm điếc, của một tư tế bị dị nghị và gạt bỏ. Chính trong cái tâm trạng bĩ cực đó, dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, ông đã nghiệm ra được điều vĩ đại và trọng tâm nhất đối với lịch sử cứu độ và đối với cuộc sống riêng mình: Thiên Chúa đầy trắc ẩn khởi công thực hiện công trình cứu chuộc của Người. Việc Gio-an con ông, vị tiền hô của Người, được sinh hạ chỉ là một dấu khởi đầu, như hừng đông báo trước. Chính vì thế mà, với việc Gio-an chào đời, vừa lúc miệng lưỡi ông mở ra và ông nói được, ông lập tức cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa.
Và lời chúc tụng (benedictus) thật kỳ diệu: nó khác xa Bài Ca Chiến Thắng mà Mô-sê cùng với con cái It-ra-en cất lên sau khi đã vượt qua biển đỏ và tận mắt chứng kiến việc Gia-vê hiển hách chiến thắng binh lực Pha-ra-ô hùng mạnh để giải phóng dân Ngài (xem Xh 15, 1-20). Ở đây, một hình ảnh Thiên Chúa trái ngược được phác họa: ‘đầy tình xót thương, đầy lòng trắc ẩn…’, thông qua nhiều đường nét là một chuỗi các hành động khác nhau:
Viếng thăm cứu chuộc dân Người
Cho xuất hiện vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta
Cứu ta thoát khỏi địch thù
Trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
Giải phóng ta khỏi tay địch thù
Cho ta chẳng còn sợ hãi
Cứu độ và tha thứ hết mọi tội khiên
Viếng thăm ta
Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an
Đối với Da-ca-ri-a, một kỷ nguyên mới đang được khai mở, kỷ nguyên của Tân Ước trong đó xuất hiện một Thiên Chúa đầy từ tâm; kỷ nguyên trong đó chúc tụng sẽ là công việc chính yếu cần làm.
Lễ Giáng Sinh mà tôi mừng kính sẽ chẳng có giá trị gì nếu không kèm theo lời chúc tụng. Và lời chúc tụng chân thực nhất sẽ không chỉ là hòa mình với toàn thể nhân loại tham gia một lễ hội, mà là cùng với Hội Thánh các kẻ tin vang lên lời chúc tụng, xuất phát từ nhận thức sinh động thân phận thấp hèn của con người mình, đầy dẫy những khiếm khuyết, lầm lỗi, yếu đuối và đổ vỡ nhưng lại được chính Thiên Chúa viếng thăm. Chỉ có như thế Giáng Sinh mới trở thành một bài ca chúc tụng tạ ơn phát xuất từ đáy lòng, một bài ca diễn đạt không ngơi với niềm tin của tập thể các môn đệ là Hội Thánh.
Lạy Chúa Hài Nhi, quỳ bên máng cỏ Chúa, con muốn chiêm ngắm Chúa, đống thời chiêm ngắm chính con. Càng ngắm nhìn Chúa con lại thấy cần phải thẳng thắn nhìn sâu vào con người yếu hèn của mình. Con không thể hiểu hết được ý nghĩa việc Chúa giáng sinh, nếu con không nhận ra sự thấp kém của mình. Chúa làm người để con được làm người con của Chúa, dẫu trong tất cả yếu đuối và giới hạn. Chúa làm người để con không còn tự ti mạc cảm, nhưng luôn biết dâng lời ngợi khen và chúc tụng không ngơi. Amen
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
LOAN TIN CHÚA GIÁNG SINH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng bao giờ thấy. Có đợi chờ mang lại niềm vui như chờ người yêu, chờ nhận quà nhưng cũng có đợi chờ chỉ mang lại thất vọng chán chường như chờ kết quả xét nghiệm sức khỏe …
Vì có đợi chờ nên cũng có chờ hụt. Có lẽ chúng ta đều đã từng biết sự kiện chờ bão hụt vừa qua khi đài khí tượng thông báo sẽ có bão số 13 đổ vào TP.HCM rất mạnh. Dân Sài-gòn sợ hãi kẻ thì bỏ chạy, người thì ràng buộc nhà cho vững nhưng chờ bão mãi chẳng thấy. Hóa ra dự đoán sai …
Rồi cũng có biết bao lần chúng ta chờ đợi trong hụt hẫng như những câu chuyện vui sau:
Mẹ ơi! Sáng nay có cô Mười ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”
Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay:
Món quà gì thế con?
Dạ, một quyển lịch dùng cả năm?
Hoặc câu chuyện khác:
– Chàng: Anh sẽ tặng em một món quà làm cho ngón tay em xinh thêm.
– Nàng: (tưởng là những chiếc nhẫn kim cường hay cũng ít là hột xoàn bèn nói) Anh đừng tặng những thứ mắc quá.
Chàng: Em vớ vẩn, cái dũa móng tay có cái nào mắc đâu.
Dân Do Thái ngày xưa cũng từng mừng hụt. Họ tưởng được đón tiếp một Minh Quân quyền uy đánh đông dẹp tây thống trị thiên hạ, thế nhưng, Ngài lại đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối, nghèo hèn nằm trong máng cỏ. Họ tưởng Thiên Chúa sẽ đến trong mây trời gió lộng nhưng ngài lại đến âm thầm nơi đồng hoang mông quạnh. Thế nên, họ đã không chấp nhận sự thật ấy mặc dù đã được pho Kinh Thánh dẫn chứng và các mục đồng hoan hỉ loan tin. Họ vẫn khép cửa lòng trong sự cố chấp không tin. Họ đã để niềm vui trôi qua vì không nhận được hồng ân Con Chúa giáng trần
Nếu hôm nay Chúa giáng sinh lại một lần nữa, Ngài sẽ giáng sinh trong thân phận nào? Hay nói cách khác, chúng ta thích Chúa giáng sinh trong thân phận nào?
Có lẽ chúng ta đều mong muốn Chúa trở nên giống chúng ta. Chúng ta mong muốn Chúa cùng giai cấp, cùng hoàn cảnh của chúng ta để có thể hiểu và cảm thông nâng đỡ chúng ta. Chúng ta muốn Chúa giống chúng ta nhưng lại không muốn Chúa giống người bên cạnh chúng ta. Chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội phục vụ Chúa qua tha nhân vì không nhận ra Chúa nơi họ. Thế nên, chúng ta cũng nhiều lần khước từ Ngài như dân Do Thái năm xưa.
Xem ra đường lối của Thiên Chúa luôn khác xa với suy nghĩ của con người. Con người thường nghĩ đến vật chất, đến danh vọng đời này. Thiên Chúa luôn mời gọi con người sống thanh thoát, sống vượt lên trên những ham muốn tầm thường mau qua để tìm kiếm Nước Trời làm gia nghiệp. Con người thường xây dựng một Thiên Chúa theo ý mình, nhưng Ngài lại đòi con người phải bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Chúa giáng sinh làm người là một ngày hội, một ngày vui của chúng ta. Ngài đã trở nên con người để mang lại niềm vui chung cho cả nhân loại. Ngài đã gắn kết tình người để dù con người có khác niềm tin, khác quan điểm nhưng chung một sứ điệp bình an mang đến cho nhau trong ngày đại lễ hôm nay. Ngài là Emanuel sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi. Ngài hằng mời gọi chúng ta đón nhận Ngài trong từng biến cố cuộc sống, và nhất là trong từng phận người. Ngài đã đồng hóa mình trong thân phận kẻ khó khăn, bất hạnh, cùng khổ. Ngài mời gọi chúng ta hãy đón nhận họ, hãy thi ân cho họ là thi ân cho chính Ngài.
– Thiên Chúa mãi ở cùng chúng ta nhưng liệu chúng ta có mừng hụt khi chúng ta không không nhận ra Ngài trong tha nhân, trong bạn bè, nhất là trong Mình Thánh Chúa để đón tiếp Ngài mỗi ngày.
– Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta không nhận ra Chúa trong anh em nên vẫn còn đó sự nghi kỵ, ghen tương, kết án anh em.
– Xem ra chúng ta vẫn mừng hụt khi chúng ta bỏ lỡ rất nhiều lần rước Chúa vào lòng vì lòng chúng ta còn mãi mê hưởng thụ, chìm đắm trong đam mê tội lỗi.
– Xem ra Chúa vẫn không đến theo ý chúng ta nên chúng ta vẫn sống theo ý riêng, theo bản năng của mình để rồi rời xa Chúa, rời xa chân thiện mỹ.
Có lẽ , nếu Chúa giáng sinh hôm nay, Chúa vẫn cần chúng ta thay cho các mục đồng loan tin cho nhân thế. Chúa cần chúng ta không chỉ làm điều gì đó để chia sẻ với Chúa mà nhất là hân hoan ra đi loan tin cho trần thế về niềm vui Chúa giáng sinh làm người. Thánh Phaolo đã từng nói: làm sao có người nghe tin mừng nếu không có người rao giảng. Vậy làm sao nhân loại có thể nhận ra Chúa đang ở giữa chúng ta nếu không có người sẵn lòng ra đi giới thiệu Chúa cho họ.
Ước gì lòng chúng ta tràn ngập niềm vui khi nhận ra Chúa đang giáng sinh từng ngày trong đời chúng ta, thì cũng hãy mạnh dạn như các mục đồng hân hoan loan báo cho anh em. Ước gì niềm vui Chúa giáng sinh luôn rộn rã trong tâm hồn chúng ta sẽ là động lực giúp chúng ta trở thành sứ giả của niềm vui Con Chúa giáng sinh. Amen
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ- Lm. Giuse Vũ Thiên Trường, SVD
Trong thế giới hôm nay, Noel có lẽ là lễ kỷ niệm lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng gần như ở mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội, mọi hoàn cảnh. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thành thị… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ miền quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội tráng lệ.
Các Kitô hữu lại đón mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Chúng ta không phải kỷ niệm một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, mà đây là dịp để chúng ta làm cho Mầu Nhiệm Giáng Sinh và ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa thực sự sống động và sinh hoa kết trái trong cuộc đời chúng ta, để cho bình an đích thực của Ngôi Lời lan toả đến mọi tâm hồn thế nhân.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’ (Lc 2,14).
Một Thiên Chúa đến với con người
Trong cảnh ồn ào náo động và trống rỗng của cuộc sống, thánh Gioan mời gọi chúng ta chiêm ngắm và lắng nghe chính Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời, để thể hiện tình yêu của Ngài đối với con người. Đó là Ngài đã trở nên con người thực sự và đích thân đến với con người. Sáng kiến tình yêu này không phải là một sự ngẫu nhiên hay bồng bột, cũng không phải “tình yêu sét đánh”,nhưng đã được ấp ủ, chuẩn bị trong một thời gian dài.
Trong thư gởi tín hữu Hípri, tác giả đã tóm lược diễn tiến của Lời Thiên Chúa ngỏ với con người: “Thuở xưa nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con” (Hr 1,1-2).Đó chính là một tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho toàn thể nhân loại.
Nhưng khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng Tối Cao”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa, vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Ngài đã hóa thân làm người ở giữa chúng ta. Một Thiên Chúa quyền năng vô biên, không bị lệ thuộc vào không gian và thời gian, Ngài có quyền trên hết vạn vật, thế mà hôm nay, Ngài lại đi vào trong thời gian, bị lệ thuộc vào thân xác mỏng manh của phận người. Thiên Chúa vốn dĩ vô hình, mà nay lại trở nên hữu hình: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Hôm nay, Lời của Thiên Chúa đã sinh ra và làm cho mọi sự đều thay đổi. Người đã đến chia sẻ bản tính con người của chúng ta; để chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn hay bị bỏ rơi nữa. Bởi vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14), Ngài là khởi đầu của cuộc sống mới, là Ánh sáng đã đến soi chiếu trong bóng tối cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ trong mắt con người, tình yêu này quá nhỏ bé, quá khiêm tốn, đến nỗi chúng ta không dám nhận ra, hay không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài, khi sinh ra cách đơn sơ, khiêm tốnnơimáng cỏ bò lừa.
Thế nhưng, Tình Yêu khiêm tốn đó đã không làm chúng ta bị choáng ngợp, không ban bố một cách “cha chú”, nhưng chỉ biết gõ cửa và chờ đợi. Ngài đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công Đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
“Và cư ngụ giữa chúng ta”
Thiên Chúa đã làm người để cho con người nên người hơn và trở nên con Thiên Chúa. Tiếc rằng ngay khi tin vui Giáng Sinh được loan báo thì vẫn còn đó những người đang ngủ mê, những kẻ đóng kín cửa lòng trước Tin Mừng trọng đại. “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lạnh, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Thế nhưng, Ngài vẫn tiếp tục chờ đợi với sự kiên nhẫn trước những hờ hững của con người và các dân tộc.
Trong một xã hội đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ và lạc thú, say mê của cải và sa hoa, ưa chuộng vẻ bên ngoài và tự mãn, Hài Nhi ấy vẫn kêu gọi chúng ta phải sống tiết độ, hay nói cách khác, sống đơn giản, quân bình, kiên định. Trong một thế giới đã quá thường xuyên không tỏ lòng thương xót người có tội nhưng lại dễ dãi với tội lỗi, Hài Nhi ấy tiếp tục mời gọi chúng ta vun trồng một ý thức mạnh mẽ về công chính, phân định và thực thiý Chúa. Trong một nền văn hóa vô cảm thường dẫn đến chỗ tàn nhẫn, chúng ta được mời gọi sống vị tha, cảm thông và thương xót, được kín múc nơi nguồn suối của mầu nhiệm Nhập Thể.
Nếu qua Hài Nhi ấy, Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa. Như câu chuyện có thật được tác giả kể lại trên trang Bestchristmasstories.
Bước đến gian hàng mùa Giáng Sinh, tôi nhìn thấy một cậu bé chừng 5 tuổi đang cầm một con búp bê rất xinh xắn. Người bán hàng nói với cậu bé rằng cháu không có đủ tiền mua con búp bê đó đâu, song em vẫn tiếp tục ôm nó.
Tôi đi tới và hỏi xem cậu định mua búp bê cho ai. Cậu bé nói: “Đây là con búp bê em gái cháu rất thích. Nó tin ông già Noel sẽ mang đến cho nó”. Khi được hỏi em gái đang ở đâu, cậu bé với đôi mắt buồn rười rượi: “Em đã về với Chúa rồi và mẹ cũng sắp sửa đến nơi có em gái cháu”. Cậu bé nhìn tôi lần nữa và nói: “Cháu muốn mẹ mang theo bức ảnh này, để mẹ không bao giờ quên cháu. Cháu yêu mẹ nhiều lắm. Cháu ước mẹ đừng đi, nhưng bố bảo mẹ phải đi với em”. Rồi cậu khoe với tôi một bức ảnh của cậu vừa được chụp trước cửa hàng.
Lựa lúc cậu bé không để ý, tôi đưa tay vào ví của mình và lôi ra một nắm tiền lẻ. Tôi bảo: “Vậy chúng ta cùng đếm lại tiền lần nữa nào”. Sau khi đếm xong chỗ tiền đã được tôi kín đáo luồn thêm vào một ít, cậu bé thì thầm nói: “Cảm ơn Chúa đã cho con đủ tiền”. Rồi cậu bảo với tôi: “Cháu xin Chúa cho cháu có đủ tiền mua búp bê để gửi cho em và Chúa đã nghe. Cháu thầm ước có đủ cả tiền mua cho mẹ một bông hồng trắng nữa. Cháu không xin Chúa, vậy mà Người vẫn nghe thấy. Mẹ cháu yêu hồng trắng lắm”.
Bỗng dưng, có điều gì đó như vụt qua trí óc tôi. Tôi nhớ lại mẩu tin đọc trên báo vài hôm trước: “Chiếc xe tải đâm phải xe hơi, làm thiệt mạng một bé gái. Mẹ của cô bé bị thương rất nặng”.
Mấy ngày sau, báo lại đưa tin, người phụ nữ trẻ trong vụ tai nạn trên đã chết. Không nén nổi tò mò, chiều muộn ngày hôm đó, tôi mua một ít hồng trắng đến nhà tang lễ. Ở đó, tôi nhìn thấy ảnh người phụ nữ với một bông hồng trắng và con búp bê trên tay. Bên cạnh là ảnh cậu bé chụp trước cửa hàng.Tôi rời khỏi nhà tang lễ với đôi mắt đẫm nước. Cuộc đời tôi đã thay đổi mãi mãi. Tôi quá xúc động trước tình cảm của cậu bé dành cho mẹ và em gái. Nhưng chỉ trong vài giây, người tài xế xe tải đã xé tan cuộc sống của cậu ra hàng trăm mảnh.
Khi biết đón nhận Hài Nhi Giêsu vào tâm hồn và vào cuộc đời mình, chúng ta sẽ học được tình yêu Thiên Chúa, để biết chia sẻ và trao tặng cho người khác những món quà chúng ta có. Cảm nghiệm được tình Chúa và niềm vui chân thật của ngày Lễ Giáng Sinh như thế thì chỉ cần một nụ cười, một cái bắt tay, một cử chỉ thân thiện cảm thông,… chúng ta cũng đã trao cho nhau những hành động giá trị hơn muôn vàn thứ khác. Và chính lúc ấy người ta mới cảm nhận được sự bình an thật sự của lời ca: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Tâm hồn chúng ta đã mừng vui khi chờ đợi giây phút này, giờ thì niềm vui ấy lại càng chan chứa, vì lời hứa cuối cùng đã được thực hiện. Niềm vui ấy là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp trong mầu nhiệm đêm naythực sự từ Thiên Chúa mà đến. Không có chỗ cho sự nghi ngờ; hãy dành mối nghi ngờ cho những kẻ hoài nghi là những kẻ chỉ biết đi tìm nguyên do mà chẳng bao giờ gặp được chân lý. Không có chỗ cho sự thờ ơ đang thống trị trong tâm hồn của kẻ không thể yêu thương vì họ sợ mất đi điều gì đó. Mọi nỗi buồn đau phải tiêu tan, vì Hài Nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực cho mọi tâm hồn.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Trích Logos C
Vào năm 1957, chiếc phi thuyền đầu tiên của con người đã được phóng vào không gian. Đó là chiếc phi thuyền mang tên Spounik do người Nga chế tạo. Sau khi chiếc phi thuyền này Bay một vòng trong không gian, đã Bay trở về trái đất an toàn. Một phi hành gia vô thần trong phi hành đoàn là ông Gagarin đã tuyên Bố với mọi người:
Tôi đã Bay một vòng trong không gian, nhưng không nhìn thấy Thiên Chúa đâu cả !
Vào năm 1971, chiếc phi thuyền mang tên Apollo 11 của Hoa Kỳ cũng phóng vào không gian và đáp xuống mặt trăng. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, con người đặt chân lên mặt trăng. Trong phi hành đoàn, có ông Amstrong, người được gọi là “Anh Hùng Không Gian” của Hoa Kỳ, đã dựng một Biểu ngữ trích câu Kinh Thánh đầu tiên của Phúc Âm thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe :
“Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa”.
Những phi hành gia của Nga vì không có niềm tin, nên đã không nhìn thấy Thiên Chúa và vì thế, họ đã không tiếp nhận Ngài.
Những phi hành gia người Mỹ, với sự khiêm tốn và niềm tin, đã tiếp nhận Ngài và đã làm một hành động tượng trưng là đặt Lời Thiên Chúa trên phần đất mà họ vừa đặt chân tới. Qua hành động đó, họ muốn công nhận sự hiện diện của Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là Mầu nhiệm Thiên Chúa đi tìm con người.
Vì thế, trước khi con người đi tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đã đi Bước trước để tìm kiếm con người.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm của ánh sáng chiếu soi vào Bóng tối, là mầu nhiệm của trời cao cúi xuống đất thấp, là mầu nhiệm của cái cao cả đi tìm cái tầm thường, là mầu nhiệm của sự linh thiêng đến với sự trần tục, là mầu nhiệm của sự sống hồi sinh sự chết, là mầu nhiệm của niềm hy vọng làm Bừng sáng lên sự tuyệt vọng.
Mầu nhiệm Giáng Sinh còn là mầu nhiệm của Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta.
Vì thế, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để có thể ở giữa chúng ta. Ngài là Đấng Emmanuel : Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm của một Thiên Chúa đã trở nên giống con người, mang thân phận của một con người thấp hèn, để cứu chuộc con người.
Nhưng đáng tiếc thay, ánh sáng đã chiếu soi vào Bóng tối và Bóng tối đã không tiếp nhận ánh sáng. Đấng Emmanuel đã đến ngôi nhà nhân loại, nhưng nhân loại đã không tiếp nhận Ngài.
Do đó, Chúa Giáng Sinh vẫn chỉ là Người Khách Lạ trong mọi lễ Noel, thậm chí có khi Ngài trở thành Vị Khách không được mời của ngày lễ hội tưng Bừng này.
Nhưng dù sao, Ngài vẫn luôn đi tìm con người, đi tìm con người suốt 2000 năm qua, và còn tiếp tục tìm kiếm không mệt mỏi.
Chúa Giáng Sinh vẫn luôn là Đấng Emmanuel cô đơn giữa lòng thế giới hôm nay. Ngài chưa tìm được chỗ ở giữa nhân loại, nhưng chỉ được ở những vị trí Bên lề của cuộc sống con người.
Nhưng dù sao, Ngài vẫn luôn mãi là Đấng Emmanuel cho mọi thời đại, dẫu rằng, nơi nhiều tâm hồn và dưới nhiều mái gia đình vẫn vắng Bóng Ngài.
Trong Mùa Giáng Sinh này, tại nhiều trung tâm giải trí của ngày lễ Noel, có khi ngay tại những Phố Hang Đá huy hoàng rực rỡ, Đấng Emmanuel vẫn vắng mặt. Người ta đã không dành chỗ cho Ngài.
Hôm nay, chúng ta hãy trở thành Con Đường Nhập Thể nối dài, để qua đó, Ngài có thể đến với chúng ta và đến với anh chị em sống chung quanh chúng ta.
Hãy trở thành một Emmanuel Thứ Hai, để qua chúng ta, Ngài có thể ở giữa mọi người.
Hãy trở thành một Máng Cỏ Êm Ấm, để Ngài có thể tìm được một chỗ trọ nơi các mái ấm gia đình.
Trong một ngày Giáng Sinh, tại một giáo xứ kia, Cha xứ đã đến thăm một gia đình. Vào nhà, ngài nhìn thấy một Bé gái 12 tuổi, đang loay hoay Bắt điện vào một cái hang đá đơn sơ nhỏ Bé. Cha xứ hỏi :
Sao con không nhờ Ba con làm cho, làm sao con có thể Bắt điện được ?
Cô Bé trả lời :
Thưa Cha, con phải tự làm thôi, vì ngày nào Ba con cũng đi vắng, mà về đến nhà thì say xỉn rồi, còn làm được cái gì nữa !
Đó chính là một lời nhắc nhở cho chúng ta, khi chúng ta chưa chu toàn Bổn phận của mình, Bổn phận trở thành một Emmanuel Khác cho Chúa hiện diện ở giữa gia đình chúng ta. Có thể gia đình chúng ta đang cần những hang đá tỏa hơi ấm tình thương của Chúa Hài Đồng.
Mỗi người hãy trở thành một Hang Đá Thiêng Liêng cho tha nhân, để qua đó, Chúa Hài Đồng tìm được chút hơi ấm của lòng người.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay, để giới thiệu một nhân vật hoặc một sản phẩm mới, các nhà tổ chức phải tìm mọi cách để làm nổi bật nhân vật, sản phẩm mà họ muốn giới thiệu qua mọi phương tiện. Để giới thiệu về bản thân cho công chúng, các ca sĩ cũng phải mượn báo chí và các kênh thông tin, kể cả việc tạo ra những vụ lùm xùm để gây sự chú ý của cộng đồng. Trong việc đưa Con Thiên Chúa vào trần gian, Thiên Chúa đã không làm theo kiểu của con người, trái lại, Ngài để cho Con của mình bước vào đời một cách hết sức âm thầm, bình dị đến độ khó tin, khó chấp nhận.
Bài Tin Mừng hôm nay nối tiếp đoạn Tin Mừng chúng ta nghe đêm hôm qua. Thánh Luca thuật lại: Vào đêm Chúa Giêsu giáng sinh, sứ thần của Thiên Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng: Đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của Đavít, Người là Đấng Kitô. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh, được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Nghe sứ thần báo tin như thế, các mục đồng đã hối hả tìm tới nơi để gặp Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa có những cách hoàn toàn khác để thực hiện chương trình của Ngài. Những con người đầu tiên được báo tin vui giáng sinh không phải là những nhà báo hoặc giới truyền thông, nhưng lại là những trẻ chăn chiên chăn bò. Các mục đồng là thành phần thấp kém trong xã hội Do Thái, thường là những người nghèo phải đi chăn chiên thuê, họ bị khinh rẻ loại trừ. Thiên Chúa chọn các mục đồng là những người đầu tiên được đón nhận tin vui giáng sinh bởi vì họ là những người thiện tâm. Họ là những người nghèo trước mặt mọi người, nhưng lại giàu lòng yêu mến Thiên Chúa và khát khao đợi chờ Đấng Cứu Thế. Họ bị những người Do Thái khinh thường, nhưng trước mặt Thiên Chúa, không ai bị khinh thường và cũng không ai bị loại ra khỏi tình thương cứu độ của Ngài. Tiên tri Isaia khi tiên báo về ngày Đấng Cứu Độ cũng nhắc đến một thành phần thấp kém trong xã hội bấy giờ được ưu tiên đón nhận tin vui, đó là các thiếu nữ: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới, Ngài mang theo phần thưởng và các chiến lợi phẩm. Những ai đón nhận Đấng Cứu Thế thì được gọi là “dân thánh” là “những người được cứu chuộc”. Thiên Chúa sẽ thay đổi thân phận con người, mang lại cho con người phẩm giá cao quý: Phụ nữ trở nên có giá như cô gái đắt chồng, thành phố thì được yêu mến và không bị bỏ hoang nữa.
Khi đón nhận tin vui giáng sinh, các mục đồng lập tức chỗi dậy, lên đường tìm kiếm Đấng Cứu Thế ngay trong đêm. Họ đi với một tâm trạng hồ hởi vui mừng và mong chờ được gặp Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Tin Mừng kể lại: Họ hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Khung cảnh họ nhìn thấy đầu tiên không phải là một tòa nhà sang trọng, mà là một gia đình đơn sơ nghèo nàn, nhưng mỗi thành viên lan tỏa ra sự thánh thiện. Họ cũng đã gặp được Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn và đặt trong máng cỏ như sứ thần đã báo trước. Mặc dù Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn các mục đồng đã tin và đã sấp mình thờ lậy trước Hài Nhi bé nhỏ. Các mục đồng sung sướng hạnh phúc vì thấy được một Thiên Chúa giống như họ, đồng cảm và chia sẻ cảnh nghèo khó đơn sơ và bị loại trừ như họ.
Cuộc gặp gỡ của các mục đồng với Hài Nhi Giêsu quả thật là một cuộc gặp gỡ trong đức tin, đòi một bước nhảy dài. Các mục đồng phải vượt qua khung cảnh đơn sơ nghèo khó này, để tin Hài Nhi bé nhỏ yêu ớt kia là một vị Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng và điều khiển mọi vật mọi loài. Các mục đồng đã hoàn toàn được biến đổi để trở thành những người tiếp tục loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người. Tin Mừng kể tiếp: Họ kể lại cho mọi người những gì họ đã nghe và đã thấy về Hài Nhi. Những kẻ nghe họ kể lại cũng ngạc nhiên về những gì được thuật lại. Các mục đồng ra về,vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa, vì những điều họ đã được tai nghe mắt thấy. Điều đó cho thấy rằng, niềm vui giáng sinh đã thấm sâu vào tâm hồn các mục đồng và lan tỏa qua từng bước chân, từng lời nói của họ.
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, những kẻ nghèo khó và người có tâm hồn thành tâm thiện chí được Thiên Chúa ưu tiên tỏ mình ra. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế và còn nhấn mạnh rằng: Thiên Chúa yêu thương và ban ơn cứu độ cho ta, không phải vì ta đã làm những việc công chính, nhưng chỉ do tình thương của Chúa mà thôi. Nhờ ơn của Bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta nên con người mới và Ngài còn ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời.
Tuần vừa qua, một linh mục thuộc Ủy ban Đòan kết đã lên tiếng xin chính phủ chấp thuận cho ngày lễ Chúa Giáng sinh trở thành ngày nghỉ toàn quốc. Việc thỉnh cầu này nếu được chấp thuận (mặc dù khó), kết quả của nó sẽ đem lại gì cho đời sống đức tin của người tín hữu? Giả dụ lễ Chúa Giáng Sinh trở thành ngày nghỉ, thì sớm muộn cũng sẽ chỉ còn là dịp lễ hội, lễ nghỉ, để mọi người đi chơi, xa hơn là đi lễ. Ngay thời điểm hiện nay, nhiều người tín hữu chỉ hòa mình vào niềm vui bên ngoài mà bỏ quên niềm vui đích thật trong tâm hồn. Nhiều người, nhiều gia đình tổ chức ăn uống, mừng lễ giáng sinh rất to, trang trí rất đẹp, nhưng hình như họ đã quên nhân vật chính và quên ý nghĩa chính của ngày đại lễ Chúa Giáng sinh. Các trang trí giáng sinh chỉ còn là những hình ảnh biểu tượng thế tục, các hình ảnh đơn sơ thánh thiện của hang đá, của Hài nhi và gia đình Thánh Gia, đã trở nên càng ngày càng hiếm. Nhiều người bị cuốn vào lễ hội Noel đường phố giống như ngày lễ của ông già Noel; các tụ điểm vui chơi, gọi là mừng lễ giáng sinh mà không biết ai giáng sinh, tức là một lễ giáng sinh không có Chúa.
Tình trạng lễ Chúa Giáng sinh không có Chúa đang diễn ra không chỉ ở những trang trí và các lễ hội bên ngoài, nó bắt nguồn không chỉ từ phong trào tục hóa, mà từ nơi tâm hồn nhiều tín hữu. Nhiều người trong chúng ta không cảm nhận được tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Nhiều người đã từ chối không tin, không đón nhận Chúa Giêsu là Chúa là Đấng cứu độ của mình. Vì thế đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, họ vẫn không chuẩn bị gì cho tâm hồn, để khi mùa Giáng sinh qua đi giống như cây thông, và các đồ trang trí lại được dọn dẹp cất vào một chỗ để năm tới đem ra trưng bày như cũ, không thêm lòng tin, cũng không thêm lòng yêu mến và không biến đổi gì.
Sự tục hóa ngày lễ Chúa Giáng sinh đang ảnh hưởng trực tiếp trên người trẻ. Các thống kê cho thấy, cứ sau mùa lễ Chúa Giáng sinh, các ca nạo phá thai tại các bệnh viện và cơ sở y tế lại tăng mạnh. Lý do là đêm 24/12 trở thành dịp ăn chơi, sa đọa thâu đêm, khiến cho nhiều bạn trẻ không thể dừng lại, để mình bị bản năng, dục vọng điều khiển. Những bạn trẻ này không chỉ xúc phạm đến ngày lễ Chúa Giáng Sinh mà còn xúc phạm nặng nề luật Chúa, làm tổn thương đến cuộc đời mình và tiếp tục gây thêm tội ác giết hại các thai nhi.
Mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta cầu xin Chúa cho mình và cho mọi người, cách riêng cho người trẻ biết vui hưởng một mùa Giáng Sinh thật thánh thiện an bình. Xin cho tất cả mọi người chúng ta gặp được Chúa Giêsu Hài Nhi không chỉ trong hang đá, nhưng còn trong Bí Tích Thánh Thể khi ta đón rước Ngài vào tâm hồn. Xin cho chúng ta noi gương các mục đồng, ra về trong hân hoan và nói cho mọi người về những gì mình cảm nhận, đã nghe và đã thấy. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ BAN NGÀY
CHUYỆN TÌNH EMMANUEL- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Một Trinh Nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo. Đức Maria nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần.Vì thế Đấng Mẹ sinh ra được gọi là Con Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Chúa Giêsu Kitô là Con của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa; Ngài là Lời của Thiên Chúa (x.Ga 1,1-18). Ngài đã nhập thể làm người, trở thành xác thịt và ở giữa loài người. Thánh sử Matthêu đã trích dẫn sách Ngôn sứ Isaia (7,14) để cho biết tên Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. EL (Thiên Chúa) và NU (chúng ta) trở nên một. Thiên Chúa làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa: “Mầu nhiệm về con người thực sự được sáng tỏ qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể” (CĐ Vatican II, GS 22).
Thiên Chúa xuống thế làm người “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”( Kinh Tin Kính Công đồng Nicêa năm 325). Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do : là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.Thiên Chúa làm người vì yêu thương con người, một tình yêu thật lạ lùng vượt quá trí hiểu.
Nhạc sĩ Mai Nguyên Vũ chiêm niệm tình yêu kỳ diệu ấy và viết ca khúc thật trữ tình ‘Chuyện tình Emmanuel’: “Emmanuel, một chuyện tình kỳ lạ nhất trần thế, một chuyện tình say đắm muôn thế hệ, làm nhỏ bao châu lệ, làm đui mù muôn lý trí. Emmanuel, một cuộc tình chẳng môn đăng hộ đối, một cuộc tình gây chấn động đất trời: Thiên Chúa yêu con người, hạ sinh xuống cõi đời”. Mời quý vị nghe ca sĩ Như Ý hát với trọn tâm hồn yêu mến (https://www.youtube.com/watch?v=hP-g3WGEJu0).
Các Thiên thần báo tin cho các Mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân : hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết : “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định : “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp : “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói : “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3).Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ, câu chuyện tình Emmanuel. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
LỄ GIÁNG SINH 2021- LỄ ĐÊM
GIÁNG SINH CỦA MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH 2021- Lm. JB. Trương Đình Hà
Lễ Giáng sinh năm nay đến với thế giới và riêng tại Việt Nam có màu tím buồn, vì dịch bệnh do Corona virus vẫn lan tràn khắp nơi. Tuy nhiên Lễ Giáng Sinh năm nay cũng đến trong một biến cố quan trọng của Giáo Hội: Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ 16 với chủ đề: Hướng đến một Giáo Hội Hiệp Hành: Hiệp thông, tham gia, sứ vụ. Vì thế tôi gọi lễ Giáng sinh năm nay là “Giáng Sinh mùa Covid-19, Giáng sinh của một Giáo Hội Hiệp Hành”. Tôi xin chia sẻ vài tâm tình khi đón mừng kỷ niệm ngày Con Thiên Chúa Giáng Thế năm nay với một bầu khí khác hẳn với mọi năm.
- Giáng sinh mùa Covid-19
Giáng Sinh năm nay không tưng bừng, nhộn nhịp, không nhiều điện màu, có nơi không có hang đá bên ngoài, chỉ có một hang đá nhỏ bên trong nhà thờ. Phần trang trí bên ngoài cũng hạn chế tối đa. Có lẽ và hầu chắc nhiều nơi cũng không có phần Hoạt cảnh Canh thức hay Diễn nguyện trước giờ lễ như mọi năm trước, vì bệnh dịch các em đâu có tập trung được mà tập dợt. Ca đoàn thì tập hát vội vàng vì có biết là có lễ đâu mà tập. Nhiều người vẫn hỏi tôi năm nay có lễ đêm không cha? Tôi trả lời, có chứ nhưng có lẽ không cử hành ngoài trời được vì có thể chưa được tập trung đông người có chăng là ở trong nhà thờ nhưng số người có lẽ cũng hạn chế. Tất cả đều là “có lẽ” và “có thể”.
Giáng sinh năm nay về giữa lúc con người trên thế giới đảo điên vì bệnh dịch covid-19 làm cho mầu nhiệm tự hạ của Con Thiên Chúa sáng tỏ hơn. Thư Do Thái diễn tả việc Con Thiên Chúa đến trần gian với sự khiêm hạ vâng phục: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ, con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài (Dt 10, 5-10). Có khi ta mừng lễ đặt nặng hình thức bên ngoài nhiều hơn là nội tâm, nên chi đại dịch Covid-19 đến làm ngưng hết mọi hoạt động bên ngoài, để làm sao ta mừng Chúa Giáng Sinh với lòng đạo đức sâu xa hơn, sống đức tin trưởng thành hơn, tiết kiệm hơn và không quá lãng phí. Trận đại dịch vừa qua cho thấy những phí tổn to lớn của chúng ta dành cho cuộc lễ trước đây có lẽ nhiều quá chăng? Khi chứng kiến cảnh nhân loại ngã xuống chết hàng triệu người trên thế giới vì dịch bệnh Covid-19, nhiều người vật lộn từng giây để sống, ta mới thấu hiểu được sự sống Thiên Chúa ban cho nhân loại, ta mới biết quý trọng sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta, biết quý trọng sự sống của các thai nhi và đừng giết chết nó. Khi chứng kiến cảnh con người đau thương tang tóc, sống trong sự nơm nớp sợ hãi, cô lập, khép kín, cách ly, thiếu thốn, đói khát, bị kiểm soát, mất tự do, ta mới hiểu được “Bình an dưới thế cho người Chúa thương” mà Con Thiên Chúa mang đến cho con người trong đêm Giáng Sinh cao quý như thế nào. Khi chứng kiến cảnh hàng đoàn người tháo chạy về quê đói lã, mệt nhọc, mất việc, trắng tay ta mới biết thương xót, cảm thông và chia sẻ tình người với anh chị em mình.
Có khi ca đoàn năm nay tập hát vội vàng nhưng lại hát hay hơn mọi năm bởi vì mọi người đều tập trung vì lâu lắm mới được hát lại sợ hát sai!!! Còn mọi năm tập kỹ tập nhiều đến lễ thì mệt mỏi hát lơ là ỷ lại. Có khi hang đá năm nay đơn sơ hơn nhưng lại có nhiều người cầu nguyện khẩn thiết hơn. Vì đại dịch kéo dài thiếu vắng thánh lễ nên nhiều người ước ao xưng tội và chịu lễ, nhiều người khát khao thánh lễ và ước ao được rước Chúa hơn.
+ Mừng lễ Giáng Sinh năm nay trong bầu khí phập phồng lo lắng của mùa dịch vẫn còn, có lẽ Chúa muốn chúng ta phải trở về đúng nghĩa của nó: Lễ hội của niềm tin tôn giáo chứ không phải lễ hội đời. Thờ phượng Thiên Chúa, kính mừng Ngôi Lời Nhập thể trong chiều sâu nội tâm của lòng đạo đức, trong thinh lặng chiêm ngắm mầu nhiệm tự hạ thẳm sâu của Con Thiên Chúa, trong sự sám hối chân thành vì tội lỗi của mình và một quyết tâm hoán cải triệt để con người cũ để trở nên con người mới như lời rao giảng sám hối của Thánh Gioan Tẩy giả trong mùa vọng thứ ba. Mừng chúa Giáng Sinh trong thinh lặng, bình an của cõi lòng thiện tâm chứ không dừng lại ở những ồn ào náo nhiệt bên ngoài.
- Giáng Sinh là lễ Con Thiên Chúa đến “hiệp hành” với con người
Chúa Giêsu Giáng Sinh trong hoàn cảnh đơn sơ, khiêm hạ, nghèo khó, âm thầm trong đêm vắng, không ai biết chỉ có mấy chú mục đồng…
Tin Mừng thánh Luca ghi lại sự kiện đêm Giáng Sinh, chúng ta đọc thấy có ba lần cụm từ: Chúa Giêsu được “đặt nằm trong máng cỏ” được nhắc lại. Lần thứ nhất khi thánh Giuse đưa Đức Mẹ về thành Belem để khai sổ bộ: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 1, 6-7). Lần thứ hai khi Thiên Thần báo tin cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 1, 10-12). Lần thứ ba khi các mục đồng theo lời của các Thiên Thần hối hả đi về Belem để tìm xem sự việc xảy ra: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.” (Lc 1, 16)
Hình ảnh “hài nhi vấn tả đặt nằm trong máng cỏ” cho thấy sự đơn sơ, nghèo khó của con Thiên Chúa, hình ảnh này trước hết nói đến Chúa làm người như chúng ta, một em bé được vấn tả là cung cách của những em bé con nhà nghèo. Ngày xưa các bà mẹ thường chuẩn bị những tả lót hình tam giác để quấn cho em bé mới sinh, có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng được mẹ quấn tả khi còn nhỏ. Hài Nhi được đặt nằm trong máng cỏ, chỉ vài từ thôi Tin mừng muốn nói đến sự nghèo khó, khiêm hạ của Con Thiên Chúa, Ngài đến đồng hành sẻ chia sự thiếu thốn nghèo hèn với con người.
Ở ngay giữa một thế giới đầy đau thương, chết chóc, một bầu khí ảm đạm, một tương lai tối đen mịt mờ do dịch bệnh, nhiều người mất việc, nhiều cơ sở kinh doanh phá sản, nhiều người hiện đang sống bấp bênh, trẻ em vẫn chưa đi học lại được, chúng ta mới thấu hiểu Lễ Giáng Sinh là lễ của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến “hiệp hành” với con người, cùng đi với con người, cùng đau thương, chịu thiếu thốn với con người, cùng hành trình với đoàn người trong cơn đại dịch tất tưởi rời thành phố trốn chạy về quê trong sợ hãi, đói khát, mệt nhọc, có khi đùm túm nhau hai vợ chồng, đứa con nhỏ cùng chú chó trên một chiếc xe đạp chạy mấy trăm cây số về đến miền Tây. Trên Thập giá, Con Thiên Chúa đã đồng hành với nỗi đau đớn cùng cực của những người trong cơn dịch bệnh khó thở, hấp hối, với những người bị cách ly, tù đày, bị bỏ rơi, với những cái chết mỗi ngày trên khắp thế giới.
- Giáng sinh của một Giáo Hội hiệp hành
Chính vì Con Thiên Chúa đến hiệp hành với con người, Giáo Hội cũng mời gọi mọi thành phần Dân Chúa theo chân Thầy Chí Thánh cùng “cất bước hành trình”. Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới thứ 16 mời gọi gợi ý trong Tài liệu chuẩn bị: “Trong Giáo hội và ngoài xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường. Trong Giáo hội địa phương của chúng ta, ai là những người “cùng nhau cất bước hành trình”? Ai là những người dường như xa cách hơn? Là những người đồng hành, chúng ta được kêu gọi để thăng tiến như thế nào? Các nhóm và cá nhân nào vẫn còn ở bên lề?” (Cẩm nang THĐ – câu hỏi số 1).
+ Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ, ta thấy được Thiên Chúa đã đến với con người, hiệp hành với con người, giúp cho ta hồi tâm sâu xa cách sống của mình trong Giáo hội và ngoài xã hội và kiểm tra lại trên hành trình đức tin của mình, chúng ta có sát cánh đồng hành với anh chị em không? Ai là người bị chúng ta loại trừ? Xa cách? Trong cơn đại dịch vừa qua và hôm nay cách sống của ta có khác trước không? Dịch bệnh mang đến nỗi nghi kỵ, sợ hãi, xa cách, co cụm hay dịch bệnh làm cho ta quảng đại, chia sẻ, dấn thân hơn.
(Câu chuyện em sv Huỳnh Quang Phú quê BRVT năm cuối trường ĐHBK SG, ở KTX bị nhiễm F0 vào ngày 7/8, được đưa đến khu cách ly Q.10, trong phòng em khó thở, tự hít thở bằng tài liệu trường cung cấp, em giúp cho một chị cùng phòng hít thở khi họ khó thở, và sau khi được khỏi bệnh em đăng ký vào tổ tình nguyện viên để giúp các bệnh nhân Covid-19 tại p7, Q10. Em viết trong thời gian điều trị, đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình của nhiều tình nguyện viên khác. “Mình đã gặp hai tình nguyện viên rất vui vẻ. Thật sự trước khi đi cách ly tập trung, mình đã nung nấu dự định đi tình nguyện. Lý do đơn giản là mình rất thích làm những việc mang ý nghĩa giúp đỡ mọi người, làm những công việc theo tiếng gọi con tim mình”[1]).
Kính chúc cộng đoàn cùng anh chị em, những người không cùng tôn giáo, lễ Giáng Sinh đặt biệt năm nay nồng ấm tình yêu Chúa và sự bình an ấm áp trong thâm sâu cõi lòng do Ngôi Lời Thiên Chúa ban tặng, một lễ Giáng Sinh trong hoàn cảnh “bình thường mới”, xã hội thoát khỏi dịch Covid-19 để mọi người được sống bình an khỏe mạnh, các em được đến trường trở lại, những người bệnh được lành, mọi người vui vẻ sum họp. Nếu như trong đời sống xã hội đòi hỏi chúng ta cần phải thích ứng với hoàn cảnh mới, thì trong đời sống thiêng liêng Chúa còn đòi chúng ta phải “chứa rượu mới của Tin mừng trong những chiếc bình mới” (x. Lc 5, 38). Như thế mừng lễ Chúa Giáng sinh là dịp ta phải thay đổi tận căn để đón nhận ơn cứu độ Chúa ban và hướng đến ngày Chúa Quang Lâm như trong Thư của Thánh Phaolô gửi cho Titô trong bài đọc hai “chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 11-13) Amen.
[1] Cf. Báo điện tử doanthanhnien.vn 1/9/2021, x. <http://doanthanhnien.vn/tin-tuc/nhip-song-tre/chuyen-cam-dong-cua-sinh-vien-thang-covid-19-va-tinh-nguyen-ho-tro-f0>
#cacbaisuyniemloichualegiangsinh #suyniemloichualegiangsinh #suyniemloichuagpbr