CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ SINH RA (*)– Chú giải của Noel Quession 15
HOÀN CẢNH GIÁNG SINH CỦA ĐẤNG CỨU THẾ- Chú giải Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM…- Chú giải của Fiches Dominicales 40
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 50
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN XÁC PHÀM- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 65
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 85
ÔN CỐ TRI TÂN- Lm. JP. Vũ Minh. 89
CHIA SẺ GIÁNG SINH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 93
TÌNH YÊU GIÁNG SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 99
ƯỚC MƠ ĐÊM GIÁNG SINH- Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 103
LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 108
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 115
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA- Chú giải của Fiches Dominicales 129
LỜI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CHÚNG TA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 140
CÁC MỤC ĐỒNG, NHỮNG CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN- Lm. Trịnh Ngọc Danh 144
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 151
TẠI SAO THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 155
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM- Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn. 161
GIÁNG SINH LÀ GÌ HỠI EM?- Lm. Xuân Hi Vọng. 165
HỐI HẢ ĐI TÌM- Trích Logos B.. 170
LỄ GIÁNG SINH 2020
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
“Chúa ban Con của Người cho chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người..
Xướng: Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc..
Xướng: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
Xướng: Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành..
BÀI ÐỌC II: Tt 2, 11-14
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! – Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ðó là lời Chúa.
LỄ RẠNG ĐÔNG
BÀI ÐỌC I: Is 62, 11-12
“Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Xướng: Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
Xướng: Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
BÀI ÐỌC II: Tt 3, 4-7
“Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! – Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 15-20
“Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Ðó là lời Chúa.
LỄ NGÀY
BÀI ÐỌC I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
Xướng: Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
BÀI ÐỌC II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!”
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA
Alleluia, alleluia! – Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”.
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
HOẶC ĐỌC BÀI VẮN NÀY: GA 1, 1-5. 9-14
“Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta”
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ SINH RA (*)– Chú giải của Noel Quession
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm” nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề” thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là “Sebastos”, có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ”. Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông “vua trần gian” như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng… để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê”.
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng “Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta” . Và những biến cố là “những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta” (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca “giải thích” biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là “cứu Chúa” mà “một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, “trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê”, giữa những người nghèo khổ, thuộc “số nhỏ còn lại”… trong “thành của Đavít”. Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di… Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới “kín mật”, một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào “những nhà hữu trách” chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: “Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai”. Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là “trinh nữ” Vậy mà, cô lại “có thai”! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là “Cha” của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta” các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, ‘đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười… Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai…
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để “nhận ra” cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra ” Từ giờ trở đi”, Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở “củng chúng ta”. Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm “trong máng cỏ”, hiện diện trong một “hang” bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha”. (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những “người chăn chiên”, trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống “ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng “quê mùa”!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ “bé mọn”, những người “nghèo khổ” những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. “Vinh quang” là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. “Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói” của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi “Truyền đạt” của Thiên Chúa đều là “Tin Mừng tin vui”. Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ “phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời “truyền đạt” của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố “giấy chứng minh” đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách “Cứu Chúa” này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự “nghèo khó” và “yếu đuối”! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của “ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HOÀN CẢNH GIÁNG SINH CỦA ĐẤNG CỨU THẾ- Chú giải Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Đêm Giáng Sinh tập trung mọi ánh sáng vào biến cố Giáng Sinh của Hài Nhi Bê-lem. Chính Hài Nhi này đã được ngôn sứ I-sai-a trước đó đến sáu thế kỷ loan báo là Đấng Cứu Độ của chúng ta và cũng được thánh Phao-lô sau này tuyên xưng là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta.
Is 9: 1-6
Bài đọc I là bài thơ chan chứa niềm hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Sáu trăm năm trước đó, vị ngôn sứ đã hân hoan loan báo cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Độ: “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu ta”.
Tt 2: 11-14.
Trong đoạn trích thư gởi cho Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là cộng tác viên của mình rằng ân sủng của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi biến cố Giáng Sinh của “Đức Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta”, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm ánh vinh quang rực rỡ của lễ Phục Sinh.
Lc 2: 1-14.
Khi thuật lại biến cố Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Vinh quang và bình an của Thiên Chúa tràn ngập cõi thế. Sứ điệp hân hoan mà các thiên sứ loan báo đã là khúc dạo đầu cho Sứ Điệp Tin Mừng cứu độ được gởi đến cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-6)
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en. Bài thơ này gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Trong bài thơ này, vị ngôn sứ hoan hĩ loan báo “Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu chúng ta”, chắc hẳn trẻ thơ nầy là Đấng “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê. Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã lưu đày thành phần ưu tú của dân Ga-li-lê đến Át-sua. Ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến nỗi khốn cùng này: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…”.
Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (9: 1-4).
Nhưng vị ngôn sứ loan báo một niềm vui vỡ bờ: Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Ông phác họa một bức tranh đầy sắc màu tươi vui: niềm tủi nhục biến thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa:
“Vì mọi giày lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9: 4).
Thiên hạ sẽ không cần những quân nhu chiến cụ nữa, vì chính Thiên Chúa đích thân can thiệp để đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử. Trước đây Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn lịch sử đau thương của họ, khi họ gặp phải quân Ma-đi-an bạo tàn thống trị, Ngài đã giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (9: 6).
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính là:
“Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta” (9: 5).
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).
Kiểu nói: “Người con đó gánh vác quyền bính trên vai” khiến người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương hay trao vào tay tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng quyền bính nầy đều được chứng thực trong nghi lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết:
“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập. Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). Danh hiệu “Người cha muôn thuở” thường được ban cho vua, vì vua được xem như người cha của dân tộc, để cầu chúc vương triều của vua muôn năm bền vững. Ngài được gọi là “Hoàng Tử Hoà Bình”, bởi vì một trong dấu hiệu thời Mê-si-a chính là nền hoà bình viên mãn sẽ ngự trị. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy. Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên khắp xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc miền Nam, ở kinh đô Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc Bắc và Nam sẽ được thống nhất dưới triều đại vua Mê-si-a?
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau đó. Miền Ga-li-lê rực lên ánh sáng Tin Mừng. Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê, nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam xưa. Bài ca hợp xướng của đoàn thiên sứ loan tin vui cho toàn dân (Lc 2: 10) hòa chung nhịp điệu với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
Ông Ti-tô đã là một người môn đệ và cũng là bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã trở lại đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông coi sóc các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Ở đây, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông phải đương đầu với những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái chịu ảnh hưởng Hy lạp mà chính thánh Phao-lô đã từng chạm trán ở những nơi khác. Vì thế, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo đối với ông Ti-tô.
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
Thần Tính của Đức Giê-su.
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở cho ông Ti-tô biết rằng giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt, đó là ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Các Ki-tô hữu đòi buộc phải từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của “Đức Giê-su Ki tô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng danh xưng Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách thức quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường dành riêng danh xưng “Thiên Chúa” cho Chúa Cha. Việc thánh nhân dùng danh xưng này cho Chúa Giê-su chúng ta chỉ gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki-tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Vfi thế, chúng ta có thể nghĩ rằng dường như những người Do thái bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
Lợi ích của bức thư.
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì trong đó thánh Phao-lô đã đưa ra những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các vị Tông Đồ của Đức Giê-su đã lần lượt qua đời, vì thế đây là thời kỳ của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét, cũng như việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô được thực hiện trên khắp xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, những ghi nhớ về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt trong tâm trí, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn bảo tồn trong kỳ ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a cùng đi theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
Hoàn cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su.
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi không có nơi tá túc qua đêm, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán vốn hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau ồn ào náo nhiệt trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng vào những dịp như thế này chắc chắn tiền thuê rất đắt, chỉ dành cho những người giàu có.
Hai dấu chỉ cùng một lúc.
Đức Giê-su chào đời ở “Bê-lem”, nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: không chỉ trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, nhưng còn vì tình yêu, Ngài làm cho mình trở thành một tấm bánh. Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của Hài Nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ này là từ ngữ pháp lý; từ ngữ này muốn nói rằng ngoài Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a không có người con nào khác. Cách nói “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký đề cập đến trong sách Tin Mừng của mình là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (x. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến, tức dâng hiến cho Thiên Chúa và được “chuộc lại” nhờ hy lễ như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo khó). Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới, Trưởng Tử của các vong nhân. Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, như lời của thánh Phao-lô: “người anh cả của một đàn em đông đúc”.
“Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân một Hài Nhi yếu hèn và bé bỏng hoàn toàn phụ thuộc vào tấm lòng ân cần săn sóc của cha mẹ trần thế. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng, tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao nhiêu con người khác.
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách tự mình trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn nơi chính bản thân mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một phạm nhân nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (l’Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách như vậy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những người bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, dù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
Các mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở ngoài đồng và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lê-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm sinh nhật của Ngài là nhằm đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối. Ngày lễ Giáng Sinh tự gốc tích là ngày lương dân mừng thần mặt trời.
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những mục đồng, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học và bị bị khinh bĩ nhất, được liệt vào hàng tội lỗi và những kẻ thu thuế. Vì thế, Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo hèn, khiêm hạ và bé nhỏ. Những mục đồng đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài. Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”: Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những mục đồng xứ Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Tân Đa-vít.
Sứ điệp của các thiên sứ.
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên quốc đã dời chỗ từ thượng giới xuống hạ giới bởi vì Hài Nhi Máng Cỏ này không ai khác hơn là Thiên Chúa tự thân.
Các thiên sứ loan báo: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo biết bao lần (ví dụ như bài đọc I), đây thật sự khúc dạo đầu niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
Sứ điệp mà các thiên sứ gởi đến cho họ thật vĩ đại biết bao với những ngôn từ làm nức lòng người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đã ra đời trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Sứ điệp này thật tương phản biết bao với lời kết rất mực khiêm tốn nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Sự tương phản nầy tiên trưng cho một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao phủ bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của đồi Can-vê. Vì Ngôi Lời hóa thành một phàm nhân, không phải là để phàm nhân nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm rất sâu sắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10: 5-7).
Bài ca tôn vinh của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô tôn vinh của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem được trích dẫn theo cùng những ngôn từ như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
Một sự trao đổi kỳ diệu.
Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa mặc khải Thiên Chúa vừa mặc khải con người. Trong một cuộc yết kiến vào thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM…- Chú giải của Fiches Dominicales
*1). Bóng tối của một sự ra đời…
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia – lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy – nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với “sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” J. Potin suy diễn thêm: “ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra” (“Đức Giêsu, lịch sử có thật”, Centurion tr. 93).
– Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem “thành của Đavid” để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ ” ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong “phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại “phòng tập thể” trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
*2). Sẽ soi sáng mọi đêm tối”.
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây “trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: “ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại”. những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ “hèn hạ ” (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ ” (15, 2) (“Tin Mừng thánh Luca”, Centurion tr. 38-39).
– Sứ điệp mà “các thiên thần của Chúa” mang đến cho họ là một “Tin Mừng” (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho “Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: “Đấng cứu độ”, “Đấng Mêsia “, “Chúa ” đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ “, “Đấng Mêsia” (Kitô), “Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36…) và của Phaolô (Cv 13,33…).
– “dấu chỉ” cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có”, để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu (“Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học”, Cerf, tr. 36).
– Lời tạ ơn “đột nhiên” vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự “bình an” mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền “hoà bình Rô-ma” Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
*1).Từ Bêlem đến Phục Sinh” (A.George, trong “Assemblées du Seigneur”, số 10, tr. 6f’ 67).
“Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón… bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, “chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan ” ( 2 C r 12, 9 ) .
*2). “Đã 2000 năm” (Mgr. F.Favreau trong “Mùa Vọng năm 2000″, Documents ” épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
tháp nhập vào Ngài.
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
– Bài đọc I (Is 9,1-6) : “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời”
– Đáp ca (Tv 95) : “Hôm nay Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời”
– Tin Mừng (Lc 2,1-14) : “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ”
– Bài đọc II (Ti 2,11-15) : “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ”
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Đêm nay chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Giáo Hội cử hành Thánh lễ ban đêm không phải chỉ để sống lại cảm nghiệm của các mục tử xưa đã đến thờ lạy Chúa lúc ban đêm, mà còn muốn làm nổi bật ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh sáng xóa tan đêm tối trần gian. Nguyện xin ánh sáng Đức Giêsu cũng xóa tan mọi tối tăm u ám trong lòng mỗi người chúng ta.
*II. Gợi ý sám hối
– Nhiều khi chúng ta đã chuộng bóng tối của tội lỗi hơn là ánh sáng của Chúa.
– Cuộc sống của chúng ta chẳng có gương sáng gì tỏa chiếu trước mặt trần gian.
– Đức Giêsu đã muốn làm Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không tiếp đón Ngài để cho Ngài ở cùng.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I : Is 9,1-6
Bối cảnh lịch sử của đoạn này là sau khi quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đày. Họ là “dân tộc bước đi trong u tối”, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức”…
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát : “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan”, những gông ách và roi vọt bị bẻ gãy… Ngôn sứ tin chắc vào tương lai ấy đến nỗi những động từ thay vì ở thì tương lai (“sẽ”) đã được ông đổi thành quá khứ (“đã”).
Nhân tố tạo nên sự thay đổi tuyệt vời ấy là “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, một người con đã được ban tặng cho chúng tôi”. Hài nhi hay người con ấy thời đó là vua Êdêkias. Nhưng Êdêkias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này : ông không phải là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, người cha muôn thuở, ông vua thái bình…”. Nội dung của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
*2. Đáp ca : Tv 95
Tv này là một khúc hoan ca mang chiều kích hoàn vũ : “Các tầng trời hãy hoan lạc, trái đất hãy nhảy mừng, biển và muôn loài dưới biển hãy chuyển động, cây cối trong rừng xanh hãy nhảy mừng”. Lý do hân hoan là Thiên Chúa đã đến xét xử trần gian và mọi dân tộc trong công bình và chân lý.
*3. Tin Mừng : Lc 2,1-14
Đoạn Tin Mừng này giống như một bộ tranh gồm hai bức đối chọi hẳn nhau :
– Phần đầu là bức tranh u tối : đất nước đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma, thánh gia nghèo nàn phải sinh Đức Giêsu trong máng cỏ…
– Phần sau là bức tranh sáng ngời : đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Chúa tỏa chiếu, hài nhi được gọi là Đấng cứu tin, tiếng hát thiên thần “vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Với biến cố Đức Giêsu sinh ra, tất cả đã được thay đổi từ tối tăm thành tươi sáng.
*4. Bài đọc II : Ti 2,11-15
Đoạn này là một suy tư của Thánh Phaolô về cuộc đời kitô hữu :
– Nguồn gốc của đời kitô hữu là những ân sủng mà Thiên Chúa đã tuôn ban, nhất là qua việc Đức Giêsu nhập thể và cứu độ loài người.
– Mục đích là hướng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này.
– Giữa hai cực đó là trong hiện tại, kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
- Gợi ý giảng
* 1. Hang đá Noel
Dịp lễ Giáng sinh, nhà thờ nào cũng có hang đá. Ở một xứ đạo kia, đa số giáo dân đều giàu, năm nào họ cũng làm một hang đá rất đẹp : Đức Mẹ, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài đồng được trang điểm bằng những bộ y phục rất sang trọng ; ngay cả các mục đồng cũng thế. Nhưng năm nay Cha Xứ là một Linh mục mới được đổi đến. Ngài dọn một hang đá khác hẳn : từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Đức Giêsu cho đến các mục đồng đều ăn mặc rất nghèo nàn. Giáo dân vừa tiếc nuối những hang đá xinh đẹp những năm trước, vừa chưa quen với cảnh nghèo nàn của hang đá năm nay nên không được vui. Tuy nhiên Cha Xứ vẫn giữ nguyên ý định của mình.
Nguồn gốc làm hang đá Giáng sinh xuất phát từ sáng kiến của Thánh Phanxicô Assisi, năm 1223. Mục đích Ngài nhắm là làm cho câu chuyện Giáng sinh trở nên gần gũi với dân chúng, làm sao cho họ hiểu rằng Chúa giáng sinh là để đến gần họ và sống với họ. Bởi thế, gần đến lễ Giáng sinh, Ngài đặt những tượng Chúa, Đức Mẹ, Thánh Giuse v.v. vào một hốc đá trên sườn đồi. Tới ngày áp lễ, dân chúng trong vùng – đa số là nông dân và mục tử – cầm nến hoặc đuốc tập trung trước hang đá. Rồi Thánh Phanxicô giảng cho họ nghe về việc Con Thiên Chúa đến với loài người để dạy cho loài người biết họ là con của Thiên Chúa và Thiên Chúa dành sẵn cho mọi người một số phận vĩnh cửu. Sau đó mọi người trở về nhà, lòng tràn đầy bình an và vui sướng vì cảm thấy mình gần gũi hơn với Chúa và với nhau. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Vui vì đã tin
Có lẽ chúng ta phân bì với các mục tử vì họ được nhìn thấy Chúa Hài đồng bằng cặp mắt của họ, và đụng chạm Chúa Hài đồng bằng đôi tay của họ. Bởi vậy họ tin cách dễ dàng quá. Và chúng ta nghĩ rằng đức tin của chúng ta cũng dễ dàng như vậy nếu như chúng ta được thấy và được chạm tới Chúa như họ.
Tuy nhiên, đừng vội tưởng rằng các mục tử không phải vận dụng tới đức tin. Đành rằng họ có thấy đó, nhưng họ thấy gì ? Họ thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Một đứa trẻ “sơ sinh” nghĩa là rất yếu ớt ; “bọc tã” nghĩa là rất lạnh lẽo ; và “nằm trong máng cỏ” nghĩa là rất nghèo. Họ còn thấy gì nữa ? Thấy “Bà Maria và ông Giuse”, hai con người bình thường, hai người lữ hành nghèo không thể tìm được chỗ trong quán trọ đến nỗi phải sinh con trong hang súc vật. Tất cả những cái họ thấy chỉ có thể cho biết đó là một gia đình nghèo vừa mới sinh con. Thế thôi. Vậy mà họ tin rằng đứa bé đó là Đấng cứu thế.
Đức tin của các mục tử không phải do những điều họ thấy, mà do lời thiên sứ nói với họ. Thiên sứ đã bảo họ đứa bé yếu ớt và nghèo nàn ấy chính là Đấng cứu thế. Vì họ tin như thế nên khi thấy Ngài yếu ớt và nghèo nàn thì họ càng mừng rỡ hơn nữa, bởi vì Đấng cứu thế đã làm một người nghèo như họ, gần gũi họ, chia xẻ thân phận của họ. Bởi vậy, khi họ ra về, họ “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo”.
Vui mừng là dấu chỉ của Kitô giáo. Niềm vui này tuôn trào trước tiên từ những sự thiện hảo của chính Thiên Chúa, kế đó từ ý thức Thiên Chúa đã yêu thương đối xử nhân lành với chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ không thể hiểu nỗi và không thể chịu nỗi. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa thì con người sẽ bị mất mát rất nhiều, phải rơi vào một khoảng trống mênh mông.
Phúc cho những ai cảm nếm được niềm vui của đức tin. Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nhận được sự gần gũi thân thiết của Chúa, chúng ta biết rằng Ngài sống với chúng ta, chia xẻ những khổ cực của chúng ta và cứu độ chúng ta. Thế thì còn niềm vui nào bằng ? (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh
Đôi khi nghe người ta nói : “Tôi luôn cảm thấy cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh”.
Có hai lý do chính làm cho người ta thấy cô đơn là “trống” và “vắng”.
Hãy dành một chút suy nghĩ, một lời cầu nguyện, và có thể là cuộc thăm viếng cho ai đó đang sống ngày lễ Giáng sinh một mình.
Và nếu sau những việc đó mà chúng ta vẫn còn cảm thấy cô đơn thì chúng ta hãy biết rằng mình đang khao khát một cái gì đó hơn nữa, hay đúng hơn là chúng ta đang khao khát một Đấng nào đó.
Trong con tim mỗi người có một khoảng trống vắng đang chờ một vị khách. Vị khách ấy chính là Thiên Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Thiên Chúa tìm kiếm con người.
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp nhau lại sau khi đã tìm thấy.
Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ : một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bầy con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bầy con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mãi mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên :
– Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi.
*
“Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc.
Ngay khi con người phản bội bất trung. Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về.
Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia : “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta” (Is.9,5).
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa. Thánh Gioan viết : “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
Giáng sinh là mùa tặng quà : “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga.3,16). Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang tặng cho chính Hài Nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài Nhi Giêsu đang mong đợi.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêxa Calcutta định nghĩa : “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
*
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã tìm kiếm chúng con, đã cứu chuộc chúng con, và đã cho chúng con được làm con Chúa.
Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình yêu bao la của Chúa bằng cách yêu thương anh em với tất cả trái tim nồng cháy của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Nguồn gốc Lễ Giáng sinh
Chúng ta quen kỷ niệm việc Đức Giêsu sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Thực ra Chúa sinh ra ngày nào người ta vẫn chưa biết rõ. Ngày 25 tháng 12 chỉ được Giáo Hội Rôma chọn làm lễ Giáng sinh từ năm 300. Lý do như sau :
Ngày xưa, khi nhân loại chưa khám phá ra lửa, mùa đông rất dài và rất tối, bởi vì trong mùa này mặt trời như đi vắng. Tuy nhiên người ta biết rằng tới một ngày nào đó mặt trời sẽ trở lại và cảnh vật sẽ tươi sáng hơn. Thế là người ta đặt ra một Lễ để mừng ngày đó, gọi là Lễ Kính Thần Mặt Trời Vô địch (Sol Invictus).
Để thánh hóa ngày lễ ngoại giáo ấy, Giáo Hội đã chọn chính ngày 25 tháng 12 này làm lễ kỷ niệm Đức Giêsu giáng sinh. Giáo Hội thấy việc Đức Giêsu giáng sinh làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia : “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng” (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mình : “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Sự thật là như vậy. Nếu Đức Giêsu không đến thì thế giới tối tăm biết chừng nào. Những lời Ngài dạy đúng là một nguồn sáng cho những ai tiếp nhận. Những việc Ngài làm và những cuộc gặp gỡ của Ngài đã đưa vô số người ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng.
Ánh sáng Đức Kitô không chỉ loé lên một lần ở Bêlem rồi tắt ngúm, bởi vì không giống như mặt trời chỉ chiếu sáng trong một khoảng thời gian hạn định, ánh sáng Đức Kitô vẫn tiếp tục tỏa chiếu mãi trong tâm hồn những ai tin Ngài và đi theo Ngài.
* 6. Đấng cứu độ cho tôi
Thiên thần đã loan báo cho các mục tử rằng : “Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em“.
– Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôn sứ vĩ đại, là Vua v.v. nhưng trên hết và trước hết Ngài là Đấng cứu độ. Ngài giảng dạy, Ngài làm phép lạ, Ngài sống nêu gương, nói tóm lại tất cả những gì Ngài làm cũng đều nhằm cứu độ.
– Một Đấng Cứu Độ như thế được Thiên Chúa dùng làm quà tặng cho chúng ta, cho chính tôi.
Người ta, có người là bác sĩ, có người là luật sư, có người là kiến trúc sư v.v. Nhưng mặc kệ họ, họ có liên quan gì tới tôi đâu. Tôi không có bệnh nên không cần bác sĩ, tôi không kiện cáo ai và cũng không bị ai kiện cáo nên cũng chẳng cần luật sư, tôi không có nhiều tiền nên kiến trúc sư không xây nhà cho tôi…
Nhưng tôi cần được cứu và Đức Giêsu là Đấng cứu độ được Thiên Chúa gởi đến cho tôi. Tôi cần Ngài và Ngài lúc nào cũng sẵn sàng cứu tôi.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đêm Noel là đêm thánh vô cùng, là đêm thanh bình, là đêm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện cầu đêm Noel.
-Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng đem Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
-Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải pháp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
-Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
-Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel đêm nay / biết sống một đêm Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
Chủ tế : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đêm thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
*VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha : “… cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Cha đã hứa và đã thực sự ban cho loài người trong đêm Con Cha giáng trần… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn sống trong tình nghĩa gia đình với Đức Giêsu là Con Cha và là Anh Cả của chúng con đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…”
*VII. Giải tán
– Dùng công thức long trọng trong Sách Lễ Rôma.
– Thiên Chúa đã làm người để loài người được làm Chúa. Anh chị em hãy sống xứng đáng với hồng ân cao cả này. Chúc anh chị em bình an.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ BAN NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN XÁC PHÀM- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Is 52,7-10) : “Giavê đã an ủi dân Người”
– Đáp ca (Tv 97) : “Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính của Ngài trước mặt chư dân”.
– Tin Mừng (Ga 1,1-18) : “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và ngụ giữa chúng ta”
– Bài đọc II (Dt 1,1-6) : “Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con”.
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài đã hứa với nhân loại. Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã muốn cho mọi người trở thành con của Ngài. Vì thế, khi đến thời thuận tiện, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con của Ngài, Đấng “từ nguyên thuỷ vẫn ở với Thiên Chúa”, là “ánh sáng bởi ánh sáng”. Hôm nay ánh sáng đã đến với nhân loại để soi sáng cho nhân loại. Chúng ta hãy hân hoan đón nhận ánh sáng của Ngài.
*II. Gợi ý sám hối
– Thánh Gioan đã nói “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp đón Ngài”. Phải chăng lời này cũng nói về chúng ta ?
– Chúa Giêsu là ánh sáng ân sủng. Nhưng lắm khi chúng ta chuộng bóng tối tội lỗi hơn ánh sáng Chúa Giêsu.
– Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa. Chúng ta có quen lắng nghe Lời Ngài không ?
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I : Is 52,7-10
Đang khi dân do thái bị lưu đày, ngôn sứ Isaia (đệ nhị) đã được soi sáng để thấy trước một vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho dân một tương lai bình an, hạnh phúc và được cứu độ : “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ”.
Hôm nay lời tiên tri đó được thực hiện hoàn toàn nơi Chúa Giêsu.
*2. Đáp ca : Tv 97
Tv này diễn tả cùng những ý tưởng hân hoan như bài đọc I : “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới… Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính của Ngài trước mặt chư dân”.
*3. Tin Mừng : Ga 1,1-18
Đây là bài tiền ngôn nổi tiếng của quyển Tin Mừng thứ tư. Bài tiền ngôn này cô đọng tất cả những chủ đề kitô học :
– Chúa Giêsu Kitô là Con của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa.
– Ngài mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa : Ngài là Lời của Thiên Chúa, chỉ một mình Ngài biết rõ Thiên Chúa, qua Ngài chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Cha.
– Ngài có vai trò quan trọng trong công trình sáng tạo.
– Ngài đã nhập thể, trở thành xác thịt và ơ giữa loài người.
– Nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài.
*4. Bài đọc II : Dt 1,1-6
Tác giả thư do thái nhìn lại lịch sử cứu độ : “Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con”.
Và tác giả cũng trình bày một tổng luận kitô học về Chúa Giêsu : Ngài là Con Thiên Chúa, bởi Ngài mà vũ trụ được tác thành, Ngài quét sạch tội lỗi loài người, rồi Ngài lên ngự bên hữu Thiên Chúa….
*IV. Gợi ý giảng
*1. Niềm vui lễ Giáng sinh
“Đời là bể khổ”. Bởi đó rất nhiều người bi quan, buồn thảm. Ai cũng khao khát niềm vui. Hôm nay, một tin vui rất lớn được loan báo cho chúng ta : Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Thế nhưng, như bài Tin Mừng hôm nay nói, “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài”. Nghĩa là không phải ai, kể cả những người thân của Chúa Giêsu, cũng đều vui.
Muốn có được niềm vui này, ta phải biết đón nhận Ngài bằng đức tin : đừng dừng lại ở những trang hoàng đẹp mắt, những bài thánh ca du dương, những hang đá máng cỏ thơ mộng. Hãy dừng lại trước Hài nhi Giêsu, và dùng cặp mắt đức tin để chiêm ngưỡng và suy niệm trong lòng. Rồi từ đó ta sẽ nhận ra : a/ Tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta, đến nỗi Ngài đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta ; b/ Lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành con Thiên Chúa như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu chia xẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Và niềm vui ấy cũng phải được mang đi để chia xẻ cho những người khác. Chúng ta hãy làm những sứ giả của Tin Mừng : “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ”.
*2. Người thân không đón nhận
Thánh Gioan đã nói lên một sự thật phũ phàng : “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng người thân của Ngài đã không đón nhận Ngài”.
Tại sao họ không đón nhận Ngài ? Vì họ không nhìn ra Ngài. Tại sao họ không nhìn ra Ngài ? Vì họ tưởng Ngài sẽ đến trong dáng vẻ quyền quý cao sang, thế mà Ngài lại đến trong hình dáng quá tầm thường của một đứa bé con nhà nghèo.
Tình huống bi đát này, Chúa Giêsu không chỉ gặp một lần khi mới sinh ra ở Bêlem, mà tái diễn nhiều lần nữa trong suốt đời Ngài…
Và có thể chính hôm nay nữa, bởi chính chúng ta nữa…
– Lúc chúng ta ở trong nhà thờ, Chúa đến với chúng ta qua tấm bánh trắng đã biến thành Mình Thánh Ngài thì dĩ nhiên chúng ta nhận ra Ngài. Nhưng khi rời nhà thờ trở về nhà, nếu Chúa đến với chúng ta trong những người hàng xóm, liệu chúng ta có nhìn ra Ngài và niềm nở tiếp đón không ?
– Khi chúng ta cầu nguyện, Chúa đến với chúng ta bằng những ơn soi sáng, an ủi, nâng đỡ thì chúng ta nhìn ra và vui vẻ đón nhận Ngài. Nhưng trở lại cuộc sống, nếu Chúa đến với chúng ta bằng những trách nhiệm, những gánh nặng, những thử thách, những khổ đau… Chúng ta có còn nhìn ra Ngài và đón nhận Ngài nữa không ?
*3. Quà tặng đêm Noen
Một đôi vợ chồng trẻ. Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình yêu. Giáng Sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiến để mua. Vì thế, nàng nảy sinh một sáng kiến : Nàng có bộ tóc dài mượt mà, óng ả, nàng yêu quí và rất hãnh diện vì nó. Nhưng nàng quyết định cắt bộ tóc đi, và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố vế, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp dựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không.
Về đến nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp, đựng món quà chàng mới mua để tặng nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém :
Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau tất cả những gì quí giá nhất.
*
Nếu có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ việc “Tặng quà” của đôi vợ chồng trẻ này, thì đó chính là : Khi trao ban cho kẻ khác, người ta lại tìm được chính bản thân và những gì cao quí nhất. Nghĩa là con người chỉ đạt được nhân cách sung mãn bằng sự trao ban vô vị lợi mà thôi.
Đó chính là sứ điệp chạy xuyên suốt Tin Mừng, nhất là trong mầu nhiệm Giáng Sinh : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa muốn ban tặng chính Người cho chúng ta. Người không chỉ hài lòng với món quà vật chất mà Người đã ban tặng như vũ trụ bao la với muôn vàn phúc lộc trong đó, nhưng Người đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người : “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Hài nhi Giêsu chính là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người.
Hài nhi Giêsu chính là hiện thân sống động của một Thiên Chúa tình yêu.
Hài nhi Giêsu chính là sự tỏ bày tấm lòng vô cùng ưu ái của Thiên Chúa dành cho con người.
Giáng sinh là lễ của Tặng quà nhưng cũng còn là lễ của Tình yêu. Không phải những quà tặng đắt tiền mới có giá trị, mà chính là những món quà thắm đượm tình yêu. Một món quà dù nhỏ bé nhưng gói ghém tất cả tình cảm mến thương, sự trân trọng, lòng biết ơn, có khi cả sự ngưỡng mộ của mình dành cho người đón nhận, thì đó lại là món quà vô giá.
Có thể nói, một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban chính bản thân, trao ban không cần tính toán, không so đo hơn thiệt, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói : “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Hài nhi Giêsu sau này khi sắp trao ban mạng sống để cứu chuộc nhân loại đã thốt lên : “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Quà tặng cao đẹp nhất chúng ta dâng lên Hài nhi Giêsu trong đêm Giáng sinh chính là những nghĩa cử yêu thương chúng ta trao tặng cho anh em.
Chúng ta chỉ có thể lớn lên trong tình yêu Chúa khi chúng ta thực thi những nghĩa cử yêu thương.
Chúng ta chỉ sống đích thực khi chúng ta sống trọn vẹn cho tha nhân.
Lạy Chúa Hài Nhi, giá trị đích thực của con người chúng con hệ tại ở lòng quảng đại trao ban.
Xin cho chúng con cũng biết trao tặng những gì quí giá nhất cho anh em như Chúa đã trao tặng chính Chúa cho chúng con đêm nay. Amen (TP)
*4. “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Vào dịp Lễ Giáng sinh năm 1914, quân Anh và quân Đức đang đối đầu nhau. Binh sĩ ở dưới những giao thông hào đầy bùn và chuột. Nửa đêm, một người lính Anh cất lên một bản thánh ca. Chẳng bao lâu sau, tất cả các lính Anh cũng cất tiếng hòa ca. Mọi người đang hát say sưa thì một người hô lớn : “Im. Nghe xem có tiếng gì từ bên kia vọng lại”. Mọi người im lặng lắng nghe. Thì ra những người lính Đức bên kia chiến tuyến cũng đang hát thánh ca mừng Chúa ra đời. Một cái gì đó linh thiêng nối kết những kẻ thù ở hai bên chiến tuyến. Tất cả binh sĩ bỏ chiến hào chạy ùa tới nhau. Họ nắm tay nhau nhảy múa theo điệu hát. Họ chia cho nhau những điếu thuốc, những mẫu bánh. Chiến tranh biến đâu mất. Chỉ còn lại Hòa bình. Mọi người rất vui.
Nhưng niềm vui không kéo dài lâu. Tiếng hát, tiếng cười ồn ào đến tai các vị chỉ huy. Các vị này lập tức ra lệnh chấm dứt tất cả, mọi người phải trở lại vị trí của mình. Thế là chiến tranh lại tiếp diễn !
***
Mỗi lần đến lễ Giáng sinh là người ta nghĩ đến Hòa Bình, bởi vì trong đêm Chúa Giáng sinh, các thiên thần đã hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Nhưng hòa bình không phải chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng. Hòa bình là hoa trái sinh ra từ những tâm hồn thiện tâm. Nếu tâm không thiện thì không có hòa bình thật. Hòa bình bền vững không phải do thỏa hiệp của những bên đã từng chống đối nhau, mà là ơn ban của Chúa. Trong lễ Giáng sinh, Chúa ban ơn hòa bình cho ta, đề rồi ta cũng mang ơn hòa bình ấy ban cho kẻ khác. (FM)
*5. Của lễ Giáng sinh
Nhiều khi trong đời, ta nôn nóng đón chờ một ngày trọng đại. Nhưng khi ngày đó đến thì ta lại thất vọng chán chường.
Ngày lễ Giáng sinh có thể là một ngày như thế đối với một số người. Nhiều ngày trước, họ nôn nao chờ đợi, mong sẽ có được những điều đặc biệt trong ngày lễ. Rồi lễ Giáng sinh đến. Nhìn lên trời chẳng thấy thiên thần nào hiện ra. Nghe ngóng chung quanh cũng chẳng có tiếng hát thiên thần. Thì ra cũng là một ngày như mọi ngày thôi. Họ chua chát kết luận : Giáng sinh chỉ là lễ cho trẻ con thôi !
Thực ra Giáng sinh là một ngày rất khác biệt. Mặc dù không có dấu lạ nào trên trời, nhưng thực sự có rất nhiều dấu lạ, ít ra là đối với những ai biết nhìn. Này nhé, ngày này có nhiều ánh sáng hơn, nhiều ấm áp hơn, nhiều hy vọng hơn. Trong lễ Giáng sinh, người ta cảm thấy thân thiện nhau hơn ; lòng người ta vui vẻ và cởi mở hơn nên gặp nhau thì người ta chúc, người ta cười ; người ta nghĩ đến những điều tốt đẹp, quên đi những ý nghĩ đen tối, u sầu… Có thể nói trong dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta cảm thấy Nước Thiên Chúa là một cái gì cụ thể và gần gũi. Và nếu ai biết mở lòng mình ra thì còn có thể cảm thấy như chạm được chính Thiên Chúa, như tâm sự sau đây của nhà soạn kịch Hugh Leonard : “Tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết Ngài ở đâu. Ngài bao quanh tôi suốt năm, nhưng trong dịp lễ Giáng Sinh Ngài đến và chạm vào sườn tôi”.
Trong lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nghiệm được sự gần gũi, sự ấm áp và sự tốt lành của Thiên Chúa. Chúng ta thấy mình không cô độc, thấy rằng đời mình có ý nghĩa, nhận ra rằng có một Đấng coi sóc mình và hướng dẫn mình, biết mình được yêu thương, và tâm hồn rất bình an.
Đó chính là sứ điệp của lễ Giáng sinh. Hãy mở rộng lòng ra đón nhận sứ điệp hạnh phúc ấy, và hãy tiếp tục sống sứ điệp ấy mãi… (FM)
*6. Ánh Sáng Chúa Giáng sinh
Ở Bắc bán cầu, Lễ Giáng sinh diễn ra vào lúc trời tối nhất. Đây là thời điểm thuận lợi để chúng ta ngưỡng mộ giá trị của ánh sáng. Bởi vậy Phụng vụ lễ này nói nhiều tới ánh sáng. Chẳng hạn như bài đọc I Lễ Đêm : “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng” (Is 9,1)
Mẹ Têrêsa kể rằng lúc ở Melbourne, Australia, một hôm Mẹ đến thăm một ông già sống trong một tầng hầm dơ bẩn lộn xộn. Trong phòng ông không có một chút ánh sáng. Trước đây chẳng ai đến thăm ông. Bắt đầu, Mẹ Têrêsa quét dọn căn phòng cho sạch sẽ ngăn nắp lại. Nhưng ông cự nự : “Không được đụng đến. Cứ để yên cho tôi”. Mẹ Têrêsa mặc kệ, cứ tiếp tục. Vừa quét dọn, Mẹ vừa gợi chuyện nói với ông. Rồi Mẹ tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm ẩn dưới một đống đồ đạc ngổn ngang. Lau chùi xong, Mẹ thấy cây đèn rất đẹp.
– Ông có một cây đèn rất đẹp. Sao bấy lâu nay ông không thắp lên ?
– Thắp lên làm gì ? Có ai đến thăm tôi đâu.
– Vậy nếu nữ tu của tôi đến thăm ông thì ông có hứa sẽ thắp đèn lên không ?
– Xin hứa. Nếu tôi nghe có tiếng ai đến thăm thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó, hai nữ tu của Mẹ Têrêsa đều đặn tới thăm ông già. Mỗi lần họ đến thì ông già thắp đèn lên. Tình hình ngày càng tốt đẹp hơn. Một hôm, ông nói : “Các Sơ ạ. Từ hôm nay tôi có thể tự dọn dẹp phòng được rồi. Nhưng xin làm ơn nói lại với bà nữ tu đầu tiên là ngọn đèn bà đã thắp lên trong đời tôi đến nay vẫn còn cháy sáng”.
Có thể nói rằng ngọn đèn đã cứu ông già ấy. Nhưng thực ra thì không phải ngọn đèn, mà là điều mà ngọn đèn ấy tượng trưng, tức là lòng tốt của Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới tối tăm vì chiến tranh, bạo lực, đau khổ v.v… Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được sự tối tăm trong đời mình và trong gia đình mình : buồn phiền, thất vọng, bệnh tật, tội lỗi, cô đơn, chán chường v.v…
May thay ánh sáng Chúa Giáng sinh đã thắp lên trong thế giới vẫn còn cháy sáng. Ánh sáng ấy không chỉ loé lên ở Bêlem một lần rồi tắt ngúm. Nó vẫn còn chiếu sáng giữa những tàn phá, thảm họa, biến động… Đó là một thứ ánh sáng bền vững không bóng tối nào lấn át được. Nó vẫn chiếu sáng cho tất cả những ai tin Ngài và theo Ngài. Suốt 2000 năm qua, những lời Ngài dạy đã ảnh hưởng đến nhân loại hơn tất cả mọi bậc tôn sư nào khác. Những việc Ngài làm còn ảnh hưởng mạnh hơn nữa. Biết bao người từ chốn tối tăm đã tìm đến với Ngài và ra đi trong ngập tràn ánh sáng. Lòng nhân ái của Ngài vẫn tiếp tục chiếu sáng thế giới.
Mỗi người chúng ta phải là nguồn sáng cho thế giới tối tăm này. Nhưng nếu đời ta không là đèn sáng thì làm sao ta chiếu sáng cho người khác được. Sống trong ánh sáng thật là hạnh phúc. Nhưng còn hạnh phúc hơn khi ta là nguồn sáng cho người khác. Chúa đã gọi ta ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng, thì ta phải sống như là con cái của ánh sáng. Hiệu quả của ánh sáng được thấy rõ nhất trong một tấm lòng nhân ái, một cuộc sống chính trực, chân thành. (FM)
*7. Mảnh suy tư
– Thánh Giuse và Mẹ Maria lên đường đi Bêlem.
Khi các ngài tới đó thì đã đến giờ Đức Maria mãn nguyệt khai hoa.
Và Mẹ đã hạ sinh con trai đầu lòng.
– Tất cả chúng ta cũng lên đường đi Bêlem
nơi mà chúng ta hy vọng sẽ được sinh ra.
– Tôi biết rằng chúng ta đã một lần được sinh ra.
Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa được sinh ra theo nghĩa là bản ngã thực sự và tròn đầy của chúng ta vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng thật.
Khi chúng ta được sinh ra lần thứ hai thì tất cả mọi ơn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như những hạt giống sẽ nẩy mầm và sinh hoa trái.
Mục tiêu tối hậu của chúng ta là Bêlem trên trời, nơi mà chúng ta sẽ được thấy Chúa mặt đối mặt. (FM)
*8. Bài giảng của Thánh Aerel de Rievaux (+ 1167)
“Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vú Đavít” (x. Lc 2,11-12). Thành của vua Đavít tức là thành Bêlem. Vậy chúng ta hãy chạy đến đấy, cũng như các mục tử xưa khi nghe tin này. Và chúng ta hãy đem ra thực hành điều mà chúng ta vẫn thường hát trong ngày lễ này : “Họ chạy đến Bêlem, vừa đi vừa hát mừng vinh quang Thiên Chúa” (x. Lc 2,15.20)
Và thiên thần nói : “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (x. Lc 2,12-13). Tôi muốn nói với các bạn điều này : các bạn phải yêu thương. Các bạn kính sợ các thiên thần, nhưng các bạn hãy yêu thương trẻ nhỏ ; các bạn kính sợ Chúa, nhưng các bạn hãy yêu thương đứa trẻ bọc trong khăn này ; các bạn kính sợ Đấng ngự trên trời, nhưng các bạn hãy yêu thương Đấng nằm trong máng cỏ.
Các mục tử đã nhận ra Chúa nhờ dấu nào ? “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Trẻ đó chính là Đấng Cứu Độ, trẻ đó chính là Đức Kitô, trẻ đó chính là Đức Chúa. Thế nhưng “bọc tã nằm trong máng cỏ” có gì đặc biệt đâu ? Những trẻ sơ sinh khác cũng bọc tã vậy ! Thưa có điều đặc biệt chứ, miễn là chúng ta hiểu được. Chúng ta sẽ hiểu không phải chỉ nhờ được báo tin, mà còn nếu trong lòng chúng ta có ánh sáng đã xuất hiện cùng các thiên thần. Thiên thần báo tin Chúa giáng sinh đã xuất hiện với ánh sáng bao phủ chung quanh, đó là nhằm dạy chúng ta rằng chỉ những ai có ánh sáng siêu nhiên trong lòng thì mới nghe được lời báo tin ấy.
Người ta có thể nói rất nhiều về dấu chỉ này, nhưng vì thời giờ qua nhanh nên tôi chỉ muốn nói ngắn gọn. Tên Bêlem có nghĩa là “nhà bánh”. Đó chính là Giáo Hội, nơi phân phát bánh thật là Mình Thánh Đức Kitô. Còn máng cỏ trong hang đá Bêlem chính là Bàn thờ trong Giáo Hội. Nơi đây nuôi dưỡng những người thân thuộc gia đình Đức Kitô. Về chiếc bàn này, có lời viết : “Ngài dọn bàn cho tôi” (Tv 22,5). Trong máng cỏ này có Chúa Giêsu bọc tã. Tã này là dáng vẻ bề ngoài của các bí tích. Trong máng cỏ này, dưới hình dáng của bánh và rượu là chính mình thật và máu thật của Đức Kitô. Ở đó, chúng ta nhận ra chính bản thân Đức Kitô, nhưng được bọc trong tã, nghĩa là hiện diện một cách vô hình dưới các bí tích. Chúng ta không có dấu chỉ nào lớn lao và hiển nhiên về sự sinh ra của Đức Kitô ngoài việc mỗi ngày rước lấy mình máu Ngài trên bàn thờ. Ngài đã được sinh ra một lần bởi Đức Mẹ Đồng trinh, nhưng Ngài tự hiến mỗi ngày cho chúng ta.
Vậy anh chị em thân mến, chúng ta hãy mau đến máng cỏ Chúa. Nhưng đừng quên làm hết sức có thể để chuẩn bị tâm hồn trước khi đến với Ngài. Chuẩn bị bằng cách kết hợp với các thiên thần mà làm cho mình có “một con tim thanh sạch, một lương tâm tốt lành và một đức tin chân thành” (x. 2 Cr 6,6). Chúng ta sẽ hát khen Chúa bằng tất cả cuộc đời và cách sống của chúng ta “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (x. Lc 2,14).
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Noen : biến cố kỳ diệu làm đảo lộn lịch sử nhân loại. Trong niềm vui mừng Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chúng ta cùng hoan hỷ nguyện xin :
-Trong cảnh im lặng của ban đêm / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tu sĩ / đang sống đời chiêm niệm trong các đan viện / luôn tìm được niềm vui trong đời sống tận hiến của mình.
-Trong bóng tối của chiến tranh / hận thù / khủng bố / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hiện nay / được sống trong cảnh thái bình và thịnh vượng.
-Trước sự dửng dưng lãnh đạm của thế gian / một trẻ thơ chào đời sống cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các trẻ em / luôn được chăm sóc chu đáo và bảo vệ an toàn.
-Giữa biết bao mối bận tâm của chúng ta / trong cuộc sống thường ngày ồn ào náo nhiệt / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ / cho những ai trong giáo xứ chúng ta đang gặp thử thách gian truân.
Chủ tế : Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Chúa đã đến sai Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng thật đến chiếu soi hết thảy mọi người đang sống trên trần thế. Xin ban cho chúng con niềm vui và bình an khi mừng ngày giáng sinh của Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một của Ngài sinh xuống làm người ở với chúng ta. Chúng ta hãy lấy hết tình con thảo dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
*VII. Giải tán
Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta, trong đời thường, trong những người mà chúng ta thường gặp gỡ. Anh chị em hãy biết nhận ra Ngài và đón nhận Ngài. Chúc anh chị em bình an.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
ÔN CỐ TRI TÂN- Lm. JP. Vũ Minh
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản – như ở Việt Nam – người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn – người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) – để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm – không mịn màng như cám – nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2020!
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
CHIA SẺ GIÁNG SINH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế ! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo.
Thôi, đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao ! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giê-su chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn : Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giê-su là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giê-su, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Ki-tô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giê-su Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Ki-tô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giê-su,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
TÌNH YÊU GIÁNG SINH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng đêm Thánh, đêm giao hòa giữa đất với Trời, đêm mà Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, đêm Thiên Chúa trở thành con người, để con người trở thành con Thiên Chúa, đêm mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong dáng dấp của một Hài Nhi. Chính vì thế, lễ giáng sinh mang nhiều ý nghĩa:
*1. Lễ của tình yêu
Tình yêu của Thiên Chúa Cha vì yêu thương xót nhân loại lỗi lầm, nên đã trao ban người Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài, thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời (Ga 3,16). Tình yêu của Ngôi Hai Thiên Chúa đã vì yêu thương mà hạ mình nhập thể làm người trong thân phận một Hài Nhi bé nhỏ, nằm rét run trong hang bò lừa, giữa mùa đông giá rét. Chúng ta là thụ tạo thấp hèn, thì không thể nào hiểu được mầu nhiệm giáng sinh. Điều mà con người không thể làm được, thì Thiên Chúa đã làm vì yêu thương chúng ta. Vì hạnh phúc của Thiên Chúa là được ở với con cái loài người.
*2. Lễ của niềm vui
Trước ngày lễ giáng sinh, người ta giăng đèn kết nến, làm hang đá. Thật là từng bừng náo nức. Đó đây hàng triệu sari điện được giăng lên thắp sáng trên các cây Noel, rực rỡ trong các khu xóm. Tất cả những hình thức ấy muốn diễn tả niềm vui bên trong. Đó là niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, nên Mẹ đã cất lên lời ca: “Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46).
Niềm vui lớn lao này, được các thiên thần từ trời xuống loan tin: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”, và niềm vui ấy cũng loan báo cho các mục đồng biết: “Ta báo cho anh em một Tin mừng, hôm nay Đấng cứu độ anh em đã ra đời, Ngài là Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
Ngài đến gánh lấy tội trần gian. Ngài đến mở xiềng xích trói buộc con người. Xưa kia dân tộc Do thái một thời đã lần bước trong u tối, sống cảnh lưu đầy, đêm ngày họ khao khát Đấng cứu độ đến giải thoát.
Ngày nay, phần đông nhân loại cũng bị tình, tiền, tài vây hãm, làm cho họ chỉ tìm thấy niềm vui rất đổi mau qua. Bởi vì đó chỉ là niềm vui giả tạo. Niềm vui đích thực chỉ có nơi Đấng mà thiên hạ gọi là: Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha muôn thuở, Ông Vua Thái Bình mới lắp đầy, mới làm thỏa mãn khát vọng con người mà thôi.
*3. Lễ của quà tặng
Hằng năm, vào dịp tháng 12 đổ về, các hàng quán bày bán những đồ kỷ niệm mang tính giáng sinh rất nhiều, qua đó chúng ta thấy con người cũng muốn tặng cho nhau những món quà, kèm theo những lời chúc tốt đẹp may mắn trong dịp đại lễ và năm mới sắp đến.
Thiên Chúa Ngài cũng thể hiện tình yêu theo cách thức của con người, Ngài cũng tặng quà cho nhân loại, món quà đó không phải bằng vật chất, nhưng bằng chính Con Một của Ngài. Món quà vô giá này, được gói lại trong bao bì mang tên Maria, và được trưng bày ở siêu thị Bêlem, đúng như lời ngôn sứ Isaia nói trong bài đọc I hôm nay: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người Con được ban tặng cho chúng ta”.
* 4. Lễ của gặp gỡ
Ngoài truyền thống tết dân tộc ra, thì không có dịp nào con người đến với nhau thân tình cho bằng dịp lễ Giáng sinh. Người ta đến với nhau để chia sẻ niềm vui và những bữa tiệc ngồi bên nhau gần gũi thân thương.
Qua mầu nhiệm Giáng sinh, Thiên Chúa đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể để đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Bởi lẽ, tên của ngài là Emmanuel: nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tuy là Thiên Chúa, Đức Kitô đã không muốn xuất hiện trong vị thế của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã đến dưới dáng vẽ như một phàm nhân. Một vị Thiên Chúa quyền năng cao sang, thánh thiện, lại đến với chúng ta trong thân phận trẻ thơ nghèo khó, bé bỏng.
Ngài đến gánh lấy tội lỗi chúng ta. Ngài không đến theo kiểu thần thoại, như tiên giáng trần, như thần hóa thân. Ngài đến cắm lều ở giữa nhân loại, ở với con người, hầu minh chứng cho một cuộc tình, “Sống và chết cho người mình yêu”.
Ước gì mừng kỷ niệm Chúa giáng sinh, chúng ta hãy khơi dậy với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha đã thương tặng ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài. Noi gương Chúa, chúng ta cũng tặng quà cho nhau. Món quà mà Chúa thích nhất, cũng như mang lại ý nghĩa nhất, đó là đem ơn bình an và niềm vui của Chúa giáng sinh đến cho nhau.
Xin kính chúc quý ông bà anh chị em một đêm Giáng sinh an lành, tràn đầy niềm vui trong Chúa; và một mùa Giáng sinh trải dài chan chứa tình thương. Cầu chúc mọi người hãy là một Emmanuel khác, hiện diện một cách dễ thương và đáng yêu giữa những người đang sống chung quanh chúng ta. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
ƯỚC MƠ ĐÊM GIÁNG SINH- Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Con người luôn có những hoài bão và ước mơ. Hoài bão về quá khứ huy hoàng. Ước mơ về tương lai tương sáng. Chính những hoài bão, ước mơ ấy đã thúc đẩy con người dấn thân để xây dựng một thế giới an bình, thịnh vượng hơn. Cho dù phải đương đầu với thách đố và hiểm nguy.
Ngày 28/8/1963, mục sư Martin Luther King đã phát biểu bài diễn văn hay nhất thế kỷ với tựa đề: “Tôi có một giấc mơ”. Ông đã nói với hơn 200.000 người, trước đài tưởng niệm Lincohn. Ông kêu gọi thực hiện sự bình đẳng giữa những người khác màu da và chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc. Nhân đó, ông đã nói về những ước mơ của mình, cũng là ước mơ của nhiều người Mỹ:
Ông nói:
Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày, trên những ngọn đồi vùng Georgia, con cái của nô lệ và chủ nô cũ có thể ngồi với nhau như anh em.
Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng sẽ không bị đối xử bằng màu da mà bằng chính thực chất con người chúng.
Diễn văn đầy nhiệt huyết của ông đã gióng lên hồi chuông, hiệu triệu và cổ vũ nhân loại đứng lên chống lại việc đối xử bất công, tàn nhẫn đối với một lớp người, vốn đã ăn sâu, bám rễ trong lòng xã hội Mỹ.
Ước mơ của ông dường như đã thành hiện thực khi mà Nước Mỹ đã bỏ phân biệt màu da. Người da đen có thể làm chính trị và thậm chí đã giữ chức vụ to lớn nhất Nước Mỹ là đương kim tổng thống Obama.
Vâng, ước mơ hòa bình, ước mơ được đối xử bình đẳng vẫn là ước mơ của con người qua mọi thời đại. Ước mơ không chỉ là một tương lai chưa đến mà là một hoài bão của con người mong được hưởng những quyền lợi mà tạo hóa ngay từ lúc tạo dựng đã ban tặng. Thiên Chúa tạo dựng ban đầu mọi sự đều tốt đẹp. Vạn vật và con người là khúc nhạc hài hòa. Con người tràn ngập hạnh phúc trong vườn địa đàng. Thế nhưng, mọi sự đã trở thành hoài bão khi mà con người quay lưng lại với Đấng tạo hóa. Con người theo ma quỷ để từ chối quyền tối thượng của tạo hóa. Hậu quả là con người sinh ra phải đau khổ và phải chết. Tệ hại hơn nữa là vạn vật đứng lên chống lại con người.
Ước mơ được sống lại giây phút ban đầu nơi vườn địa đàng đã đi vào trong lòng người qua muôn thế hệ. Con người vẫn khao khát. Con người vẫn chờ mong được sống những giây phút bình yên hoan lạc của vườn địa đàng. Lời cầu nguyện trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời dường như là một khắc khoải khôn nguôi của con người mong đến ngày trời đất giao hòa, vạn vật và con người cùng chung niềm vui vì có Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Hôm nay chúng ta tưng bừng mừng kỷ niệm việc Con Thiên Chúa xuống trần. Thiên Chúa đã đến trần gian để thực hiện ước mơ hoài bão cho con người, để giao hòa trời với đất, để trao lại cho con người quyền làm con Thiên Chúa. Từ nay Thiên Chúa không xa cách biệt con người. Từ nay Thiên Chúa chọn chốn dương gian làm ngôi nhà của mình. Thiên Chúa ở giữa nhân loại để những ai đón nhận Người thì Ngài sẽ ban cho họ ngập tràn ánh sáng của niềm vui và hạnh phúc. Bình an và hoan lạc sẽ ngự trị nơi tâm hồn những ai thành tâm thiện chí đi tìm Ngài.
Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Đây là niềm vui, niềm hạnh phúc vì nhờ cuộc viếng thăm này mà thân phận con người được đổi thay. Từ nay Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Đồng thời, khi con người chấp nhận mở lòng cho Thiên Chúa viếng thăm cũng là lúc mời gọi con người dũ bỏ bỏ thói đời tội lỗi để mặc lấy con người mới trong ân sủng của Chúa. Đó là cách chúng ta có bình an tâm hồn. Bình an là điều ai cũng khao khát chờ mong. Nhưng bình an không ở xa mà ở tại lòng người thiện chí, biết thành tâm thiện chí theo đường thiện, biết tìm kiếm Chúa là cứu cánh đời mình.
Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.
Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.
Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục – tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ ĐÊM
LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục – tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày đại lễ Giáng Sinh tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
Is 52: 7-10
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
Dt 1: 1-6
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
Ga 1: 1-18
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về mầu nhiệm Nhập Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, thời kỳ dân Do thái đang bị lưu đày tại Ba-by-lon khi đó có một ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
Bối cảnh:
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ khai mở cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho con cái thành Giê-ru-sa-lem biết là đoàn người lưu đày sắp hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.
Đối với thành thánh, vương quyền của Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa sắp ra cánh tay hùng mạnh giải thoát dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài cho thấy Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và là Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là Vua của dân Ngài. Vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Hai bài hoan ca sắp vang lên. Bài hoan ca thứ nhất là tiếng reo hò mừng vui của những người canh gác. Từ trên tường thành, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
Bài hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài phải lưu đày, khốn khổ, lưu lạc khắp nơi. Ấy vậy, chính mắt họ sắp phải thú nhận rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt mà nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ thời lưu đày muốn vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này tiên trưng cho một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, nhưng cảnh giam cầm của tội lỗi. Ngài sẽ thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
Bản văn này là lời mào đầu của thư gởi cho các tín hữu Do thái, trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày đại lễ Giáng Sinh này.
Chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Do thái:
Thư gởi các tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn là thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông muốn chứng tỏ chức tư tế Tân Ước trổi vượt hơn biết mấy so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa.
Kiện toàn Mặc Khải:
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: ông chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của mình)). Thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia. Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa: Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người và Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho hậu duệ của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
Ngài là Đấng Tạo Hóa:
“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Lời Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:
“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự mật thiết khôn sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26). Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết: “Ngôi lời là ánh sáng thật…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả: Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, như vậy, ông siết chặc gần hơn nữa ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
Bảo tồn vạn vật:
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki-tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: hy tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12).
Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như trong thế vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng vào việc phong vương của Thánh Tử ngự bên hữu Đấng Tối Cao trên trời những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít ban cho vua một hoàng nam kế vị ngai báu của vua: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14).
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan là một bài thánh thi được viết theo thể văn vần khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng được viết theo thể văn xuôi. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm.
Từ chủ chốt của Tựa Ngôn là từ “Ngôi Lời”. Tự nguồn gốc, từ “Ngôi Lời” được dịch từ “Logos” của Hy ngữ, nhưng được thánh ký sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy ngữ nầy thấm nhuần tư tưởng của từ “Đa-va” (“Lời”) của Cựu Ước. Trong Cựu Ước, Logos có nghĩa là lời Thiên Chúa nói ra, là điều Thiên Chúa mặc khải qua vũ trụ, qua biến cố và, nói chung, qua Thánh Kinh (Cn 8: 23-36; Hc 24: 1-22). Tất cả những tư tưởng ấy đều gặp trong Tin Mừng Gioan. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp “logos”với mạo từ không để diễn tả “Lời” cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Ngôi Lời ngay từ khởi thủy đã hiện diện trong cung lòng của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1: 15), là phản ảnh vẽ huy hoàng và trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1: 3). Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại (1Ga 1: 2). Tuy nhiên, thế gian đã không biết Ngài, dân Ngài cũng khước từ Ngài. Nhưng ai tiếp đón Ngài, Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Họ được quyền làm con Thiên Chúa như vậy, không phải do người phàm, mà là do Thiên Chúa (1: 12-13).
Do đó, chỉ vỏn vẹn mười tám câu, bài thánh thi được tạo dáng một cách nghệ thuật tóm tắt những chủ điểm Thần Học của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su Na-da-rét là Mặc Khải tối hậu của Thiên Chúa, Đấng có thẩm quyền giải thích Thiên Chúa. Nói cho cùng, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Trung Gian của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đích thực là Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa hiện thân để nói lời tối hậu của Thiên Chúa.
Trong bầu khí tươi vui của ngày lễ Giáng Sinh, tôi xin được chú giải câu 14:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm:
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt”. Theo thuật ngữ Kinh Thánh, “xác thịt” không chỉ xác thể phân biệt với linh hồn, nhưng trọn vẹn con người. “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” có nghĩa Ngôi Lời đã thật sự trở thành một phàm nhân như chúng ta, nhưng Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Điều này muốn nói rằng khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta hằng tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
Ngôi Lời cư ngụ giữa chúng ta:
Câu này được dịch sát từ: Ngôi Lời “dựng lều giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “dựng lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái dựng lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê Ngài sẽ đồng hành với dân về Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa dựng lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
Từ đó, “dựng lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong thời Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người:
Trong Cựu Ước, kiểu nói: “vinh quang của Thiên Chúa”, đồng nghĩa: “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những quyền năng mà Thiên Chúa đã thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, hiển lộ quyền năng và vinh quang của Ngài (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những dấu lạ mà Tin Mừng Gioan chỉ ghi lại “bảy dấu lạ” trong phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về Các Dấu Lạ” (ch. 1-12), và dấu lạ tuyệt mức cuối cùng là “Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài” trong phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về Vinh Quang” (ch. 13-21). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các dấu lạ Người làm lúc sinh thời”. Những dấu lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
Nói riêng, khi viết, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”, tác giả liên tưởng đặc biệt đến việc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, một sự kiện mà chính tác giả là một trong ba môn đệ được diễm phúc chứng kiến. Quả thật, so sánh câu phát biểu nầy với các bài trình thuật Nhất Lãm về cuộc Biến Hình đều có hai yếu tố: các tông đồ nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và Đức Giê-su được Chúa Cha công bố là Con Một của Ngài.
Nói tóm lại, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa và vinh quang của Ngài rực rỡ đến mức người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các dấu lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).
Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật:
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng” và “sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương” và “thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và hay tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng “Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu “trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta ” (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu – hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: “Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, “Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, ” (“L Evangile de Jean”, Centurion 1 992, trang 31).
Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu” liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu “như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người” (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến “Ngôi Lời Thiên Chúa” (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: “Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống” và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
– Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: “Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: “ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
– Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là “gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, “đã không đón nhận Người”.
+ “Còn những ai đón nhận Người – dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
– Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết “người phàm”, theo đúng chữ là “trở nên xác thịt”; từ “xác thịt” ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ “Người cư ngụ giữa chúng ta” ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến “nơi ở” của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: “Chúa nói về Đền thờ thân xác Người”).
+ “Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người” trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
– Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: “Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng “Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha”: đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: “Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3). Nhưng trong “tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (14,23)” (“Lire de Bible”, số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
Một câu không có “động từ ” thì không có nghĩa (“Bible du Dimanche” trang 51 1-512). (Trong tiếng Pháp, “verbe” vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
“Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: “Không ai đã được thấy Thiên Chúa’? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói “Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời (“động từ”) này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta”.
Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại. (L. Sintas trong “Parole de diệu pour la méditation ét l’homélte -Năm C”, Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
– Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán… và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. “Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa “đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. “Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ”.
Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược (“Célébrer” số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, “nhờ người”. Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa…
– Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng “chúng tôi” để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: “Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe…? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể – đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con”.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
LỜI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CHÚNG TA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giêsu xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời – Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giêsu sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời – Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời – Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Maria là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giêsu nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giêsu ngày xưa, hoặc có thể cả các triết – thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời – Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giêsu đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giêsu như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giêsu Kitô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời – Giêsu để, như Maria, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giêsu chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giêsu và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Kitô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. Amen.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
CÁC MỤC ĐỒNG, NHỮNG CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN- Lm. Trịnh Ngọc Danh
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ . Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người:“ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
TẠI SAO THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc: Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Đavít” (Lc 2,10-11).
Câu “Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi “, gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…” Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo: Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: “Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó” (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại: “Người đã đến nhà các gia nhân Người” (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta “; ” Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người “quyền trở nên con cái Thiên Chúa”(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào “gen”, đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Đấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Đấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Đấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM- Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn
Tin mừng thứ tư được mở đầu bằng một bài thánh ca mang âm hưởng như một bản nhạc giao hưởng. Chắc hẳn, để viết nên bản giao hưởng thánh ấy, Thánh sử Gioan, vốn được mệnh danh là người môn đệ Chúa yêu, ngoài tài năng của một văn sỹ, còn là một con người có trái tim chan chứa yêu thương. Có thể nói, với lối trình bày gãy gọn và xúc tích, tác giả -cách nào đó, đã tuyên xưng phả hệ thần linh của Chúa Kytô. Lễ Giáng Sinh là dịp thuận tiện để chúng ta tuyên xưng Ngôi Lời chính là Thiên Chúa từ muôn muôn thưở, nay trở thành xác phàm đến cư ngụ giữa lòng nhân loại.
NGUỒN GỐC HUYỀN NHIỆM CỦA NGÔI LỜI.
Thánh sử Gioan đã nối kết việc Ngôi Lời (Logos) đến giữa nhân loại khai mở cuộc tạo thành mới như những trang đầu của sách Sáng thế. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy, trong sách Sáng thế, Giavê Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7, Người nghỉ ngơi. Ngôi Lời của Thiên Chúa cũng bắt đầu những sinh hoạt công khai của mình trong 6 ngày và kết thúc bằng phép lạ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 1, 19-2,1-12). Điều đó cho thấy, Ngôi Lời từ muôn thưở đã hiện hữu và nhờ có Người, vạn vật mới được hình thành. Thánh Gioan đã dùng động từ “Ẽn” (đã có) để nói rằng từ thưở đời đời, Ngôi Lời đã hiện hữu, một sự hiện hữu vô tận, không chịu sự hạn định của thời gian.
Ngôi Lời không chỉ có từ trước muôn thưở, Người còn được giới thiệu như một người Con luôn hướng về Cha mình. Sự “hướng về” đó cho thấy Ngôi Lời luôn sống mật thiết và vĩnh cửu với Chúa Cha giống như hai người thân luôn hướng về nhau và luôn hiện diện bên nhau. Điều này được thể hiện rất rõ trong suốt cuộc đời trần thế của Chúa Kytô. Tất cả những biến cố xảy ra trong cuộc đời của Người, luôn có dấu ấn của Chúa Cha. Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, luôn trò chuyện, chia sẻ và tâm sự với Cha của Người.
NGÔI LỜI ĐẾN TRONG THẾ GIAN
Có thể nói Ngôi Lời đến với thế gian bằng nhiều lần và bằng nhiều cách chứ không phải đợi đến khi Người sinh ra nơi hang đá Bêlem. Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta sẽ thấy Ngôi Lời đến trong thế gian ngay khi bắt đầu công cuộc tạo dựng. Nếu không có sự hiện diện của Người, chắc chắn vạn vật sẽ không được hình thành. Gioan đã xác nhận rất rõ điều này. Lần đó, không một ai biết sự hiện diện của Người. “Thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (1,10); Người cũng đến với “nhà của Người”. Nhà đó chính là dân tộc Dothái mà Người đã chọn làm dân riêng. Lần đó, Người đến trong Lề luật, trong lời của các Ngôn sứ,… để đồng hành với dân tộc này. Nhưng tiếc thay, dân tộc mà Người ưu tuyển chẳng chịu đón nhận Người (1,11); và cuối cùng, Người đến khi mặc lấy xác phàm và ở giữa lòng nhân loại. Người đến trong thân phận của một Hài nhi được hạ sinh trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn và nghiệt ngã: sinh ra trong máng cỏ hang lừa nơi đồng không hiu quạnh và lạnh lẽo. Lần này, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.
Ngôi Lời Thiên Chúa đến giữa lòng nhân loại, ở với nhân loại và “cắm lều” giữa lòng nhân loại. Ngày xưa, Giavê Thiên Chúa ở giữa dân Người trên đường từ Aicập về miền đất hứa. Ngày đó, Người hiện diện trong Lều tạm- đó là dấu chỉ cho thấy Giavê Thiên Chúa luôn ở cùng nhân loại.
Ngày nay, Thiên Chúa ở giữa dân Người một cách gần gũi và thân mật. Thiên Chúa hiện diện dưới hình hài của một Hài nhi trong ngày Giáng sinh. Người hiện diện, mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa loài người, đồng hành với con người hầu đưa con người về với Thiên Chúa.
Quà tặng vô giá mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhân loại chính là việc cho Ngôi lời nhập thể, mang lấy thân phận mỏng dòn, yếu đuối của nhân loại. Người đến để chia sẻ với con người, để đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh. Người đến để yêu thương, để gánh lấy tội lỗi của nhân loại và cuối cùng chấp nhận hy sinh thân mình vì nhân loại.
Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ kỷ niệm một biến cố quan trọng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại cách đây hơn 2000 năm, biến cố “Ngôi Lời trở thành xác phàm” và cư ngụ giữa lòng nhân loại; mà còn là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong dòng lịch sử, trong chính cuộc đời của mỗi người. Lạy Đấng Emmanuel, xin hãy đến và ở cùng chúng con luôn mãi!
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ NGÀY
GIÁNG SINH LÀ GÌ HỠI EM?- Lm. Xuân Hi Vọng
Trọng tâm của chặng đường Mùa Vọng là lòng khoan nhân và thương xót của Thiên Chúa. Người kêu mời chúng ta sửa soạn tâm hồn, sửa sang cuộc đời đón chờ Ngôi Hai nhập thế và nhập thể cứu độ chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Người cũng gọi mời mỗi người chúng ta nhận ra và chiêm ngưỡng vị Thiên Chúa trong trình thuật Giáng Sinh là Đấng luôn luôn tha thứ dân Người đang đau khổ lầm than. Người không làm gì khác hơn mang họ trở về với Người và ủi an họ.
Vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ hiện (x. Is 40, 5). Vinh quang của Người chẳng phải vinh quang mà thế gian khao khát. Vinh quang Thiên Chúa không dính dáng gì đến của cải, bảo đảm tài chính hay vị thế xã hội hoặc sự chi phối người khác. Đúng hơn, vinh quang Người được tỏ lộ qua Ngôi Hai hằng sống đã từ bỏ tất cả, mặc lấy xác phàm để cứu chuộc chúng ta. Vinh quang này hiện rõ nơi Hài nhi được sinh ra trong gia đình Thánh Gia nghèo nàn, xuất thân từ làng Na-za-rét. Vinh quang này tỏ hiện nơi người con của bác thợ mộc đồng nội, Đấng đã hiến thân trọn vẹn để rao truyền lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Vinh quang này ôm trọn hy sinh và phục vụ, khiêm hạ và tình yêu.
“Vinh quang của Thiên Chúa chính là con người được sống viên mãn tròn đầy; sống viên mãn tròn đầy là được chiêm ngưỡng thiên nhan Chúa” (Gloria enim Dei vivens homo, vita autem hominis visio Dei – The glory of God is the human being fully alive; and being fully alive is to behold the vision of God – Thánh I-rê-nê). Ai có thể sống viên mãn tròn đầy hơn Đức Giê-su chứ?
Tán tụng, ngợi ca Thiên Chúa cũng chính là một trong vô số con đường thiêng liêng cao quý giúp đức tin chúng ta được mạnh mẽ thâm sâu, đức cậy được củng cố nâng đỡ. Mỗi khi chúng ta tán dương, ngợi ca Người, chúng ta sẵn sàng nhớ lại lòng nhân từ, tình yêu và sự tín thành của Thiên Chúa. Chúng ta rao truyền những gì ta cảm nghiệm về Người và chương trình cứu độ của Người. Mỗi lần chúng ta thực hiện điều này, chúng ta đang xây dựng nền tảng đức tin chắc chắn, nhằm giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách trên hành trình lữ thứ này.
Chúng ta có thể chờ đợi cho mọi việc sáng tỏ hoàn toàn trước khi tán dương, ca khen Người, nhưng Thiên Chúa đáp: Đừng chờ, đừng đợi. Vì lời hứa của Ta luôn được thành sự nơi Đức Giê-su Ki-tô (x. 2Cr 1, 20).
GIÁNG SINH chính là câu chuyện của người Cha hằng yêu thương trìu mến, bao dung nhân hiền, đã hiến trao Con Một Người cứu chuộc chúng ta, và chẳng bao giờ từ bỏ chúng ta. Người ban Con Một cho chúng ta, ngõ hầu thực hiện những gì chúng ta không thể tự hoàn thành được.
GIÁNG SINH chẳng phải chuyện kể về việc chúng ta tiến bước để được lòng Thiên Chúa, để được Chúa yêu thương, hoặc chúng ta vượt thắng tội lỗi bằng chính nỗ lực bản thân; đúng hơn, GIÁNG SINH chính là chuyện tình của Thiên Chúa đã xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại.
GIÁNG SINH là chuyện về tình yêu luôn luôn đi bước trước của Thiên Chúa, “không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10).
Người đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết (x. Rm 8, 1). Người đã làm tôi trở thành con cái Thiên Chúa (x. Gl 4, 6). Người ban tràn đầy Thánh Thần xuống trên tôi qua bí tích Rửa tội và Thêm sức (x. Ga 14, 25-26). Người thực hiện lời hứa cho tôi, mặc dù tôi bất xứng (x. Ga 3, 16).
GIÁNG SINH lột tả trọng tâm mầu nhiệm Nhập thể. Chẳng phải chúng ta yêu mến Chúa, mà chính Người đã yêu thương chúng ta đến nỗi rời bỏ vinh quang trời cao, xuống trần, mặc lấy xác phàm yếu đuối như chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên người tôi trung thấp hèn phục vụ hết tình. Người yêu thương chúng ta đến nỗi tự hiến mình, vâng phục chịu tử nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá vì chúng ta . Người đã yêu thương chúng ta đến nỗi ẩn mình trong hình bánh rượu đơn sơ, hầu trở nên Mình và Máu Thánh nuôi dưỡng chúng ta. Người là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng “xin vâng” với mọi chương trình của Chúa Cha, Đấng vâng phục thực thi và làm mọi sự cho chúng ta.
Tạ ơn Chúa Hài Nhi
Chẳng chê bỏ xác thân
Con người vốn yếu đuối
Mà sinh xuống gian trần
Giữa đêm đông lạnh giá.
Tạ ơn Chúa Hài Đồng
Vì yêu thương nhân thế
Thiên Chúa vốn từ nhân
Rời thiên đàng vinh sáng
Nhập thế trong đơn nghèo.
LỄ GIÁNG SINH 2020- LỄ RẠNG ĐÔNG
HỐI HẢ ĐI TÌM- Trích Logos B
Trong đêm Con Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại, khi các thiên thần đã ngưng tiếng hát, những người chăn chiên trên đồng cỏ Bêlem vẫn chưa hết sững sờ ngây ngất. Đêm nay, những con người đơn sơ chất phác vừa được phúc dự vào hội nhạc thiên quốc với lời ca rộn rã còn đọng lại trong câu điệp khúc mà họ sẽ nhớ mãi suốt đời: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Lời ca như trào tràn từ tin vui trọng đại vừa được loan báo: “Hôm nay Đấng Cứu Thế vừa giáng sinh”, Đấng vừa vượt khoảng cách ngàn trùng để nối lại trời và đất, để giải thoát con người khỏi sức hút nặng nề của tội lỗi đưa trở về với Thiên Chúa muôn đời yêu thương.
Khi các thiên thần từ biệt để trở về trời cao, các mục đồng hối hả lên đường. Lối về hang đá nhỏ vẫn quen thuộc, nhưng đêm nay sao thấy như thênh thang rộng mở, đưa bước chân bình an của những người thiện tâm đang rộn rã vội vàng trong ánh rạng đông của Mặt Trời công chính vừa xuất hiện.
Những người được nghe tin vui
Thiên Chúa như đang tìm cách thông tri cho toàn thế giới biết về hồng ân vừa được trao ban. Ánh sao đã sáng lên như dấu chỉ về Đấng Cứu Thế vừa hạ sinh, và thiên sứ cũng đã được sai đến để loan báo tin vui trọng đại cho toàn dân. Ở một nơi thật xa nào đó, các nhà đạo sĩ phương Đông đã nhận ra ánh sao lạ giữa ngàn triệu tinh tú trên bầu trời, còn ở đây, các mục đồng sững sờ kinh ngạc nhưng vẫn hiểu mình đang nghe biết một điều gì đó thật đặc biệt. Dân thành Bêlem đã đóng cửa chối từ chỗ trọ cho hai lữ khách nghèo nàn xa lạ, nhưng các mục đồng, những người nghèo, quen thuộc với hang đá trống trải không rào chắn cổng ngăn, lại chính là những kẻ không ngờ mình đã có sẵn một máng cỏ vừa vặn cho Hài Nhi Cứu Thế.
Như thế, con người sẽ dễ nghe được Tin vui cứu độ khi hướng mắt nhìn lên trời cao, khi mở rộng cõi lòng trong quảng đại đơn thành. Những khép kín, dù chỉ là vô tình, cũng sẽ là trở ngại cho cuộc gặp gỡ đến từ Thiên Chúa. Những chối từ, dù có đủ lý do, cũng sẽ làm mất đi bao cơ hội để tiếp nhận ơn phúc.
Với các mục đồng, chúng ta xin được mở lòng đón nhận niềm vui hồng phúc đêm Con Chúa giáng sinh. Không chỉ là niềm vui lễ hội bên ngoài, nhưng thực sự là niềm vui rộn rã tận tâm tư, vì biết được chính chúng ta là những kẻ đang được Thiên Chúa yêu thương, những người thiện tâm được chúc phúc bình an.
Những người đứng lên từ đêm tối
Các mục đồng ở Bêlem, những người “còn thức” giữa một nhân loại đang đắm chìm trong giấc ngủ đêm đen, chính là những người đầu tiên nghe biết tin mừng. Bóng tối như đã phủ trùm nhân loại suốt bao thế kỷ, con người vẫn kêu xin trời cao tuôn đổ sương mai, xin ngàn mây rưới mưa ơn cứu đời, mỏi mòn ngóng đợi ngày giải thoát, nhưng vào giờ Đấng Cứu Thế hạ sinh, khi vinh quang Thiên Chúa đã chiếu toả rạng ngời trên bầu trời Bêlem, thì thế giới vẫn vô tâm ngủ vùi trong bóng tối. Những người chăn chiên không ở trước ngay hang đá, họ còn phải đi sang Bêlem, phải vượt khoảng cách còn giữ họ lại giữa bóng đêm trước khi gặp được ánh sáng.
Cần biết tỉnh thức để nhận ra giờ Chúa đến viếng thăm và cần biết chỗi dậy để bước ra khỏi bóng đêm. Những buông thả mê lầm trong nếp sống, dù ở cấp độ nào, cũng sẽ dẫn đến kết cục tăm tối của những kẻ chối từ ánh sáng. Những chần chừ do dự trong quyết tâm đứng dậy, dù chỉ do ngần ngại tự nhiên, cũng có thể thành nguy cơ làm tan vỡ niềm vui được giải thoát.
Cùng với các mục đồng, chúng ta muốn nhanh chân rời khỏi vùng u tối của tội lỗi, nhanh chóng đứng bật dậy từ những tật xấu thói hư, để hối hả tìm về với ánh sáng Tình yêu vừa tỏa vào thế giới qua Hài Nhi đang dang tay đón chờ.
Những người đi về phía Mặt Trời
Những kẻ chăn chiên vội vã ra đi. Nỗi sững sờ chen lẫn kinh hoàng hoảng sợ như dần dần tan biến dưới từng bước chân hối hả, niềm vui như cứ dần bừng lên theo từng nhịp đập của những trái tim đang nôn nả háo hức, và đây, họ đã gặp thấy Hài Nhi. Tin vui đã là xác thực, và ánh sáng đã thật sự ngập tràn. Máng cỏ và khăn tã là dấu chỉ để giờ đây họ có thể ngắm tận mắt, sờ tận tay Đấng muôn dân trông đợi. Chưa biết rõ về Ngài, nhưng họ đã có thể nói về Ngài, về những điều họ đã thấy và đã nghe. Không diễn tả được gì nhiều, nhưng từ đây họ sẽ là những chứng nhân sống động cho những gì Thiên Chúa đã làm cho con người. Họ sẽ mãi là những người Chúa thương, những người thiện tâm luôn ca tụng tôn vinh Thiên Chúa trên từng bước đường họ đi, và với từng người họ gặp.
Cùng sống lại tâm tình của các mục đồng trong Thánh Lễ Rạng Đông ngày Con Chúa Giáng Sinh, chúng ta xin được mãi bước đi trên nẻo đường bình an, hướng về Ánh Vầng Đông từ chốn cao vời đã đến chiếu sáng và dẫn chúng ta về với Thiên Chúa Tình Yêu.