CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT – NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TRỐN SANG AI CẬP(*)– Chú giải của Noel Quesson. 7
CON ĐƯỜNG CỦA KITÔ HỮU THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU- Chú giải của Fiches Dominicales 15
HÃY CHỖI DẬY (*)- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến. 21
THÁNH GIA NAGIARÉT LÀ MẪU GƯƠNG CỦA MỖI GIA ĐÌNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 26
TỪ BÊLEM ĐẾN NAGIARÉT- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 37
GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 43
TỊ NẠN Ở AI CẬP- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 47
SINH RA TRONG GIA ĐÌNH ĐỂ CỨU CÁC GIA ĐÌNH– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 49
MẦU NHIỆM THÁNH GIA- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc. 55
THÁNH GIA, NGUYÊN MẪU CHO GIA ĐÌNH KITÔ HỮU- Lm. Giuse Phạm Thanh Minh 61
BÍ QUYẾT KIẾN TẠO HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH- Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh 67
THÁNH GIUSE, NGƯỜI SỐNG THEO LỜI CHÚA– Lm. GB. Vũ Quốc Đạt 72
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ”.
Bài trích sách Huấn Ca.
Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Đáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên Chúa.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con!
BÀI ĐỌC II: Cl 3, 12-21
“Về đời sống gia đình trong Chúa”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Cl 3, 15a. 16a
All. All. – Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. – All.
PHÚC ÂM: Mt 2, 13-15.19-23
“Hãy đem Con Trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người”. Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”. Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa. Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: “Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết”. Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó. Được báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: “Người sẽ được gọi là Nadarêô”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
TRỐN SANG AI CẬP(*)– Chú giải của Noel Quesson
Sau khi các nhà chiêm tinh đến thăm Bê-lem.
Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này.
- Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đa-vít, Con Abraham.
- Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi
- Rồi theo Mátthêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh; không có những mục đồng Do Thái Giêrusalem, dẫu thế, được báo cho biết trước về chuyện đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bê-lem cách độ 8km!) vẫn không động tĩnh… trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là “vị đứng ra sẽ chăn dắt Do Thái dân của tôi”.
Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần. Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi vâ Mẹ của Hài nhi. Chúng ta cũng sẽ lưu ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời. Chính ông lâ người ở phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp trên trời, lại không nói… mà ông hành động.
Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Ôi, cái tiếng ‘dậy đi!’
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh. “Khum! “Dậy đi”. Cái thể mệnh lệnh, cái động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Ap-ra-ham (St 13.1), Elia (IV 19,5). Nàng yêu dấu của Diễm Ca (2.10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien (10,11). Tiếng “Dậy đi!” đầy dẫy trong Tán ước: Mát-thêu 2,13; 2,20; 9,5; 17,7; 26,46; Mc 10,49; Lc 17,19; 22,46; Ga 5,8; Cv 3,6; 8,26; 9,34; 9,40; 12,7; 14,10…
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa.
Thiên Chúa lặp lại “Dậy đi!”.
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con người năng động.
Trong cuộc sống gia đinh mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ nhiệm… Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: “Đứng lên! Dậy đi!”.
Có một thứ hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả vả bị sai lạc. Máng cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh”, những mục đồng xinh xắn và những con cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng… có cái nguy làm cho chúng ta coi “chuồng bò lừa nới Thiên Chúa sinh ra (đó là một cái sườn mái!) là một nơi nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố, người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy không phải là Giáng sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và tướng lai. Gia đình mâ bạn nhin ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà quê, có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đầy chăng? Khi đó bạn đã dựng lên một “thánh gia” không có thực. Và bạn nói liều: “Thật quá đẹp… nhưng ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái ấm của chúng tôi, gia đinh của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khán định hướng, những cuộc đối thoại không thể có được…”.
Những mái ấm trẻ… hay những mái ấm nào khác…
Tồi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của Giuse, có Hài nhi và Mẹ người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đinh, gia đinh ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles Péguy “Những người cha và người mẹ này “‘ những kẻ phiêu lưu vĩ đại của thế giới hiện đại này!”
Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung,đó là một cáp vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những người bị xua đuổi trốn chạy về nới vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh, đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Libăng Cambốt, Áp-ga-nít-tăng,… và nhiều nới khác. Những hình ảnh không cầm lòng được đang lảm xáo động sự yên ổn của chúng ta. A, không, máng cỏ năm nay không đẹp… Thế thi bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ, chúng tôi làm máng cỏ bằng tre mục… hay bằng vải lưu cho những trại tị nạn… hay bằng gạch nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ động đất… và họ đã để Hài nhi trên rơm, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy…”
Họ muốn giết trẻ con… Than ôi, vâng, hiện nay…
Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Để nhấn manh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả chính xác trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ trên cao.
Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: làm thế nào? Cần phải cứu Hài nhi cứu độ? Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ, Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Và cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải “cứu”! đức tin… ban đêm… Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.
Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập
Trong mùi tử khí tự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói: Con ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này, có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình… một dự tính của Thiên Chúa,… được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ.. một khuôn mật ẩn giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt ra là trở lại…
Người ta chỉ nói về sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống… Còn bạn, trong cuộc sống của bạn, bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.
Toàn thể gia đinh và chạm với những cái bất an. Việc chúng ta tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường. Giuse thậm chí còn nhận lệnh của Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi gia đình… hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta.
Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi? Con số nhiều lạ lùng. Cho đến đây, người ta chỉ nói đến Hê-rô-đê… Nhưng Mátthêu nghĩ đến một trường hợp có trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi ra số phận của Môsê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15). phải trốn sang Ai Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh 4,19-20). Khoa chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương cách, mà người ta gọi là “midrach”, nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh Thánh bằng những biến cố của thời sự…để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc Israel: bạo vương muốn khử trừ cậu Môsê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Người… bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)… nhưng lại không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu độ dân Người… dẫn dắt dân này về Đất Hứa.
Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.
Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Mãi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Nadarét để ứng nghiệm lời, các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Nadarét.
Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền Giuđê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chốc. Chính vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê miền xa xôi, một nửa ngoại giáo, khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mát-thêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt 4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn không sống trong những miền Galilê loại mới ư?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT – NĂM A
CON ĐƯỜNG CỦA KITÔ HỮU THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU- Chú giải của Fiches Dominicales
- Một truyện kể tỉ mỉ về thời thơ ấu.
Việc báo tin cho Giuse mà ta đọc Chúa nhật trước vẫn còn rõ như in trong trí nhớ, nên ta dễ liên hệ đến bài Phúc âm Chúa nhật này: cũng thiên thần hiện ra trong giấc ngủ truyền cho Giuse một mệnh lệnh liên hệ đến Maria và trẻ thơ sắp sinh ra; cũng trích dẫn những lời tiên tri được thực hiện; cũng thái độ im lặng đón nhận và mau mắn thi hành của Giuse. Hơn nữa, bài Phúc âm hôm nay sử dụng 2 lần cùng một lược đồ: ta có thể xếp thành 2 cột song song như sau:
1. Bối cảnh:
Sau khi các đạo sĩ đi rồi. 2. Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse. 3. Giuse mau mắn thi hành. 4. Trích dẫn Kinh Thánh |
1. Bối cảnh:
Sau khi Hêrôđê băng hà. 2.Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse. 3. Giuse mau mắn thi hành 4. Trích dẫn Kinh Thánh |
“Thế là ứng nghiệm…”
Dưới hình thức ngây thơ, Phúc âm Thời thơ ấu theo thánh Matthêu thực ra đã được chuẩn bị rất trí thức và giàu ý nghĩa.
Đừng quên rằng Matthêu nói với các Kitô hữu gốc Do Thái, tâm hồn thấm đẫm Kinh Thánh và được nuôi dưỡng bằng những bài chủ giải Kinh Thánh trong các hội đường. Không lạ gì khi thấy thánh sử, vì muốn minh chứng rằng Đức Giêsu qui tụ tất cả niềm hy vọng của Israel và đã làm ưng nghiệm các lời Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn các bản văn Kinh Thánh và các lời chú giải. Về vấn đề này, ta có thể đọc những trang sách rất khúc chiết của Charles Perrot trong “Cahiers – Evangile số 18” trang 11 và kế tiếp. Không như Luca, Matthêu không tìm kích thích trí tưởng tượng hoặc thoả mãn óc tò mò của ta bằng một vài chi tiết lịch sử kỳ thú. Ông chỉ muốn cho ta hiệp thông với các Kitô hữu tiên khởi trong cuộc truy tìm, say sưa niềm tin vào “Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”. Ánh sáng Phục Sinh soi rọi tới tận ngọn nguồn làm ta khám phá và cùng với cộng đoàn sơ khai tuyên xưng Con Thiên Chúa và Đấng Cứu độ gian trần trong con trẻ sinh bởi lòng đức Maria. Những biến cố thời thơ ấu đã cho thấy trước những điều mà cái chết và sự Phục Sinh khai mở về Đức Giêsu: vị tiên tri người “Galilê” (“người Nadarét”, “Giêsu” (Thiên Chúa cứu) là “Em-ma-nu-el” (Thiên Chúa ở cùng ta). Người là “Con”, con David sinh tại Bêlem và Con Thiên Chúa; Người là Môsê mới khai mạc cuộc Xuất hành mới.
- Môsê mới xuất hành mới.
Nếu chú ý, ta sẽ thấy bản văn này song song một sách kỳ lạ với truyện về Môsê.
* Ngày xưa Pharaô đôi lúc đã truyền tiêu diệt trẻ nam sơ sinh của dân Do Thái. Chúa Giêsu vừa sinh ra thì Hêrôđê độc dữ cũng truyền “tàn sát mọi trẻ nam từ 2 tuổi trở xuống tại Bêlem và các vùng phụ cận”.
* Ngày xưa, Môsê đã được cứu thoát cách kỳ diệu và đã chạy trốn ra nước ngoài trước khi đương đầu công khai và sau khi được tấn phong làm tiên tri tại “bụi gai cháy đỏ” (Ex 3,l-12).
Đức Giêsu cũng đã trốn thoát khỏi tay bạo chúa, đã chạy trốn sang Ai Cập, trở lại quê nhà rao giảng Tin Mừng sau khi được tấn phong làm Messia lúc chịu phép rửa tại sông Giođan.
* Ngày xưa, Môsê quay trở lại Ai Cập khi cơn nguy hiểm đã qua “vì những kẻ muốn hại ông đều đã qua đời (Ex 4,19-20). Cái chết của Pharaô tạo cơ hội cho việc giải phóng dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng trở lại quê hương khi nguy hiểm đã hết, “vì Hêrôđê đã băng hà. Cái chết của Hêrôđê tạo cơ hội cho Chúa Giêsu trở về và công cuộc giải phóng dân mới bắt đầu.
* Ngày xưa, Môsê vâng lời Thiên Chúa: “Vậy, Môsê đem vợ con cỡi lừa (việc Chúa Giêsu cỡi lừa trốn sang Ai Cập phát xuất từ truyện Môsê) và trở lại Ai Cập (Ex 4,19-20).
Trong Phúc âm thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Giuse lúc nào cũng nêu gương vâng lời. Sự im lặng mà Matthêu ghi nhận làm nổi bật đức tin trong hành động của Ngài “Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài trốn sang Ai cập” “Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và Mẹ Ngài trở lại Israel”.
Câu kết của phần I đoạn Phúc âm rất đậm đà ý nghĩa “Từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về”. Câu này mượn trong Osê(11,1) để ca tụng tình thương Thiên Chúa Người đã đưa Israel “đứa con đầu lòng” (Ex 14,23) ra khỏi Ai Cập. Khi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Đức Giêsu tái tạo lịch sử dân người. Là Môsê mới, ngài đến khai mở một cuộc Xuất hành mới và vĩnh viễn cho một dân tộc mới.
“Ai Cập tượng trưng cho sự áp bức, Cl. Tassin chú giải. Đó là khởi điển của cuộc xuất hành, từ con đường giải phóng tiến về miền Đất Hứa. Qua đoạn tường thuật vốn tắt này, Đtíc Giêsu trở nên liên đới với dân người khi đảm nhận lịch sử đầy thử thách của dân, như lời dẫn tiên tri Osê đã chú thích… Tuy nhiên, phải làm quen với kiểu người Do Thái trích dẫn Kinh Thánh ở đây. Nếu có ai nói: “Lũ chuột nhảy múa”, ta sẽ tự nhiên nghĩ đến vế đối thứ 1: “Khi mèo ra đi”. Cũng vậy, các độc giả người Do Thái của Mattheu sẽ dùng trí thớ bổ túc đoạn văn của Osê: “Khi Israel còn thơ, Ta đã yêu quí nó và từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về. Như thế ý nghĩa mới trọn vẹn: trẻ thơ Giêsu chính là trẻ thơ Israel: Ngài thâu tóm nơi bản thân ơn gọi và vận mệnh của dân nước tuyển chọn, trước khi đoạn Phúc Âm kế tiếp mạc khải Ngài là Con, hơn hẳn dân bị áp bức mà Thiên Chúa nói với Pharaô “Con đầu lòng của tôi, đó là Israel..”. Hãy để con ta ra đi!” (Ex 4,22-23) (Mt, Centusion, 1991, trang, 33-34).
- Một dân tộc sẽ có tầm cỡ hoàn vũ.
Tuy vậy, cuộc xuất hành này không hướng về Giuđêa, nơi không bị đa thần giáo xâm phạm, trái lại hướng tới “Galilê, nơi giao lưu các dân ngoại” (Mt 4,15), xứ sở dân cư pha tạp, đất vãng lai, bị khinh miệt: Dân mới mà Đức Giêsu vừa thiết lập, là một dân liên kết các dân ngoại ngoan ngoãn lắng nghe Phúc âm vào với dân Do Thái.
Chính tại Galilê mà Đức Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ công khai (4,15-18) và cũng chính tại đây, Đấng phục Sinh đã hẹn gặp các tông đồ để trao phó cho họ sứ mệnh có tầm cỡ hoàn vũ: “hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ Ta…” (28,18). Đối với Matthêu và các độc giả của Ngài, việc trở về Galilê đã tiên báo việc mở cửa Giáo Hội cho dân ngoại. Dân mới không còn bị giới hạn vào biên cương Israel, nhưng sẽ có tầm vóc hoàn vũ. (Vậy, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho sứ mệnh hoàn vũ của mình” (Cl. Tassin p.36).
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT – NĂM A
HÃY CHỖI DẬY (*)- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 2:13-15.19-23 nằm trong văn mạch là sau khi các Đạo sĩ tìm đến thờ lạy Vua mới sinh (2:2), vua Hêrôđê ra lệnh tìm giết Vua mới sinh nầy, và đã giết các trẻ thơ vô tội (2:16-18); Vua mới sinh nầy phải trốn sang Ai cập trước khi lệnh của Hêrôđê được thi hành (2:13-15.19-23). Đoạn 2:13-15.19-23 gồm hai câu chuyện có kết cấu tương tự nhau là thiên sứ ra mệnh lệnh và Giuse thi hành mệnh lệnh. Đoạn 2:13-15 thuật việc Giuse đem Hài Nhi và mẹ của Người trốn đến Ai cập; trong khi đoạn 2:19-23 thuật việc họ trở về lại quê nhà. Cả hai đoạn, cũng như đoạn 2:16-18, đều kết thúc giống nhau là bằng một trích dẫn của CƯ (2:15.18.23). Ngay từ đầu Matthêô đã đặt những sự kiện bàn đến trong chương hai nầy trong bối cảnh lịch sử lúc ấy: “tại Bêthlêhem xứ Giuđa”, “trong những ngày của Hêrôđê làm vua” (2:1). Tiếp theo đó, Matthêô nói đến một vị “Vua của Giuđa mới sinh ra” (2:2), như là đối lập với vua Hêrôđê, mà các đạo sĩ tìm đến thờ lạy. Do đó, Hêrôđê tìm cách giết vị Vua mới nầy. Vào cuối chương 2, Hêrôđê chết, vị Vua mới nầy trở lại quê nhà, và tiếp theo đó Người bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người. Câu chuyện trốn sang Aicập cho thấy Thiên Chúa đã tìm cách bảo vệ Con của Người qua sự vâng lời thi hành của Giuse.
Đoạn 2:13-15: Trốn sang Ai cập. “Nhưng sau khi họ (các Đạo sĩ) đi rồi, thiên sứ hiện ra…” liên kết trình thuật nầy với đoạn trước. Đoạn nầy gồm: – Lời của thiên sứ (c. 13) và sự thi hành của Giuse (cc. 14-15). Cấu trúc câu 2:13 hoàn toàn giống như câu 2:19-20: “Nầy” – Thiên sứ xuất hiện với Giuse trong giấc mơ, nói với ông – “Hãy chỗi dậy” đem Hài Nhi và mẹ Người đi đến đất chỉ định – “vì” với lời giải thích. Thiên sứ ra lệnh Giuse đem con trẻ và mẹ của Người sang Ai cập, vì Hêrôđê tìm cách giết Người. Sự xuất hiện của thiên sứ cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch liên quan đến Con của Người (1:20.24; 2:13.19); ở đây Người cứu Hài Nhi khỏi bị giết bằng cách đưa sang Ai cập.
Giuse là người được giao phó thi hành kế hoạch ấy. Động từ paralambanō, “nhận về với mình” (1:20.24; 2:13.14.20.21) chỉ việc Giuse phải làm: trước đây là “nhận làm vợ”, “nhận về nhà” (1:20.24); bây giờ là “nhận đem đi” (2:1314.20.21). “Hài Nhi và mẹ Người” là một đơn vị không tách rời nhau (2:11.13.14.20.24). Cách dùng nầy muốn nói Hài Nhi không có cha trần gian. Giuse đứng ngoài qua hệ mẹ-con nầy, và như là người phục vụ Hài Nhi và mẹ Người. Hài Nhi được nêu lên trước, vì Người là trọng tâm chú ý của mọi biến cố và hành động xảy ra chung quanh Người. Ý muốn rõ ràng của Hêrôđê là “giết” Hài Nhi.
Giuse đã thi hành mệnh lệnh cách hoàn hảo, và có thế nói là đã theo từng chữ (2:14.21.23). Matthêô xem việc trốn sang Ai cập là để hoàn tất chương trình của Thiên Chúa; ông dùng công thức “để ứng nghiệm” (2:15.23). Lời của ngôn sứ Ôsê: “Từ Ai cập Ta sẽ gọi Con Ta về” (Ôs 11:1) ám chỉ việc Thiên Chúa hứa đưa dân do thái ra khỏi sự nô lệ ở Ai cập (x. Ds 23:22; 24:8). Lời nầy sẽ áp dụng cho Hài Nhi. Theo nghĩa đen đó là Giuse sẽ đưa Hài Nhi quay trở lại quê nhà khi Hêrôđê băng hà. Theo nghĩa cánh chung, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng là hiện thân của dân Israel. Người thâu tóm trong chính mình cả lịch sử của dân tộc nầy: sống ở Ai cập, làm cuộc xuất hành, sống trong sa mạc. Khi trải qua tất cả những điều ấy, Người đưa lịch sử dân Israel đến cao điểm của nó là được cứu chuộc trong Người.
Đoạn 2:19-23: Trở về lại quê nhà. Đoạn nầy được chia thành hai phần: – Thiên sứ báo và trở lại đất Israel (2:19-21); – Thiên Chúa cho biết và đi về Nazaréth (2:22-23). Hêrôđê làm vua từ năm 37 trước Chúa Kitô đến năm 4 sau Chúa Kitô. Cách nói về cái chết của ông (c. 19) tương tự như về cái chết của Pharaoh (x. Xh 4:19-20). “Những người tìm tính mạng của Hài Nhi” (c. 20) là những người tìm giết Người (2:13). “Trong đất Israel” (2:20.21) đối nghịch với “Ai cập”; đó là đất nơi Hài Nhi được sinh ra để làm thủ lãnh (2:6). Sau khi vua Hêrôđê băng hà, vương quốc của ông chia cho ba người con là Philip, Archelaus và Antipas. Archelaus nắm quyền xứ Giuđa, Samaria và Idumea. Ông có tiếng là ác độc hơn hai anh em kia. Triều đại ông ngắn ngủi. Năm 6 sau Chúa Kitô, ông bị đày sang xứ Gaul. Matthêô nhắc đến triều đại của ông để tiếp tục đề tài về sự đối lập của hai vương triều. Chúa Giêsu là vua thật. Và Người phải tiếp tục lẫn tránh vì sự tìm giết của Archelaus khi ông kế vị ngôi của vua cha.
Ý định của Thiên Chúa là Giuse đưa Hài Nhi và mẹ Người về Galilêa (2:22). Chú ý cách dùng chữ kéo sự tập trung nhỏ dần về địa lý: “trong đất Israel” (2:19.20); “trong xứ Galilêa” (92:22) và “trong thành Nazaréth” (2:23). “Galilêa” nêu lên ở đây để chuẩn bị cho ngày Chúa Giêsu đi từ đây đến sông Giorđan để chịu phép rửa (3:13). Cụm từ “Ngài sẽ được gọi là Nazarêô” (2:23) không tìm thấy trong bất cứ ngôn sứ nào. Cụm từ nầy muốn chỉ Chúa Giêsu xuất thân từ Nazaréth (26:71; Lc 18:37). “Nazarênô” nầy cũng có thể ám chỉ Is 11:1, trong đó nói đến một chồi (nezer) sẽ phát xuất từ gốc Jessê. Thần Khí sẽ ngự xuống trên Người (Is 11:2-4; Lc 4:18). Chính Người là chồi phát xuất từ dòng dõi Đavít (Giêr 23:5; 33;15) để làm vua và cai trị dân Người trong chính trực và công bình.
Dân Israel đuợc thu tóm trong bản thân Chúa Giêsu. Người được sinh ra và được kể thuộc dòng dõi Abraham, Đavít. Bằng kinh nghiệm bản thân Người trải qua những gì dân nầy đã làm. Các vương quyền trần thế qua đi. Vương quốc của Người tồn tại, và với tư cách là Vua, Người dẫn đưa dân Israel nầy vào một bước ngoặt mới trong lịch sử cứu độ.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
THÁNH GIA NAGIARÉT LÀ MẪU GƯƠNG CỦA MỖI GIA ĐÌNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Ai kính sợ Chúa thì thảo kính cha mẹ.
– Đáp ca : Kẻ kính sợ Chúa thì được hưởng hạnh phúc gia đình.
– Tin Mừng : Gương Thánh Giuse gia trưởng.
– Bài đọc II : Sống hòa thuận trong gia đình.
Lễ Thánh Gia hôm nay rất có ý nghĩa đối với người Việt Nam chúng ta vốn coi trọng gia đình và các giá trị gia đình.
Lời Chúa hôm nay tuy chưa liệt kê đầy đủ mọi đức tính phải có trong cuộc sống gia đình, nhưng những đức tính được đề cập tới đều rất quan trọng.
Trong Thánh lễ đặc biệt này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Lời Chúa, và tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta xây dựng gia đình mình theo gương mẫu Thánh gia Nadarét.
– Chúng ta đã thiếu sót rất nhiều trong bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm anh chị em trong gia đình.
– Chúng ta đã cố gắng rất nhiều để lo cho gia đình về phương diện vật chất, nhưng chưa cố gắng đủ để lo cho gia đình về phương diện tinh thần và đạo đức.
– Gia đình chúng ta chưa là một nắm men, một hạt muối, một ngọn đèn sáng trong khu xóm.
Đoạn sách Huấn Ca này đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận con cái phải thảo kính cha mẹ.
Nền tảng của việc thảo kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa : “Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, quyền lợi người mẹ Ngài củng cố trên đàn con”.
Thảo kính cha mẹ sinh ra rất nhiều ơn ích :
– đền bù tội lỗi, thu được một kho tàng, làm cho cha mẹ vui, sống lâu
– khi cầu xin sẽ được Thiên Chúa nhậm lời
– sau này đến lượt mình có con cái thì sẽ được chúng hiếu thảo
Tác giả Tv 127 coi việc kính sợ Chúa là nguồn mọi hạnh phúc gia đình :
– những lao công khó nhọc sẽ sinh kết quả
– được vợ hiền con ngoan
– hạnh phúc suốt đời
Trong bức tranh vẽ cảnh gia đình Nadarét, có hai nét đáng lưu ý hơn cả :
a/ Vai trò nổi bật của người gia trưởng : vai người mẹ Maria và người con Giêsu đều mờ nhạt để làm nổi bật hẳn lên vai người gia trưởng Giuse. Người gia trưởng này tuy âm thầm nhưng rất tận tuỵ lo lắng chăm sóc mọi người trong gia đình. à Một gia đình hợp nhất quanh người gia trưởng.
b/ Nhưng bên trên vai trò người gia trưởng, còn một vai khác quan trọng hơn, đó là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dẫn dắt cuộc sống gia đình Nadarét qua đại diện của Ngài là gia trưởng Giuse. à Thiên Chúa là gia trưởng tối cao của gia đình.
Thánh Phaolô liệt kê những đức tính phải có trong cuộc sống gia đình : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa Giêsu : “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”.
Và để có thể thực hiện các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương.
Đương nhiên người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất trong gia đình. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn :
– Gia đình nào có người mẹ tốt nhưng người cha xấu thì các con trong gia đình khó mà tốt hết được. Hình như tấm lòng của người mẹ không hữu hiệu bằng sự hướng dẫn của người cha.
– Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi người trong nhà đều dễ trở thành tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng.
Gia đình Nadarét có Thánh Giuse làm gia trưởng. Dù Đức Maria và Chúa Giêsu là những người cao quý hơn thánh Giuse, nhưng Thiên Chúa đã đặt hai vị dưới quyền Thánh Giuse ; khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình này thì Ngài nói với Thánh Giuse ; và hai vị kia vâng lời Thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Phần Thánh Giuse, có lẽ Ngài không thông minh và tài cán bao nhiêu, nhưng Ngài rất tận tuỵ trong bổn phận, nhất là Ngài điều hành việc gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay kể : trong hai tình huống nghiêm trọng nhất là trốn sang Ai cập và hồi hương về Nadarét, Thánh Giuse đều làm theo lời Chúa. Bản văn viết rõ : “Giuse liền thức dậy, đưa hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (hoặc : “về đất Israel”). Dù đang ngủ nhưng mau mắn “thức dậy” và “liền” thi hành ngay lời Chúa dạy.
Đối chiếu với gương thánh Giuse, chúng ta hiểu được lý do khiến cho nhiều gia đình không được tốt :
– Lý do thứ nhất là vì người cha gia đình không tận tuỵ với bổn phận mình.
– Lý do thứ hai là vì người cha gia đình không điều hành gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Cha mẹ thương con là do bản năng : dù đứa con xinh đẹp hay xấu xí, ngoan ngoãn hay ngỗ nghịch, cha mẹ vẫn luôn yêu thương và hy sinh tất cả cho nó. Người ta nói “Nước bao giờ cũng chảy xuôi xuống”.
Nhưng con cái thương cha mẹ không phải là bản năng (con cái bám lấy cha mẹ mới là bản năng) : khi đứa con còn cần đến cha mẹ thì xem ra nó “thương” cha mẹ lắm. Đến khi nó không cần đến cha mẹ nữa, nhất là khi cha mẹ cần đến nó thì nhiều đứa thờ ơ, hất hủi, bất hiếu… “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nếu là bản năng thì không cần được dạy. Vì không phải là bản năng nên cần được dạy mới biết.
– Người Việt Nam dạy con cái hiếu thảo cha mẹ cách tiêu cực bằng lời đe dọa : ai bất hiếu ngỗ nghịch với cha mẹ thì sẽ bị “trời đánh”.
– Sách Đức Huấn Ca dạy cách tích cực bằng Lời Chúa hứa ban cho kẻ thảo hiếu cha mẹ nhiều ơn lành (xem phần giải thích Bài đọc I phía trên)
Dù dạy cách tiêu cực bằng lời đe dọa, hay cách tích cực bằng lời hứa, cả hai lời dạy trên đều giống nhau ở điểm quy lòng hiếu thảo về nguồn gốc là Thiên Chúa (hay “Ông Trời”) : chính Thiên Chúa muốn con cái hiếu thảo với cha mẹ, do đó Ngài thưởng kẻ hiếu thảo và phạt kẻ bất hiếu.
Vì thế những kẻ làm con phải ý thức rằng : Hiếu thảo với cha mẹ
– không chỉ là một tình cảm tự nhiên được thúc đẩy bởi bản năng,
– mà còn là một đạo lý nhân bản (đạo làm người : nhân-đạo)
– hơn nữa, đó còn là lệnh truyền của chính Thiên Chúa (thiên-đạo)
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt qua con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai Cập, một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh, đoàn quân Rôma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tị nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước chân trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tị nạn của Thánh Gia như thiên đường : những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các Ngài ngủ mát, ăn điểm tâm ; nước chảy lênh láng để các Ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc ! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ, p. 268)
Ở trần gian, Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó. Chúa muốn các Ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan biết vui lòng hy sinh như các Ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài Nhi Giêsu, bảo vệ Hội Thánh, bảo vệ đức tin và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không bị hận thù bất công, khỏi bạn bè gian ác, trộm cắp, đồi truỵ. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi kitô hữu.
Biết bao hài nhi đã bị huỷ hoại trong bào thai, khi chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm !
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là hãy dắt con em mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.(Lm Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A)
Nếu trẻ con sống với những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án.
Nếu chúng sống với sự hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau.
Nếu chúng sống với những lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát.
Nếu chúng sống với sự chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi
Nếu chúng sống với sự bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục
Nếu chúng sống với sự khuyến khích, chúng học được lòng tự tin.
Nếu chúng sống với lời khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người.
Nếu chúng sống với sự lương thiện, chúng học được tính công bình.
Nếu chúng sống với sự che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy.
Nếu chúng sống với sự chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình.
Nếu chúng sống với tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời. (Anon, “Children learn what they live”)
Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con : cả thảy 13 đứa ! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà : “Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể ?” Bà tươi cười bảo : “Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan : trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
CT : Anh chị em thân mến
Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, là vườn ươm hạt giống đức tin, là trường đào tạo tông đồ, là nơi rèn luyện nhân cách. Nhân ngày lễ kính Thánh Gia Thất, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện cho hết mọi gia đình.
1- Hội Thánh luôn xác nhận tầm quan trọng của gia đình, và tìm hết mọi cách để bảo vệ đời sống hôn nhân và gia đình, khỏi bị tội lỗi làm hoen ố. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình công giáo / luôn biết tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
2- Những biến động xã hội trên thế giới ngày nay / gây ra biết bao xáo trộn trong đời sống gia đình / làm lung lay tận gốc rễ nền tảng của xã hội và Giáo Hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả các gia đình vượt qua được những thử thách gian nan / để luôn sống trong hạnh phúc và an bình.
3- Giáo dục đầu tiên trong gia đình hết sức quan trọng / vì giúp hình thành nhân cách cũng như dời sống đạo nơi trẻ em / và cha mẹ là những thầy dạy không ai có thể thay thế được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bận cha mẹ / biết luôn quan tâm đến việc giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái / bằng lời nói cũng như bằng gương tốt.
4- Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết sống lời Thánh Phaolô dạy trong thư Côlôxê : “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái / vì đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng sống trọn vẹn lời Thánh Phaolô đã dạy.
CT : Lạy Chúa, Thánh Gia Nadarét quả là một gương mẫu tuyệt hảo cho tất cả các gia đình công giáo về đời sống tin cậy mến cũng như đời sống lao động cần cù. Xin cho chúng con biết luôn noi gương Thánh Gia, sống một cuộc đời đẹp lòng Chúa, và nên gương sáng cho những người chưa nhận biết Chúa. Chúng con cầu xin…
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
TỪ BÊLEM ĐẾN NAGIARÉT- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
* c.13 Ai Cập: Ai Cập là nơi lánh nạn xưa nay của những người do thái bị bắt bớ (x. 1V 11,40; 2V 25,26). Từ thế kỷ 6 trước công nguyên ở Ai Cập đã có một diaspora Do Thái đông đảo. Có lẽ Giuse đã đến tạm trú tại Aris. Như thế là an toàn bởi vì từ năm 31 trước công nguyên xứ Ai Cập nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của đế quốc Rôma. Từ Bêlem sang Ai Cập chỉ tốn chừng 5-6 ngày đi bộ.
* Vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi:
. Động từ “tìm giết” cũng là động từ được dùng trong Xh 2,15 khi nói về Môisen (Pharaon tìm giết Môisen).
. Động từ “chạy trốn” (anachôrein) cũng được dùng trong Xh 2,15 (Môisen chạy trốn).
. Chữ “Vì” có nhiều ý nghĩa: Đức Giêsu phải bỏ nơi này sang nơi khác chính vì người ta từ chối không tin Ngài. Mt hay dùng động từ anachôrein mỗi khi muốn nói ý tưởng Israel từ chối không tin Đức Giêsu (x. 4,12; 12,15; 14,13; 15,21).
* c.14 “Ngay giữa đêm khuya“: chi tiết này cho thấy sự vâng lời mau mắn của Giuse. Còn một chi tiết đầy ý nghĩa nữa là Thiên sứ không chỉ rõ là phải đi đến đâu và ở đấy cho tới ngày nào mà chỉ nói “cho tới ngày tôi lại báo tin”: dù mù mờ vậy nhưng Giuse cũng vẫn vưng lời mau mắn.
* c.15 “Ta đã gọi con Ta từ Ai cập về“: Mt trích dẫn Ôsê 11,1: “Từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta”. Ôsê viết câu này với ngụ ý nói về cuộc Xuất Hành. Mt trích dẫn lại với ngụ ý xem Đức Giêsu là Israel mới làm một một cuộc xuất hành mới.
* c.20 “Những người tìm giết Hài Nhi đã chết rồi“: Những người là số nhiều, không tương ứng với vua Hêrôđê tìm giết Hài Nhi (số ít). Ở đây Mt trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 Lời Giavê nói với Môisen “Hãy trở về Ai cập vì những kẻ tìm hại mạng ngươi đã chết rồi“. Sự không tương ứng này cho thấy Mt không muốn nói tới Hêrôđê mà muốn ám chỉ đến Môisen: xưa kia những người tìm giết Môisen là Pharaon và dân Ai cập còn nay những người tìm giết Đức Giêsu là Hêrôđê và dân Israel.
* c.22 Archélaus: ông này cai trị miền Giuđê từ năm 4 trước công nguyên đến năm 6 sau công nguyên. Ông này tuy không xảo quyệt bằng Hêrôđê Cả là cha ông, nhưng cũng tàn bạo không kém. Do đó Giuse không về Giuđê mà đi định cư ở vùng Galilê thuộc phạm vi của Hêrôđê Antipas.
* c.23 “Thiên hạ sẽ gọi Ngài là người Nazaret“: Tất cả các nhà chuyên môn đều xem chi tiết này Mt ghi lại nhằm cho thấy Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ. Nhưng lời ngôn sứ nào đây? Chữ Nazaret có gốc là nésèr nghĩa là “chồi non của một cây”. Cựu Ước có nhiều chỗ nói tới “chồi non” như Is 4,2 Gier 23,5 33,15 và nhất là Is 11,1 “Một chồi sẽ xuất từ gốc Ysai”.
Ý nghĩa thần học.
1) Những câu 2,13-23 gồm ba chuyện đều mang hình thức văn chương giống nhau: khởi sự là tường thuật rất ngắn gọn sự kiện đã xảy ra và kết thúc bằng một trích dẫn Cựu Ước. Điều này cho thấy chủ ý của Mt không phải là tường thuật cho bằng chứng minh rằng Đức Giêsu làm trọn lời tiên báo của các ngôn sứ. Qua ba câu chuyện này Mt cũng đưa ra luận đề chính sẽ được lặp lại nhiêu lần trong toàn tác phẩm, đó là: Kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện, không chỉ là bất chấp lòng dạ ác độc của loài người, mà còn bằng chính sự ác độc đó.
2) Với lối trích dẫn Cựu Ước khi thì minh nhiên khi thì mặc nhiên, Mt còn ngụ ý trình bày một cuôc xuất hành mới: cũng có một ông vua giết những hài nhi Do Thái, cũng có Môisen mới (Đức Giêsu) thoát khỏi tàn sát đó, và Môisen mới ấy cũng đã xuất hành khỏi xứ Ai Cập.
3) Câu chuyện thứ nhất (Trốn sang Ai cập 13,15): trọng điểm không phải là thuật lại cuôc chạy trốn mà là cuôc trở về từ Ai Cập. Điều này hiện rõ khi Mt trích Ôsê 11,1 “Từ Ai cập Ta gọi con Ta trở về“. Có như thế mới lộ rõ ý tưởng về cuộc Xuất Hành mới.
4) Câu chuyện thứ hai (Tàn sát hài nhi 16-18): trọng điểm là so sánh Hêrôđê với Pharaon ngày xưa đã giết trẻ em Do Thái. Nhưng có vài khó khăn về sử tính:
(a) Cần gì phải giết hết các hài nhi vì vua Hêrôđê thừa phương tiện để tìm ra đúng căn nhà mà các đạo sĩ đã đến thăm? Nhưng lịch sử cũng ghi nhận rằng Hêrôđê (Cả) hay có những cơn điên bất ngờ phi lý như vậy, nhất là vào những năm cuối đời của ông, mà câu chuyện này xảy ra đúng vào những năm ấy.
(b) Một sự kiện quan trọng như vậy mà sao các sử gia (chẳng hạn Flavius Joseph) không ghi lại? Thực ra sự kiện này cũng chẳng quan trọng gì, vì một đàng số trẻ em bị giết cũng không nhiều: theo ước tính của Busy dựa vào dân số của Bêlem thời đó thì số trẻ em từ 2 tuổi trở xuống của làng này chỉ vào khoảng 20, và đàng khác Hêrôđê trong những cơn điên cũng đã từng giết chóc như vậy nhiều lần. Sử gia chỉ ghi tính khí hung hãn bất thường của ông chứ không cần ghi lại hết những nạn nhân của ông.
– Chi tiết tiếng khóc Rachel là Mt trích dẫn Gier 31,15 trong bối cảnh vương quốc phía Bắc bị đế quốc Assyria tàn phá và dân bị bắt đi đày: Bà Rachel, mẹ của Giuse (hai chi tộc Ephraim và Manassê) và Benjamin khi ấy đang ở trong mồ (đã chết) mà cũng chỗi dậy để khóc thương cho cảnh khổ của con cái mình. Nhưng muốn hiểu hết ý của Mt thì phải đọc Gier cho tới các câu sau nữa (Gier 31,16-17): Giavê an ủi Rachel “Thôi im đi tiếng khóc và mắt hãy ráo lệ vì… chúng sẽ từ xứ quân thù trở về“, và tiếp đó nữa (Gier 31,31 tt) Giavê lại hứa sẽ ký với dân Ngài một giao ước mới. Như vậy ngụ ý của Mt qua câu trích dẫn này là Đức Giêsu từ Ai Cập về hoàn thành lời tiên tri này, Ngài sẽ thực hiện Giao Ước mới.
Câu chuyện thứ ba (Trở về Nazarét 19,23): trọng điểm là trình bày Đức Giêsu như một Môisen mới thực hiện một cuộc xuất hành mới. Vì nhắm ý tưởng so sánh này nên Mt mới trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 với thuật ngữ “những người tìm giết” ở số nhiều.
III. Kết luận
– Hãy nhìn lại bố cục chung của tác phẩm (trang 17): các chương 1-2 là phần tiền ngôn nhằm giới thiệu mầu nhiệm về nhân vật Giêsu.
– Phần tiền ngôn này gồm 4 tường thuật:
. Gia phả.
. Truyền tin cho Giuse.
. Chuyện các đạo sĩ.
. Từ Bêlem đến Nazarét (tường thuật chúng ta vừa phân tích trong bài này).
Qua bốn tường thuật Mt đã chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng mà các ngôn sứ tiên báo, Ngài châm rễ vào lịch sử Israel và đưa lịch sử ấy hoàn tất mặc dù gặp bao chống đối của dân mình, nhưng chính Thiên Chúa đã dùng những chống đối ấy để hoàn tất chương trình cứu rỗi của mình.
– Cách riêng tường thuật cuối (Từ Bêlem đến Nazaret) một lần nữa, làm lộ rõ so sánh Đức Giêsu với Môisen mới (các chi tiết về Xuất Hành) và Con Đavít (chi tiết thành Bêlem).
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ngày lễ Thánh Gia là ngày lễ của các gia đình. Để làm khuôn mẫu cho các gia đình, ta tưởng Giáo Hội sẽ đưa ra hình ảnh một gia đình đầm ấm, vợ chồng con cái sum họp quanh bàn ăn, quanh chiếc ti vi. Hoặc chí ít cũng là cảnh thánh Giuse làm thợ mộc với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bên cạnh là Đức Maria đang ngồi khâu vá hoặc nấu nướng. Nhưng không, Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh Gia chạy trốn bạo vương Hêrôđê giữa đêm hôm khuya khoắt.
Thánh Gia đã biết đến những hiểm nguy đe dọa hạnh phúc gia đình. Nhưng các Ngài đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài sách thánh đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh Gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là vâng nghe Lời Chúa. Thánh Giuse vâng lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dù lệnh truyền ban ra giữa đêm khuya, Ngài thức giấc thi hành tức khắc. Dù lệnh truyền rất khó khăn Ngài vẫn mau mắn vâng lời. Đức Maria và Chúa Giêsu cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa luôn luôn là mệnh lệnh tuyệt đối. Lời Chúa dạy luôn luôn là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là vốn quý nhất. Con cái là vốn quý nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những nguy cơ đe dọa, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vụ. Hình ảnh thánh Giuse đi bộ dắt lừa cho Chúa Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Đức Maria đã dõi theo con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51). Sự hiếu thảo của Chúa Giêsu được thấy trong tiệc cưới Cana. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã gửi gấm nhờ thánh Gioan, môn đệ yêu quý, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm. Số cặp vợ chồng ly dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn, nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất, hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi mẫu gương Thánh Gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là vốn quý nhất Chúa ban cho gia đình. Vốn này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng tiền bạc, phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự săn sóc, dạy dỗ uốn nắn ngay từ khi còn thơ, sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành. Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời. Vì thế, phải bảo vệ con cái khỏi các bạo vương Hêrôđê thời đại. Đó là sách báo phim ảnh xấu. Đó là bạn bè xấu. Đó là tệ nạn xì ke ma túy. Nếu cần phải đem con cái trốn chạy khỏi nanh vuốt của bạo vương, tìm nơi an toàn để cho con cái sinh sống, ăn học và giữ được đạo đức.
Đáp lại, con cái phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, người trẻ mới tiến xa và trở nên hữu ích cho xã hội.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công Giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành của các Ngài. Amen.
1) Đâu là những nguy cơ đang đe dọa hạnh phúc gia đình hiện nay?
2) Thế nào là một gia đình gương mẫu?
3) Gia đình bạn quyết tâm làm gì trong tuần này để noi gương Thánh Gia?
TỊ NẠN Ở AI CẬP- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai cập, một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh, đoàn quân Roma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân Do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tỵ nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các Ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tỵ nạn của Thánh Gia như thiên đường: những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các ngài ngủ mát, ăn điểm tâm ; nước chảy lênh láng để các ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc ! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ. p.268).
Ở trần gian, Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó, Chúa muốn các ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan, biết vui lòng hy sinh như các ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài nhi Giêsu, bảo vệ Hội thánh, bảo vệ đức tin, và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không khí hận thù, bất công, khỏi bạn bè gian ác trộm cắp, đồi trụy. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi Kitô hữu.
Biết bao hài nhi bị hủy hoại trong bào thai, khi ra chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm !
Cách bảo vệ Hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin mừng và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là hãy dắt con em của mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giuse.
Lạy Thánh Gia Thất, xin cho mọi gia đình chúng con biết chạy đến cùng các ngài trong mọi nơi mọi lúc, nhất là trong những lúc gian nan.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
SINH RA TRONG GIA ĐÌNH ĐỂ CỨU CÁC GIA ĐÌNH– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Thật đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống”, cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng”, nhất là được trường thọ: “Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. ” Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó”. Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”.
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: “Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi “. Và Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự ” (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: “Vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20). “Hãy tôn kính cha con và mẹ con” ; “Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết”( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: ” Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó” (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái”. Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành…
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: “Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện”.
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác gia đình nhân loại nói chung, và gia đình chúng ta nói riêng cho Thánh Gia Thất che chờ phù trì.
Lạy Ba Ngôi cực thánh ở trần gian là Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin cầu cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
MẦU NHIỆM THÁNH GIA- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều yếu tố làm lung lay mái ấm gia đình, vốn là nền tảng cho sự lớn lên của từng người, của Giáo Hội, trong đó có đời tu, và của cả xã hội. Khi chiêm ngắm Thánh Gia, chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho tất cả các gia đình, nhất là gia đình của những thân yêu, và cho cả các mái ấm nữa, vốn là “gia đình” của các trẻ em mồ côi, khuyết tật, thiếu thốn, thiệt thòi, cùng khổ… Và chúng ta cũng xin Chúa chúc lành cho gia đình và cộng đoàn của chúng ta, để chúng ta được liên kết và hiệp nhất với nhau bằng Lời Chúa, giống như Thánh Gia, qua đó làm chứng cho tình yêu thương xót và cứu độ của Chúa.
Thật là ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia, ngay sau khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Bởi vì hình ảnh Thánh Gia làm sáng tỏ một chiều kích đã có trong mầu Giáng Sinh, nhưng không được chú ý: đó là, dù Hài Nhi Giêsu là “Ngôi Lời từ trời xuống”, được hoài thai, được cưu mang và sinh ra lạ lùng như thế nào đi nữa, thì cũng phải được đón nhận vào trong một gia đình cụ thể, và qua một gia đình, một “gia thất” như cách nói của phụng vụ, một gia tộc, vào một dân tộc và vào gia đình nhân loại. Thánh Gia chính là con đường tất yếu để Ngôi Lời hội nhập vào một nền văn hóa cụ thể, để Ngôi Lời đến, ở lại và lớn lên trong Ngôi Nhà nhân loại của mình (x. Ga 1, 11). Ngày nay, Ngôi Lời đến với từng dân tộc bằng cùng một con đường là các gia đình, các mái ấm, các cộng đoàn.
Nói đến Thánh Gia, có lẽ chúng ta nghĩ đến những em bé sinh ra trong bất hạnh: sinh ra trong một gia đình đổ vỡ về tương quan; sinh ra thiếu cha, thiếu mẹ; sinh ra ngoài ý muốn hay vì bị cưỡng bức; những em bé được sinh ra trong lén lút và bị bỏ rơi… Mầu nhiệm Thánh Gia mà chúng ta mừng kính và chiêm ngắm muốn nhắn gởi cho loài người chúng ta một sứ điệp: các em bé sinh ra trong bất hạnh này cũng phải được đón nhận vào một “gia đình”. Các gia đình nhận con nuôi và các mái ấm thực hiện sứ mạng cao cả này; đối với các mái ấm, dù là Kitô giáo hay Phật giáo, hoặc thuộc bất cứ tôn giáo nào khác hay thậm chí phi tôn giáo, điều quan trọng là tình người, là bầu khí đón nhận và yêu thương. Vì ở đâu có tình thương ở đó có Thiên Chúa.
Nước Trời và Thánh Gia
Ngoài ra, xét cho cùng Thánh Gia là một “mái ấm” hơn là một gia đình thực sự! Vì tương quan của mọi người với nhau trong Thánh Gia không dựa trên huyết thống, nhưng dựa trên Lời Chúa: Đức Giê-su, với tư cách là Ngôi Lời, đã nhập thể theo ý định của Thiên Chúa Cha; Đức Maria đã thưa với sứ thần: “xin xẩy ra cho tôi, theo như lời sứ thần nói”; và với Thánh Giuse, ngài đã vượt qua tương quan máu mủ huyết thống để đón nhận Đức Maria và Hài Nhi Giêsu theo ý muốn của Thiên Chúa. Thế mà, tương quan thân thiết dựa trên việc vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, chính là tương quan của Nước Trời. Thánh Giuse đã không nghe đuợc câu nói này của Đức Giêsu “ Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em, là mẹ tôi “ (Mc 3, 35), nhưng ngài đã sống trọn vẹn điều này trước đó thật lâu.
Có thể nói, sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thánh Gia, chính là xây dựng tương quan Nước Trời bằng cách vượt qua tương quan huyết thống ngay trong gia đình ruột thịt của mình, và từ đó mở rộng ra bên ngoài. Và đặc biệt với ơn gọi sống đời dâng hiến, tuy chúng ta không lập gia đình, nhưng chúng ta thực sự sống sứ điệp rất căn bản của Thánh Gia: trở nên người thân của nhau, trở nên một mái ấm trên nền tảng lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Theo nghĩa này, thánh Giuse không chỉ là “Thánh Cả”, nhưng còn là “Tu Sĩ Cả” của đời tu trong Giáo Hội.
Thánh Giuse và Thánh Gia
Bài Tin Mừng của Lễ Thánh Gia năm nay (Phụng Vụ Năm A) mời gọi chúng ta chiêm ngắm thánh Giuse đã đảm nhận sứ mạng bảo bọc Thánh Gia như thế nào: Thánh Giuse đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập, và sau một thời gian ở Ai cập, thánh nhân đã đưa Thánh Gia về Đất Israen; trong thử thách lớn lao này và chắc chắn trong mọi thử thách khác của Thánh Gia, thánh Giuse đã không làm điều khác hơn là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết như thánh Giuse, gắn bó, yêu mến và ưng thuận trọn vẹn đối với Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng ta được mời gọi hiểu biến cố này ở tầm lịch sử cứu độ, vì có liên quan đến cách Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể đảm nhận lịch sử các dân tộc, và lịch sử của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, theo bản gia phả, Đức Giê-su thuộc về một dân tộc: “Đức Giê-su Ki-tô, con vua Đa-vít, con tổ phụ Abraham” (Mt 1, 1; đây là câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, nên có ý nghĩa thật sâu rộng) ; trong biến cố lánh sang Ai-Cập, Người “mang vào mình” lịch sử của dân tộc mà Người muốn thuộc về cách tự nguyện, và qua đó, Người mang vào mình lịch sử của mỗi người chúng ta.
Đặc biệt, lời Kinh Thánh “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” nhắc nhớ biến cố Xuất Hành. Trong đêm Vượt Qua, theo lệnh của Đức Chúa, người Do Thái sát tế chiên con. Sự vô tội của con chiên tượng trưng cho sự vô tội của các con trai đầu lòng Ai Cập: “Ngài sát hại các con đầu lòng Ai Cập” (Tv 136, 10). Con chiên chính là món nợ của Israel. Khi nào Israel trả được nợ cho Ai Cập, và hai dân tộc được giao hòa ? Đó là lúc Đức Giê-su mang lấy chỗ của Con Chiên, Ngài sẽ làm cho Ai Cập (nghĩa là dân ngoại) và Israel (nghĩa là dân được tuyển chọn) trở thành một dân tộc duy nhất và thánh thiện bằng chính máu của Ngài ; và giữa chúng ta, nếu có mắc nợ hay hận thù gì, Ngài cũng hòa giải và làm cho chúng ta nên một, bằng chính máu của Ngài, được hiện tại hóa mỗi ngày nơi Bí Tích Thánh Thể.
* * *
Thánh Giuse hoàn toàn vắng mặt trong thời gian Đức Giêsu công bố mầu nhiệm Nước Trời, và chắc chắn ngài cũng không có mặt thật trọn vẹn trong thời gian Đức Giêsu sống ẩn dật. Tuy nhiên, những gì xẩy ra cho Đức Giêsu từ lúc sinh ra cho đến khi từ Ai Cập trở về (Mt 2, 1 – 23) như đã báo trước cả cuộc đời của Đức Giê-su rồi.
+ Người được nhìn nhận bởi các đạo sĩ đến từ phương xa, nhưng cũng có biết bao nguy hiểm rình rập gây ra bởi vua Hêrôđê, các thượng tế, các luật sĩ (Mt 2, 1-12). Như thế, những gì sẽ xẩy ra cho Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được báo trước ở đây.
+ Lánh sang Ai Cập, nhưng những trẻ vô tội phải đổ máu (2, 16-18). Sau này chính Đấng Vô Tội sẽ đổ máu trên Thập Giá.
+ Trở về “Đất Hứa” bình an để làm nên “Tổ Ấm Thánh Gia” (2, 19-23). Chúng ta có thể nhận ra nơi biến cố trở về này hình ảnh của ơn Phục Sinh và Đại Gia Đình Nước Trời.
Thánh Giuse đã có mặt suốt cuộc hành trình này, hành trình họa lại lịch sử cứu độ và loan báo cuộc đời Đức Giêsu; ngài không chỉ có mặt thôi, nhưng còn gánh vác bằng cách liên tục vâng theo sự dẫn dắt của chính Thiên Chúa.
Đức Maria đã có mặt dưới chân Thập Giá, còn thánh Giuse có mặt trong biến cố loan báo Thập Giá, và cũng là biến cố làm tái hiện lại biến cố Ai Cập xưa của dân Thiên Chúa. Dưới chân Thập Giá, Đức Maria thinh lặng và đứng vững ; và trong suốt cuộc hành trình giữa Israel và Ai-Cập, thánh Giuse cũng “thinh lặng và đứng vững”.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
THÁNH GIA, NGUYÊN MẪU CHO GIA ĐÌNH KITÔ HỮU- Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
Thánh Gia nền tảng đời sống gia đình
Từ Tân Phúc Âm hóa đời sống gia đình đến Tân Phúc Âm hoá đời sống giáo xứ và đời sống xã hội là định hướng mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam. Tại Á Châu có một truyền thống lâu đời về sự trân trọng đặc biệt đối với gia đình. Gia đình được coi là kho chứa di sản của nhân loại, và tương lai của nhân loại được định đoạt bởi gia đình. Cách riêng đối với Việt Nam, từ ngàn xưa, hạnh phúc gia đình là một khát vọng, là sự phấn đấu của mọi thế hệ. Lễ Thánh Gia Thất hôm nay mời gọi chúng ta trở về với định hướng nền tảng của Tân Phúc Âm hoá đời sống gia đình theo gương mẫu Thánh gia: Đức Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Câu chuyện sau đây là hình mẫu của một gia đình Kitô hữu hạnh phúc.
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong xứ như sau:
“Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước róc rách chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó. Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây dựng một căn phòng ngay bên mạch nước, kế đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
“Mạch nước ngay trong nhà mình”, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi, suốt quảng đường về nhà xứ, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết Hạnh Phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó: Bí quyết hạnh phúc đó chính là mạch suối trong lành tươi mát ngay trong nhà của họ, mạch suối tình yêu tràn đầy thánh ân, mạch suối không bao giờ vơi cạn của Thiên Chúa, luôn tưới gội trên mái ấm của họ.
Hình ảnh gia đình hạnh phúc trên đây gợi cho chúng ta hình ảnh Thánh gia tại Nazareth, một gia đình thánh thiện và hạnh phúc, đã trở thành mẫu gương sống động cho mọi gia đình nhân loại, cho mọi nền văn hoá như Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã khẳng định: “Gia đình Thánh Gia thật sự là “nguyên mẫu” cho tất cả gia đình Kitô hữu được hiệp nhất trong Bí tích Hôn Nhân”. Chính vì thế mà gia đình Thánh gia được mọi gia đình Kitô hữu chiêm ngưỡng, cầu nguyện, dõi bước để tạo hạnh phúc trong gia đình. Từ đó, người ta thường chọn kết hợp hôn nhân vào dịp lễ Thánh gia tạo nên “mùa cưới” hằng năm.
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay hướng dẫn các gia đình Kitô hữu sống hạnh phúc
Các bài đọc lễ Thánh Gia đều hướng về một chủ đề chung là mô tả hoàn cảnh sống của một gia đình có Chúa hiện diện và liên kết mọi thành phần lại với nhau.
Trước hết bài đọc 1 trích sách Huấn Ca (Hc 3,3) nhắc lại bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, vì Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, và củng cố quyền lợi của người mẹ trên người con. Vai trò trách nhiệm cha mẹ trên con cái là do ý muốn và dựa trên ý muốn của Thiên Chúa.
Bài đọc II trích từ Colôsê (Cl 3,12-21) ghi lại các lời khuyên của thánh Phaolô cho các thành phần trong gia đình: “Hãy nhủ bảo nhau, trong tâm tình từ bi, khiêm cung, nhẫn nại. hãy tha thứ cho nhau, hãy cảm tạ Thiên Chúa. Lời khuyên ở đây là ‘Hãy sửa chữa nhau trong yêu thương và tôn trọng nhau’ thay vì oán trách nhau trong ghen ghét và khinh khi”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chỉ một đoạn ngắn mà chúng ta đã thấy sứ thần Chúa “hối thúc” Giuse trỗi dậy đến 3 lần. Bước khởi đầu của Thánh Gia Thất luôn luôn là một cuộc lên đường, là đe doạ, là bất an. Những phong ba sóng gió, những bấp bênh, chao đảo đổ xuống gia đình Thánh Gia.
Phải nói rằng thánh gia là một gia đình gương mẫu và thánh thiện nhưng cũng không được miễn chuẩn cho khỏi đau khổ và thử thách. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cho dù Thánh Gia có gặp bao cảnh ngặt nghèo quẫn bách thì mái ấm Nazareth vẫn đong đầy hạnh phúc.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì thánh gia luôn có Chúa hiện diện, mà nơi đâu có Chúa thì nơi ấy có hạnh phúc.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì các thành viên trong gia đình Thánh Gia luôn lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Người.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì trong mọi nghịch cảnh, Thánh Gia luôn tin tưởng và phó thác cho chương trình của Thiên Chúa.
– Bí quyết của hạnh phúc ấy chính là vì các ngài luôn biết lắng nghe và đối thoại, cảm thông và chia sẻ, nhất là các ngài luôn hít thở không khí trong lành của vui tươi, hoà nhã và yêu thương.
III. Giáo Hội quan tâm đến gia đình và mời gọi các gia đình quan tâm đến việc Phúc Âm hóa
Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, gia đình đang bị đe dọa từ nhiều phía: Những trào lưu xã hội đề cao sự tuyệt đối cá nhân đe dọa hạnh phúc gia đình; Những khó khăn xuất phát từ nội tại khác biệt của mỗi thành viên làm cho gia đình thiếu hiệp nhất. Chính vì thế trong những năm gần đây, Giáo huấn của Giáo hội quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Tháng 10 năm 2014, một Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường về gia đình được triệu tập là một bằng chứng Giáo hội quan tâm đến gia đình trong bối cảnh Tân Phúc âm hóa.
Gia đình một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay vì được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Gia đình hạnh phúc không thể tự dưng mà đến. Tình yêu hoà điệu, tương kính lẫn nhau vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc. Thánh Gia Thất quả là một cộng đoàn yêu thương nhau. Do đó, gia đình Kitô hữu phải coi đó như là nền tảng xây dựng gia đình hạnh phúc. Gia đình phải là cộng đoàn hợp nhất thủy chung xuất phát từ Thiên Chúa tình yêu. Mối tương quan vợ chồng, con cái, cũng như anh chị em với nhau phải là dấu chỉ sống động của Tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, gia đình Công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.” (Cl 3,12-13).
Ngoài ra noi gương Đức Mẹ và Thánh Giuse nơi gia đình Kitô hữu, người con phải được học tập, được trao tặng và đón nhận tình yêu, như Chúa Giêsu đã sống 30 năm ở gia đình Nazareth, hấp thụ nền giáo dục đạo hạnh của cha mẹ Giuse-Maria như Tin Mừng Luca cho biết “người theo cha mẹ về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh đầy khôn ngoan và ân sủng trước Thiên Chúa và người ta.” (Lc 2,51-52). Do đó, mọi người trong gia đình từ ông bà cha mẹ hãy góp phần để những người con được lớn lên trong ơn nghĩa, tình yêu như ĐGH Biển Đức XVI đã gợi ý cho mỗi gia đình trở nên gia đình Thánh Gia: “Ước mong con cái của chúng ta được cảm nghiệm cuộc sống hoà thuận và yêu thương giữa cha mẹ hơn là cảm nghiệm cuộc sống bất đồng và chia rẽ, vì tình yêu giữa cha và mẹ là nguồn gốc lớn lao cho cuộc sống an toàn của con cái và cũng dạy con cái về cái đẹp của tình yêu chung thủy và bền vững”.
Những lời khuyên này của Thánh Phaolô và của ĐGH Biển Đức XVI, có thể được xem là hiến chương xây dựng hạnh phúc gia đình, là những nguyên liệu người Kitô hữu có thể sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của gia đình mình.
Nhân dịp lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin sự chở che của Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc và của Thánh Giuse luôn đồng hành với tất cả anh chị em và trợ giúp anh chị em hiệp nhất trong tình yêu và phục vụ lẫn nhau để anh chị em chu toàn được ơn gọi và sứ mạng của mình trong khung cảnh gia đình như gia đình Thánh Gia xưa. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
BÍ QUYẾT KIẾN TẠO HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH- Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh
Vì là một thụ tạo mang tính xã hội nên con người phải sống trong rất nhiều mối tương quan: tương quan thầy trò, bạn bè, đối tác làm ăn, chủ thợ và gia đình…. Trong những tương quan ấy, tương quan gia đình là quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta. Có thể nói rằng một người thành công hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau phụ thuộc chủ yếu vào gia đình. Nếu một người được sống trong gia đình hạnh phúc, thì người ấy sẽ hạnh phúc và ngược lại; nếu các công việc và những mối liên hệ khác gặp trục trặc thì họ vẫn có thể dễ dàng tìm ra cách thức tốt nhất để hóa giải. Tương quan gia đình vô cùng quan trọng, nhưng làm sao để chúng được hài hòa? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho ta những câu trả lời rất tuyệt vời về việc xây dựng một gia đình thánh thiện và hạnh phúc.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình biết đặt ý Thiên Chúa lên trên mọi sự. Sau khi các nhà chiêm tinh ra về, được sứ thần báo mộng phải đem Chúa Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập vì vua Hêrôđê tìm giết con trẻ, thánh Giuse đã không nghi ngờ, không chất vấn, không phàn nàn, không ngại vất vả, vội vã đem con trốn sang Ai cập. Sau khi vua Hêrôđê băng hà, tính mạng của con trẻ không còn bị đe dọa, được sứ thần báo mộng đưa con trở về Israel, Giuse một lần nữa không chất vấn, không nghi ngờ, vui vẻ nhanh chóng đưa con lên đường trở về.
Mẹ Maria suốt một đời cũng tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Trước khi làm mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã tìm kiếm và thực thi ý Chúa qua việc dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời cho Thiên Chúa. Vào ngày truyền tin, Mẹ đã cất tiếng xin vâng và cả đời sống cho lời xin vâng ấy cho dù cuộc đời của Mẹ trải qua rất nhiều thử thách tăm tối.
Chúa Giêsu còn hơn cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Ngài tìm kiếm và vâng theo thánh ý Chúa Cha trong mọi sự. Vì thánh ý Chúa Cha nên Ngài nhập thể làm người, rao giảng Tin Mừng và chịu chết trên thập giá. Chẳng ai trong chúng ta có thể quên lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trong vườn cây Dầu “Lạy Cha xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con một xin vâng theo ý Cha”.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình mà trong đó các thành phần biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau và nhất là biết đối thoại với nhau để tìm ra giải pháp tốt nhất cho mọi vấn đề của gia đình. Thánh Giuse đã quyết định theo ý Chúa đem Hài Nhi trốn sang Ai cập và đem trở về, còn Mẹ Maria không chống lại, không vặn hỏi, không nghi ngờ và mau mắn lên đường. Mẹ Maria không nghi ngờ, không thắc mắc, nhưng mau mắn lên đường vì Mẹ tôn trọng quyết định của Giuse, tin Giuse và tin vào đường lối của Thiên Chúa. Thánh Luca cho ta biết Chúa Giêsu luôn vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria “trẻ Giêsu ra khỏi đền thờ, trở về nhà với ông bà và hằng vâng phục hai ông bà”.
– Một gia đình thánh thiện và hạnh phúc là một gia đình mà trong đó mỗi người vì hạnh phúc của nhau mà sống và hành động. Giuse không quyết định làm gì mà không vì hạnh phúc của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đang đêm phải vội vã đem con và Maria lên đường không vì mình nhưng vì sự an toàn cho con trẻ và hạnh phúc của Mẹ Maria. Làm sao một người chồng hết lòng yêu vợ, một người cha rất mực thương con lại chấp nhận để con bị giết hại và cảnh nước mắt của vợ không ngừng tuôn chảy? Điều này đã được sách Hc nhắc nhở rất rõ ràng: Người cha được vẻ vang trong con cái, người mẹ gia tăng uy quyền nơi các con, con cái thờ cha kính mẹ thì bù đắp được những lỗi lầm, tích trữ được kho báu, cầu nguyện được Thiên Chúa lắng nghe, được trường thọ, được bình an… Hiểu được điều đó, thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tính hữu Côlôxê “Vợ hãy phục tùng chồng, chồng hãy yêu thương vợ, con cái hãy vâng lời cha mẹ, và cha mẹ hãy đừng làm cho con cái trở nên nhát đảm sợ sệt, bực tức và ngã lòng” (x. Cl 3,18-21).
– Một gia đình thánh và hạnh phúc là một gia đình biết đặt mọi hành động của mình trên chuẩn mực yêu thương. Chồng hãy vì thương vợ mà sống và làm việc, vợ hãy vì tình yêu chồng mà không quản ngại nắng mưa hôm sớm, con cái hãy vì niềm vui của cha mẹ mà chăm ngoan. Thánh Phaolo đã thật chí lý khi khuyên dạy các tín hữu hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ cho nhau, và trên hết là có lòng bác ái vì đức bác ái chính là mối dây liên kết tuyệt hảo. Dây đức ái liên kết mọi thành phần trong gia đình lại với nhau, liên kết mọi khác biệt giữa người này với người kia. Nhờ mối dây liên kết này mà mọi thành phần trong gia đình thật sự tìm được niềm vui, bình an và hạnh phúc vì “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em được kêu gọi đến hưởng bình an đó.”
Mọi gia đình kitô hữu đều mong ước hạnh phúc đời này và đời sau. Thánh gia đã trở thành mẫu mực cho mọi gia đình hạnh phúc bằng cách đặt thánh ý Chúa lên trên mọi sự, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau và tìm ra giải pháp tốt nhất cho các vấn đề của gia đình, vì hạnh phúc của nhau mà sống và hành động, nhất là biết đặt mọi hành động của mình trên chuẩn mực yêu thương. Chúng ta thử nhìn lại đời sống của mình và thử hỏi “gia đình tôi có làm như thế để đạt được hạnh phúc thật sự ở đời này và đời sau chưa?” .
Nguyện xin Chúa cho các gia đình kitô hữu nói riêng và mọi gia đình trên thế giới nói chung tìm được nơi Thánh gia chuẩn mẫu tuyệt vời cho gia đình của mình. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT- NĂM A
THÁNH GIUSE, NGƯỜI SỐNG THEO LỜI CHÚA– Lm. GB. Vũ Quốc Đạt
Đọc trong các sách Tin Mừng, chúng ta không thấy thánh Giuse nói một lời nào, chỉ thấy ghi lại những việc làm của thánh Giuse, như đón Đức Maria về nhà làm bạn mình (Mt 1,24), đưa Đức Maria về Bêlem đăng ký hộ khẩu và biến cố Giáng Sinh (Lc 2,1-20), đưa Thánh Gia trốn sang Ai Cập, rồi trở về định cư tại Nazareth (Mt 1,13-15.19-23), cùng với Đức Maria Con lên Đền thờ để tiến dâng cho Chúa và cuộc hành hương lên Giêrusalem khi Đức Giêsu được 12 tuổi (Lc 2,21-52). Qua tất cả những việc làm này cho chúng ta thấy có một điểm chung, đó là Thánh Giuse đều làm theo lời của Thiên Chúa truyền dạy.
Bài đọc 1 cho chúng ta thấy một đặc điểm của vua Đavít, mặc dù là một vị vua, nhưng vẫn luôn cố gắng sống theo Lời Chúa dạy. Lúc đó, sau khi đã bình ổn được đất nước, chấm dứt thù trong giặc ngoài, và đã xây dựng cho mình một dinh thự nguy nga, vua Đavít có ý muốn xây một Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã bàn bạc việc này với ngôn sứ Nathan. Nhưng thánh ý Thiên Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã cho nhà vua biết rằng: không phải vua xây nhà cho Chúa, nhưng chính Chúa sẽ xây nhà cho vua, nghĩa là làm cho ngôi báu, cho triều đại của nhà vua được vững bền như lời Chúa phán: “Ta sẽ là Cha của ngươi, và ngươi sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7,14a.16).
Lời hứa này trước mắt là nói đến vua Salomon, con của Đavít, một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan. Chính vua Salomon đã xây đền thờ Giêrusalem và xây dựng một triều đại huy hoàng. Nhưng theo truyền thống từ xa xưa, dân Chúa vẫn coi đây là lời hứa tiên báo về triều đại của Đấng Messia. Như thế, nhờ luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, vua Đavít đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế.
Lời hứa đó, hôm nay đã trở nên hiện thực với lời sứ thần của Thiên Chúa báo mộng cho thánh Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình,… bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu” (Mt 1,20-21). Với việc giao cho thánh Giuse (một người thuộc dòng dõi vua Đavít) đặt tên cho Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình với vua Đavít.
Tin Mừng thuật tiếp: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Thánh Giuse đã làm như lời thiên thần truyền mà không một lời thắc mắc hỏi han. Điều này cho thấy thánh Giuse có một đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Thánh nhân đã dám làm những điều mà theo suy nghĩ tự nhiên con người không thể làm được, đó là nhận lãnh sứ mạng làm cha của Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của mình. Đây không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là một đức tin của người tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều mà con người không thể. Và chỉ có đức tin đó mới có thể làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói về tổ phụ Abraham trong bài đọc 2: “Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: ‘Dòng dõi ngươi sẽ như thế’. Vì vậy, ông được kể như sự công chính’” (Rm 4,18.22).
Trong suốt cuộc sống của mình, thánh Giuse đã tin tưởng, lắng nghe và thực hành tất cả những điều Thiên Chúa dạy. Vì thế, thánh nhân được gọi là “Người Công Chính” và được giao một nhiệm vụ quan trọng là trở thành thầy dạy đầu tiên và là “người gìn giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ” (lời nguyện Nhập lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria). Chính nhờ đức tin mà thánh Giuse có thể sống phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa, sẵn sàng làm mọi điều Chúa dạy. Phải chăng, đây là điều làm cho thánh nhân trở nên cao trọng.
Nhờ lời bầu cử của thánh cả Giuse, xin cho từng người trong các gia đình chúng ta luôn biết “lắng nghe và thực hành Lời Chúa” trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Nhất là khi gặp những điều trái ý cực lòng, chúng ta không vội vàng nóng nảy, nhưng bình tĩnh tìm hiểu và giải quyết những khó khăn theo thánh ý Chúa. Nhờ đó, các gia đình của chúng ta sẽ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Amen.