CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI (*)– Lm. Đan Vinh. 7
NHÂN CHỨNG PHÚC ÂM- ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 27
CHÚA SAI TÔI ĐI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 31
TRUYỀN GIÁO LÀ LÊN ĐƯỜNG- Lm. GB. Trần Văn Hào. 35
TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 41
CHỨNG NHÂN TRONG SỰ HIỆP NHẤT– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 46
TRUYỀN GIÁO BẰNG CHỨNG TÁ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long. 50
ĐÃ LÀ KITÔ HỮU PHẢI TRUYỀN GIÁO– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 55
HÃY ĐI VÀ LÀM CHO MUÔN DÂN TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ– Lm. Giuse Đinh Tất Quý 60
THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ- Lm. Fx. Đỗ Công Minh 66
NIỀM VUI TIN MỪNG ĐÁNH THỨC THẾ GIỚI- Lm. PM. Cao Huy Hoàng 69
ANH EM HÃY RA ĐI– Lm Giuse Nguyễn. 77
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
Trích sách Tiên Tri Isaia.
1 Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. 2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. 3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. 4 Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. 5 Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. 6 Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Ðức Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-5
Ðáp: Âm thanh họ truyền khắp địa cầu.
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. – Ðáp.
2) Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó. – Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Tm 2,1-8
Trích Thư Thánh Phaolô Tông Ðồ Gửi Tín Hữu Timôthê.
Vậy tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật.
Vậy tôi muốn nam nhân cầu nguyện mọi nơi thì giăng lên những bàn tay lành thánh, không nóng giận, không cãi cọ.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài đọc sau đây:
Bài Ðọc II: Act 1, 3-8
Trích sách Công Vụ Tông Ðồ.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Ðồ, Ðức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19-20
Alleluia, alleluia! – Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16,15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.
Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. 16 Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.
Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:
Phúc Âm: Mt 28, 16-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ðó là lời Chúa.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI (*)– Lm. Đan Vinh
*I. HỌC LỜI CHÚA
*1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20
(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. c 18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
*2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:
Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
*3. CHÚ THÍCH:
– C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).
– C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).
*4. HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?
ĐÁP:
Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:
*1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?
*2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.
– HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?
ĐÁP:
Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.
– HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau ?
ĐÁP:
– Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:
Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).
Hai là chữa lành các bệnh tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)…
Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…
Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).
– Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ phép rửa tội như sau : “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).
*II. SỐNG LỜI CHÚA
*1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
*2. CÂU CHUYỆN:
*1) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỌI NGƯỜI:
Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải sống trong các túp lều ổ chuột… Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi.
Một hôm, khi đi thăm một ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà. Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá !”. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.
Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.
Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su bằng việc nói về Chúa Giêsu, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêxa chính là một nhà truyền giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.
*2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI
EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:
Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.
*3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM ĐỐC HÀN QUỐC:
Có một người Hàn quốc đã sang Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tai thủ đô Hà nội. Doanh nghiệp của ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo : Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo được cho người nào chưa ?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công giáo rồi đó”.
*3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN
*1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:
Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều như sau:
– Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18): Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).
– Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19): Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).
– Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Ngày nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.
*2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE , VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:
Nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:
-Bước một: “Hãy đứng lên và ra đi”:
Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-lip-phê: “Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8,26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.
– Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng:
Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8,27-40).
Ngày nay Hội Thánh cũng cần phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.
Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.
*3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG
– Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.
– Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần được tiếp nối không ngừng.
– Thánh Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người cụ thể ngay ở bên mình.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-sa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng Phục Sinh.
*4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? :
– Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là Tình Yêu” cho tha nhân.
– Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ : Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và sống lại.
– Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20,21-22): Sứ mệnh truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi hơi ban Thần Khí cho các ông và phán : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần trên đầu mỗi vị (x. Cv 2,1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau một bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2,41).
– Hãy kết nghĩa với lương dân:
Năm 1983, khi thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc cần kết nghĩa với một gia đình lương, và mỗi tín hữu Hàn quốc cần có ý hướng truyền giáo cho một anh chị em ngoài Công giáo.
Sự kết nghĩa thiêng liêng thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho anh em lương dân, năng đến thăm giúp đỡ để gây thiện cảm với họ và tìm dịp thuận tiện giới thiệu Chúa cho họ. Chính công việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi !
Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như sau : “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
*4. THẢO LUẬN:
*1) Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ sống đức tin vào Chúa ?
*2) Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không ? (x. Lc 23,40-43).
*5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHÂN CHỨNG PHÚC ÂM- ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại:”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.
Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.
“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.
Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
CHÚA SAI TÔI ĐI- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
TRUYỀN GIÁO LÀ LÊN ĐƯỜNG- Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian 02 năm tại Mongolia, khi được nhiều bạn gửi mail khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay, sau thánh lễ và chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, không phải cho các bạn đâu, mà là cho chính tôi đấy.
Tôi nhớ là năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có định hướng nào rõ rệt cho tương lai phục vụ của mình. Bề trên Trung Ương đã rộng phép cho tôi có một năm bồi dưỡng bất kỳ ở đâu…; và tôi đã quyết định xin có một năm để trau dồi tu đức và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ). Chính trong thời gian này mà tôi đi tới quyết định xin bề trên cho đi truyền giáo Mongolia, nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em Don Bosco Việt Nam. Ngay trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học chuyên đề về truyền giáo tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma. Ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ nông cạn và bé nhỏ tôi có được đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với từ ‘truyền giáo’ vì thấy nó dễ gây hiểu lầm quá. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘proselytism’ thì rõ ràng ta đã hiểu sai ý Đức Ki-tô rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị phế bỏ kể từ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II. ‘Truyền giáo’ phải được hiểu là ‘rao giảng Tin Mừng’, là loan báo tin vui cứu độ, là loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã được Đức Ki-tô Giêsu thực hiện trên thập giá. Quan niệm cho rằng ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm to lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). ‘Loan báo Tin Mừng’ không làm gì hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót nhờ sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giêsu, và rồi mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất dội đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết… rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại… rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’… để rồi chỉ những người có đạo nắm giữ cặn kẽ các qui định này mới được vào thiên đường. Thiết tưởng khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này. “Anh em hãy đi khắp từ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có ý nghĩa phép rửa sẽ ban ơn cứu độ. Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri sống chung chạ sau năm đời chồng. Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo và được rỗi linh hồn… Tôi đã không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Trường hợp cụ thể của tôi là phân tích cho những sinh viên Mongolia hiểu ra rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ là như thế.
Từ cái kinh nghiệm truyền giáo còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác xa nền ‘luân lý Ki-tô giáo’, vẫn không hề tách họ khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã chủ động thực hiện nhờ Đức Ki-tô Giêsu. Công việc của nhà truyền giáo như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…; đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Cứu Chúa… đón nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cao cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều tối quan trọng là… một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong rao giảng.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút chút vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Amen.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
CHỨNG NHÂN TRONG SỰ HIỆP NHẤT– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
TRUYỀN GIÁO BẰNG CHỨNG TÁ- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
– Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
– Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,…
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
– Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
ĐÃ LÀ KITÔ HỮU PHẢI TRUYỀN GIÁO– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tháng 10, tháng truyền giáo
Hàng năm, cứ mỗi khi tháng 10 về, Giáo hội lại cùng với con cái mình sốt sáng lẫn chuỗi Mân Côi và khám phá lại vẻ đẹp của lời Kinh này để cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, nên Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp cho mọi thành phần dân Chúa, khuyến khích họ bước theo Chúa Giêsu “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), và “lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá” (Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 10) để lên đường truyền giáo.
Nhưng truyền giáo để làm gì?
Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.
Ai phải truyền giáo?
Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
*2. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
*3. Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Người không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Người còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô” (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay với chủ đề: “Việc Truyền Giáo ở tâm điểm của Đức Tin Kitô giáo”. Trong lời mở đầu, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2017). Ngài gợi lên một số vấn nạn cốt yếu để chúng ta suy nghĩ và hành động như: “Nền tảng việc truyền giáo của chúng ta là gì? Tâm điểm việc truyền giáo của chúng ta là gì? Chúng ta phải có cách tiếp cận cơ bản nào để thi hành công việc truyền giáo?” Ngài trích lời của thánh Iréné: “Vinh quang của Thiên Chúa là chính con người sống” (Irênê, Adversus Haereses IV, 20, 7). Chúa Giêsu đến để cho con người không những được sống mà còn sống dồi dào. Vì thế, “việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu… Truyền giáo là trình bày cho con người thời nay biết Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa chúng ta, những ai đón nhận Người thì với đức tin và đức mến có thể trải nghiệm sức mạnh biến đổi của Thần Khí Người” (số 3). Ngài viết tiếp: “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (số 5) ; Ngài nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa “đừng bao giờ quên rằng, là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(Bênêđictô XVI, Deus Caritas Est, 1). Ngài thêm: “Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời” (số 7), và Đức Giáo hoàng nhấn mạnh đến người trẻ, ngài viết: “Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ” (số 8) . Cuối cùng ngài khuyên: “Chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ”.
Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giêsu vang dội trong thời đại chúng ta. Amen.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
HÃY ĐI VÀ LÀM CHO MUÔN DÂN TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay, ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Hội Thánh muốn chúng ta suy nghĩ về việc đem Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu đến cho anh em lương dân, để cho họ cũng được trở nên môn đệ của Chúa.
Theo Công đồng Vaticanô II thì chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa nếu không thao thức làm cho anh chị em lương dân trở thành môn đệ của Người. Vậy, chúng ta hãy nhìn lại lịch sử xem việc truyền giáo đã được thực hiện như thế nào để rồi qua đó chúng ta sẽ thấy được bổn phận chúng ta phải làm gì.
*1. Trước hết là thời các Tông đồ.
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã cất bước lên đường đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi như lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi” (Mt 28,20). Sách Tông Đồ Công Vụ đã cho chúng ta thấy các tông đồ ngay lập tức đã lên đường đi rao giảng về Đức Giêsu trong các hội đường. (Cv 9,20)
Lý do các tông đồ nêu ra là: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết.” (Cv 10,42)
Trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phaolô nói: “Quả vậy, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng.” (1Cr 1,17)
Vì ý thức việc rao giảng Tin Mừng quan trọng như vậy nên các tông đồ đã hăng hái đi rao giảng khắp mọi nơi.
Đầu tiên là cho những người Do thái: “Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Các ngài mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa.” (Cv 9,28)
Sau đó các ngài đã đi khắp nơi.Phêrô Phaolô đã sang đến tận Roma.Tục truyền Toma đã sang tới tận Ấn Độ.
Ông Philípphê xuống một thành miền Samaria và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. (Cv 8,5) Các ngài Rao giảng lời Chúa tại Pergê, rồi xuống Áttalia. (Cv 14,25) Các ông đi qua miền Phyghia và Galát, rao giảng lời Chúa ở Asia. (Cv 16,6)
Các ngài rao giảng rất mạnh dạn. (Cv 28,31) và sẵn sàng chịu mọi khổ nhục vì Chúa Kitô.
*2. Sau thời các tông đồ, Giáo Hội còn được chứng kiến thêm nhiều sứ giả khác tiếp tục công việc của các Ngài nhất là vào thời Trung Cổ. Từng đoàn, từng đoàn các nhà truyền giáo đã đi về phía Châu Mỹ. Một số đi về phía trời Đông. Một trong số những người này chúng ta phải đặc biệt nói đến một nhân vật mà Hội Thánh đã đặt làm bổn mạng các xứ Truyền Giáo. Người đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê.
Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Inđônêsia
Rồi trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Chúng ta cũng không thể không nói tới những nhà truyền giáo đã đi về hướngChâu Phi. Một nhân vật mà chúng ta không thể quên đó là Bác sĩ Albert Schweitzer.
“Tôi đã bỏ địa vị Giáo sư tại Đại Học Strasbourg, bỏ công việc tìm tòi khảo cứu khoa học của tôi, bỏ thú tiêu khiển ưa thích nhất của tôi là chơi đàn phong cầm để ra đi hành nghề bác sĩ tại các vùng nhiệt đới Châu Phi.”
Vào năm 1952, nhà truyền giáo và là bác sĩ Albert Schweitzer đã nhận được giải thưởng Nobel về hòa bình.
Phải nói rằng những cuộc truyền giáo đã đem lại những kết quả hết sức tốt đẹp.
*3. Sau đó Giáo Hội được bổ sung bằng một hình thức truyền giáo khác âm thầm hơn, lặng lẽ hơn nhưng cũng hiệu quả không kém: Đó là truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh. Đại diện cho hình thức truyền giáo này là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Dù chỉ là một nữ tu dòng kín, chị đã khát khao trở thành một vị truyền giáo đi tới hang cùng ngõ hẻm của trái đất bao la này! Nguyện ước này đã được bề trên chấp thuận với chương trình gửi chị qua dòng kín Sàigòn, Việt Nam nhưng ý Chúa nhiệm mầu! Chị đã ngã bệnh lao phổi trầm trọng…. và giã từ cuộc sống này lúc vừa tròn 24 xuân xanh.
Trước giờ chết, chị đã nói như tạm biệt cộng đoàn: “Tôi không chết, tôi bước vào cõi sống”. Và như một vị tiên tri, chị nói với mẹ Bề Trên; “A! Con biết lắm, rồi cả thế giới sẽ yêu thương con”. Liền sau cuộc mai táng tại nghĩa trang của thị trấn, có một trận mưa hoa hồng ngay trên mộ của nữ tu trẻ tuổi này, vì chị đã hứa: “Tôi về trời, là để làm điều tốt cho thế gian”.
Tại Paris, nhân ngày Đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 12 năm 1997, ngày bế mạc, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã loan báo: Giáo Hội sẽ tôn phong thánh Têrêsa lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày Chúa nhật Truyền giáo 19.10.1997.
Như vậy qua việc đặt Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm bổn mạng và phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh Giáo Hội đã công khai thừa nhận việc hy sinh và đời sống cầu nguyện cũng có một giá trị truyền giáo không kèm gì việc ra đi truyền giáo như các tông đồ thuở xưa.
*4. Việc truyền giáo hôm nay.
Ngày nay việc truyền giáo còn được làm phong phú hơn bằng một phương pháp mới: Truyền Giáo bằng chứng tá của cuộc sống.
Khi các nhà truyền giáo Công giáo hỏi ý kiến ông Gandhi về việc họ phải làm gì để các người theo đạo Hinđu chấp nhận bài giảng trên núi của Đức Giêsu, ông Gandhi trả lời: “Các ông hãy nghĩ về bí quyết của những bông hoa hồng. Mọi người đều yêu thích chúng, vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa ra mùi thơm thoang thoảng như diệu kỳ của nó. Vậy các ông hãy ‘tỏa hương thơm!’.”
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã thật chí lý khi nói rằng: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì chính vì những vị thầy này là chứng nhân”
Nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn này từ chối, anh ta nói:
– Thưa Ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời:
– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
– Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.
Người đại diện nổi bật nhất và cũng là mẫu mức nhất của việc truyền giáo bằng phương pháp này chính là Chân Phước Têrêsa Calcutta.
Ngày nay, công việc của Dòng Bác Ái Truyền Giáo thì nhiều loại, được chia ra như sau: Việc Tông Ðồ qua những lớp Giáo Lý, việc Chăm Sóc Y Tế qua các nhà thương, bệnh viện. việc Giáo Dục qua các trường tiểu học trong các khu nhà nghèo, lớp dạy may cắt, lớp thương mại, lớp cho người tàn tật, lớp mẫu giáo ở làng, và những chương trình giữ trẻ; Dịch Vụ Xã Hội qua chương trình an sinh và giáo dục trẻ em;dịch Vụ Cứu Tế qua những trung tâm phân phát thực phẩm và quần áo v,v…
Để kết thúc xin nhắc lại ở đây lời Đức Thánh Cha Phaolô VI: “Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì chính vì những vị thầy này là chứng nhân”
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ- Lm. Fx. Đỗ Công Minh
Chúa nhật XXIX thường niên hôm nay, Giáo hội dành cầu nguyện cho việc Loan báo Tin Mừng mà chúng con quen gọi là lễ Khánh nhật Truyền Giáo. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa đả nhắc: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ “, qua đó Chúa mong muốn có nhiều người đáp lại tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng loan báo Tin vui về Thiên Chúa, đấng hằng yêu thương hết mọi người và mong cho họ được ơn cứu độ. Chúa còn muốn con trở nên những người thợ gặt trước một cánh đồng lúa đang chín rộ trên đất nước Việt Nam, nơi đây là biết bao đồng bào đang cùng chia sẻ ngọt bùi với con trên mảnh đất thân thương này. Và cũng chính tại đây, còn có hơn 70 triệu người chưa được đón nhận Tin Mừng của Chúa. Đó chính là những thao thức lớn lao của Chúa, của Hội Thánh cũng như từng tín hữu chúng con.
Con đã được trở thành người tín hữu tức là con cũng được mời gọi vào cánh đồng mênh mông này. Ngày hôm nay, một số bạn trẻ đang dấn thân, hy sinh cuộc đời mình dành cho Chúa và cho mọi người, trở thành những Linh Mục, tu sĩ. Nhưng bên cạnh đó, còn biết bao giáo dân đang sống giữa đời, mỗi người chúng con cũng phải đáp lời mời gọi của Chúa. Chính đức Thánh Cha Bênêdictô XVI trong sứ điệp về Truyền giáo cũng nhắc nhở chúng con :”Hãy thông truyền cho mọi người niềm vui đức tin với lòng nhiệt thành hăng hái đến từ cuộc sống được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, vì chính Chúa canh tân mọi sự . . .Hãy tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra khuôn mặt Đức Kitô và chạy đến với anh chị em của chúng ta với Tin vui : Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa “.
Con không thể đi đến những nơi xa xôi khó khăn để loan báo Tin mừng. Con không đủ sức hay chưa dám hy sinh quên mình đi đến những trại phong, những buôn làng, hay đến với các em khuyết tật, những người bị bỏ rơi. . .Nhưng con cũng có thể loan báo tin mừng bằng chính cuộc sống của con tại nơi con sống, làm việc, công tác, những người thân cận với con. Nếu con biết “Đi ra” khỏi cuộc sống riêng tư, đi ra những “vùng ngoại biên”, liên đới với mọi người đang sống bên con trong xã hội. Chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với họ, giúp đỡ họ và tạo điều kiện cùng giúp nhau vươn lên, nhất là trong lúc đồng bào con thuộc các tỉnh thành miền Bắc, miền Trung nước Việt đang phải gặp bao hoạn nạn vì bão lũ. Con biết mở lòng ra cùng với anh chị em con đang con đangđược sống trong những nơi an toàn. :Làm được như thế chính là giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô cho họ, đó chính là con đang biến mình thành những thợ gặt nhiệt thành.
“ Thế giới ngày nay đang cần những người nói với Thiên Chúa, để có thể nói về Thiên Chúa . . .Chúa Giêsu đã không cứu độ thế giới bằng những lời hoa mỹ, hoặc bằng những phương thế hoành tráng, nhưng bằng khổ đau và cái chết của Người “( Sứ điệp TG).
Xin cho con biết luôn thưa cùng Chúa:”Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
Lạy Ngài, Xin thêm Đức tin cho con” AMEN.
NIỀM VUI TIN MỪNG ĐÁNH THỨC THẾ GIỚI- Lm. PM. Cao Huy Hoàng
Sống Sự Sống Của Thiên Chúa Hằng Sống
Chúng ta rất vui mừng vì đang có những con người bước ra khỏi lòng mình, bước ra khỏi cái tháp ngà sang trọng của mình ở trên cao kia, rồi bước xuống cuộc đời cùng thấp với đầy dẫy những sầu thương bất hạnh, và bước đến tận nơi thâm sơn cùng cốc mọi ngõ ngách cuộc đời, để chạm đôi tay của Thiên Chúa vào thương tích của nhân loại, để tỏ bày lòng yêu của Thiên Chúa đối với con người và cuộc đời hôm nay.
Chúng ta rất vui mừng vì đang có những con người dày công nghiên cứu, dài ngày suy tư nghiền ngẫm, tốn hao công sức cho những luận án, những loạt bài thần học, những cuốn sách giá trị , và hùng hồn thuyết giảng cho thế giới về Thiên Chúa, về niềm vui quý giá của Tin Mừng.
Chúng ta vui mừng vì tất cả các tín hữu có ý thức, có trăn trở, và có thực thi sứ mệnh truyền giáo của mình, sứ mệnh loan báo tin mừng của mình trong cuộc sống trần gian này.
Nhưng, không ai cho điều mình không có. Vì thế, thiết tưởng có đi đến đâu, có nói gì, có làm gì, đi nữa, thì trước tiên, con người truyền giáo phải là con người có đạo, có xác tín rõ rệt con đường mình đi; con người loan báo tin mừng phải là người có Tin Mừng, phải là người sống hân hoan vui mừng. Ai tin đươc Tin Mừng khi người loan báo Tin Mừng lại là người đang trầm luân trong buốn bã, chán nản thất vọng u sầu, nhất là đang trầm luân trong tình trạng u uất bất mãn, bất ý, chống đối những con người trong Hội Thánh Chúa…Như thế là phản tác dụng truyền giáo, phản ý nghĩa loan báo Tin Mừng, phản Tin Mừng.
Mỗi tín hữu cần xác tín vững chắc về Thiên Chúa, cần xác tín mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, cần xác tín mình đang sống sự sống của Thiên Chúa, trước khi nói về Thiên Chúa, Loan báo về Thiên Chúa.
Vâng, Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, tin tưởng, cầu khấn, ca tụng, mến yêu là một Thiên Chúa Hằng Sống. Thiên Chúa có sự sống, có sức sống, có sự sống dồi dào, sống dồi dào, sống đến vĩnh cửu, hằng sống. Người là Thiên Chúa của bình an, Thiên Chúa của hy vọng, Thiên Chúa của vui mừng hạnh phúc. Nơi Thiên Chúa không có thiểu não, buồn bã, bi lụy, chán đời, thất vọng, vô vọng, và đặc biệt là không hề có sự chết.
Bởi vậy, nếu gọi những người tin vào Thiên Chúa là tín hữu, thì không có một tín hữu buồn bã, càng không có một nữ tu hay ông thày dòng buồn bã, càng không thể có một linh mục buồn bã… vì, buồn bã là thuộc tính của ma quỷ, là bạn hữu của ma quỷ, thế lực chống lại Thiên Chúa, buồn bã là không có niềm tin vào Thiên Chúa, buồn bã thì ai dám gọi là tín hữu.
Hội Thánh Công Giáo luôn luôn là một Hội Thánh vui mừng và hy vọng, Hội Thánh của những người vui mừng và hy vọng, Hội Thánh mang lại vui mừng và hy vọng cho thế giới cho nhân loại. Thành phần nào trong Hội Thánh không vui mừng và hy vọng, thì lấy vui mừng và hy vọng ở đâu mà mang lại cho tha nhân, cho thế giới, đồng nghĩa với việc thành phần ấy đi ngược lại với ý muốn của Hội Thánh, đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa khi thiết lập Hội Thánh.
Vì thế, cuộc sống của các tín hữu phải là cuộc sống vui mừng và hy vọng, vì niềm tin vào một Thiên Chúa Hằng Sống. Cuộc sống ấy giới thiệu cho nhân loại một Thiên Chúa Hắng Sống, chứ không thể và không bao giờ có thể giới thiệu một Thiên Chúa đã chết rồi hay một Thiên Chúa hằng chết. Điều đáng tiếc là, hai ngàn năm qua, đã có biết bao người mang danh là tín hữu của Thiên Chúa, mà lại giới thiệu một Thiên Chúa buồn bã, thảm sầu, bất an, vô vọng, qua cách sống của mình, nên xảy ra chuyện “chúng tôi khát khao vui mừng bình an và hạnh phúc” nhưng “ai dám tin Thiên Chúa buồn bã của các anh”.
Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô rất chí lý khi nói lên 5 điều mong đợi nơi các người sống đời thánh hiến, mà 2 trong số đó là sống vui và đánh thức thế giới. Thiết nghĩ, hai điều mong đợi này là niềm mong đợi nơi tất cả mọi tín hữu, và cách riêng, nơi những người sống đời thánh hiến Đó là hai niềm mong đợi thiết thực, đáng suy nghĩ trong ngày truyền giáo năm nay. Sống hân hoan vui mừng chính là sống sự sống của Thiên Chúa. Sống hân hoan vui mừng chính là làm chứng cho một Thiên Chúa hằng sống. Sống hân hoan vui mừng và hy vọng là đánh thức thế giới đang u sầu, buồn bã thất vọng.
Chứng Nhân Cho Tin Mừng: Sống Vui Giữa Những Người Buồn
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì cắm đầu chúi cổ vào niềm vui rẻ tiền, niềm vui của thân xác, niềm vui dẫn đến sự chết ngàn thu, thì ngược lại, người tín hữu Chúa Ki-tô được diễm phúc đang say sưa, đang ngây ngất trong niềm vui của sự sống, là chính Thiên Chúa hằng sống.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì tìm cho được và hưởng cho tận tàn những niềm vui vội vàng chóng vánh, thì người tín hữu thưởng nếm hương vị của niềm vui vĩnh cửu, thiên thu, niềm vui thánh thiện của Thiên Chúa chí thánh, chí thiện.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì cứ còn những khát khao bất chính cho đến mãn đời mà chưa hề được thỏa mãn, thì người tín hữu lại sống hân hoan vui mừng vì những khao khát công chính, thiện hảo cùng Đức Giê-su và trong Đức Giê-su, đã được mãn nguyện ngay hôm nay, trên trần gian này.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì xem những bất hạnh, đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, và cả sự chết nữa trong cuộc đời này là những thứ dẫn con người tới ngõ cụt bi đát, tới cõi tàn tận hư không, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng nhận ra trong những điều tưởng như là bi đát ấy, lại là hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban để được cứu rỗi, để được một chỗ trong lòng Thiên Chúa, để được một mai hậu vững bền hạnh phúc trong cõi sống muôn đời.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì ước ao bao nhiêu chuyện được, mà chẳng được, còn người tín hữu thì lại ước ao bao nhiêu chuyện mất, thì lại được vô cùng được, bao la được. Kẻ muốn được phục vụ từ đằng chân tới đằng đầu, được phục vụ tới tận mồm tận răng, mà không hề cảm thấy mình hạnh phúc, còn người tín hữu thì đành mất mình đi, cúi mình xuống phục vụ kẻ khác với lòng yêu thương, thì lại được hân hoan vui mừng vì cuộc sống mình bao la ý nghĩa, vĩ đại ý nghĩa…
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì thất bại trong đời, mất chức quyền, mất địa vị, mất tài sản, mất uy tín, mất danh dự, mất tất cả, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng vì cuộc sống mình đã sống theo phong cách Đức Giê-su, là đã tự đánh mất tất cả rồi, nên không còn gì để mất. Và khi không còn gì để mất, thì cũng không có gì phải tiếc nuối, đau buồn, bi lụy, mà chỉ còn toàn là thanh thản, an nhàn với niềm vui, bởi họ biết mình còn lại một điều huyền nhiệm quý giá mà không ai có được: đó là còn lại một Đức Giê-su, sở hữu một Đức Giê-su trắng tay khiêm nhượng, mình trần, thân trụi, tất cả vì yêu.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì những gánh nặng trong cuộc đời, gánh trách nhiệm xã hội, giáo hội, gia đình, gánh oan sai, gánh bức bách, khủng bố, gánh tỵ hiềm ghen ghét, gánh hận thù vô cớ, gánh sự dữ không mong, gánh nợ nần sỉ nhục… thì người tín hữu, cũng ngần ấy gánh nặng, lại phơi phới mùa xuân thong dong thanh thản như không có chuyện gì, bởi có gánh đâu mà nặng, chỉ làm vai phụ cho Chúa mà thôi. Ký thác cả đường đời này cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người ra tay, người kê vai mà gánh tất. Chúa đã vác phần nặng, còn người tín hữu chỉ phần nhẹ tưng thôi mà.
Bao nhiêu con người đang buồn bã vì yêu theo cách yêu của loài người, tình yêu vị kỷ, tình yêu trục lợi, tình yêu thỏa mãn những đam mê, thì người tín hữu lại hân hoan vui mừng và say mê cái loại “yêu không giống ai’ theo cách yêu của Đức Giê-su, yêu và chết cho người mình yêu được hạnh phúc.
Chính cách sống hân hoan vui mừng lội ngược dòng đời của những tín hữu, là cách sống anh dũng làm chứng cho một Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa có sự sống dồi dào, sống tràn trề niềm vui, an bình và hy vọng, sống vĩnh cửu.
Sống vui tươi theo tin mừng, là đánh thức thế giới.
Con người trong thế giới hôm nay đang đắm chìm trong cơn mê muội vật chất trần gian, và thoảng hoặc bừng ngộ như ánh sao vừa le lói lên đã vội vàng vụt tắt. Con người mụ mị về Thiên Chúa, mụ mị về sự sống thần linh, mụ mị về hạnh phúc siêu nhiên, bởi vì lòng trí con người đang bị tử thần Sa-tan giam hãm trong lô cốt ích kỷ, bỏ tù trong nhà tù kiêu căng, khống chế trong chiếc quan tài tri thức không có Thiên Chúa.
Người tín hữu, nhờ sức mạnh chiến thắng của Đức Giê-su Ki-tô hiền lành và khiêm nhượng, đã khai mở một lối đi, một con đường sống, một cách sống tự do trong thần khí, thiện hảo trong chân lý, và được tháp nhập vào cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” của Thiên Chúa.
Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là lời cảnh tỉnh, là sự đánh thức thế giới mê muội mụ mị kia, và là lời giới thiệu cho thế giới về một Đức Khôn Ngoan có được nhờ lòng khiêm nhượng thẳm sâu của loài thụ tạo trước Đấng Vô Hình, Hằng Có, Hằng Sống. Cuộc sống ấy là của ngôn sứ không nói bằng lời, mà nói bằng cả một cuộc đời.
Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là lời mời gọi một nhân loại tưởng mình là tự do kia, hãy mau mau kíp kíp thoát khỏi cái tự do làm nô lệ của Sa-tan, và hãy khẩn cấp trở về với nguồn tự do đích thực, là tự do của Thiên Chúa tự do, tự do của Thánh Thần chân lý, tự do mà Thiên Chúa ban cho mỗi con người luôn có lòng hướng về cái Chân, Thiện, Mỹ.
Chính cuộc sống “vui tươi, an bình, hạnh phúc” theo Tin Mừng ấy, là động lực thôi thúc, là nguồn khích lệ lớn lao, là đỡ nâng cần thiết cho những con người buồn bã tìm được vui mừng trong Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô, qua Tin Mừng của Nước Trời.
Ai chưa sống Tin Mừng bằng cách sống hân hoan vui mừng giữa những con người buồn bã, thì cũng chưa nói được là làm chứng cho Đức Tin của mình. Và phải còn hãy cảnh giác trước những cám dỗ nghiêng chiều về phía thất vọng buồn bã, bỏ ngũ, và chống lại niềm tin chân chính của mình.
Người sống vui tươi an bình hạnh phúc là người đã thấu đáo và làm sáng lên giá trị đích thực của Giáo Hội Chúa Ki-tô giữa lòng nhân loại. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói với các Phong trào giáo hội vào lễ Vọng lễ Chúa Hiện xuống ngày 18 tháng 5 năm 2013: “Giá trị căn bản của Giáo hội nằm ở chỗ sống Tin mừng và làm chứng cho đức tin. Giáo hội là muối của đất, là ánh sáng của đời, Giáo hội được kêu gọi làm cho men của Vương quốc Thiên Chúa hiện diện trong xã hội, và Giáo hội thực hiện ơn gọi này tiên vàn bằng sự chứng tá, chứng tá của tình yêu huynh đệ, của tình liên đới, của sự chia sẻ”
Ước gì, sống vui tươi theo Tin Mừng là lý tưởng mà người tín hữu sẽ đạt được, để còn thực hiện một lý tưởng vươn tới: đó là sống trước cuộc sống phục sinh ngay trong cuộc sống trần thế này.
LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
ANH EM HÃY RA ĐI– Lm Giuse Nguyễn
*1. Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng 10 được Giáo hội chọn là “Khánh Nhật Truyền Giáo”, ngày hội loan báo Tin Mừng. Không phải Giáo hội chỉ loan báo Tin mừng trong ngày hôm nay, mà “bản chất của Giáo hội là Truyền giáo”, lúc nào Giáo hội cũng phải loan báo Tin mừng… Nhưng đặc biệt trong ngày hôm nay, Giáo hội chọn để cầu nguyện cho việc loan báo Tin mừng nhằm nhắc nhở cho toàn thể Giáo hội thêm một lần nữa ý thức rõ hơn về cái gọi là bản chất của mình.
Có nhiều người gọi truyền giáo đơn giản là “Truyền bá tôn giáo”. Trong việc “truyền bá tôn giáo” này hàm ý việc làm cho tổ chức tôn giáo của mình lan rộng ra, được nhiều người biết đến, nghĩa là nhắm đến số lượng; nhưng nó cũng bao gồm việc truyền một con đường, một lý tưởng, là để cho Tin Mừng thấm nhập vào cuộc sống. Ở điểm này người ta nhắm đến phẩm chất nhiều hơn. Tuy nhiên việc Truyền giáo không chỉ đơn giản như vậy. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong sứ điệp Truyền Giáo 2017 như sau: “Việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu.” Vậy Truyền giáo là gì?
Nguyên gốc của chữ Truyền giáo là một danh từ tiếng La Tinh “Missio”, động từ là “Mittere”. Từ này có nhiều nghĩa, mà một trong những nghĩa thường được hiểu là: gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, để cứu độ con người. Chính Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Ngài trong sứ mạng cao cả này. Như vậy, truyền giáo mang đặc tính của sự “ra đi”.
*2. Đoạn Tin Mừng được đọc trong Thánh lễ hôm nay nói rõ điều đó: “Khi ấy, Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành phố, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lc 10, 1). Đức Giêsu sai các môn đệ đến nơi mà Ngài sẽ đến, làm công việc mà Ngài sẽ làm. Như vậy việc các môn đệ được sai đi rõ ràng là việc Truyền Giáo, vì các ông được sai phái đi làm một công việc quan trọng, để thực hiện công việc này, đòi hỏi các ông phải ra đi.
Cựu Linh mục dòng Chúa Cứu Thế, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Lan đã có một tác phẩm nổi tiếng vào cuối thập niên 60 mang tên “đường hay pháo đài”. Tác giả nhận đinh: “Đường là để đi, pháo đài là để phòng thủ”. Qua hình ảnh “đường và pháo đài”, tác giả muốn phản ảnh thực tại của Giáo hội để Giáo hội phải trả lời cho nhân loại mình là đường hay pháo đài? Có lẽ có một lúc nào đó, một thời nào đó, một nhóm nào đó… chỉ lo củng cố sức mạnh của mình về quyền lực, tài chánh và ảnh hưởng, nên Giáo hội được ví như một pháo đài phòng thủ kiên cố, chắc chắn. Nếu bản chất của Giáo hội là Truyền giáo, thì Giáo hội phải luôn luôn lên đường, luôn luôn ra đi. Nhưng lên đường, ra đi để làm gì?
*3. Sứ điệp Truyền Giáo 2017 có đoạn: “Nhờ việc truyền giáo của Hội Thánh, chính Đức Giêsu Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng và hành động; như thế việc truyền giáo của Hội Thánh làm hiện diện trong lịch sử thời của Đức Kitô, thời cứu độ thuận lợi”. Đức Thánh Cha đã muốn Giáo hội lấy lại mô hình của Đức Giêsu trong việc Truyền Giáo, là làm cho Đức Giêsu hiện diện trong mọi môi trường, mọi thời đại. Ngài sai các môn đệ đi trước, dọn đường, để chính Ngài sẽ hiện diện. Vì lẽ đó, chắc chắn người môn đệ không thể rao giảng một ai khác ngoài Đức Giêsu, càng không thể rao giảng chính bản thân mình như đấng cứu nhân độ thế, đấng làm được mọi sự, và bắt mọi sự phải quy phục mình. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” như sau: “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định.”Vì vậy nếu người ta gặp gỡ được Đức Kitô thì họ mới biến đổi được cuộc đời, “mới tìm được chân trời mới, mới có một hướng đi quyết định”. Và đó chính là sứ mạng của Giáo hội, của mỗi Kitô hữu: Cho người khác gặp gỡ được Đức Kitô trong chính cuộc đời chúng ta trong mọi môi trường.
Khi anh chị em lương dân nghe gia đình người Công giáo đọc kinh hôm chung với nhau; thấy một anh bán bánh mì “chất lượng cao”: ngon, an toàn, hợp vệ sinh, luôn tươi cười, trong tủ có dán hình Chúa Thương Xót và cha Diệp; thấy một em học sinh “có đạo” không bao giờ gian lận trong thi cử; thấy một bà đạo đức cứ đi thăm viếng những người đau yếu, bệnh tật; thấy gia đình nọ không giàu có gì, nhưng gặp người nghèo khổ là sẵn sàng chia sẻ miếng cơm, manh áo…
*4. Muốn cho người khác gặp gỡ được Đức Kitô thì đòi hỏi Kitô hữu phải “lên đường”, phải “ra đi”. Dĩ nhiên không thể hiểu theo nghĩa đen sự ra đi như các môn đệ ngày xưa, nhưng đó vẫn phải là mệnh lệnh cho mỗi chúng ta: “Anh em hãy ra đi!”. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp truyền giáo 2017: “Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh bằng lòng với thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, không phải là Thân Thể chịu đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thích “một Hội Thánh bị bầm giập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình”.Vì thế Kitô hữu đừng lấy lý do bận công việc làm ăn, mệt mỏi nên không thể đi lễ, không có giờ đọc kinh; sợ điều này, sợ điều kia… mà không dám sống những giá trị của Tin Mừng. Hãy chiêm ngắm một Đức Kitô bị bầm giập vì những vết thương để chúng ta hãy mang lấy thương tích của Đức Kitô mỗi ngày.
*5. Đức Maria “đã vội vã lên đường”đến với gia đình bà Êlisabet. Trong tháng 10, nhiều Họ đạo tổ chức kiệu Đức Mẹ đến từng gia đình để đọc kinh để chúng ta chiêm ngắm sự “lên đường” của Đức Mẹ. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta biết “cưu mang” Chúa qua cầu nguyện, thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích… để gương mặt Đức Kitô được tỏa ra nơi cung cách sống hằng ngày của chúng ta, nhờ đó mà người khác gặp gỡ được Đức Kitô.