CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
LÀM VIỆC LÀNH TRONG KHIÊM HẠ – Lm. Đan Vinh HHTM… 7
HOÁN CẢI NỘI TÂM(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 18
CÁM DỖ- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 26
LỜI SÁM HỐI MUỘN MÀNG– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 31
TRO NHẮC TA Ý THỨC THÂN PHẬN MÌNH– Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng 34
ĐẤNG THẤU SUỐT NHỮNG GÌ KÍN ĐÁO (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý 40
MÙA CHAY, CUỘC HÀNH HƯƠNG VỀ VỚI LÒNG CHA – Trích Logos C 45
BƯỚC VÀO MÙA LUYỆN NHÂN ĐỨC ĐỂ CHIẾN THẮNG TỘI LỖI– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 50
SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY- Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế OP.. 57
THÔNG ĐIỆP CỦA NGÀY LỄ TRO- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 61
MÙA CHAY TRỞ VỀ – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 64
MÙA CHAY,THỜI GIAN ĐỂ ĐƯỢC THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB 69
THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
“Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi”.
Trích sách Tiên tri Giôel.
Bấy giờ Chúa phán: Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ. Biết đâu Người sẽ trở lại, sẽ hối tiếc và sẽ ban lại phần phúc để có của lễ hiến tế dâng lên Chúa là Thiên Chúa các ngươi?
Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa. Tân lang hãy ra khỏi nhà, và tân nương hãy ra khỏi phòng. Các tư tế là những kẻ phụng sự Chúa, hãy đứng giữa cửa chính và bàn thờ mà than khóc và kêu lên rằng: Lạy Chúa, xin thương xót dân Chúa, xin đừng để cho cơ nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: “Chúa của chúng ở đâu?” Chúa đã nhiệt thành với xứ sở Người và đã tha thứ cho dân Người. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17
Đáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.
3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.
BÀI ĐỌC II: 2 Cr 5, 20 – 6, 2
“Hãy làm hoà cùng Chúa đi… Bây giờ là cơ hội thuận tiện”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, chúng tôi đây là sứ giả của Đức Kitô, chính Thiên Chúa nhờ chúng tôi mà khích lệ anh em. Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa. Đấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã làm Người thành thân tội vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa.
Với tư cách là những cộng sự viên của Người, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô hiệu. Quả thật Chúa phán: “Dịp thuận tiện đến rồi, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày giải thoát, Ta đã cứu vớt ngươi”. Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát. Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 50, 12a và 14
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.
PHÚC ÂM: Mt 6, 1-6. 16-18
“Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
“Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
“Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÀM VIỆC LÀNH TRONG KHIÊM HẠ – Lm. Đan Vinh HHTM
Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giê-su đề cập tới một nền đạo đức mới là phải làm các việc lành thế nào cho phù hợp với tinh thần mới của Người. Điều cốt yếu khi làm các việc đạo đức là phải khiêm tốn và theo thánh ý Chúa Cha: Tránh làm các việc đạo đức như cầu nguyện để được người ta ca tụng; Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ thiểu não khi ăn chay để cho thiên hạ nể phục.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pha-ri-sêu (Biệt Phái), là những kẻ “nói mà không làm”, “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (x Mt 23,3.5). + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật đòi hỏi tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải có, khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được hưởng công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha trên trời.
– C 3-4: + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giê-su không những phải tránh cho mọi người hay biết việc bố thí của mình, nên cần thực hiện trong âm thầm khiêm tốn.
– C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện phải như sau: Phải cầu nguyện cách khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x Lc 18,10-14) và người đời (x Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được Chúa chấp nhận khi cầu nguyện với lòng tin (x Mt 21,22); Khi cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20); và khi xin Chúa ban những điều tốt lành (x Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ muốn tránh ý đồ phô trương công đức để được ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a khi ông cầu nguyện để làm cho đứa bé mới chết được sống lại (x 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng” là hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này sẽ không còn là sự cầu nguyện đích thực nữa.
– C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục lệ ăn chay mỗi khi có tang chế (x 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta sẽ không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do Thái chỉ buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng Chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá và những lúc gặp thiên tai. Việc ăn chay này sẽ do các đầu mục quyết định. Riêng người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12), nhưng việc chay tịnh chỉ mang tính bề ngoài nhằm phô trương (x Mc 2,18), nên Đức Giê-su đã không chấp nhận sự khổ chế này của họ (x Mc 2,19-20). + Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự kín đáo khiêm tốn: thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn… thì họ phải rửa mặt, chải dầu thơm giống như họ vẫn thường làm mỗi khi đi ra đường để người khác không biết họ đang ăn chay.
HỎI ĐÁP:
– HỎI:
1) Khi Đức Giê-su nói: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (c. 4b.6b.18b), phải chăng Người muốn cổ võ một thứ luân lý vụ lợi: Cho đi để được nhận lại ? 2) Muốn có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn lành, thì việc chay tịnh cần tránh những gì và cần làm những gì ?
– ĐÁP:
1) Thực ra không phải vậy. Vì nếu có ý khích lệ người ta làm việc thiện để được lợi cho mình, thì Người đã hứa những lợi ích có tính thế tục như tiền của, sức khỏe, thành công… Nhưng ở đây Người không nói rõ phần thưởng Chúa Cha sẽ ban cho là gì. Nơi nhiều đoạn khác, phần thưởng được hứa hầu như luôn là Nước Trời tương lai hoặc một trong những hoa trái thiêng liêng của nó là sự sống muôn đời (x. Mt 25,46; Mc 10,30). Các môn đệ sẽ được tham dự vào quyền bá chủ của Người (x. Lc 22,28-29), được xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en trong ngày tận thế (x. Mt 19,28). Ở đây, phần thưởng Đức Giê-su hứa cho những kẻ làm việc lành phải được hiểu theo nghĩa Cánh Chung, và có tính cách vô thường, nghĩa là: được Chúa ban cho, không vì việc làm đáng thưởng, nhưng chỉ vì tình thương và lòng nhân hậu vô biên của Người (Dụ ngôn đầy tớ vô dụng: Lc 17,7-10). Hơn nữa, phần thưởng ở đây còn được hiểu là chính Thiên Chúa. Những ai làm việc thiện trước mặt Thiên Chúa, với ý hướng muốn làm đẹp lòng Ngài và để tôn vinh Ngài, thì sẽ được gặp Ngài, được xem thấy Ngài và sẽ tìm thấy hạnh phúc cho bản thân.
2) Muốn cho việc ăn chay có giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì cần tránh cách ăn chay hình thức về ngoài đã bị Đức Chúa quở trách, và còn phải kèm theo những việc tốt lành để xứng đáng được Đức Chúa chấp nhận, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn…”. Nào, cách ăn chay mà Đức Chúa ưa thích chẳng phải thế này đó sao: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ. Thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục”. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu Người liền đáp lại: “Có Ta đây!” (Is 58,6b-9a).
SỐNG LỜI CHÚA
1/ LỜI CHÚA: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3).
2/ CÂU CHUYỆN:
CHỖ NÀO TRONG NHÀ THỜ LOÀI CHUỘT ÍT BỊ QUẤY RẦY NHẤT
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ !”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn liền nói: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy !” Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế trong nhà thờ thật ư ? Hãy cho tớ biết chỗ đó là chỗ nào vậy ?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy !”.
BÁC ÁI CHIA SẺ LÀ PHƯƠNG CÁCH ĂN CHAY ĐẸP LÒNG CHÚA HƠN CẢ:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.
SUY NIỆM:
+ YÊU THƯƠNG LÀ CHO ĐI: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì ?” (Gc 2,15-16).
+ BỐ THÍ CHIA SẺ: Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:
** Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người có lòng hy sinh và quảng đại mới có thể thực hiện được tốt công việc chia sẻ này.
** Việc bố thí giúp ta ý thức giá trị tương đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
** Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo hai cha con nhà Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu” (Tb 12,8-9).
HỎI ĐÁP:
HỎI: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức nào ? 2) Ta cần phát hiện ra mình có mối tội đầu tức là thói hư tật xấu nào và phải làm gì để tu sửa lại ?
ĐÁP:
1) Việc đạo đức: Dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm tu sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình…
2) Tập làm các việc tốt đối lập với thói hư tật xấu, kèm theo một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu kẻ mà con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác, để con được mỗi ngày một nên giống Chúa hơn”.
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con được bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con có được một thời gian thuận lợi để duyệt xét lại cuộc đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh những sai lỗi thiếu sót nơi bản thân con. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp con mới có thể mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã và ngày một nên người mới như ý Chúa muốn.
– LẠY CHÚA. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để những việc con làm luôn đẹp lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban Nước Trời đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
HOÁN CẢI NỘI TÂM(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào Thứ Tư Lễ Tro nầy, ngưỡng cửa Mùa Chay, Phụng Vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của thời gian cầu nguyện, sám hối và thực thi đức ái như chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm tha thứ và ban sự sống.
Ge 2: 12-18
Bài Đọc I được trích từ sách Giô-en, vị ngôn sứ kêu gọi hoán cải trong thời kỳ tai ương hoạn nạn. Vị ngôn sứ cho thấy quyền năng của việc cầu nguyện, sám hối và nhất là hoán cải tận đáy lòng như thế nào để đạt được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
2Cr 5: 20-6: 2
Trong thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu hãy làm hòa với Thiên Chúa nhờ, bởi và trong Đức Ki-tô; nhờ đó họ có thể thay đổi cuộc sống.
Mt 6: 1-6, 16-18
Tin Mừng Mát-thêu ghi lại giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, những hành vi mà chúng ta phải chu toàn đừng bận lòng về những xét đoán của người đời, nhưng chỉ dưới cái nhìn của Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo.
BÀI ĐỌC I (Ge 2: 12-18)
Ngôn sứ Giô-en kêu gọi toàn thể dân chúng Giu-đa hãy sám hối và cầu nguyện: hãy ra sức khẩn nài Thiên Chúa và xin ơn tha thứ, vì hai tai họa đã giáng xuống trên quê hương: một năm hạn hán gây tang tóc và nạn châu chấu hoành hành. Thậm chí người ta không còn mang hiến lễ hằng ngày đến Đền Thờ vì không còn dầu, rượu, bột (Ge 1: 4-12, 16-20; 2: 2-11).
Không thể định vị biến cố này về phương diện lịch sử, vì chúng ta không biết ngôn sứ Giô-en đã sống vào thời đại nào: có thể vào cuối thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, trước cuộc lưu đày Ba-by-lon, hay có thể đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, sau cuộc lưu đày. Mặt khác, vị ngôn sứ đưa ra hai thiên tai mà ông miêu tả như một ví dụ điển hình cơn thịnh nộ của Đức Chúa vào ngày Chung Thẩm.
Sám Hối:
Ngôn sứ kêu mời hãy hết lòng trở về với Chúa kèm theo những cử chỉ sám hối: ăn chay, khóc lóc, van nài thống thiết, xé áo, những cử chỉ này gợi ra những nghi thức tang chế và diễn tả những tâm tình buồn phiền của con người trước tội lỗi của mình; ăn chay hổ trợ lời cầu nguyện và cũng diễn tả thái độ khiêm hạ. Nhưng ông không nhấn mạnh những cử chỉ nầy. Điều cốt thiết là “thay lòng đổi dạ”: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”.
Hết lòng trở về với Thiên Chúa không phải thực hiện trong nỗi xao xuyến nhưng trong niềm tin tưởng. Thiên Chúa tỏ mình ra “nhân hậu và từ bi, chậm giận và giàu tình thương” như Ngài đã tự định nghĩa về mình trước ông Mô-sê (Xh 34: 6). Với lời cầu nguyện chân thành, “biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại mà hối tiếc vì đã giáng họa”.
Hiệp nhau cầu nguyện:
Trước những tai ương, toàn dân, dù các cụ già, thiếu nhi, hay trẻ thơ, tân lang hay tân nương, hãy hiệp nhau mà khẩn khoản van nài Thiên Chúa.
Tân lang được nêu lên ở đây vì Luật cho phép họ miễn trừ mọi công tác và nghĩa vụ quân sự trong một năm: “Khi một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm , và sẽ là niềm vui cho người vợ mới cưới” (Đnl 24: 5). Nhưng trong trường hợp nầy, mọi quyền ưu tiên phải nhường chỗ cho tình liên đới và hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Còn các tư tế phải khóc than và nguyện cầu “giữa tiền đình và tế đàn”. Tế đàn ở đây là bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu được định vị ở sân trong của Đền Thờ, được gọi “sân Tư Tế”. Khi băng qua hàng hiên phía tây, người ta ở trong tiền sảnh, đối diện với bàn thờ dâng hiến lễ toàn thiêu, và qua đó, đối mặt với chính thánh điện mà người ta hướng lời cầu nguyện về. Chính ở nơi tiền sảnh này mà ngôn sứ Giô-en đặt các tư tế Đền Thờ trong tư thế cầu nguyện.
Chính vì việc hoán cải tận đáy lòng và những lời khẩn nguyện chân thành mà Thiên Chúa đã đáp trả (ngôn sứ gợi lên sau đó tai ương chấm dứt, sự phồn vinh trở lại và mưa xuống trên các đồng cỏ, vân vân).
BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 20-6: 2)
Thánh Phao-lô với tư cách “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô” cũng kêu gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy hoán cải.
Hoàn cảnh:
Chúng ta biết rằng trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô nầy, thánh nhân phác họa một bức tranh về Sứ Vụ Tông Đồ, có tầm mức cao cả và phần thưởng dành cho nó. Theo cách nầy, ngài trả lời cho các tín hữu Cô-rin-tô, những người đã coi thường lời rao giảng của ngài và đàm tiếu về tước vị Tông Đồ của ngài.
Thánh Phao-lô vặn lại. Thánh nhân biết rất rõ ngài chỉ là khí cụ của Thiên Chúa, chỉ là người trung gian, nhưng người trung gian đã được Thiên Chúa ủy quyền với tư cách là “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy”. Xa hơn một chút, thánh nhân tự định nghĩa về mình là “cộng tác viên của Thiên Chúa”.
Một trong những sứ vụ Tông Đồ được giao phó cho ngài mà thánh nhân gọi là “thừa tác viên của sự hòa giải”. Từ ngữ “hòa giải” không được dùng thông thường trong các thư của thánh nhân, nhưng lại tóm gọn thành quả hy tế của Đức Ki-tô: hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh nhân sẽ khai triển hai khía cạnh cốt yếu của sự hòa giải: Hòa giải là sáng kiến của Thiên Chúa và có giá trị tức thời.
Sáng kiến của Thiên Chúa.
“Nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”. Qua cách diễn tả nầy, thánh Phao-lô cho hiểu rằng hòa giải đến từ sáng kiến của Thiên Chúa, ân ban nầy đứng hàng đầu và nhưng không, Thiên Chúa phải trả một giá rất đắc, bởi vì Đức Ki-tô, “Đấng chẳng biết tội là gì, Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.
Nhưng lời van xin: “Hãy làm hòa với Thiên Chúa”, không hàm chứa một thái độ thụ động. Thánh nhân thường nói ở nơi khác: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 11; Cl 2: 13, Ep 2: 3-4, vân vân). Nếu chúng ta đã đón nhận ân ban nầy (nhờ phép Rửa), phải làm cho ân sủng mà chúng ta nhận được đâm bông kết trái.
Giá trị tức thời:
Thành quả của việc hòa giải với Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô mặc khải rằng ngày cứu độ đã đến. Thánh Phao-lô trích dẫn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi cho những người lưu đày ở Ba-by-lon để loan báo cho họ giờ giải thoát sắp đến gần: “Ta sẽ nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ” (Is 49: 8).
Thánh nhân đặt lời trích dẫn nầy vào thời hiện tại: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”, bởi vì sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Diễn ngữ “ngày Ta cứu độ” mang ý nghĩa kinh thánh: “thời đại”. Thời đại nầy được hiểu giữa biến cố Phục Sinh và ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, tức thời chung cuộc, thời mà cuộc hoán cải của muôn dân sẽ được thực hiện. Nhưng đối với mỗi người Ki-tô hữu, cuộc hoán cải không được trì hoản: chính bây giờ là lúc thuận tiện, bây giờ là lúc phải tận dụng thời gian ngắn ngũi nầy để thánh hóa bản thân mình.
TIN MỪNG (Mt 6: 1-6, 16-18)
Đoạn trích Tin Mừng nầy thuộc phần thứ hai của bài diễn từ trên núi. Đức Giê-su vừa thiết lập một sự đối xứng giữa những giới luật Mô-sê và những đòi hỏi mới mà Ngài đề xuất: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Ngài đặt dấu nhấn trên việc nội tâm hóa luật luân lý. Ở đây, Đức Giê-su đan cử những ví dụ rất thích đáng và đối lập hai thái độ; vì thế, Ngài chọn ba việc thiện của Do thái giáo: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Bố thí:
Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: “Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng… Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15: 7-11). Huấn thị nầy chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi đức hạnh này. Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.
Cầu nguyện:
Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện “trong nơi vắng vẽ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.
Đức Giê-su không khinh thường việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.
Ăn chay:
Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Pha-ri-sêu ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm trong tuần.
Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm.
Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật” mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CÁM DỖ- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?
- Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?
- Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?
- Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?
LỜI SÁM HỐI MUỘN MÀNG– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong cuộc đời, có những việc trôi qua ta mới thấy hối hận, và có những con người khi mất đi ta mới thấy họ thật cao quý, tình cảm của họ dành cho ta đáng trân trọng. Nhưng có hối hận thì cũng đã quá muộn màng, nước mắt thì không bao giờ sửa chữa được sai lầm. Điều quan trọng là nhận lỗi, chuộc lỗi, đền bù và canh tân mới là điều đáng quý trong cuộc sống. Không ai hoàn hảo nhưng biết đứng lên sau những lầm lỗi mới là con người đáng quý.
Năm Đinh Dậu được khép lại với những vụ trọng án xét xử các quan chức ngành Dầu Khí, Vinashin, những đại gia bất động sản lẫy lừng. Tất cả đều kết thúc với lời sám hối muộn màng của các phạm nhân. Họ xin lỗi chính phủ, xin lỗi nhân dân. Họ xin khoan hồng. Điểm đặc biệt là không hề thấy xin lỗi gia đình vì đã làm mất danh dự cho gia đình và gương mù cho con cái. Phải chăng họ nghĩ rằng họ làm tất cả những điều sai trái ấy vì gia đình? Nếu vậy thì lòng sám hối chưa có, và càng không hề nhận ra lỗi lầm của mình để sửa đổi hay khắc phục hậu qủa?
Dù bản án vẫn chưa toại nguyện với nhiều người, nhưng những kết cục là án tù đầy dành cho nhóm quyền lực Dầu Khí cũng là lời cảnh báo rúng động và sâu sắc nhất đối với những người có vị trí nhưng chưa biết “sống tử tế”, chưa biết “tự vấn lương tâm” để sống theo luân thường đạo lý. Kẻ làm điều xấu sẽ bị luận tội. Công lý luôn hiện diện trong mọi thời. Không ai có thể che được bầu trời mãi. Thiên Chúa sẽ đòi lại công bằng cho con người. Người sẽ lật đổ người quyền thế và nâng cao kẻ khiêm nhường. Người sẽ mang lại công lý và hòa bình cho dân người. Thế nên, dầu là ai cũng hãy sống “là người tử tế” để tâm luôn bình an trong mọi hoàn cảnh.
Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc khi phải ra trước tòa án để nói lời sám hối muộn màng. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng vui hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.
Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi, trụy lạc ; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.
Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.
Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phận mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen
TRO NHẮC TA Ý THỨC THÂN PHẬN MÌNH– Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Năm nào cũng thế, Giáo Hội dành cả một Mùa Chay dài để mời gọi chúng ta ý thức thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay. Nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhỡ ta về thân phận và kiếp người nhỏ nhoi mỏng dòn ấy. Để khi cúi đầu nhận lãnh một chút tro từ tay Thừa Tác Viên, bạn và tôi hiểu rằng: Thân phận này chỉ là bụi tro, Bởi thế, nghi thức xức tro là một nghi thức sám hối ý nghĩa nhất.
Nếu ta xức tro bằng một ý hướng ngay lành, bằng một tâm hồn thành thật, nghi thức này sẽ cho ta sự khiêm tốn cần thiết để đón nhận bài học của một sự thật rất quý giá: xuất phát từ tro bụi, thân phận được hoàn trả cho bụi tro. Chỉ cầm một lần xuôi tay nhắm mắt là đủ để tất cả tan biến.
Đồng thời Mùa Chay còn giúp ta có đủ thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, đón mừng vị thủ lãnh của ta vượt qua sự chết, sự đau khổ đưa ta vào nguồn sống thật. Dẫu chỉ là tro bụi, nhưng nhờ Chúa Ki-tô, thân phận bụi tro không mất đi, không tan biến đời đời, nhưng lại được mặc lấy sự sống vĩnh cửu, sự sống phục sinh huy hoàng của chính Chúa Ki-tô.
Với hai tâm tình chính của Mùa Chay: ý thức thân phận của bản thân và chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh như thế, Giáo Hội mời gọi ta ăn năn sám hối, mời gọi ta trở về với Chúa bằng nỗ lực nên thánh của mình. Bài học của sự trở về và nên thánh của các thánh sẽ là bài học cụ thể cho ta noi gương bắt chước. Tôi muốn nói với bạn về cuộc trở lại của thánh Phao-lô Tông Đồ.
Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết, thánh Phao-lô là một thanh niên Do-thái nhiệt thành và rất sùng đạo. Phao-lô không thể chấp nhận giáo thuyết quá mới mẻ của ông Giê-su, một thứ giáo thuyết dường như đi ngược lại mọi lề luật, mọi truyền thống của cha ông. Chính bản thân ông Giê-su đã bị các bậc lãnh đạo trong đạo Do-thái và chính quyền đế quốc giết chết nhục nhã và thảm hại trên thật giá. Cuộc đời Giê-su đã chấm hết từ đó, vậy mà những người tự xưng là môn đệ của Giê-su lại rao giảng ở khắp nơi rằng Giê-su đã sống lại, không những vẫn sống cho đến nay, mà sẽ sống đời đời. Đám môn đệ khờ dại ngu ngốc còn cho rằng: Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế mà trần gian này chỉ có một. Mỉa mai thay ! Làm sao một người đạo đức như Phao-lô, rất mực tôn thờ Chúa như Phao-lô lại có thể chấp nhận những điều ấy. Phạm thượng đến thế là cùng !
Chưa hết, đám môn đệ đáng thương đó còn hăng say gieo rắc cái lý thuyết đầy tội lỗi ấy khắp nơi. Bây giờ lũ người mê muội ấy càng lúc càng đông. Phải chặn đứng. Phải tiêu diệt. Phải bảo vệ tôn giáo và truyền thống của cha ông.
Và cuộc tử đạo đầu tiên bắt đầu. Một người thanh niên cũng ngoan đạo không kém gì Phao-lô: Stê-pha-nô. Khác một điều, Stê-pha-nô lại trung thành với Giê-su quá mức, sẵn sàng chết để tuyên xưng niềm tin vào Giê-su. Tội của Stê-pha-nô đáng chết lắm. Ngày tử hình Stê-pha-nô, Phao-lô đã làm chứng nhân cho cuộc hành huyết này. Từ đó chàng trai Phao-lô càng hăng say bảo vệ Do-thái giáo. Anh đã lên Giê-ru-sa-lem, xin các bậc lãnh đạo chứng minh thư để đi Đa-mát bắt hết bọn người ngu ngốc tin tưởng vào Giê-su, đem về Giê-ru-sa-lem mà xử tội.
Phao-lô lầm to. Các môn đệ của Chúa Giê-su không hề ngu ngốc, chỉ có Phao-lô là không hiểu biết gì. Phao-lô không hề là đối tượng thù ghét của Giê-su. Chỉ có Phao-lô là thù ghét Giê-su và bắt bớ môn đệ Ngài mà thôi. Phao-lô đâu có ngờ rằng, chính khi ra sức bảo vệ đạo giáo, bảo vệ truyền thống của cha ông, Phao-lô đã kịch liệt chống đối Thiên Chúa, phạm thượng đến mức quá sức tưởng tượng và tàn nhẫn vô song khi đổ máu các môn đệ.
Chính Giê-su chẳng những không thù ghét mà còn muốn Phao-lô trở lại làm môn đệ cho Ngài. Buổi trưa hôm ấy, tiếng của Chúa Giê-su uy hùng trong ánh sáng huyền diệu siêu phàm: “Sao-lô, Sao-lô sao người bắt bớ Ta ?” đã xô Phao-lô ngã ngựa trong cơn khiếp sợ kinh hoàng. Từ đó Phao-lô đã đổi đời. Chàng trai Sao-lô ngày nào hăng say chống phá Đạo Mới của thủ lãnh Giê-su bao nhiêu, giờ đây trở nên thánh Phao-lô hăng say gìn giữ và bảo vệ giáo huấn của Giê-su bấy nhiêu. Chúa Giê-su đã không lầm khi chọn một kẻ thù nghịch với mình làm môn đệ. Bởi kẻ thù nghịch ấy bây giờ đã trở thành một trong những môn đệ hàng đầu trong số các môn đệ. Phao-lô nguyện suốt đời tôn thờ Chúa Giê-su, suốt đời trung thành với giáo huấn của Ngài. Thánh Phao-lô đã nên giống Thầy Giê-su cho đến mức, cuối đời, sau những năm tháng dài vất vả bôn ba khắp nơi để rao giảng giáo huấn của Thầy, đã hiến dâng dòng máu, hiến dâng mạng sống của mình làm chứng tá cho giáo huấn đó.
Thánh Phao-lô là tấm gương cho sự quyết tâm trở về và trung thành với Chúa của Chúng ta. Cuộc trở về của ngài là bài học của sự dứt khoát từ bỏ quá khứ mà ta cần học lấy cho chính mình, để dù có tội lỗi đến đâu, có bất xứng cách mấy, ta vẫn có thể nhìn vào đó mà đứng lên, làm một cuộc đổi đời như thánh Phao-lô.
Không chỉ là tấm gương tuyệt hảo cho ta, trong Bài Đọc Hai của Lễ Tro hôm nay, bài trích thư gửi giáo dân thành Cô-rin-tô, thánh Phao-lô còn mời gọi: “Nhân danh Chúa Ki-tô, tôi năn nỉ anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”. “Tôi năn nỉ anh em !” Lời mời gọi sao mà tha thiết quá, đáng yêu quá. Từ một con người quá xa lạ với Đạo Chúa, xa lạ đến mức như là tội ác, vậy mà giờ đây lại có những lời chân thành thấm thía đến thế. Con người đó rất đáng để bạn và tôi khâm phục. Cả con người và lời “năn nỉ” đó rất đáng cho ta học lấy và nghe theo để cả đời ta cũng sẽ tốt lành thánh thiện như ngài.
Có ai ngờ một kẻ chống đạo lại trở thành thánh nhân. Thánh Phao-lô, một bầu trời hy vọng cho ta. Ngay cả một lần chối Chúa cũng chưa từng, và sẽ không bao giờ dám có một ý nghĩ nào manh nha như thế, đừng nói chi đến chống đối Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng điều mà thánh Phao-lô đã đạt được hôm nay, nhờ tình yêu của Chúa, ta cũng sẽ đạt được trọn vẹn như thế.
Mùa Chay, rắc một chút tro tàn lên đầu để mỗi ngày ý thức thân phận bé nhỏ của mình mà cảm nhận lòng thương xót của Chúa, mà nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Nhờ đó ta dám hy vọng chính bản thân ta có thể bước ra từ thân phận tội nhân để trở thành thánh nhân.
ĐẤNG THẤU SUỐT NHỮNG GÌ KÍN ĐÁO (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh (Mt 6,18).
Ăn chay là một hình thức thực hành tôn giáo đã có từ lâu đời. Xưa kia ăn chay còn kèm theo đánh tội, mặc áo nhặm nữa. Có nhiều người thắc mắc tự hỏi: tại sao phải ăn chay. Tại sao phải hành hạ thân xác như thế? Có phải Chúa độc ác đến độ vui sướng khi thấy con người bị hành hạ hay sao? Chắc chắn không phải như thế. Vậy tại sao ăn chay?
Theo thánh Tôma tiến sĩ, ta có 3 loại kẻ thù là: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Nếu có ai hỏi trong ba loại kẻ thù đó, loại nào nguy hiểm nhất, có lẽ không ai ngần ngại trả lời đó là ma quỉ. Quả thực ma quỉ rất hiểm độc, xảo trá. Tuy nhiên, dù hiểm độc đến đâu ma quỉ vẫn luôn ở ngoài ta. Cả thế gian cũng thế, dù ở gần gũi ta, dù có ảnh hưởng lớn trên ta, nhưng thế gian vẫn luôn ở ngoài ta. Chỉ khi nào ta đồng ý, ma quỉ và thế gian mới đột nhập được vào cung cấm linh hồn. Ở đây xác thịt đóng một vai trò quan trọng. Vì xác thịt ở trong ta, thiết thân với ta. Khi mạnh mẽ, xác thịt là người lính canh tốt, là phương tiện phục vụ linh hồn. Nhưng khi yếu đuối, xác thịt thống trị linh hồn. Và tệ hơn nữa, khi ưng thuận với ma quỉ và thế gian, xác thịt trở thành kẻ nội thù, đánh phá ta ngay từ bên trong. Vì thế xác thịt là nguy hiểm nhất.
Thường không ai muốn sự xấu. Không ai muốn phạm tội. Người ta phạm tội hầu hết vì yếu đuối. Vì yếu đuối nên nghe theo ma quỉ, thế gian. Vì yếu đuối nên đồng ý cho ma quỉ, thế gian xâm nhập tâm hồn. Vì yếu đuối nên để ma quỉ, thế gian lèo lái tâm hồn. Muốn chống trả được sự dữ linh hồn phải mạnh khỏe. Muốn mạnh khỏe phải rèn luyện. Mùa chay chính là một thời gian thuận tiện để rèn luyện. Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho ta chương trình 3 điểm để rèn luyện trong mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.
Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Ăn uống là nhu cầu sơ đẳng của con người. Làm chủ được nhu cầu sơ đẳng là bước đầu tiến đến làm chủ bản thân. Chế ngự được cơn đói dẫn ta đến chế ngự dục vọng. Quen nói không với bản năng thấp hèn, ta sẽ biết mạnh dạn từ chối những cám dỗ xấu. Quen tự chế ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Biết từ bỏ ý riêng ta sẽ vươn lên cao trên bậc thang thánh thiện.
Cầu nguyện là phương thế không thể thiếu cho người muốn nên thánh. Nếu nên thánh là sống thân mật với Chúa thì cầu nguyện giúp ta đạt được điều này. Cầu nguyện càng sâu xa ta càng thân thiết với Chúa. Chúa là nguồn sức mạnh. Ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Chúa là nguồn thánh thiện. Ai thân thiết với Chúa sẽ có tâm hồn nhẹ nhàng siêu thóat mọi dính bén trần tục.
Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc, nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.
Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo”.
Làm việc bác ái. Tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại. Tập làm việc bác ái giúp ta thêm lòng yêu mến Chúa. Quen nghĩ đến người khác giúp ta biết từ bỏ mình. Biết cảm thương trước những cảnh nghèo cảnh khổ sẽ giúp ta biết chia sẻ, xây dựng một xã hội huynh đệ, hòa bình.
Đã bao mùa Chay trôi qua, nhưng ta chưa tiến bộ bao nhiêu trên đường thánh thiện. Năm nay, ta hãy quyết tâm sống mùa Chay với chương trình cụ thể 3 việc mà Chúa đã dạy.
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao rực sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Đang khi ông chuẩn bị lên đường thì một em bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao càng dốc và khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám uống. Uống nước xong, em bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết thương người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Vâng! Hãy có chương trình ăn chay bằng hãm dẹp những tính mê nết xấu. Hãy gia tăng thời gian cầu nguyện sống bên Chúa. Hãy bớt chi tiêu để chia sẻ với những anh chị em đói nghèo. Nếu có một chương trình cụ thể và siêng năng thực tập những việc đạo đức nói trên, chắc chắn ta sẽ tiến bộ rất nhiều sau mùa Chay này. Ta sẽ được nhiều ơn Chúa và sẽ mừng lễ Phục sinh tràn đầy niềm vui thánh thiện.
Với nghi thức xức tro bây giờ, tôi long trọng khai mạc mùa Chay thánh năm 2014. Ước gì mùa Chay năm nay đem đến cho anh chị em phúc lộc dồi dào của Chúa qua những thực hành đạo đức ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
MÙA CHAY, CUỘC HÀNH HƯƠNG VỀ VỚI LÒNG CHA – Trích Logos C
Người ta kể rằng:
Trong khu rừng thanh vắng có ngôi chùa do một vị sư già trụ trì cùng với một chú tiểu. Vị sư già rất yêu thương chú tiểu, coi chú như người môn sinh yêu quý, hết lòng dạy dỗ chỉ Bảo. Có điều là chú tiểu thường xuyên gây ra những lầm lỗi. Mỗi lần có lỗi, chú xin lỗi thì vị sư già lại tha thứ. Một lần kia, vị sư già nói với chú : “Nếu con không giảm Bớt những lầm lỗi thì e rằng một ngày kia ta sẽ không thể nói lời tha thứ với con”.
Ngày tháng trôi qua, lời nói của vị sư già đã thành sự thật. Hôm ấy, chú tiểu leo trèo nghịch mgợm trong chùa, đã làm rớt cây đèn từ điện thờ xuống. Cây đèn này có chân Bằng sứ cổ quý giá đã Bể tan tành trên sàn nhà. Chú tiểu sợ hãi chạy vào rừng sâu.
Đến chiều, chú tiểu hối hận nên trở về xin lỗi sư phụ. Về đến nơi, chú tiểu Bàng hoàng và vô cùng đau khổ khi nhìn thấy ngôi chùa chỉ còn là đống đổ nát với tro tàn. Chú có ngờ đâu cây đèn rớt xuống sàn nhà đã Bắt lửa và thiêu rụi ngôi chùa. Vị sư già chết cháy trong đó. Có lẽ ông chết trong lúc cố sức cứu chữa ngôi chùa. Đến lúc ấy chú tiểu mới nhớ lại lời vị sư : “Một ngày kia, ta sẽ không thể nói lời tha thứ với con”.
Chú tiểu đi lang thang khắp nơi và than khóc suốt đời cho một lầm lỗi không được tha thứ.
Mười năm sau, một vị sư trẻ xuất hiện và dừng Bước tại nơi ấy. Trên đống đổ nát hoang tàn của ngôi chùa năm xưa, vị sư ấy đã xây dựng ngôi chùa mới. Sau đó đã trụ trì nơi đây và nổi tiếng là vị sư có tấm lòng nhân từ cứu nhân độ thế. Vị sư ấy chính là chú tiểu năm xưa trở về để chuộc lại lỗi lầm cũ.
Nếu vị sư già kia mãi mãi không thể nói lời tha thứ với người môn sinh của mình thì Thiên Chúa lại làm được điều ấy. Khi con người nói lời xin lỗi thì Ngài luôn luôn đáp trả và không ngừng nói lời thứ tha. Thiên Chúa tha thứ cho con người mãi mãi.
Sám hối là nói lời xin lỗi. Sám hối là một cuộc trở về. Sám hối là làm hòa cùng Chúa và anh em. Sám hối là tác động “trỗi dậy và đi về cùng Cha”. Sám hối là quay lưng lại với quá khứ tội lỗi để hướng mặt về tương lai, gặp gỡ tình yêu và lòng tha thứ.
Sự trở về Bao hàm sự từ Bỏ. Từ Bỏ một nơi xa lạ mà về một nơi thân thương quen thuộc. Sự trở về cũng nói lên hình ảnh của một kẻ lữ thứ xa quê, nay về với mái ấm gia đình. Sự trở về cũng hàm ẩn ý nghĩa của sự thay đổi. Thay đổi một chỗ ở, thay đổi một hướng đi,…nhất là thay cũ đổi mới, thay một cái xấu Bằng một cái tốt hơn. Vì thế, trở về chính là một cuộc hoán cải, một sự canh tân. Trở về là đổi mới con người và cuộc sống.
Như thế, mùa chay là thời gian tốt nhất để ta thực hiện cuộc hành hương trở về với tình yêu của Thiên Chúa và anh em mình.
Lễ Tro là khởi điểm của cuộc hành trình trở về trong mùa chay. Nghi thức làm phép tro và xức tro phát xuất từ nghi thức thống hối và hòa giải thời xưa trong Giáo Hội. Ngày nay, việc Bỏ tro trên đầu chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng của lòng sám hối. Khi nhận ra thân phận tro Bụi thấp hèn của mình : “Hỡi người hãy nhớ mình là Bụi tro, một mai người sẽ trở về cùng Bụi tro”, chúng ta hãy khiêm tốn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa. Nhất là khi được Giáo Hội nhắc nhở : “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, chúng ta cũng ý thức để canh tân đổi mới chính mình.
Cũng như lời Tiên Tri Gioen kêu gọi dân Do Thái sám hối : “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi”, sám hối phải xuất phát từ cõi lòng chân thực, chứ không phải chỉ có những việc làm Bề ngoài. Việc xức tro trên đầu chỉ là dấu hiệu cho việc “xức tro tâm hồn”. Nghĩa là chúng ta phải thật lòng nhận ra thân phận tội lỗi của mình mà hối cải.
Cũng như Thánh Phaolô đã nài nỉ giáo đoàn Côrintô : “Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”, thì đó cũng là lời kêu gọi dành cho chúng ta hôm nay. Sám hối là nói lời xin lỗi với Chúa và anh em. Đây không phải là lời xin lỗi suông, nhưng là cuộc hòa giải thật sự, xuất phát từ trái tim khao khát được thứ tha.
Phụng vụ mùa chay không dùng màu rực rỡ, nhưng dùng màu tím trầm lắng và âm thầm để nhắc nhở chúng ta đừng phô trương những việc làm đạo đức và Bác ái. Nhưng hãy thực hiện những việc ấy với thái độ khiêm tốn và âm thầm. Đây chính là lời dạy của Chúa trong Tin Mừng Matthêu : việc Bố thí, cầu nguyện và ăn chay phải là những nghĩa cử xuất phát từ nội tâm và lòng yêu mến chân thành.
Ngày 31 tháng 01 năm 2004 vừa qua, khoảng 2 triệu người Hồi Giáo đã hành hương về thánh địa Mecca. Trong một nghi lễ gọi là “ném đá Satan”, mọi người dùng đá để ném vào một cây cột tượng trưng cho ma quỷ. Vì hiếu kỳ và sự cuồng tín, hàng trăm ngàn người đã dẫm đạp lên nhau để tiến lên xem cử hành nghi lễ. Kết quả là 244 người thiệt mạng và mấy trăm người khác Bị thương.
Cuộc hành hương trở về với Chúa trong mùa chay không phải là một nghi lễ với những hình thức Bên ngoài, nhưng chính là cuộc hành trình tâm hồn của những người con khao khát trở về trong vòng tay yêu thương của người Cha.
THỨ TƯ LỄ TRO- NĂM C
BƯỚC VÀO MÙA LUYỆN NHÂN ĐỨC ĐỂ CHIẾN THẮNG TỘI LỖI– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa : Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc : Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất : chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai : Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
Ăn chay
Cầu nguyện
Và bố thí
Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là : nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là : ” Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói : ” Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa : ” Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa ” (x. Tl 20, 26) ; ” Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! ” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha : ” Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi : ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo : “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người ” (Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.
Thực hành bác ái
Sống mùa Chay Thánh, ngoài việc ăn chay, cầu nguyện, chúng ta còn phải thực hành bác ái. Ăn chay để giảm bớt những chi tiêu, giảm bớt những ham muốn của xác thịt… Cầu nguyện để gặp được Chúa, để hướng về hạnh phúc đời sau. Làm việc bác ái để cảm nhận, để xót xa và để làm xoa dịu những nỗi thống khổ vất vả nơi những mảnh đời thật sự đau thương cần ta trợ giúp.
Tóm lại, mùa Chay hàng năm là dịp để ta hướng lòng lên Thiên Chúa và mở lòng ra với tha nhân trong tình yêu thương. Như vậy ăn chay mà lòng không hướng về Chúa, không cầu nguyện thì chưa phải là ăn chay đúng ý hướng của Giáo hội. Vừa ăn chay vừa cầu nguyện mà không làm việc bác ái thì thiếu đi tình người, thiếu đi lòng thương xót đối với những mảnh đời đang thật sự cần ta trợ giúp. Vì thế, chủ đề của sứ điệp Mùa Chay năm nay lấy từ thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.” (Rm 8,19). Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy : “Chay tịnh, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả những loài thọ tạo, học cách từ bỏ cám dỗ “nuốt chửng” mọi thứ để thỏa mãn lòng khao khát tham lam của chúng ta và sẵn sàng chịu đựng cho tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng trong con tim chúng ta. Lời cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ thói thờ ngẫu tượng và sự tự mãn của bản ngã, giúp ta nhìn ra rằng chúng ta cần đến Chúa và lòng thương xót của Ngài. Việc bố thí, nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc tích trữ mọi thứ cho bản thân với niềm tin viễn vông rằng chúng ta có thể bảo đảm cho mình một tương lai không hề thuộc về chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui trong chương trình của Chúa dành cho sáng tạo và cho mỗi người chúng ta, đó là yêu mến Người, anh chị em của chúng ta, và toàn bộ thế giới, và tìm thấy nơi tình yêu này hạnh phúc đích thực của chúng ta” (Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).
Vào cuối sứ điệp, Đức Giáo hoàng khuyên chúng ta rèn nhân đức để chiến thắng tội lỗi: “Chúng ta hãy bỏ lại sau lưng tính ích kỷ và sự tự hấp thụ vào chính mình, nhưng hướng đến sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đứng bên cạnh những anh chị em đang túng thiếu của chúng ta, chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất của chúng ta với họ. Nhờ thế, khi chào đón vào cuộc sống của chúng ta một cách cụ thể chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và cái chết, chúng ta cũng sẽ phản chiếu ánh quang rạng rỡ quyền năng biến đổi của chiến thắng ấy cho tất cả các tạo vật” (Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ những quyết tâm của chúng con trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này. Amen.
SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY- Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế OP
Chúng ta đã vào Mùa Chay. Cũng như mọi năm, Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo dài trong 40 ngày. 40 ngày này nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết và mừng ngày Phục sinh của Người. Ngòai ra, Mủa Chay còn nhắc cho chúng ta thời gian 40 đêm ngày Chúa ăn chay cầu nguyện, trước khi công khai ra truyền đạo, để mặc khải cho nhân lọai sứ mệnh cứu nhân độ thế của Người. Trong Mùa Chay, Hội thánh muốn đón nhận sứ điệp cứu độ với một tấm lòng quảng đại đặc biệt. Vì thế, Hội thánh rất chú ý lắng nghe những lời của Chúa Kitô loan báo Nước Thiên Chúa. Lời nói cuối cùng của Người chính là cái chết trên cây thập tự để làm lễ giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.
Vậy có ba ý tưởng chính cho chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành trong Mùa Chay.
Thánh giá
Trong Mùa Chay, mọi người chúng ta phải chú ý đặc biệt nhìn lên thánh giá để tìm hiểu thêm ý nghĩa hùng hồn mà thánh giá muốn nói với chúng ta. Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta không chỉ nhớ lại những biến cố đã xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm mà còn đón nhận một bài học gửi cho thời đại chúng ta, cho người ngày nay vì “Đức Kitô hôm qua cũng như hôm nay và muôn đời vẫn là một” (Dt 13,8). Thánh giá của Người là một lời kêu mời mạnh mẽ thúc giục chúng ta ăn năn hối cải và thay đổi đời sống, vì chính Ngừoi đã bằng lòng chịu chết treo trên cây thập tự để cứu chuộc chúng ta, để biến đổi chúng ta từ tình trạng là những kẻ thù nghịch với Thiên Chúa trở nên con cái và thừa hưởng gia nghiệp muôn đời. Cho nên, chúng ta phải coi lời kêu gọi này là gửi đến cho mỗi người và mọi người nhân dịp Mùa Chay. Nói khác đi, sống Mùa Chay có nghĩa là nhờ Chúa Giêsu mà thay đổi đời sống và qui hướng về Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Ý tưởng thứ hai là cầu nguyện. Trong Tin Mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu nói đến cầu nguyện và gắn liền cầu nguyện với thay đổi đời sống. Phải cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa mới mong thay đổi được đời sống, vì nhờ cầu nguyện, con người chúng ta được lay động thức tỉnh, do đấy nhìn ra những điều cần phải thay đổi trong đời sống của mình mà ăn năn hối cải. Trong Mùa Chay, chúng ta phải cầu nguyện, cố gắng cầu nguyện, tìm ra thời giờ và những nơi để cầu nguyện. Cầu nguyện đưa chúng ta ra khỏi thái độ dửng dưng và làm cho chúng ta nhậy cảm với những điều có liên quan đến Chúa và các linh hồn. Cầu nguyện cũng giáo dục lương tâm chúng ta và Mùa Chay rất thích hợp cho công việc này. Trong Mùa Chay, Hội thánh nhắc bảo chúng ta phải xưng tội để lương tâm được trong sạch mà sống mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, không phải trong phụng vụ mà thôi nhưng trong cả tâm hồn nữa.
Ăn chay, chia sẻ
Làm phúc, bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. An chay không chỉ có nghĩa là bớt ăn hay không ăn mà còn có nghĩa là thắng mình, là đòi hỏi với chính mình, sẵn sàng từ chối ăn uống và chấp nhận hy sinh những vui thích.Và làm phúc có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những nỗi đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khỗ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Chúa Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han.” (Mt 25, 35-36)
Trong Mùa Chay, chúng ta thường nghe đọc : “Đây là lúc Chúa thi ân, đây là ngày Chúa cứu độ.” Vậy chúng ta hãy tận dụng thời gian này vì là thời thuận tiện và là thời Chúa ban ơn để chúng ta sám hối và tin vào tin Mừng như Chúa dạy : “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào tin Mừng.” (Mc 1, 15)
THÔNG ĐIỆP CỦA NGÀY LỄ TRO- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn.
Nhà kia có hai đứa con. Một đứa thì được cha mẹ chăm sóc tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, cung cấp cho đủ thứ, không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái luân thường đạo lý thì cũng cho luôn.
Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men, không cho bất cứ gì nó cần.
Làm cha mẹ như thế có công bằng không? Có xứng đáng làm cha mẹ nữa không? Làm cha mẹ như thế có đáng bị lên án không?
Hai đứa con nói trên tượng trưng cho hai thành phần của tôi : linh hồn và thân xác. Con người tôi có xác nhưng cũng có linh hồn. Vậy mà tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.
24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác.
168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.
720 giờ của một tháng cũng đều dành trọn cho thân xác.
Và cứ thế, từ ngày nầy trải qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.
Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.
Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao ?
Lời Chúa vang lên trong nghi thức xức tro nhắc nhở tôi nhớ đến số phận mình:
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, mai sau người sẽ trở về với bụi tro.”
Những hạt bụi tro li ti rắc trên đầu trong ngày lễ tro hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây, sớm muộn gì thân xác ta cũng sẽ hóa thành bụi tro như thế. Bụi tro là chung cuộc của thân xác con người. Sống thêm một năm là nhích lại gần nấm mồ hơn một chút. Tăng thêm một tuổi là rút ngắn thêm một chặng nữa tiến trình hóa thành tro bụi của thân xác mình.
Thế là cuối cùng, thân xác tôi chỉ còn là một nắm tro bụi li ti.
Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro!Như thế có khác chi những con dã tràng cố công xây những lâu đài trên cát để rồi chốc lát sau sóng biển ập đến và xóa sạch không để lại vết tích gì.
Nói như thế không phải để bi quan chán sống, nhưng để tìm cách sống sao cho kiếp người có một kết cục tươi sáng vẻ vang hơn.
Biết như thế để từ nay, ta không mê muội đầu tư tất cả cho thân xác, không để cho những đam mê xác thịt nhận chìm hồn thiêng của ta trong địa ngục muôn đời, nhưng biết chăm lo xây dựng đời sống thiêng liêng, quyết tâm vun đắp đời sống tâm linh để cho hồn thiêng của mình mãi mãi trường tồn trong vinh quang thiên quốc.
Biết thế thì ta phải công bằng với linh hồn ta. Thân xác nầy nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn ta sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.
MÙA CHAY TRỞ VỀ – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta bước vào hành trình “chiến đấu thiêng liêng”, bằng việc canh tân cải thiện đời sống, để chúng ta cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương. Đây là thời gian hết sức đặc biệt, Thiên Chúa dang rộng đôi tay chờ đón chúng ta trở về, trở về để được Chúa yêu thương, trở về để được Ngài tha thứ.
Cuộc hành trình nào ra đi cũng có ngày trở về: Người Do thái, sau bao nhiêu năm đi lưu đầy nơi đất khách quê người bên Aicập, rồi Chúa cũng dẫn đưa họ trở về miền đất Hứa.
Chúa Giêsu từ trời cao xuống đất thấp để cứu độ nhân loại, rồi sau khi hoàn tất chương trình cứu độ Ngài cũng trở về cùng Thiên Chúa Cha.
Người con hoang đàng sau khi bỏ nhà ra đi ăn chơi phung phí hết tiền của rồi cũng trở về nhà cha mình.
Tương tự như thế, đời sống đạo của chúng ta là một cuộc hành trình đức tin đang tiến về quê trời. Trong cuộc hành trình dài này, hằng năm Giáo Hội thiết lập Mùa Chay 40 với ngày, mục đích giúp các tín hữu sống tâm tình:
1/ Trở về với Chúa, bằng việc sám hối và cầu nguyện
2/ Trở về với chính mình, bằng việc ăn chay và xưng thú tội lỗi
3/ Trở về với tha nhân, bằng việc tha thứ và bố thí
Bước vào đầu Mùa Chay, Giáo hội cử hành việc xức tro và ăn chay kiêng thịt. Ở trong Thánh Kinh:
Tro diễn tả thân phận mong manh mau qua của con người: ” Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro, rồi mai ngày sẽ trở về đất bụi”. Có nhiều người thắc mắc ngày xưa người Do thái ăn chay rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay chỉ xức có một chút ít tro thôi sao?
Việc xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì? Vì thế, ngày nay Giáo Hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng nhưng nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn.
Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy tâm hồn ta hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên Chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo Thánh Chúa, mỗi khi ta cố tình phạm tội trọng, làm gương mù gương xấu cho người khác.
Hãy xức tro vào tâm hồn, để thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị tổn thương, vì những tham vọng, ích kỷ, nhỏ nhen của ta.
Hãy xức tro vào tâm hồn, để khi làm bất cứ việc gì, hãy nhớ đến ngày tận cùng của đời ta.
Cũng có người khác lại thắc mắc, tại sao ngày xưa Giáo hội ăn chay trong 40 ngày, mà ngày nay chỉ còn có hai ngày là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh?.
Giáo hội giản lượt việc ăn chay vào hai ngày trong một năm, không có ý coi nhẹ, nhưng Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay theo hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn.
Mục đích ăn chay nhắc nhớ ta:
Hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em.
Nhịn đói một bữa cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác.
Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một thói xấu của người bên cạnh.
Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, và làm hoà với nhau.
Kìm chế cơn đói không bằng kềm chế miệng lưỡi, nói hành, nói xấu người khác.
Kìm chế cơn khát không bằng kiềm chế tính nóng nảy của mình.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng thời Cựu Ước: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do thái có tục lệ khi ăn chay thì xé áo ra, đó là một hình thức sám hối. Nhưng điều quan trọng hơn là tâm hồn phải thực sự sám hối.
Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, ích kỷ, chỉ biết lo vun đắp cho mình mà không biết chia cơm xẻ áo cho người khác.
Xé áo không bằng xé lòng ta khỏi tính lười biếng, khô khan, nguội lạnh, sống vô trách nhiệm.
Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những giận hờn chia rẻ.
Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, chúng ta mới đến gần Chúa hơn, sống tình thân mật với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, chúng ta mới sống bác ái với tha nhân.
Người Do Thái thời Cựu Ước ăn chay rất nhiều, thế nhưng các ngôn sứ đã lên tiếng tố giác: một thứ ăn chay nặng hình thức, và ngay cả Chúa Giêsu cũng lên tiếng tố giác về một thứ ăn chay như thế. Cho nên, Chúa bảo chúng ta khi ăn chay, thì xức nước hoa lên đầu cho thơm, mặt mày thì tươi tắn lên, để người ta không biết mình ăn chay, nhưng có Chúa biết là đủ rồi.
Đó là một vài gợi ý của việc xức tro và chay tịnh. Giờ đây, chúng ta cùng nhau bước sang phần cử hành việc xức tro.
MÙA CHAY, THỜI GIAN ĐỂ ĐƯỢC THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB
“Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài!” (Ge 2:17)
Vào thời tiên tri Giô-en, trong lúc dân đang gặp thảm họa với nạn châu chấu tàn phá, thì lời kêu gọi của vị ngôn sứ “Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương” là khơi dậy cả một niềm hy vọng! Thế nhưng ngay cả vị ngôn sứ cũng chỉ mới dám hy vọng, chứ chưa nắm chắc được điều gì khi ông lên tiếng: “Biết đâu Người chẳng nghĩ lại” (Ge 2:13-14). Rõ ràng ông đã ngập ngừng! Hình phạt thì chắc rồi vì đang xảy ra, và vì vậy lời kêu gọi sám hối và chay tịnh phải khẩn thiết: “hãy rúc tù và, hãy ra lệnh giữ chay thánh…” Tóm lại, cần phải xức tro và chay tịnh để mong đượcThiên Chúa quyền năng công thẳng thương xót thứ tha khỏi hình phạt sắp giáng xuống. Trong cùng một truyền thống ngôn sứ, lời kêu gọi và phép rửa của Gio-an tiền hô sau này cũng mang nội dung tương tự: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây!” (Mt 3:10).
Thế còn Hội Thánh Chúa Ki-tô, Hội Thánh của Tin Mừng cứu độ, muốn nói với tôi điều gì khi thiết lập Mùa Chay thánh? Phải chăng cũng cùng một nội dung tương tự như các ngôn sứ đã kêu gọi dân Do Thái xưa? Nếu là như thế thì tôi thiết nghĩ: thời gian và sứ điệp này chỉ nặng ký đối với những ai hiện còn đang sống trong tội lỗi, còn thì thật nhẹ nhõm, thậm chí không cần thiết, đối với một số khác, những người đã hoặc đang sống đạo đức tốt lành. Có lẽ vì vậy mà nhiều tín hữu ‘lành thánh’, trong đó tất nhiên có nhiều linh mục và tu sĩ, có thái độ coi nhẹ thời gian này. Họ nghĩ là cứ cặn kẽ tuân giữ các qui định về ăn chay kiêng thịt, hoặc làm một số việc hy sinh (cá nhân hoặc tập thể), và thế là mùa chay tốt đẹp rồi.
Đức Giê-su thẳng thừng tuyên bố rằng: ăn chay kiểu đó không còn cần thiết nữa (xem Mt 9:14-17); ngay cả cái cách biểu lộ việc giữ chay tịnh như thời Cựu Ước của ngôn sứ Giô-en cũng không nên tồn tại. Lý do sâu xa là vì, tình thế đã thay đổi tận gốc rễ: Chàng Rể của tình yêu đã tới và vì thế than khóc, chay tịnh không còn ý nghĩa; trừ phi tình thế bị đảo ngược. Nếu thế thì các Ki-tô hữu phải tìm ra nơi Mùa Chay một nét nào đó hết sức độc đáo của Tân Ước: Chàng Rể của lòng từ nhân đã tới, và vì thế đây phải là thời gian của vui mừng và hy vọng, thời gian tập trung mọi cặp mắt hướng về Chàng; vì thế Mùa Chay trở thành quan trọng; chính vì Ki-tô hữu chúng ta không còn mong đợi trong hy vọng nữa, mà đã thật sự đón nhận và tận hưởng; ai càng đón nhận bao nhiêu thì lại càng có khả năng tận hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót bấy nhiêu. Nếu xưa kia Giô-en kêu gọi dân chúng giữ chay là để hy vọng được Thiên Chúa xót thương, thì ngày nay Hội Thánh của Đức Ki-tô kêu gọi giữ chay là để các tín hữu có dịp vào sâu hơn trong lòng xót thương cứu độ, nói cách khác: để khám phá rõ hơn khuông mặt nhân ái của Thiên Chúa. Đối với Ki-tô hữu “Thiên Chúa thương xót” không còn là chuyện “biết đâu”; Thập Giá Đức Giê-su đã là bảo chứng vững chắc: “Con Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi và phó mộp mình vì tôi” (Gl 2:20). Vì thế họ nắm rất vững: sám hối, chay tịnh, kể cả làm việc lành phước đức… không phải là điều kiện để được Chúa xót thương. Thiên Chúa xót thương và yêu mến họ trước cả khi họ làm các điều ấy, vì Người yêu họ vô điều kiện, yêu hoàn toàn nhưng không, yêu tới mức độ chết cho họ ngay cả khi họ còn là những tội nhân phản nghịch. Mỗi khi mở miệng thốt lên: “Xin Chúa thương xót chúng con”,Ki-tô hữu tuyên xưng cách vững chắc niềm tin của mình vào một Thiên Chúa từ nhận và hay thương xót, hơn là cầu khẩn để mong nhận được lòng thương xót như dân Do thái trong thời Cựu Ước xưa.
Mùa chay mà Hội Thánh công bố cho tất cả mọi tín hữu qua việc xức tro hôm nay phải mang nội dung nói trên. Đối với các dự tòng và người tội lỗi, có thể còn mang dáng dấp của tinh thần Cựu Ước và các ngôn sứ, nhưng với các Ki-tô hữu trưởng thành thì Mùa Chay phải mang ý nghĩa tích cực hơn nhiều. Và đừng có lo lắng nghĩ rằng: đi sâu hơn vào lòng thương xót Chúa sẽ làm chùng đi mất sự căng thẳng của dây đàn thống hối đang réo rắt. Ngược lại là đàng khác, chính vì tâm hồn biết ca tụng lòng thương xót vô biên của Chúa mà ta sẽ càng thấy cấp bách cần phải thanh luyện mình hơn nữa, càng thấy có nhu cầu phải chay tịnh và chân thành thống hối nhiều hơn nữa, để được xứng đáng với tình yêu xót thương; đúng như câu nói của Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta: “Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi lành thánh, nhưng tôi nỗ lực trở nên lành thánh vì biết rằng Chúa đã yêu thương tôi”.
Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận sứ điệp Mùa Chay mà Hội Thánh loan truyền: “Này là mùa hồng ân, này là ngày cứu độ!” Xin cho con biết dùng thời gian 40 ngày này để đào sâu hơn nữa vào lòng Chúa xót thương và tha thứ. Và nếu trong Mùa Chay này con có thi hành được việc lành hay chay tịnh nào, thì cũng xin cho con nhờ đó mà cảm nghiệm được, và sống sâu xa hơn tình Chúa bao la. A-men.