CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
TAM NHẬT THÁNH 2017
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NGƯỜI TÔI TỚ YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ- Lm. Carolô Hồ Bạc Xái 29
TÌNH YÊU TRỌN HẢO– ĐGM. Jos. Vũ Văn Thiên. 35
TÌNH YÊU HIẾN DÂNG – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 39
THÁNH THỂ- QUÀ TẶNG TÌNH YÊU- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 41
YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 48
BÁNH KHÔNG MEN- JM. Đan Thy. 52
TIỆC LY, BỮA TIỆC CỨU ĐỘ- Lm Giuse Nguyễn Thành Long. 61
Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY – Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng 66
THÁNH THỂ, THIÊN CHỨC LINH MỤC VÀ GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 69
THÔI ĐỪNG GIẾT CHÚA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 90
THẬP GIÁ CỦA CHÚA – THẬP GIÁ CỦA TÔI- ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên 93
TÔN KÍNH THÁNH GIÁ- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 98
TÔN THỜ THÁNH GIÁ KHÁM PHÁ TÌNH YÊU – SUY TÔN THÁNH GIÁ CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 107
NGÔI HAI THIÊN CHÚA CÓ CẦN PHẢI CHẾT CHO CON NGƯỜI KHÔNG?- Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 112
SỰ THINH LẶNG CỦA THẬP GIÁ- R. Veritas. 117
BA CÁCH ĐÓN NHẬN CÁI CHẾT KHÁC NHAU- Lm. Giuse Tạ duy Tuyền 120
TÌNH YÊU CAO VỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 124
SỐNG CAO ĐẸP CHẾT KHÔNG CÙNG- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 127
TIẾNG NÓI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 130
“VINH QUANG CỦA TA LÀ THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ”- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam 136
CHIẾN THẮNG TỪ CÂY THẬP GIÁ – Trích Logos năm A.. 139
ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN– Chú giải của Noel Quesson (*) 143
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG- Chú giải của Fiches Dominicales 150
ĐÊM THÁNH- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 156
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 160
MỪNG CHÚA PHỤC SINH- ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc. 162
CANH THỨC VƯỢT QUA- ĐGM. Phêrô Nguyễn văn Khảm.. 166
NẤM MỒ– ĐGM. Giuse Vũ văn Thiên. 170
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI – Radio Veritas Asia. 173
THIÊN CHÚA VẪN HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Tạ duy Tuyền. 176
HÃY LĂN TẢNG ĐÁ RA- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 179
CÁC BÀ TÌM GIÊ-SU NA-DA-RÉT, NGƯỜI BỊ ĐÓNG ĐINH CHỨ GÌ?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB 183
ÁNH SÁNG NIỀM TIN- Trích Logos năm A.. 187
—————————————————
TAM NHẬT THÁNH
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Xh 12, 1-8. 11-14
“Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua”.
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.
1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
2) Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.
3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 11, 23-26
“Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 13, 34
Chúa phán: “Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.
PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15
“Ngài yêu thương họ đến cùng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.
Ðó là lời Chúa.
***
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
BÀI ĐỌC I: Is 52,13 – 53,12
“Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta”.
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe. Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người. Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta. Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
BÀI ĐỌC II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
“Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.
Bài trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
PHÚC ÂM: Ga 18,1 – 19,42
“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa lại: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu bảo: “Ta đây”. C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. “Các ngươi tìm ai?” C. Chúng thưa: S. “Giêsu Nadarét”. C. Chúa Giêsu đáp lại: “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”. C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!” C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?” C. Ông đáp: S. “Tôi không phải đâu”.
Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”. C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”. C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?” C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?” C. Ông chối và nói: S. “Tôi không phải đâu”. C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?” C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”. C. Họ đáp: S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”. C. Philatô bảo họ: S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”. C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”. C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” C. Philatô đáp: S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”. C. Philatô hỏi lại: S. “Vậy ông là Vua ư?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”. C. Philatô bảo Người: S. “Chân lý là cái gì?” C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?” C. Họ liền la lên: S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”. C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. “Tâu Vua Do-thái!” C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. “Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”. C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. “Này là Người”. C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. “Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!” C. Philatô bảo họ: S. “Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”. C. Người Do-thái đáp lại: S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”. C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. “Ông ở đâu đến?”
Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?” C. Chúa Giêsu đáp: J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”. C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”. C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. “Ðây là vua các ngươi”. C. Nhưng họ càng la to: S. “Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!” C. Philatô nói: S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?” C. Các thượng tế đáp: S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”. C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô: S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”. C. Philatô đáp: S. “Ðiều ta đã viết là đã viết”. C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”. C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. “Hỡi Bà, này là con Bà”. C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. “Này là Mẹ con”. C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. “Ta khát!” C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. “Mọi sự đã hoàn tất”. C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
***
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Canh Thức Vượt Qua
(Ðề nghị đọc chín bài đọc, bảy bài trích ở Cựu Ước và hai bài trích ở Tân Ước. Nếu hoàn cảnh không cho phép, và khi có lý do đặc biệt, có thể bớt số bài đọc. Nhưng phải đọc ít là ba bài trích ở Cựu Ước trước Thánh Thư và Tin Mừng; còn nếu gấp quá, thì đọc ít là hai bài đọc trước Thánh Thư và Tin Mừng. Nhưng không khi nào được bỏ bài trích sách Xuất Hành (Xh 14, 15 – 15, 1) nói về việc qua Biển Ðỏ.)
BÀI ĐỌC I: St 1,1 – 2,2
“Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm thật là tốt đẹp”.
Bài trích sách Sáng Thế.
Từ nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng”. Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất. Thiên Chúa phán: “Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước”; và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía dưới vòm trời với nước phía trên vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai. Thiên Chúa phán: “Nước dưới trời hãy tụ lại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: “Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống; và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba. Thiên Chúa còn phán: “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư. Thiên Chúa lại phán: “Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát, và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm. Thiên Chúa lại phán: “Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc, và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Thiên Chúa phán: “Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu. Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 32, 4-5. 6-7. 12-13. 20 và 22
Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).
1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
2) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng.
3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái loài người.
4) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. – Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
BÀI ĐỌC II: Xh 14,15 – 15,1 (bắt buộc)
“Con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn”.
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết”. Sứ thần Thiên Chúa thường đi trước hàng ngũ Israel, liền bỏ trở lại sau họ. Cột mây thường đi phía trước, cũng theo sứ thần trở lại phía sau, đứng giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Và đám mây thường soi sáng ban đêm trở thành mù mịt, đến nỗi suốt đêm, hai bên không thể tới gần được. Môsê giơ tay trên biển, thì bằng một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, Chúa dồn biển lui và làm cho biển khô cạn. Nước rẽ ra và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước dựng lên như bức thành hai bên tả hữu. Người Ai-cập đuổi theo, toàn thể binh mã của Pharaon, chiến xa và kỵ binh đi theo sau Israel vào giữa lòng biển. Lúc gần sáng, qua cột mây lửa, Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người lật đổ bánh xe, khiến xe tiến tới thật vất vả. Người Ai-cập nói: “Ta hãy chạy trốn Israel, vì Chúa chiến đấu giúp họ, chống chúng ta”.
Chúa phán bảo Môsê: “Hãy giơ tay trên biển để nước trở lại vùi dập người Ai-cập, chiến xa và kỵ binh của chúng”. Môsê giơ tay trên biển, và lúc tảng sáng, biển trở lại như cũ. Người Ai-cập chạy trốn, gặp ngay nước biển ập lại. Chúa xô chúng ngã giữa lòng biển. Nước trở lại, vùi dập chiến xa và kỵ binh. Toàn thể quân lực của Pharaon đã theo dân Israel xuống biển, không còn tên nào sống sót. Còn con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước dựng như bức thành hai bên tả hữu. Ngày đó Chúa cứu Israel khỏi tay Ai-cập. Và họ thấy xác người Ai-cập trôi dạt đầy bờ, và thấy cánh tay oai hùng của Thiên Chúa đè bẹp Ai-cập. Toàn dân kính sợ Chúa, tin vào Chúa và vào Môsê tôi tớ người. Bấy giờ Môsê cùng với con cái Israel hát mừng Chúa bài ca này:
(Không đọc: Ðó là lời Chúa).
ÐÁP CA: Xh 15, 1-2. 3-4. 5-6. 17-18
Ðáp: Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả (c. 1a).
1)Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống biển khơi. Chúa là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được cứu thoát. Người là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ tôi, tôi sẽ hát ca mừng Chúa.
2) Chúa như là người chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ và đạo binh của Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Ðỏ các tướng lãnh của ông.
3) Các vực thẳm đã chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa, tay hữu Chúa biểu dương sức mạnh; lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù.
4) Chúa đem con cái Israel trồng trên núi gia nghiệp Chúa, nơi vững chắc Chúa làm nơi cư ngụ, ôi lạy Chúa, là cung thánh tay Chúa đã lập nên; Chúa sẽ thống trị muôn đời muôn kiếp.
BÀI ĐỌC III: Is 55, 1-11
“Hãy đến cùng Ta và hồn các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mĩ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít: Ðây Ta đặt ngươi làm nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư cho các dân tộc. Này ngươi sẽ kêu gọi dân mà trước ngươi không biết, và các dân trước chưa biết ngươi, sẽ chạy đến cùng ngươi, vì Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng Thánh Israel, bởi vì Chúa làm cho ngươi được hiển vinh. Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót, hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thể ấy. Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn; cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ (c. 3).
1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi.
2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang.
3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi.
BÀI ĐỌC IV: Ed 36, 16-17a. 18-28
“Ta sẽ đổ trên các ngươi nước trong sạch và sẽ ban cho các ngươi quả tim mới”.
Bài trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, khi dân Israel cư ngụ trên đất mình, họ đã làm dơ bẩn đất ấy bằng đời sống và việc làm của họ. Và Ta đã nổi giận họ, vì họ đã đổ máu trên phần đất ấy, và vì các thần tượng họ thờ làm dơ bẩn phần đất ấy. Ta đã phân tán họ đi khắp các dân tộc, và cho họ sống rải rác trong các nước; Ta đã xét xử theo đời sống và việc làm của họ. Họ đã đi đến các dân tộc và ở đó họ xúc phạm thánh danh Ta, vì thiên hạ nói về họ rằng: “Này là dân của Chúa, họ bị đuổi ra khỏi đất của Người”. Và Ta đã thương hại thánh danh Ta mà nhà Israel đã xúc phạm nơi các dân tộc họ đến cư ngụ. Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Israel rằng: “Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, nhưng vì thánh danh Ta đã bị các ngươi xúc phạm nơi các dân tộc mà các ngươi đi đến cư ngụ. Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 41, 3. 5bcd; Tv 42, 3. 4
Ðáp: Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! (c. 41, 2)
1) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống: ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
2) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
Hoặc (khi có Rửa tội): Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch.
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
2) Xin Chúa lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung.
THÁNH THƯ: Rm 6, 3-11
“Chúa Kitô, một khi tự trong cõi chết sống lại, Người không chết nữa”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Alleluia, alleluia, alleluia.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
PHÚC ÂM: Mt 28, 1-10
“Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay”. Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”.
Ðó là lời Chúa.
——————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
NGƯỜI TÔI TỚ YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ– Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến. Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ. Thời gian cao điểm này bắt đầu bằng Thánh lễ chiều hôm nay, nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh thể và Chức Linh mục. Mỗi lần chúng ta dâng Thánh Lễ là chúng ta hiện tại hóa hy tế Thập giá, nhất là Thánh lễ chiều hôm nay.
Ngày xưa các tông đồ đã vây quanh Chúa Giêsu bên bàn Tiệc ly. Chiều nay chúng ta cũng thế. Chúng ta hãy có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ để dâng Thánh lễ này.
GỢI Ý SÁM HỐI
Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng rằng “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết”. Nhưng chúng ta có dâng Thánh lễ với tâm tình của người chứng kiến cái chết đau đớn của Chúa Giêsu không ?
Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta tuyên xưng tiếp rằng “… và tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Nhưng chúng ta có thực sự xác tín rằng Chúa đã sống lại và đang sống với chúng ta cách thân thiết trong Thánh Thể không ?
Mỗi khi dâng Thánh lễ, chúng ta còn tuyên xưng tiếp rằng “… cho tới khi Chúa lại đến”. Nhưng chúng ta có thực sự hợp tác với Chúa để biến đổi thế giới này trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến không ?
LỜI CHÚA
Bài đọc I : Xh 12,1-14
Hàng năm dân do thái vẫn kỷ niệm ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ ai cập bằng một bữa tiệc gọi là Tiệc Vượt qua. Đoạn sách Xuất hành này ghi lại những quy định tỉ mỉ về việc chọn con chiên vượt qua và về những nghi thức trong bữa ăn đó.
Thánh lễ mà Chúa Giêsu lập làm cho bữa tiệc vượt qua thêm đầy đủ ý nghĩa : chính Chúa Giêsu là Con Chiên vượt qua, cái chết của Ngài đã giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Đáp ca : Tv 115
Tv này là lời cầu nguyện sau bữa tiệc vượt qua. Tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận.
Lời nguyện tạ ơn này có được trọn vẹn ý nghĩa trong Thánh lễ, vốn được gọi là “Lễ Tạ ơn”.
Tin Mừng : Ga 13,1-5
Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng Chúa Giêsu ăn với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho họ. Việc này có rất nhiều ý nghĩa :
– Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng”, nghĩa là yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế của Ngài, mà cũng là yêu thương đến mức không thể nào yêu thương hơn được nữa : Vì yêu thương Ngài đã hiến mình làm lương thực cho họ ; vì yêu thương, Ngài đã chịu chết cho họ.
– Tình yêu thương phải được biểu lộ ra bằng hành động. Vì thế, Ngài không ngại quỳ xuống trước các môn đệ và rửa chân cho họ như một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho chủ.
Bài đọc II : 1 Cr 11,23-26
Có nhiều lệch lạc trong cộng đoàn Côrintô trong việc cử hành bữa tiệc vượt qua kitô giáo, tức là Thánh lễ. Thánh Phaolô viết đoạn thư này để nhắc các tín hữu ý nghĩa của Thánh lễ : Thánh lễ vừa là tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vừa là hiện tại hóa những ơn ích của cái chết đó. Vì thế ta phải dâng Thánh lễ với tâm tình yêu mến và biết ơn Chúa, đồng thời phải yêu thương đoàn kết với nhau.
GỢI Ý GIẢNG
Những bài học từ bữa tiệc ly
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu dạy các môn đệ mình những bài học sâu sắc bằng việc làm và lời nói của Ngài :
– Bằng việc làm : Trước khi hiến thân chịu chết trên thập giá và trước khi hiến mình làm của ăn, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. 3 việc làm này liên kết với nhau và đều dạy bài học phục vụ : phục vụ như Người Tôi tớ mà ngày xưa ngôn sứ Isaia đã tiên báo ; phục vụ cách khiêm tốn, phục vụ với tình yêu và phục vụ đến nỗi hy sinh bản thân mình.
– Bằng lời nói : trong bầu khí thân mật của gia đình, Chúa dạy một điều răn mới. Điều răn này mới không phải ở nội dung (“chúng con hãy thương yêu nhau”) mà ở cách thức và mức độ thi hành (hãy yêu hương nhau “như Thầy yêu thương chúng con” ; “Thầy đã làm gương để chúng con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho chúng con”).
Cử hành Lễ Vượt qua với Chúa Giêsu trước hết là chấp nhận để cho Chúa Giêsu phục vụ chúng ta và yêu thương chúng ta. Có như thế chúng ta mới được thực sự rửa sạch, như lời Chúa Giêsu đã nói với Phêrô xưa.
Cử hành lễ Vượt qua với Chúa Giêsu còn là phải noi gương Ngài để trở thành người tôi tớ yêu thương và phục vụ những người khác theo cách của chính Chúa Giêsu.
Hai chiều kích của bữa tiệc ly
Thánh lễ ngày nay là hiện tại hóa bữa tiệc ly đêm thứ năm tuần thánh đầu tiên. Nó có hai ý nghĩa chính :
– Đó là một bữa ăn gia đình : mọi người cùng ngồi một bàn với nhau, cùng ăn những món chung nhau, cho nên phải đoàn kết yêu thương nhau. Đó là chiều ngang. Nhưng nếu chỉ lưu ý tới chiều ngang này thì Thánh lễ hầu như chỉ còn như một bữa giỗ.
– Thánh lễ còn loan báo việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại và hiện tại hóa những ơn sủng dồi dào do việc Chúa Giêsu chết và sống lại ban cho loài người. Đó là chiều đứng.
Khi dâng Thánh lễ chúng ta phải để ý đến cả hai chiều kích ấy và phải có đủ cả hai tâm tình ấy : vừa liên kết với Chúa vừa liên kết với anh em. Sai lầm thường mắc phải là chỉ chú ý đến chiều kích này mà quên đi chiều kích kia.
Rửa chân không phải chỉ là một việc vệ sinh
Phêrô không hiểu ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, nên Chúa Giêsu nói “Việc Thầy làm, bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”.
Về sau, Phêrô đã hiểu gì ? Thưa hiểu rằng đó không phải chỉ là một việc làm vệ sinh, mà ý nghĩa còn sâu sắc hơn nhiều.
Khi tay chân mình dơ thì mình làm gì ? Chặt bỏ đi ư ? Không, không ai muốn chặt tay chặt chân mình bao giờ cho dù nó dơ bao nhiêu đi nữa. Nó dơ thì mình rửa cho sạch. Bởi vì nó là một phần của thân thể mình, một phần của sự sống mình.
Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, bởi vì họ là anh em của Ngài (“Anh em như thể tay chân”). Ngài dạy chúng ta rửa chân cho nhau vì chúng ta cũng là anh em của nhau, tay chân của nhau.
Khi chúng ta chặt bỏ ai thì đó là dấu chúng ta không còn coi người đó là anh em của mình nữa. Chặt bỏ bằng kết án, khai trừ.
Còn nếu chúng ta vẫn còn coi người đó là anh em của mình thì dù người đó dơ bao nhiêu đi nữa, mình sẽ cố gắng rửa cho sạch.
Dòng nước tẩy rửa rất nhẹ nhàng, trong lành, êm ái…
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
——————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
TÌNH YÊU TRỌN HẢO– ĐGM. Jos. Vũ Văn Thiên
Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh. Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.
Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý. Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ. Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người. Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ. Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22). Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên. Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt. Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm. Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?
Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản. Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.
Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau. Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng. Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội. Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.
Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại. Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa. Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này. Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng. Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ? Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.
Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương. Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái. Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này. Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội. Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác. Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận. Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người. Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15). Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.
Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác. Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015 này, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại. Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người. Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.
Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân. Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh.
————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
TÌNH YÊU HIẾN DÂNG – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tình yêu cao đẹp là tình yêu dám hy sinh cho người mình yêu. Yêu là cho đi. Yêu là dâng hiến. Yêu là chấp nhận phần thiệt thòi về mình để cho người mình yêu được hạnh phúc.
Trong bộ phim “Tôi là người đàn ông” đã diễn tả một tình yêu đầy hy sinh nơi chàng trai. Có thể nói tình cảm và sự hy sinh cao cả của chàng nhiếp ảnh gia dành cho cô gái xinh xắn trong bộ phim này khiến người xem thật ngưỡng mộ.
Trong lúc anh ta vui vẻ chụp ảnh cho bạn gái thì máy ảnh hết pin. Cô gái liền vội vã đi lấy tìm pin cho anh nhưng vô tình bị chai nước rửa phim đổ vào mắt và không nhìn thấy được nữa. Vô cùng ân hận và dằn vặt vì gián tiếp làm người yêu thương mình hỏng mắt, nhiếp ảnh gia này đã quyết định hiến tặng đôi mắt của mình cho cô gái, sau đó bỏ đi thật xa.
Một hôm cô ta tình cờ gặp lại anh đang ngồi với chú cún, trên tay vẫn cầm tấm ảnh của cô nhưng không còn thấy đường nữa. Nhìn cảnh chàng nhiếp ảnh gia dắt chú cún đi ngang qua người yêu cũ nhưng không hề hay biết, nhiều bạn nữ đã không cầm được nước mắt.
Tình yêu của Đức Ky-tô yêu nhân loại không phải cho đi một phần thân thể mà là cho đi chính bản thân mình hiến tế vì người mình yêu. Khi Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy”. Đó là một hình ảnh trao ban trọn vẹn tình yêu. Ngài không giữ lại điều gì cho riêng mình. Ngài không toan tính cho riêng mình. Ngài làm tất cả để người mình yêu được hạnh phúc.
Tình yêu của Đức Ky-tô cao đẹp hệ tại ở việc dám chết cho người mình yêu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Ngài chịu sát tế như con chiên hiền lành chịu chết đền tội thay cho nhân gian. Ngài không có tội mà lại gánh lấy hậu quả của tội là đau khổ và sự chết. Ngài thực sự vì yêu mà gánh lấy bao nhục hình.
Thánh lễ thứ Năm Tuần Thánh hôm nay gợi nhớ lại cho chúng ta từng cử chỉ đầy yêu thương của Chúa. Một tình yêu khiêm hạ đến nỗi dám cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Một tình yêu trao hiến đến trao cả thân thể làm của ăn nuôi dưỡng con người. Một tình yêu hiến dâng để có thể cho đi chính mình làm hiến tế hy sinh cứu đời.
Xin cho chúng ta khi chiêm ngắm tình yêu hiến dâng của Chúa cũng biết mặc lấy Đức Ky-tô để có thể trao ban tình yêu của mình cho anh em. Xin cho chúng ta dám cởi bỏ tính ích kỷ chỉ lo cho bản thân để sống yêu thương và phục vụ mọi người như Thầy Giê-su. Xin cho chúng ta biết theo gương Thầy Giê-su bẻ đời mình như tấm bánh trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
THÁNH THỂ- QUÀ TẶNG TÌNH YÊU– Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cách đây vài tháng, cộng đồng mạng khâm phục một người mẹ trẻ về sự hy sinh của cô dành cho con. Cô sống tại Hà Nội. Mang thai được vài tháng, một lần đi khám thai, bác sĩ phát hiện cô có một khối u ác tính trong vòm mắt. Các bác sĩ nói nếu cô đồng ý hóa trị ngay trong giai đoạn đầu thì có thể ngăn chặn được khối u. Tuy nhiên, nếu thực hiện hóa trị, đứa bé trong bụng cô sẽ bị ảnh hưởng và có nguy cơ sẽ chết. Sau khi suy nghĩ và bàn với chồng, cô đã nhất định từ chối các biện pháp hóa trị để không làm ảnh hưởng đến thai nhi. Cô nói rằng : Tôi sẵn sàng chết vì ung thư để con tôi được ra đời khỏe mạnh. Sau những ngày đó, cô đã phải hết sức vất vả để chống chọi với khối u ác tính và để bảo vệ đứa con. Sau đó, cô đã sinh ra một bé trai kháu khỉnh, dễ thương, nhưng rất tiếc, cô chỉ có thể nghe tiếng khóc của con mà không thể nhìn thấy con. Cô chia sẻ trong niềm vui : Đôi mắt của tôi đã đổi được mạng sống của một con người. Tôi sẽ không bao giờ hối hận về quyết định của mình.
Người phụ nữ trên được coi là can đảm, là mẫu gương của tình mẫu tử vì đã dám chấp nhận sự mù lòa, đau đớn vì bệnh tật và chấp nhận cái chết để cứu mạng sống của đứa con mình.
Trong buổi chiều ngày Thứ Năm Thánh hôm nay, chúng ta còn được chứng kiến một tình yêu hy sinh cao cả, vĩ đại hơn, đó là tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Ngài không chỉ hy sinh, chấp nhận đau khổ và cái chết, mà còn muốn trao tặng chính máu thịt của Ngài làm của ăn, của uống để đem lại cho chúng ta sự sống.
Chỉ những ai đã nuôi con, mới hiểu hết nỗi lòng cha mẹ đối với con cái, chỉ những ai sống trong tương quan tình yêu với Chúa Giêsu thì mới có thể cảm nhận được tình yêu của Ngài mà thôi. Thánh Gioan đã cảm nghiệm và đã nhận ra tình yêu thương của Chúa Giêsu dành cho các học trò qua từng lời nói, từng hành động trong bữa tiệc chia tay này.
Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, …Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình, và người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến cùng là yêu như thế nào ? Đó là yêu trọn vẹn, không so đo tính toán, không cân nhắc thiệt hơn và cũng không bao giờ hối tiếc. Yêu đến cùng là chấp nhận mọi sự thiệt thòi, rủi ro về mình, chấp nhận đau khổ và cả cái chết, là làm tất cả những gì có thể cho người mình yêu, để người mình yêu được sống hạnh phúc. Vì thế, Thánh Gioan thấy Chúa Giêsu như một người Cha biết trước mình không còn nhiều thời gian ở với các môn đệ, nên Ngài đã làm tất cả những gì có thể để đem lại hạnh phúc cho môn đệ mình.
Ngài chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Với từng cử chỉ đang diễn ra trước mắt các tông đồ, Thánh Gioan đã nhận ra nhiều ý nghĩa nơi hành động của Chúa Giêsu. Chỗi dậy rời khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra : Chúa Giêsu đã rời bỏ địa vị là một vị Thiên Chúa, một người Thầy để bước đến với con người. Ngài chấp nhận hy sinh đến hiến mạng sống mình cho các môn đệ. Ngài lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và rửa chân cho các môn đệ : Với hành động này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã chấp nhận một cuộc hoán đổi vị trí, từ một Thiên Chúa, Ngài chấp nhận làm con người ; từ một người Thầy, Ngài chấp nhận làm đầy tớ ; từ địa vị được tôn thờ, Ngài chấp nhận trở thành kẻ phục vụ. Chỉ kẻ nô lệ mới rửa chân cho chủ, vậy mà, Chúa Giêsu lại làm công việc ấy cho các môn đệ của mình.
Không chỉ hạ mình làm kẻ phục vụ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài tự hiến chính mình để phục vụ trọn vẹn cho nhân loại. Ngài đã đi đến tột cùng của tình yêu khi dâng tặng thịt mình làm của ăn và máu mình làm của uống cho nhân loại : Đây là mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. Khi yêu nhau, người ta muốn ở mãi bên nhau và nên một với nhau. Vì yêu, Chúa Giêsu cũng muốn ở mãi với con người, muốn nên một với con người. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn, của uống để cho những người Ngài yêu được ăn, và để ngài có thể đi vào trong tâm hồn, vào trong từng đường gân thớ thịt của con người, làm nên máu thịt con người. Với hành động trao ban máu thịt của mình cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy máu thịt của Ngài không chỉ trở thành lương thực bổ dưỡng mà còn có sức thanh tẩy tâm hồn con người khỏi mọi tội lỗi, biến đổi những kẻ đón nhận và trao ban cho họ sức sống thần linh của Thiên Chúa.
Giống như một người cha sắp phải chia tay con mình, ông muốn làm tất cả những gì có thể cho con, Chúa Giêsu cũng vậy. Ngài không chỉ gây bất ngờ cho các môn đệ khi rửa chân và ban thịt máu cho các ông làm của ăn, của uống, Ngài còn làm một việc táo bạo hơn nữa, đó là trao cho các ông quyền nhân danh Ngài để thực hiện những việc Ngài vừa làm, tức là lập nên chức Linh Mục : Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi trao ban cho các tông đồ chức Linh mục, Chúa Giêsu biết rất rõ từng người trong các ông. Chúa biết các ông yếu đuối, thấp hèn và còn mang đầy sự ghen tị, nhỏ nhoi. Vậy mà, Chúa đã tin tưởng đặt quyền năng của mình vào tay các ông. Khi trao cho các ông : Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy, Chúa vừa cho các tông đồ nhân danh Chúa để làm công việc của một vị Thiên Chúa, đồng thời Chúa cũng hạ mình để “vâng lời” các ông. Vì thế, khi các ông làm công việc này, thì Chúa lại hiện diện bằng việc làm cho bánh rượu trở nên thịt máu Chúa và trở nên lương thực để các ông phân phát cho mọi người.
Mặc dù được Chúa trao ban chức linh mục, nhưng Chúa không hề làm thay đổi con người của các tông đồ, cũng không biến các ông thành siêu nhân, nhưng vẫn muốn các ông sống trọn thân phận con người với những giới hạn của con người. Chọn những con người bất toàn để thi hành nhiệm vụ siêu việt, chọn những người yếu đuối, tội lỗi để thực hiện công việc thánh thiêng, Chúa Giêsu muốn các tông đồ ý thức điều đó, để các ông không cậy dựa vào sức riêng mình, nhưng khiêm tốn cậy dựa vào quyền năng và sự nâng đỡ của ơn Chúa.
Chắc chắn trong bữa tiệc ly hôm đó, các tông đồ chưa thể hiểu hết ý nghĩa việc Chúa làm và những điều Chúa mong đợi nơi các ông. Vì thế, Chúa Giêsu đã giải thích : Việc Thầy làm bây giờ, anh em chưa hiểu được, nhưng sau này, anh em sẽ hiểu… Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Đó là bài học quan trọng Chúa muốn các ông đón nhận. Rửa chân cho nhau tức là phải dám từ bỏ vị trí của mình, rời khỏi chỗ an toàn, êm ấm của mình để bước đến với anh em, để phục vụ anh em. Rửa chân cho nhau là phải dám cúi xuống, từ bỏ những tự ái cùng với kiêu căng để khiêm nhường phục vụ anh em, không đòi hỏi, không điều kiện và không mong đợi bất cứ sự đền đáp nào.
Hãy yêu như Thầy đã yêu và hãy làm như Thầy đã làm, đó chính là bài học Chúa muốn nơi mỗi người. Chúa muốn chúng ta phục vụ không vì miễn cưỡng, nhưng hãy làm với sự thúc đẩy của tình yêu. Khi được tình yêu thúc đẩy, ta sẽ biết phải làm gì để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho anh em. Yêu như Chúa yêu là dám trao ban con người và cả cuộc đời cho anh em, là trở nên tấm bánh chấp nhận bị bẻ ra, bị nhai nát để cho anh em được sống hạnh phúc.
Hãy cúi xuống để có thể lắng nghe và thông cảm với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em. Bao lâu chúng ta không dám cúi xuống, không dám rửa chân cho anh em, thì chúng ta không thể nghe, không thể nhìn thấy những đau khổ, bất hạnh của anh chị em mình. Hãy cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, bằng sự yêu thương kính trọng ; hãy cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng, vợ và con cái của mình bằng sự hy sinh, bằng sự trao ban và yêu thương đến tận cùng ; hãy quan tâm đến nhau nhiều hơn, hãy quan tâm đến hàng xóm láng giềng, những người sống bên cạnh chúng ta, hãy để cho trái tim mình nhạy bén và nhắc bảo chúng ta biết phải làm gì cho nhau.
Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy là lời mời gọi tha thiết Chúa gửi đến cho từng người. Hãy siêng năng đến với Bí tích Thánh Thể, siêng năng lãnh nhận, cầm lấy mà ăn để nhận được sự nâng đỡ bổ sức và tình yêu thương của Chúa. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy còn là lời nhắc nhở tất cả chúng ta chu toàn chức linh mục của mình là thờ phượng, tế tự Thiên Chúa, là dâng hy lễ mỗi ngày cùng với những hy sinh, vất vả để làm nên của lễ tôn vinh Thiên Chúa, đem ơn cứu độ cho chính mình và cho gia đình. Đừng để cho công việc và sự lười biếng làm ta quên lệnh truyền thiêng liêng này, đồng thời cũng cầu nguyện và thông cảm cho các linh mục thừa tác, họ là những con người yếu đuối, hèn mọn luôn cần đến sự nâng đỡ và cảm thông của mọi người.
Xin cho mỗi người cảm nhận được tình yêu và thấm nhuần bài học yêu thương phục vụ Chúa dạy hôm nay, để nhờ theo bước Chúa trong những ngày thánh này, chúng ta cũng dám sống và thực hành điều Chúa muốn chúng ta hôm nay : Hãy yêu như Thầy đã yêu và hãy làm như Thầy đã làm cho anh em. Amen.
————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tông đồ Gio-an khảng định: giờ Đức Giê-su ra đi chịu chết chính là đỉnh điểm (kairos) của đời sống Con Người (xem Ga chương 12 câu 27-34). Đó là thời điểm và cách thức mà Giê-su – Cứu Chúa có thể diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất; “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó sẽ ôm ấp mọi con người, không loại trừ bất cứ ai, trong trường hợp cụ thể lúc đó kể cả Giu-đa lẫn Phê-rô, những kẻ đang rắp tâm phản bội hoặc yếu đuối bội phản Thầy. Tình yêu Thiên Chúa bao dung và rộng mở không biên giới; nhưng vấn đề chính ở đây là liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Vấn đề này về mặt lý thuyết xem ra rất đơn giản, nhưng trên thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận. Câu chuyện Gio-an tường thuật là một minh họa rất rõ nét: trước khi lên đường đi chịu chết Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ Người. Điều gì đã xẩy ra vào buổi chiều hôm đó cũng có thể xảy ra cho bất kỳ ai, ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời đại nào.
Trong tấn kịch này, vai diễn của Phê-rô có phần nổi trội hơn tất cả. Phản ứng của ông có thể là hoàn toàn tư riêng, nhưng chắc chắn nó cũng biểu lộ thái độ chung mà nhiều môn đệ khác cùng chia sẻ: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?… Không đời nào con chịu đâu!” Phản ứng này xem ra hoàn toàn hợp lý: làm sao người môn đệ có thể để ông thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu Đức Giê-su không nài ép, “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”, thì có lẽ Phê-rô sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận, và các môn đệ khác cũng không nốt.
Thế đấy! Tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra như không, chỉ vì yêu thương tôi, một con người tội lỗi thấp hèn, là không dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghi cao cả đòi buộc tôi phải giữ phải tránh điều này điều nọ, một Thiên Chúa phán truyền mệnh lệnh, một Thiên Chúa thưởng phạt công minh…, nói chung một Thiên Chúa bề trên, kẻ cả; nhưng tôi lại thấy thật không thể chấp nhận nổi một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, cúi xuống trở nên thấp hèn hơn tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt đi tất cả…, một Thiên Chúa kèo dưới… chỉ để yêu thương tôi. Tôi luôn có khuynh hướng tôn thờ, kính sợ Thiên Chúa, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Người. Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy ‘thái độ kính sợ Đức Chúa’ của Cựu Ước nói riêng, và của mọi tôn giáo nói chung, dễ chấp nhận hơn là tinh thần tự hủy của Tân Ước, như Đức Ki-tô Giê-su đã từng thể hiện trên thập giá. Thiết tưởng đây chính là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của thập giá Đức Ki-tô mà Phao-lô đã đề cập tới, đặc biệt đối với những ai xưng mình là Ki-tô hữu (= người có đạo), là môn đệ (= linh mục tu sĩ) qua mọi thời.
Thế nhưng, đối với Đức Ki-tô, thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là một điều kiện tiên quyết (sine qua non), vì “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”. Câu này là một khảng định chắc nịch chứ không chỉ là một lời mời gọi chung chung, một lời khuyên… không thi hành cũng được. Và ‘chung phần với Thầy’ chính là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su thập giá mới có, tức là yêu thương đến cùng, là yêu tới độ hủy mình ra như không, đặt mình vào chỗ thấp nhất trong thiên hạ hầu có thể trao ban và phục vụ.
Thiết nghĩ ít ai trong chúng ta đã không vấp phạm về điều này ít là một lần trong đời. Lấy một thí dụ nhỏ, có mấy ai trong chúng ta nghĩ rằng: các việc bác ái mình làm nhiều khi thật nông cạn và chẳng Tin Mừng tí nào không? Bao lâu ta còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho, bấy lâu ta còn thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả, phục vụ đấy mà trên thế thượng phong ban phát. Riêng với các linh mục cảm nghiệm này còn phải cụ thể và thường xuyên hơn nữa; chẳng hạn, có bao giờ linh mục ngồi vào tòa giải tội trong tư thế mình còn thấp hèn hơn cả các hối nhân tới xưng tội, hoặc tiến ra cử hành Thánh Lễ mà cảm thấy Chúa đang cúi xuống rửa chân cho mình…, hoặc khi rước mình và máu thánh Chúa mà nghiệm thấy quá bất xứng vì được Chúa biến thành miếng ăn nuôi sống con người tội lỗi và bất toàn như mình chăng? Nhiều lần khi cho rước lễ tôi đã tận mắt chứng kiến việc Chúa đi vào các môi miệng, được trao vào các bàn tay mà đôi khi chính bản thân mình còn cảm thấy rờn rợn? Thế đấy, chính vì ‘để Thày rửa chân cho’ thường xuyên bị lãng quên mà bác ái phục vụ rất ít khi thực sự là quên mình, là cúi xuống; Thánh Lễ lúc đó sẽ nặng về tính thờ phượng kính tôn hơn là “Người yêu thương đến cùng”, ‘Alter Christus’ mang nặng nội dung chức thánh địa vị hơn là ‘mục tử tự hiến’, “vào chung phần với Thầy” được cắt nghĩa là vào hưởng vinh quang thiên quốc hơn là tham dự vào tình yêu thập giá tự hủy của Đức Ki-tô, và còn nhiều điều khác nữa…
Bài học ‘rửa chân’ thật mấu chốt và quan trọng biết bao! Thế nhưng thật đáng tiếc nó thường bị coi (kể cả bởi các chủ tế cử hành) chỉ như một biểu tượng cá biệt hơn là diễn tả hoàn hảo một mạc khải về tình yêu trao hiến phục vụ đích thực. Tệ hơn nữa nó còn bị thu hẹp thành một nghi thức phụng vụ được cử hành trong Thánh Lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh… và sau đó là kết thúc luôn, không còn được thực thi cách cụ thể trong cuộc sống đức tin của cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giê-su khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho chính con được Chúa rửa chân cho mỗi khi tiến ra cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần’ với yêu đến cùng của Thập Giá. Vinh quang thập giá chính là vinh quang của tự hủy phải được tỏ rạng nơi mọi linh mục của Chúa, bây giờ và luôn mãi. Xin cho con, trước khi dám ‘cùng chết với Chúa’, biết khiêm tốn chấp nhận để Chúa chết và tự hủy ra như không vì con và cho con. A-men.
—————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
BÁNH KHÔNG MEN- JM. Đan Thy
Đã bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cho cao điểm của Mùa Chay là Tam Nhật Vượt Qua. Mở đầu cho Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Năm Tuần Thánh với Thánh lễ Tiệc Ly. Ba bài đọc trong Thánh lễ Tiệc Ly (chung cho cả chu kỳ ba năm Phụng vụ A-B-C) là: Xh 12, 1-8.11-14 (“Lễ Vượt Qua”); 1Cr 11, 23-26 (“Bí tích Thánh Thể”); Ga 13, 1-15 (“Bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ”). Nói về Lễ Vượt Qua, cả 3 sách Tin Mừng (Mát-thêu, Mac-cô, Lu-ca) đều có nhắc đến việc “Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua” (Mt 26, 17 -19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Theo Thánh sử Lu-ca thì: “Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: “Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua.” (Lc 22, 7-8). Như vậy lễ Bánh Không Men gắn liền với lễ Vượt Qua. Xin dựa vào Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia và Vatican.net để tìm hiểu vấn đề:
Lễ Vượt Qua của người Do-thái là ngày 14 tháng A-víb (khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch). Với thời gian này, một lễ khác có nguồn gốc riêng nhưng cùng được mừng chung trong mùa xuân và được sát nhập vào lễ Vượt Qua đó là lễ Bánh Không Men (Xh 12, 15-20). Trong tháng này, lễ Vượt Qua mừng ngày 14, còn lễ Bánh Không Men được ấn định từ ngày 15 đến ngày 21. Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men có khi được mừng chung với nhau (Đnl 16, 1-8; 2Sb 30, 1-13); nhưng cũng có khi được mừng riêng (Lv 23, 5-8). Truyền thống người Do-thái áp dụng lễ này vào dịp kỷ niệm ngày dân It-ra-en thoát ách nô lệ, ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa (“Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta.” – Xh 23, 15).
Theo định nghĩa của Thánh Kinh thì bánh không men được gọi là bánh khổ cực (“Anh em hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, vì trong tháng A-víp, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em ra khỏi Ai-cập ban đêm. Anh em hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho Danh Người ngự. Anh em không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh em sẽ ăn bánh không men – thứ bánh khổ cực, vì anh em đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, để mọi ngày trong đời anh em, anh em nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập.” – Đnl 16, 1-4). Bánh không men cũng tiêu biểu cho sự tinh tuyền và chân thật (“Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” – 1Cr 5, 7-8).
Đó là ý nghĩa nguyên thủy của lễ Bánh Không Men. Khi Đức Giê-su cùng các môn đệ chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua thì cũng là dịp kỷ niệm tuần lễ Bánh Không Men. Cũng vì đây là bữa ăn cuối cùng Đức Ki-tô dùng bữa với các môn đệ trước khi chính thức bước vào cuộc Thương Khó trong hành trình Vượt Qua tội lỗi và cái chết để đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nên Giáo hội tuyên xưng đây là bữa Tiệc Ly (nói nôm na là bữa tiệc chia tay giữa Chúa Ki-tô và các môn đệ). Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể và đó chính là Bánh Không Men Giáo hội dùng trong Thánh lễ, bởi Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác cho nên dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể. Bộ Giáo Luật hiện hành của Giáo Hội “Codex Iuris Canonici” (số 926) đã qui định: “Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội La-tinh, khi cử hành Thánh Thể bất cứ ở đâu, tư tế phải dùng bánh không men.”
Cũng giống như vấn đề Ăn Chay cần phải biết “đừng xé áo nhưng hãy xé lòng”, vấn đề đặt ra đối với người Ki-tô hữu khi suy niệm về lễ Bánh Không Men chính là tìm hiểu mục đích và ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa trong đó:
1- Ý nghĩa tiềm ẩn của lễ Bánh Không Men: Ngay từ Cựu Ước, Lễ Bánh Không Men là chỉ thị của Thiên Chúa để nhắc nhở dân It-ra-en phải luôn ghi nhớ hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, vượt qua biển Đỏ trở về Đất Hứa; khi cử hành phải sát tế chiên Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa dĩ vãng (Cựu Ước) đó, lễ Bánh Không Men còn tiềm ẩn dấu chỉ cho công cuộc cứu độ nhân loại trong tương lai (Tân Ước), nên phải công nhận một điều đây chính là nhiệm tích Thiên Chúa mạc khải cho con dân của Người. Và để thực hiện công trình cao vời khôn ví đó, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần trong vai trò Con Chiên phải chịu sát tế để chuộc tội loài người và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin. Lễ Bánh Không Men được thực hiện trong bữa Tiệc Ly trải dài trong Tam Nhật Vượt Qua với hy tế Thập Giá và mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển.
Kể từ bữa Tiệc Ly, Bánh Không Men chính là Thánh Thể – là Thịt và Máu Đức Giê-su – là Bánh Hằng Sống (“Tôi là bánh trường sinh…Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống… Thật, tôi bảo thật: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” – Ga 6, 48-58)
Như vậy lễ Bánh Không Men đã trở thành một dấu chỉ cho một đời sống mới, không bị tội lỗi thống trị. Trong 7 ngày thực hiện lễ Bánh Không Men thì phải hiểu số 7 là số tiêu biểu cho sự trọn vẹn về thuộc linh (Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người trong bảy ngày). Bảy ngày tiêu biểu cho trọn cuộc đời của một người đi theo Chúa. Ngày nào cũng là tiếp nhận sự sống thánh khiết từ Thiên Chúa qua đức tin và trong Đức Giê-su Ki-tô. Sự ăn Bánh Không Men tiêu biểu cho sự tiếp nhận chính sự thánh khiết của Chúa Giê-su vào trong đời sống của con dân Chúa.
2- Mục đích của việc cử hành Lễ Bánh Không Men: Thánh Kinh Tân Ước giúp cho người tín hữu hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của lễ Bánh Không Men: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 7-8); “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa.” (Dt 12, 14). Rõ ràng mục đích chính yếu của việc cử hành Lễ Bánh Không Men là để nhắc cho dân Chúa nhớ rằng, họ đã được giải thoát khỏi cuộc đời cũ nô lệ cho tội lỗi, và đã được Thiên Chúa dẫn vào cuộc đời mới, tự do trong thánh khiết, công chính, theo chân lý của Thiên Chúa. Trọn đời sống của họ phải luôn nên thánh, nếu không, họ sẽ không được Thiên Chúa tiếp nhận.
Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải nhìn lại mình để thấy được rằng con người sống trên đời thường bị các loại men tác động. Có thể kể ra những loại men đó như sau: men tôn giáo, men đạo đức giả, men tội lỗi.
* Men tôn giáo: Trước đây, đã 2 lần Đức Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Người. Sau đó, Người “bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh” (Mc 7, 31). Thánh sử Mat-thêu trình thuật về thời điểm này: “Khi sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. Ðức Giê-su bảo các ông: “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc”. Các môn đệ nghĩ thầm rằng: “Tại chúng ta không đem bánh.” Nhưng, biết thế, Đức Giê-su nói: “Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? Anh em chưa hiểu ư? Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” Bấy giờ các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” (Mt 16, 5-12).
Đức Giê-su đã phân biệt rach ròi về “men” theo 2 nghĩa (nghĩa đen – nghĩa chiểu tự : men bột ; nghĩa bóng – nghĩa thiêng liêng : men tôn giáo – giáo lý), để dạy các môn đệ hiểu rõ về giáo lý sai lầm của bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ…” – Mt 23, 23-25…). Điều đó cho thấy, cái men tôn giáo (là những giáo lý sai lầm) khi đã thấm nhập vào con người thì nguy hiểm như thế nào. Không chỉ ở thời điểm thượng cổ ấy, mà ngay trong thế giới hiện tại cũng không thiếu những thứ men tôn giáo vô cùng hiểm độc (khủng bố, đánh bom tự sát giết người hàng loạt sẽ được nên thánh tử vì đạo!!!)
* Men đạo đức giả: Tâm lý chung của con người luôn chuộng vẻ bề ngoài, thích mặc áo thầy tu hơn là cuộc sống đạo tu nhân tích đức. Họ đã quên mất một điều là: ”chiếc áo không làm nên thầy tu”. Tiêu biểu cho hạng người này là những kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu giả hình (“Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 1-7).
* Men tội lỗi: Không chỉ có thánh Gio-an Tẩy Giả gọi bọn Pha-ri-sêu là rắn độc, mà ngay cả Đức Giê-su cũng gọi họ như vậy: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.” (Mt 23, 33-36). Điều đó cho thấy trong con người luôn có “cốt cách của một thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Cái men tội lỗi không chừa bất cứ một ai, chỉ có điều người ta có nhận ra nó hay không và khi nhận ra có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi.
Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu không chỉ mỗi năm một lần dự lễ Bánh Không Men theo nghi thức, mà là, mỗi ngày hãy sống đúng tinh thần của lễ Bánh Không Men: Luôn luôn giữ mình thánh khiết theo chân lý sụ thật của Lời Chúa; thánh khiết từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Mỗi ngày từ bỏ chính mình, để hoàn toàn sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống trong Chúa, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa. Vui hưởng sự tự do thoát khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, không còn mang vác gánh nặng của tội lỗi. Mong chờ ngày Sa-bát phước hạnh sau cùng, là ngày rời khỏi thế gian này, được diện kiến tôn nhan chính Bánh Không Men Hằng Sống là Đức Giê-su Ki-tô. Đặc biệt hơn nữa là hãy liên lỉ cầu nguyện sao cho tới ngày Đấng Cứu Độ quang lâm lần thứ hai, sẽ được đứng ở bên phải Người. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, trong bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giê-su đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới muôn đời tồn tại làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển tri cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thánh lễ Tiệc Ly)
——————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
TIỆC LY, BỮA TIỆC CỨU ĐỘ- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Có lẽ trong đời mình, nhiều người trong chúng ta đã từng tổ chức các bữa tiệc khác nhau: tiệc cưới, tiệc giỗ, tiệc tân gia, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, tiệc đầy tháng, v.v… Còn đối với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Ngài chỉ “tổ chức” duy nhất một bữa tiệc, cũng là “tiệc chia tay” với các môn đệ dấu yêu trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó, tử nạn. Bữa tiệc duy nhất này vẫn thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương: Tiệc Ly. Tuy nhiên, đây không phải là bữa tiệc ly – tiệc chia tay thông thường, mà là bữa tiệc đặc biệt nhất, quan trọng nhất, và cũng gây nhiều cảm hứng nhất cho các nhà điêu khắc, hội họa trong lịch sử nhân loại. Vậy Tiệc Ly là bữa tiệc gì mà đặc biệt như thế?
Tiệc Ly, trước hết, là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em, trước khi chịu khổ hình” (Lc 26,15). Chúng ta biết Lễ Vượt Qua của người Do Thái bắt đầu vào tối Thứ Sáu. Nhưng Chúa Giêsu đã ăn tiệc Vượt Qua vào tối Thứ Năm, nghĩa là Ngài ăn lễ trước một ngày. Vì đêm Thứ Sáu và ngày Thứ Bảy, Chúa Giêsu đã chết và đang ở trong mộ đá. Và vì là tiệc Vượt Qua, nên Chúa Giêsu đã đích thân lên chương trình kỹ lưỡng: từ việc mượn phòng tiệc, sắp đặt các chỗ ngồi, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi sai các môn đi chuẩn bị trước. Nhưng đây cũng là lễ Vượt Qua được “làm mới”. Mới ở chỗ: nếu trong lễ Vượt Qua thời Cựu Ước, máu chiên của cuộc vượt qua được bôi lên cửa nhà những người Do Thái, làm cho tai họa “bỏ qua” nhà họ và các con trai đầu lòng của họ thoát chết, thì trong bữa Tiệc Ly – lễ Vượt Qua mới, chính Chúa Giêsu đã trở thành Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Máu của Ngài – máu của Chiên Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết để được trường sinh trong Vương Quốc của Ngài.
Tiệc Ly, thứ đến, còn là bữa Tiệc Thánh. Là bữa Tiệc Thánh vì tất cả những gì liên hệ đều thánh. Người chủ sự bữa tiệc hôm đó không phải là một người phàm, dù đó là người gia trưởng trong các gia đình Do Thái hoặc là Môisê hay Aaron đi nữa; chủ tiệc là Con Thiên Chúa, Đấng “ba lần thánh”. Cả đến đồ ăn thức uống của bữa tiệc đó, tức là bánh và rượu, cũng đã trở thành “của ăn của uống cực thánh” – Mình và Máu châu báu của Chúa. Điều đặc biệt hơn nữa: bữa Tiệc Thánh này sẽ được tiếp nối và kéo dài cho đến tận thế, và những người làm công việc tiếp nối này cũng được “thánh hiến” qua Bí tích Truyền Chức mà Ngài sẽ thiết lập ngay sau đó. Tất cả những gì “liên hệ” tới lễ Tiệc Ly này đều trở thành “thánh”: Thánh lễ, chén thánh, đĩa thánh, khăn thánh, Bánh Thánh, Máu Thánh…
Sau nữa, Tiệc Ly còn là bữa tiệc yêu thương phục vụ. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngài “yêu thương tất cả những kẻ thuộc về mình”, yêu thương cả Giuđa là kẻ nhẫn tâm phản bội Ngài; yêu thương cả Phêrô là kẻ vô tâm chối bỏ Ngài. Nhưng không phải là yêu thương một cách chung chung mà là yêu thương từng người, cũng không phải là yêu thương một cách hời hợt như ta thường thấy giữa thầy trò, mà là “yêu thương đến cùng”, yêu thương đến độ hiến mạng sống mình, biến thịt máu mình làm của ăn của uống nuôi sống linh hồn. Cử chỉ rửa chân là cử chỉ nói lên sự yêu thương phục vụ đúng nghĩa của nó: yêu thương thì không nề hà, yêu thương thì không tính toán, yêu thương thì không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, chủ tớ…; yêu thương thì sẵn sàng quên mình đi để phục vụ.
Có khi nào chúng ta thấy trong một bữa tiệc mà Đức Giám Mục, hay Đức Giáo Hoàng đi lại phục vụ chén bát, phân phát đồ ăn thức uống, châm đá, hoặc bưng nước cho giáo dân rửa tay chưa? Có lẽ là chưa! Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm công việc phục vụ đó, nhưng không chỉ “bưng nước”, mà Ngài còn đích thân cúi xuống rửa chân cho từng người một. Ngài là vị Thiên Chúa mà dân Israel không dám gọi bằng tên, càng không dám tới gần. Nhưng nay Ngài đến thật gần với con người, và không những thế Ngài còn cúi xuống thật thấp trong cung cách là một người tôi tớ, người rốt hết, chứ không phải là một người chủ.. Đây là một cử chỉ nói lên cung cách phục vụ khiêm nhường thẳm sâu nhất của Ngài. Và Ngài cũng mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu thương phụ vụ như Ngài đã nêu gương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Ga 15,12); “Anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”, nghĩa là “hãy phục vụ nhau như thế”!
Nếu người ta cám ơn thánh Luca vì ngài là vị thánh sử duy nhất đã ghi lại lời Chúa Giêsu dạy về dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-31), thì ta cũng phải biết ơn thánh Gioan vì ngài cũng là vị thánh sử duy nhất ghi lại biến cố vô cùng ý nghĩa xảy ra trước giờ phút Chúa chịu tử nạn, đó là biến cố Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-20).
Vì những yếu tố trên, Tiệc Ly trở thành bữa tiệc vô tiền khoáng hậu, bữa tiệc cứu độ.
Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi rước lễ, linh mục đều nâng bánh rượu và xướng rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Là Kitô hữu, chúng ta thật diễm phúc vô cùng, vinh dự vô cùng vì hằng ngày chúng ta được Chúa mời tham dự bữa tiệc đặc biệt này. Hãy dâng lời tạ ơn Chúa luôn. Và một trong những cách thế tạ ơn tốt nhất, thiết nghĩ, đó chính là nỗ lực để “thực thi tình yêu và lòng thương xót” đối với anh chị em đồng loại như Chúa đã nêu gương.
Tất nhiên, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã rửa chân được cho bao nhiêu người, nhưng Chúa sẽ hỏi đôi bàn tay chúng ta đã giúp đỡ sẻ chia cho được những ai! Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã hôn được bao nhiêu bàn chân, nhưng Chúa sẽ hỏi môi miệng chúng ta đã làm cho bao nhiêu người được an vui hạnh phúc. Chúa không muốn chúng ta trở thành những người thợ làm thuê (rửa chân – hôn chân thuê), những robot, người máy của thời hiện đại, nhưng muốn chúng ta thực sự trở thành những con trai con gái của một vị Thiên Chúa yêu thương, yêu thương đến cùng bằng nỗ lực thực hành giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy (x. Tình Chúa – Tình Người, Lm. Giuse Dương Hữu Tình).
Cụ thể đó là ta đã cúi xuống để có thể lắng nghe và cảm thông với những đau khổ và nhọc nhằn của anh chị em đồng loại hay chưa? Ta đã cúi xuống để phục vụ cha mẹ già trong gia đình, gia tộc mình, bằng sự yêu thương kính trọng hay chưa? Ta đã cúi xuống để yêu thương và phục vụ chồng của mình, vợ của mình, con cái của mình bằng sự hy sinh trao hiến chưa? Ta đã quan tâm đến hàng xóm láng giềng, là những người sống bên cạnh chúng ta nhiều hơn chưa?
Dĩ nhiên để có thể yêu thương theo cung cách của Chúa yêu là không dễ chút nào. Cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Bí tích Thánh Thể chính là nguồn trợ lực vô cùng cần thiết.
Vậy xin cho mỗi người chúng ta biết năng tham dự Thánh lễ và tiếp nhận Thánh Thể Chúa mỗi ngày, nhờ đó ta có thêm sức mạnh để thực thi giới luật yêu thương đối với anh em mình như Chúa dạy, và để nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời mai sau. Amen.
————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY – Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng
Có lần Chúa Giêsu nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9-10). Khi mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Người, Chúa Giêsu, qua cuộc sống trần thế, đã chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã dành cho Người.
Tình yêu mạnh mẽ ấy đã khiến Chúa vui hiến thân làm giá cứu chuộc loài người. Tình yêu ấy thúc đẩy Chúa để lại cho trần thế Kho Báu muôn đời cần thiết cho loài người: bí tích Thánh Thể.
Khai mạc Tam nhật Thánh, chúng ta cử hành và tưởng niệm việc Chúa hiến mình đến muôn đời để ở lại với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, là chúng ta cử hành và nhắc nhở nhau về một tình yêu vô song. Đó là một tình yêu dữ dội, một tình yêu trào tràn, một tình yêu ngút ngàn. Đó là một tình yêu muôn đời không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu, ngoài Thiên Chúa.
Bản chất của tình thương yêu nơi cung lòng Thiên Chúa là thế: một khi đã thông truyền, nó sẽ thông truyền trọn vẹn, không kém bớt, không tiêu hao, không sứt mẻ, không giảm suy. Nó là một công thức luôn luôn: “thế nào… thế ấy”. Được yêu thế nào, sẽ yêu thế ấy.
Tình yêu thương của Chúa Cha truyền sang Chúa Con là tình yêu của Đấng Toàn Năng thể hiện mình. Người là Thiên Chúa cuồn cuộn trong sự thủy chung, giàu có trong sự trao ban, trào tràn trong sự hiến dâng, bền bỉ trong sự giải cứu, sẵn sàng trong sự đón nhận, lớn lao trong sự tha thứ, cao cả trong sự chở che, mạnh mẽ trong sự phục hồi…
Đến lượt Chúa Con, sau khi nhận lãnh tình yêu của Chúa Cha, lại tiếp tục truyền sang chúng ta. Người yêu chúng ta bằng một tình yêu tròn đầy từ muôn đời cho đến muôn đời, luân chảy từ Chúa Cha đến chúng ta; một tình yêu không bao giờ có thể sánh ví, một tình yêu núi không thể đo, biển không thể dò.
Bởi vậy, Chúa Giêsu khẳng định về tình yêu của Người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Gioan 15,9).
Bởi tình yêu của Thiên Chúa là môi sinh che chở chúng ta đẹp đến vậy, cho nên tình yêu ấy trở thành nguồn hạnh phúc vô cùng cho những ai biết ở lại trong nó.
Chúa Giêsu biết chúng ta cần tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta trông ngóng tình yêu ấy, Chúa Giêsu biết chúng ta không thể thiếu tình yêu ấy, vì thế, ngay sau lời dạy “hãy ở trong tình yêu của Thầy”, Chúa dạy ta cách thức để giữ mãi tình yêu ấy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”(Ga 15, 11).
Lắng nghe Chúa Giêsu dạy, Ta phấn đấu mỗi ngày một nhiều hơn để sống giới răn của Chúa, sống hoàn hảo nhất Lời Chúa dạy. Bởi chỉ có phương thế ấy, ta mới có thể trọn vẹn chiếm lấy tình thương yêu của Thiên Chúa.
Ta hãy đến lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Chúa. Khi thông hiệp với Chúa rồi, ta giữ lấy tình yêu của Chúa mà sống trong đời, để mọi nơi, mọi lúc, ta chứng tỏ cho đời, nơi cuộc sống của mình là chính tình yêu vô cùng của Thiên Chúa từ bi đại lượng.
Hãy nỗ lực bằng khả năng trao ban tình thương mà bản thân đã được Chúa dành cho mình, để ta luôn có Chúa Giêsu nơi tâm hồn mình. Và vì có Chúa Giêsu, ta cũng sẽ trọn vẹn sống trong Thiên Chúa.
Hãy hoàn hảo hóa giới răn của Chúa nơi đời sống bản thân mình, để ta nên một trong Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu chan chứa của Chúa Cha và Chúa con.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống giới răn Chúa, để chúng con luôn biết giữ mãi tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc đời chúng con. Một khi giữ trọn tình yêu Chúa, chúng con hy vọng, mãi muôn đời chúng con sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa, như Chúa ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Amen.
———————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
THÁNH THỂ, THIÊN CHỨC LINH MỤC VÀ GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước Đêm Hấp Hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự Hiện Diện Thực Sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng hàm ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến khi Chúa Kitô sống lại. Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).
“Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ cho con người, Chúa lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu.
“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Ngài đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.
Sau khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng lập luôn bí tích Truyền Chức Thánh khi Người nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tín nhiệm con người. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.
Khi Người rửa chân cho các môn đệ xong, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm : Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó gắn chặt, liên kết với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh, trở nên một thì chúng ta không còn tách biệt được nữa.
Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).
Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.
Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.
———————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ NĂM TUẦN THÁNH
TẤM BÁNH- Trích Logos A
Trong tập “108 Chuyện Hay Cực Ngắn”, tác giả Lý Thanh Thảo đã viết câu chuyện “Anh Hai” tuy ngắn nhưng rất ý nghĩa, có nội dung như sau :
Ngày kia, có chiếc xe hơi bóng loáng đậu bên đường. Trong xe, người mẹ đang dỗ dành đúa con trai ăn chiếc bánh kem. Đứa bé con nhà giàu không biết giận dỗi điều gì, đã hất văng chiếc bánh kem qua cửa xe, rơi xuống đường, sát mép cống. Sau đó chiếc xe hơi rồ máy chạy đi.
Có 2 đứa trẻ đang moi rác gần đó, thấy chiếc bánh rơi xuống đất liền chạy tới lượm lên. Chiếc bánh lấm láp bụi cát, đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai :
– Anh Hai thổi sạch đi rồi mình ăn.
Thằng anh phùng má thổi. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó đã làm chiếc bánh rơi tõm xuống cái cống hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít khóc, bảo anh nó :
– Ai bảo Anh Hai thổi chi cho mạnh.
Thằng anh dỗ em :
– Ừ ! Tại anh. Nhưng kem còn dính tay nè ! Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi.
Câu chuyện vừa “buồn cười”, vừa đau xót. “Buồn cười” vì hình ảnh 2 anh em chia nhau 5 ngón tay dính kem. Đau xót vì ngày nay còn nhiều người nghèo đói quá. Chiếc bánh kem của người giàu dù đã rớt xuống đất cũng trở thành nỗi thèm khát của người nghèo.
Cái nghèo luôn đi đôi với cái đói. Cái nghèo dẫn con người đến cái đói. Khi đói, người ta đánh mất cả lòng tự trọng và phẩm giá của mình. Cái đói cũng còn có thể dẫn người ta tới cái chết, mất tình yêu thương và tạo nên hố sâu ngăn cách giữa người với người.
Ngày nay, xã hội mong muốn “xoá đói giảm nghèo”, người ta thao thức và trăn trở tìm kiếm lương thực nuôi sống con người. Sự nghèo đói vật chất quan trọng đến thế, sự nghèo đói tinh thần còn quan trọng đến đâu ?
Hôm nay, chúng ta sốt sắng cử hành Lễ Tiệc Ly. Từ chiếc bánh kem, chúng ta suy nghĩ về tấm bánh Thánh Thể, tấm bánh của sự sống, tấm bánh tình yêu và cũng là tấm bánh hiệp thông.
Tấm bánh sự sống.
Những tấm bánh trong cuộc sống hàng ngày luôn là lương thực quen thuộc và cần thiết cho con người. Từ những chiếc bánh cao cấp trong những tủ kính lộng lẫy, những tấm bánh được dọn ra trong những bữa tiệc sang trọng, đến những chiếc bánh tầm thường trong những gánh hàng rong, hay trên bàn ăn của người nghèo, tất cả đều cho thấy bánh luôn có ý nghĩa to lớn đối với con người. Bánh là nhu cầu để con người sống và sinh tồn.
Ngoài sự sống thể xác còn có sự sống tâm hồn. Vì thế, Chúa đã hóa thân thành tấm bánh để không những trở nên gần gũi và đi vào sinh hoạt thường ngày của con người, nhưng Chúa trở thành tấm bánh còn để mời gọi con người lãnh nhận mà ăn, cho tâm hồn được sống và sống dồi dào. Chúa biến nên tấm bánh bị bẻ ra, bị tan biến, bị tiêu hóa để mang lại sự sống thần linh cho con người.
Tấm bánh tình yêu.
Để làm thành một chiếc bánh, người ta phải xay bột, nghiền nát, nhào nặn, rồi đem nướng hoặc nấu chín. Cũng vậy, để trở nên tấm bánh thần linh cho con người, Chúa cũng chịu nghiền nát, bị huỷ diệt nơi thập giá và cuộc tử nạn. Để trở thành tấm bánh nuôi dưỡng tâm hồn con người, Chúa chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại, chịu chết để con người được sống. Chúa đã làm tất cả những điều ấy chỉ để diễn tả một tình yêu vô cùng mãnh liệt dành cho con người.
Chúa không giữ lại gì cho mình. Nếu có giữ điều chi, chỉ là tình yêu tự hiến đến tột cùng. Chúa là tấm bánh mang dấu ấn tình yêu. Tấm bánh ấy biểu lộ rõ nét nhất một tình yêu đầy sáng kiến và thật lạ lùng.
Tấm bánh hiệp thông.
Bánh là lương thực để nuôi sống con người. Để trở thành chất bổ dưỡng cho thân xác, bánh phải được hòa tan vào từng mạch máu, từng thớ thịt con người. Chúa trở thành tấm bánh để biến tan trong máu thịt con người. Đó chính là sự kết hiệp sâu xa và độc đáo nhất khi Ngài bẻ tấm bánh đời mình trao hiến cho nhân loại (Bài đọc II).
Khi ngồi chung một bàn ăn hay cùng nhau chia đôi một chiếc bánh, người ta thường là bạn chí thiết của nhau. Chia bánh cho nhau là chia cho nhau tình cảm nồng ấm thiết tha (Bài Tin Mừng).
Chúa cũng là tấm bánh duy nhất được bẻ ra để con người chia sẻ cho nhau trong tình huynh đệ thắm thiết. Nói cách khác, khi cùng nhau chia sẻ một trấm bánh duy nhất là Đức Kitô, con người được quy tụ trong một Thân Mình là chính Ngài. Điều đó làm nên sự hiệp thông đẹp đẽ biết bao.
Hôm nay, thánh lễ Tiệc Ly còn gợi nên ý nghĩa sâu xa và cao đẹp của bữa tiệc tình yêu. Trong bữa tiệc ấy, không những Chúa lập bí tích Thánh Thể khi hóa thân thành tấm bánh trao hiến cho con người, Ngài còn lập chức Linh Mục để tấm bánh tình yêu ấy luôn được bẻ ra cho đến tận cùng thế giới. Bàn tay nối tiếp bàn tay cho đi, nhờ vậy, tấm bánh ấy mãi mãi được bẻ ra trong suốt cuộc hành trình trần thế của Giáo Hội.
Trong bữa tiệc tình yêu hôm nay, Chúa còn thực hiện một cử chỉ thật lạ lùng : Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng”. Sự tận cùng của tình yêu đã được Ngài thực hiện qua việc trở nên tấm bánh tình yêu nuôi sống nhân loại. Nhưng dường như tình yêu ấy còn ẩn giấu và đầy bí nhiệm. Vì vậy, Chúa cúi xuống rửa chân cho các môn đệ để biểu lộ tình yêu rõ ràng hơn, qua hành động cụ thể bên ngoài : Chúa rửa chân cho các môn đệ như người nô lệ rửa chân cho chủ mình. Cũng qua hành động táo bạo của tình yêu tận cùng đó, Chúa cũng dạy các môn đệ : hãy biết thương yêu nhau “đến cùng” : hãy biết cúi xuống rửa chân cho nhau.
Trước đây có một bộ phim diễn lại thảm họa hai triệu người dân miền Bắc chết đói năm Ất Dậu 1945. Trong phim có cảnh thật đau thương : vì người chết đói la liệt đầy đường xá, người ta phải dùng những chiếc xe lôi đem xác chết đi chôn tập thể. Có người phu kia kéo xác đi chôn. Khi đến miệng hố chôn tập thể, bỗng ông ta nghe thấy có tiếng người rên rỉ giữa những cái xác trên xe : “Bác ơi, tôi còn sống !”. Thì ra có một người còn thoi thóp sống giữa những tử thi. Chẳng nói chẳng rằng, người phu kéo xe vẫn đổ ập những cái xác xuống hố. Người chết đói quá nhiều, đến nỗi người ta chẳng còn quan tâm đến việc còn sống hay đã chết. Họ chôn cả người còn đang sống.
Ngày nay, có lẽ không còn cảnh chết đói khủng khiếp như thế, nhưng vẫn còn đó rất nhiều tâm hồn đang chết đói tình yêu.
Sống bí tích Thánh Thể là gì, nếu không phải là đem tình yêu thương đến cho anh em mình ?
————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
CÂY THẬP GIÁ NẶNG NỀ NHƯNG HIỂN VINH- Đức Thánh Cha Phanxicô huấn từ sau Đường Thánh Giá Thứ Sáu Tuần Thánh
Thiên Chúa đã chất cây thập tự giá của Chúa Giêsu tất cả gánh nặng của tội lỗi chúng ta, tất cả mọi thứ bất chính gây ra bởi hết mọi Cain phạm đến anh chị em mình, tất cả mọi cay đắng và phản bội của Giuđa và Phêrô; tất cả mọi phù du của áp bức độc đoán, tất cả mọi kiêu căng ngạo mạn của những người bạn hữu sai lầm. Nó là một cây thập tự giá nặng nề, giống như đêm tối của những ai bị bỏ rơi, nặng như cái chết của những người thân yêu, nặng vì nó mang lấy tất cả những gì là xấu xa ghê tởm của sự dữ. Tuy nhiên, nó cũng là một thập tự giá hiển vinh như rạng đông sau một đêm dài vì nó biểu hiệu cho tình yêu của Thiên Chúa trong hết mọi sự, một tình yêu lớn lao hơn cả lỗi lầm của chúng ta và sự phản bội của chúng ta. Nơi thập tự giá chúng ta thấy cái quái gở của con người khi họ bị sai khiến bởi sự dữ; thế nhưng chúng ta cũng thấy được cả tình thương bao la của Thiên Chúa là một tình thương không xử với chúng ta theo tội lỗi của chúng ta mà là theo tình thương của Người.
Trước thập tự giá của Chúa Giêsu chúng ta có thể hầu như chạm tới được mức độ chúng ta vĩnh viễn được yêu thương tới đâu. Trước cây thập giá chúng ta cảm thấy chúng ta là “con cái” chứ không phải là “thứ gì” hay “vật gì”, như Thánh Grêgôriô Cả đã nói, khi ngài ngỏ cùng Chúa Kitô bằng lời nguyện này: “Chúa Kitô của con ơi, nếu Chúa không hiện hữu thì con cảm thấy mình như là một tạo vật hữu hạn. Con được sinh ra và con cảm thấy mình bị tan rã. Con ăn uống, ngủ nghỉ và bước đi, con bị bệnh và được chữa lành. Vô vàn những ước muốn và dằn vặt dày vò cứ hạnh hạ con, con hoan hưởng mặt trời và hoa trái của trái đất này. Sau đó con chết đi và xác thịt con trở thành cát bụi như xác thịct của loài thú là những con vật không phạm tội. Thế nhưng phần con, con làm những gì mà chúng không làm chứ? Chẳng làm gì hết, nếu không phải Thiên Chúa làm. Chúa Kitô của con ơi, nếu Chúa không hiện hữu, tôi cảm thấy mình như là một tạo vật hữu hạn. Ôi Chúa Giêsu của chúng con ơi, hãy dẫn chúng con từ thập giá đến phục sinh, và dạy chúng con rằng sự dữ không phải là phán quyết cuối cùng. Tình yêu, lòng thương xót và sự thứ tha mới là phán quyết tối hậu. Ôi Chúa Kitô, xin giúp chúng con một lần nữa than lên rằng: ‘Hôm qua con đã bị đóng đanh với Chúa Kitô; hôm nay con được hiển vinh với Người. Hôm qua, con đã chết với Người; hôm nay, con đang sống với Người. Hôm qua, con đã nằm trong mồ với Người: hôm nay con được sống lại với Người”.
Sau hết, tất cả chúng ta hãy cùng nhau nhờ đến thành phần bệnh nhân, chúng ta hãy nhớ đến tất cả những ai lẻ loi cộ độc một mình dưới chân thập tự giá để họ tìm được nơi thánh giá thử thách quyền lực của niềm hy vọng, của niềm hy vọng vào cuộc phục sinh và tình yêu thương của Thiên Chúa
——————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
THÔI ĐỪNG GIẾT CHÚA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
“Khi đến gần Chúa Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.” Chiêm ngắm dòng nước và máu tuôn chảy ra cả sau khi đã tắt thở, ta hiểu được tình yêu của Chúa. Yêu cho đến chết. Yêu cho đến cả sau khi chết. Chết rồi vẫn còn tuôn chảy dòng máu và nước. Như muốn vắt hết tất cả những gì còn lại để dâng hiến đến cùng. Yêu không còn giữ lại chút nào. Đúng như lời thánh Gioan diễn tả : “Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài thì Ngài yêu thương họ đến cùng.” Yêu cho đến cùng tận của bản thân Ngài. Tất cả những gì có thể làm để yêu thương thì Chúa đã làm hết. Không còn có thể làm thêm gì được nữa. Yêu cho đến tận cùng con người. Không có con người nào ở ngoài tình yêu của Chúa. Yêu cả người tội lỗi. Yêu cả kẻ phản bội. Yêu cả người thù địch làm hại mình. Nếu Chúa đã nói : “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu.” Thì còn hơn thế nữa, Chúa đã hi sinh tính mạng cả vì người phản bội, người thù ghét, người làm hại Chúa nữa.
Yêu thương như thế nhưng Chúa lại nhận được sự phản bội, sự thù ghét, sự thay đổi, sự dửng dưng và bị giết chết. Nhìn lại cuộc xử án Chúa ta thấy những thái độ sau đây đã góp phần giết chết Chúa.
– Thái độ thù ghét của các Thượng tế và Biệt phái. Vì ghen tương, thù hận họ đã bày mưu, xúi giục dân chúng và quan quyền lên án Chúa.
– Thái độ nhập nhằng của Philatô. Biết Chúa là người vô tội. Muốn cứu Chúa nhưng lại sợ mất chức quyền, nên đã kết án Chúa.
– Thái độ phản bội của Giuđa. Đã theo Chúa nhưng lại ham mê tiền bạc đến nỗi bán Chúa.
– Thái độ hay thay đổi của dân chúng. Ngày Lễ Lá thì phấn khởi, tưng bừng đón rước Chúa vào thành, nhưng đến ngày Thứ Sáu Tuần Thánh lại hò hét kết án Chúa.
Nếu chúng ta có mặt hôm xử án Chúa, có lẽ chúng ta cũng đã kết án Chúa. Vì tuy chúng ta không thù ghét Chúa như các Thượng tế và Biệt phái, nhưng chúng ta có thể giống như Philatô nhập nhằng trong thái độ. Philatô vì sợ mất quyền lợi nên đã kết án Chúa. Chúng ta cũng thế, trong đời sống hiện tại, biết bao lần chúng ta đã đặt địa vị của mình lên trên sự thật, đặt quyền lợi của mình lên trên công lý. Không bảo vệ sự thật và công lý nhưng chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và gia đình mình.
Chúng ta cũng có thể giống Giuđa, coi trọng tiền bạn hơn đạo nghĩa. Biết bao lần chúng ta đã vì tiền bạc mà đánh mất tình nghĩa, vì tiền bạc mà bán rẻ lương tâm, vì tiền bạc mà tha hóa gian giáo, lừa đảo.
Chúng ta cũng có thể giống đám đông luôn thay lòng đổi dạ. Không có lập trường nên sợ dư luận, chỉ biết chạy theo đám đông. Sống giữa những người không tin nên không dám bày tỏ đức tin của mình. Thay đổi đức tin, thay đổi tình nghĩa như thay đổi quần áo. Sống hời hợt theo hình thức bên ngoài, thiếu chiều sâu và nền tảng bên trong.
Với lối sống như thế, ta chẳng khác gì Philatô, Giuđa và đám đông. Sống như thế, ta đang tiếp tục giết Chúa hằng ngày hằng giờ ở khắp nơi.
Hôm nay trên Thánh Giá tất tưởi, Chúa đang nài van chúng ta thôi đừng giết Chúa nữa. Đừng tiếp tục lối sống cũ theo Philatô, theo Giuđa, theo đám đông. Hãy sống đời sống mới theo Chúa Giêsu. Sống theo Chúa Giêsu luôn yêu thương, yêu thương cho đến cùng. Sống theo Chúa Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, tìm ích lợi của Hội Thánh. Sống theo Chúa Giêsu luôn tìm quên mình, tìm những giá trị thiêng liêng cao quí. Sống theo Chúa Giêsu luôn trung thành với lựa chọn của mình, trung tín đến hi sinh cuộc đời mình, trung tín cho đến chết.
Lạy Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin thương xót chúng con. Amen.
—————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
THẬP GIÁ CỦA CHÚA – THẬP GIÁ CỦA TÔI- ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Lễ nghi chiều thứ Sáu Tuần Thánh được đề nghị cử hành vào lúc 3 giờ chiều (đối với những nơi phù hợp), vì theo truyền thống, Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên cây thập giá vào lúc giờ thứ chín (x. Mt 27,45-46). Phụng vụ hôm nay mang màu sắc đau thương, nhưng không hoàn toàn bi thảm, vì thập giá của Đức Giêsu vừa là dụng cụ khổ hình, vừa là cờ hiệu chiến thắng.
Chúa Giêsu đã tự vác thập giá, từ dinh quan Philatô đến núi Canvê. Theo những khám phá từ tấm khăn liệm thành Turinô và những nghiên cứu sử học, thì người bị kết án tử hình phải vác cây gỗ ngang, còn cây gỗ dọc thì đóng sẵn trên đồi. Việc vác cây gỗ ngang nhằm tránh tử tội trốn thoát, đồng thời cũng là một nhục hình để trừng phạt. Truyền thống Giáo Hội diễn tả con đường thập giá của Chúa Giêsu qua 14 hình ảnh được gọi là “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Trên con đường này, nhiều biến cố đã xảy đến với Chúa Giêsu. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đến cuộc gặp gỡ với những người dân thành Giêrusalem. Từ những người ghen ghét chê bai nhạo cười đến những người cảm thương và giúp đỡ. Ông Simon và bà Vêrônica là hai người xa lạ và có địa vị thấp kém trong xã hội, lại là những người giúp Chúa, một người vác đỡ thập giá, một người lau mặt Chúa đang đầm đìa mồ hôi và máu. Trong hành trình thập giá, Chúa ngã ba lần, nhưng Người lại gượng dạy bước đi. Có lẽ, lời nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu luôn vang lên trong tâm trí Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đó là một cuộc giằng co khốc liệt giữa sự yếu đuối của con người và sự mạnh mẽ của Ngôi Hai nhập thể. Chúa Giêsu đã dứt khoát thi hành ý Chúa Cha, chấp nhận mọi nhục hình và gian nan khốn khó. Thập giá chính là bằng chứng của sự tuân phục và hy sinh của Người.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang nhìn tôi với cái nhìn đầy yêu thương. Trong thinh lặng, Chúa nói với tôi: “Ta tha thứ mọi tội lỗi cho con”. Vì thế, chiêm ngắm Chúa trên thập giá đem lại cho tôi hạnh phúc vì thấy mình được yêu thương. Trong giáo huấn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dạy hãy tha thứ cho kẻ thù. Giờ đây, trên thập giá, Chúa dạy tôi bài học tha thứ. Lúc này, Người thực hiện lời giáo huấn ấy khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình. Biết bao lần tôi cố chấp muốn tự khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội. Sự cố chấp làm tôi mù quáng, không nhìn ra đâu lẽ phải, không nhận ra ai là anh em. Chúa Giêsu đã tha thứ trong lúc trái tim rướm máu. Điều đó cho thấy, để có thể tha thứ, phải chấp nhận hy sinh. Khi tha thứ, nhiều khi tôi phải chịu tiếng là hèn nhát, có khi tôi phải hạ mình và mất thanh danh. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, khi tôi tha thứ, chắc chắn tôi tìm được sự an bình thanh thản trong tâm hồn.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Viên bách quan đội trưởng là người đã tham gia vào vụ hành hình Chúa. Vậy mà vào lúc Chúa tắt thở, ông ta lại nhận ra thân thế đích thật của Người và hô lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Một Thiên Chúa trần trụi, bị khinh khi, khổ nhục và chịu chết vì yêu thương con người. Thập giá dạy tôi một cách nhìn nhận mới về đau khổ: Thiên Chúa đau khổ cho con người hạnh phúc. Người chết cho con người được sống. Như vậy, nếu muốn đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh, tôi không thể trốn tránh đau khổ. Muốn yêu Chúa Giêsu, tôi không được khước từ thập giá. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là một cây gỗ vô hồn; Chúa Giêsu không có thập giá không phải là Chúa Giêsu của Đức Tin.
Khi tôi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tôi thấy những anh chị em Kitô hữu của tôi ở nhiều nơi đang bị bách hại. Chúa nhật Lễ Lá vừa qua (29-3-2015), tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các tín hữu trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho những tín hữu bị giết tại một số quốc gia trên thế giới. Họ là những thừa sai, những linh mục, tu sĩ và có nhiều tín hữu giáo dân. Họ đã chết chỉ vì một lý do đơn giản: họ là Kitô hữu. Qua Đấng chịu đóng đinh, tôi cũng nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, những người nghèo nàn, bệnh tật, đau khổ. Họ quằn quại trong nỗi đau của kiếp người mà chưa có lối thoát. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đóng đinh nơi những người bất hạnh này. Thập giá là lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực, hãy xử với nhau cho đúng phẩm giá con người và hãy liên đới nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, tôi thấy Người mời gọi tôi hãy vươn cao, hãy sống cao thượng, hãy hướng về trời. Dù tôi yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn có thể vươn cao, vì Chúa lôi kéo tôi bằng sự trợ giúp thiêng liêng. Tuy vậy, vươn cao để gặp Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh. Phải can đảm dứt bỏ những gì đang ràng buộc. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo Chúa Giêsu là đi trên con đường hy sinh của thập giá. Như thế, thập giá không phải một kỷ niệm vô hồn của quá khứ xa vời, nhưng là chính cuộc sống hằng ngày của tôi. Mỗi ngày sống, tôi đều có cơ hội tiếp cận thập giá, điều quan trọng là thái độ của tôi thế nào trước cây gỗ mà trên đó Con Thiên Chúa đã chịu đau đớn và đã chịu chết vì yêu tôi.
Lễ nghi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc bảo tôi: Thập giá của Chúa cũng là thập giá của tôi. Khi suy niệm mầu nhiệm Mân Côi, thứ bốn của Năm Sự Thương, tôi cầu nguyện: xin cho tôi được vác thánh giá theo chân Chúa. Vâng,“Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng Cứu chuộc trần gian!” Tôi đến để tôn kính và thờ lạy. Tôi tin chắc Đấng đóng đinh sẽ ở bên tôi. Niềm xác tín ấy giúp tôi tìm thấy thư thái và an bình.
————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
TÔN KÍNH THÁNH GIÁ- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Tôn kính Thánh Giá, Tưởng niệm Ðức Giêsu chịu chết
(Mt 4,17)
Nghi thức Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là Thánh lễ mà chỉ là một lễ nghi phụng vụ tôn kính Thánh giá Chúa Giêsu và tưởng niệm việc Ngài chịu chết.
Lời Chúa
Bài đọc I: Is 52,13 – 53,12
Ðây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sách Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý lớn:
Người Tôi Tớ ấy phải chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần.
Nhưng bản thân Người Tôi Tớ thì vô tội. Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác.
Vì thế những đau khổ của Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.
Ðáp ca: Tv 30
Ðây là lời cầu nguyện của tín hữu trong lúc bị đau khổ. Người tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên Chúa và phó thác đời mình trong tay Chúa.
Trong lúc tắt hơi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này “Con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Bài đọc II: Dt 4,14-16–5,7-9
Tác giả thư Do thái coi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu độ cho nhân loại.
Bài Thương khó theo Thánh Gioan: Ga 18-19
Những ý tưởng mà Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này:
a/ Chúa Giêsu là người tự do: Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh, trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế cuộc chịu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành đông tự do.
b/ Chúa Giêsu là Vua: trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo. Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.
c/ Qua việc chịu chết, Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ.
Gợi ý giảng
Những lời cuối cùng
Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Ðức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Ðức Giêsu hơn.
Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rũa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Ðức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Ðức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.
Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Ðức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài: các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù… Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.
Thế nhưng khi Ðức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”; câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi”; và câu thứ ba “Thưa Bà này là con Bà”.
Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng: câu thứ nhất “Lạy Cha…” là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai “Ngay hôm nay…” là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba “Thưa Bà…” là nói với Ðức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa là: cho đến phút sắp chết, tình thương của Ðức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là Ðức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.
Hôm nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.
Hạng người thứ hai được Ðức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Ðức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.
Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.
Tâm trạng của Baraba
Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Ðức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Ðức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.
Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong từ thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi: Trong hai người này: Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai? Baraba cảm thấy nhẹ nhỏm; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ: thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn: tội hắn quá rõ và quá lớn mà. Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta: Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu. Ðến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mãi mê gào thét đòi giết Giêsu. Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình: chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình. Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn Ðicma thì nói với đồng nghiệp: Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu. Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa: Giêsu là người vô tội bị kết ách oan. Ðicma lại quay sang Giêsu và nói: Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo. Và Giêsu đáp: Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đường với tôi. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Ðicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thì nghe Giêsu kêu lớn: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa: Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Ðicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng: Ðúng thật người này là Con Thiên Chúa. Baraba thầm nghĩ: Ðúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.
Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật:
Trước hết là luật công bình: theo luật này thì cả hắn, cả Ðicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay luật này đã không được thực hiện.
Kế đến là luật rừng, luật bị thúc đẩy bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Ðức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.
Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Ðức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Ðicma được lên thiên đường và những kẻ thù của Ðức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.
Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ “Thầy ban cho chúng con một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau. Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Ðức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.
Chúng ta là môn đệ của Ðức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.
Kinh Lạy Cha
Trong những giây phút đau đớn nhất và buồn phiền nhất, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha và tha thiết cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Cha bằng lời kinh do chính Ngài dạy.
Giải tán
(Dùng “Lời nguyện trên dân chúng” trong Sách Lễ Rôma)
———————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
TÔN THỜ THÁNH GIÁ KHÁM PHÁ TÌNH YÊU – SUY TÔN THÁNH GIÁ CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Ga 18,1-19,42)
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết“.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta“ (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu“.
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
—————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
NGÔI HAI THIÊN CHÚA CÓ CẦN PHẢI CHẾT CHO CON NGƯỜI KHÔNG?- Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Ngôi Hai Thiên Chúa có cần phải chết cho con người không ?
Tại sao Ngôi Hai Thiên Chúa lại phải chịu chết vì tội lỗi con người? Nếu Thiên Chúa muốn tha thứ cho loài người tội lỗi thì Người cứ việc tuyên bố một lời là xong, cần chi phải nhọc công chết thay để đền tội loài người cách đau thương đến thế? Thiên Chúa toàn năng thì làm gì mà chẳng được! Có nhất thiết Ngôi Hai Thiên Chúa phải chịu khổ nạn hết sức đau thương mới có thể tha tội và cứu sống loài người được chăng?
Mọi sự trong hoàn vũ đều phải vận hành theo những quy luật bất di bất dịch mà Thiên Chúa đã đặt ra. Một trong những quy luật đó là: tội lỗi gây ra sự chết.
Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20)
Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12),
“Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta là cái chết” (Rm 6, 23)
và thư Galát: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát” (Galat 6,7)
Quy luật nầy cũng được thánh Giacôbê nhắc lại: “dục vọng sinh ra tội lỗi; còn khi đã phạm tội thì sinh ra cái chết” (Giacôbê 1, 15)
Chiếu theo luật nầy, loài người sa ngã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có một đại diện xứng đáng chết thay cho loài người.
Thiên Chúa không đành để loài người, một tạo vật thượng đẳng được chính Người sáng tạo nên theo hình ảnh mình, phải chết hết vì tội lỗi; vì đó là một tổn thất quá lớn lao và là một nỗi đau vô cùng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng không thể tha bổng cho loài người được vì như thế là đi ngược lại quy luật muôn đời do chính Người đặt ra. Thế nên, Người phải trù liệu cho Con Một yêu dấu của Người chịu chết thay.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Ngôi Hai Thiên Chúa phải xuống thế làm người, trở thành “Anh Cả của mọi người”, trở thành vị Đại Diện xứng đáng nhất cho loài người. Người trở nên “Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian”(Ga 1,29), mang lấy tội lỗi nhân loại nơi thân mình Người.
Thế là Đức Giê-su Ki-tô là” Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Co 5, 21)
Một khi Đức Giê-su đã trở thành tội nhân, chiếu theo quy luật “Ai mang tội, người đó phải chết”, thì Người cũng phải chịu chết. Quy luật nầy không miễn trừ cho bất cứ ai. Ngày xưa các thiên thần phản nghịch cùng Thiên Chúa thì các thiên thần bị đuổi ra khỏi thiên đường và phải trầm luân đời đời trong hoả ngục. Tổ tông loài người đã phạm tội thì phải bị rơi vào kiếp đoạ đày. Nay Con Thiên Chúa mang tội cho loài người, “trở thành hiện thân của tội lỗi” (2 Co 5, 21) thì Con Thiên Chúa cũng phải chết để đền tội. Luật Thiên Chúa đã định, tất cả đều phải tuân hành, không miễn trừ cho bất cứ ai.
Đối diện với cực hình man rợ và khủng khiếp trước mắt, Đức Giê-su thực sự kinh hoàng. Một Vì Thiên Chúa cao cả ngàn trùng như Đức Giê-su lẽ nào lại để cho loài người khốn hèn xỉ vả, khạc nhổ vào mặt, đánh đòn rách nát thịt da, chế giễu nhạo cười đủ cách… Một Thiên Chúa cao cả quyền năng như Đức Giê-su lẽ nào lại để cho loài người khốn kiếp hành hạ, bắt đội mão gai, bắt vác thập giá đến nỗi phải ngã xuống nhiều lần, lại bị lột trần rồi đóng đinh đau đớn nhục nhã trên thập giá giữa hai tên đạo tặc … Như thế là quá quắt đối với một Vì Thiên Chúa rất đỗi cao sang. Thế nên Đức Giê-su dường như không chịu nổi. Người đổ mồ hôi máu vì quá đổi kinh hoàng! (Lc 22,44)
Trong cơn nguy khốn, Người phải kêu khóc với Thiên Chúa Cha:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (He 5,7) với những lời khẩn cầu tha thiết: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén nầy. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con. Một xin theo ý Cha thôi.” (Lc 22,42)
Dầu vậy, quy luật: ‘ai mang tội thì phải chết’ cũng không miễn trừ cho cả Thiên Chúa Ngôi Hai.
Kinh khủng thay hậu quả khôn lường của tội lỗi!
Và cũng bao la thay, tình thương cao vời của Thiên Chúa từ nhân!
Thánh Phê-rô đã phác hoạ tấn thảm kịch mà Chúa cứu thể gánh chịu để đền thay cho nhân loại tội lỗi chúng ta:
“Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em,
Để lại một gương mẫu
Cho anh em dõi bước theo Người.
Người không hề phạm tội;
Chẳng ai thấy miệng Người
Nói một lời gian dối.
Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại,
Chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;
Nhưng một bề phó thác
Cho Đấng xét xử công bình.
Tội lỗi của chúng ta,
Chính Người đã mang vào thân thể
Mà đưa lên cây thập giá
Để một khi đã chết đối với tội,
Chúng ta sống cuộc đời công chính.
Vì Người phải mang những vết thương
Mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2,21-24)
Thiên Chúa đã chết vì tội chúng ta. Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để cứu loài người khỏi chết. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó! Vậy mà tôi vẫn vô tâm !
Lẽ nào tôi vẫn tiếp tục vui hưởng cuộc đời và tiếp tục phạm thêm tội lỗi để mặc cho Chúa cứ phải triền miên đau khổ vì tôi?
————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
SỰ THINH LẶNG CỦA THẬP GIÁ- R. Veritas
Trong suốt ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội như muốn mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca Phụng vụ, tất cả đều đưa chúng ta đi vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thập Giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ Thập Giá. Thập Giá vẫn mãi mãi là một mầu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa? Tại sao Con Một Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên Thập Giá ?
Trong một cuộc đối thoại tưởng tượng với người trộm lành chịu treo bên phải Chúa Giêsu, thánh Augustinô đã hỏi người đó như sau: “Làm sao ông có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh ông, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những nhà tiến sĩ luật, chúng tôi lại không hiểu được những lời ứng nghiệm của Thánh Kinh ngay trước mắt chúng tôi. Ông có đọc Thánh Kinh không? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không?” Người trộm lành mới trả lời như sau: “Không, tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh Thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu tất cả mọi sự.”
Một vị Hồng y già trong cơn hấp hối đã nhắn nhủ như sau: “Chúng ta đã nói rất nhiều lời hay ý đẹp về sự đau khổ, tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục: Đừng nói gì cả, chúng ta không biết gì về đau khổ cả.”
Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi đau khổ của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.
Trong hai người cùng chịu treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào chửi rủa, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời van xin cứu vớt. Đối với chúng ta, điều đó thật phải lẽ, xứng với tội lỗi chúng ta. Kẻ trộm lành qủa thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của Thập giá, ông đã nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá trước tiên là một bày tỏ về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi Thập Giá vẫn là biểu trưng của sự độc ác của con người. Đó là phát minh của con người trong việc sáng chế ra những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Đó là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.
Nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập Giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập Giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên. Đó là ánh sáng của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang Chúa Giêsu trên Thập Giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến và tha thứ của Ngài.
Dưới chân Thập Giá của Ngài còn có Mẹ và một số người bạn dõi theo Ngài cho đến cùng. Mẹ và những người đó đứng nhìn lên Chúa trong lặng yên. Với Mẹ và những người bạn đó, Chúa Giêsu cũng tôn trọng bằng ánh mắt yêu thương, trìu mến của Ngài. Ngài cũng đưa Mẹ Maria và những người đó vào trong mầu nhiệm khổ đau của Ngài. Cùng với Mẹ, chúng ta cũng hãy để cho tâm hồn chìm lắng xuống, hãy để cho bao bận tâm, sầu muộn và khổ đau riêng tư chìm xuống và hoà nhập vào mầu nhiệm Thập Giá của Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài ôm ấp trọn lấy chúng ta trong tình yêu bao dung, tha thứ của Ngài. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của Ngài đốt cháy tâm hồn khô lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của chúng ta.
———————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
BA CÁCH ĐÓN NHẬN CÁI CHẾT KHÁC NHAU- Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
Chúa Giêsu đã từng nói: “Được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, nào có ích gì.” Thực vậy, có những người khi sống đã được cả thế gian, nhưng cuối đời họ đã đánh mất tất cả. Mất cả danh dự. Mất cả bổng lộc. Mất cả người thân và cuối cùng là mất cả mạng sống.
Cuối năm 2006, toàn thể thế giới đều nghe nói về ba cái chết của ba nguyên thủ ba quốc gia. Ba người ba cá tính, ba cung cách lãnh đạo khác nhau. Trước cái chết của họ, có kẻ khóc, có người vui. Có kẻ ngậm ngùi thương tiếc, có kẻ khai rượu ăn mừng. Điểm chung của họ là được cả thế gian nhưng rồi họ cũng ra đi tay trắng như bao người khác.
Người thứ nhất đó là tổng thống Chilê, Ausgusto Pinochê đã qua đời ngày 10/12/2006. Ông đã cai trị nước Chi Lê từ năm 1973 đến 1990. Các tổ chức nhân quyền của Chi Lê đã ước lượng dưới quyền thống trị của ông, có ít nhất 2,100 người bị xử tử vì lý do chính trị, hơn 1,100 tù nhân bị mất tích và khoảng 10,000 tù nhân bị tra tấn trong những trại tù bí mật ở trong nước. Ông đã bị toà án quốc tế truy tố năm 1998 về tội diệt chủng. Ngày an táng của ông, Đức Hồng y Karmelic đã cầu xin Thiên Chúa “quên đi những lầm lỗi của Augusto Pinochê.”
Người thứ hai đó là tổng thống Geral Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ. Ông đã an nghỉ vĩnh viễn vào ngày 26/12/2006. Cuộc đời ông không có gì vẻ vang, không có chiến tích đánh đông dẹp tây, nhưng ông được nhìn nhận là người ôn hoà. Ông đã có một hành động thật phi thường là tha thứ cho cựu tổng tống Nixon khỏi bị truy tố. Ông đã nói rằng: Ông tha thứ cho Nixon vì quốc gia Hoa Kỳ chứ không phải vì bản thân Nixon.
Cuối cùng là cái chết của nhà độc tài Sadam Hussen, cựu tổng thống Iraq. Ông đã bị kết án treo cổ tử hình vì tội giết người vô tội. Ông là một người đã được trời ban cho mọi vinh hoa phú qúy trần gian, nhưng khi chết chỉ có một dây thòng lòng quốn quanh cổ. Dù rằng, ông không chấp nhận bản án, không chấp nhận cái chết nhục nhã này, nhưng định mệnh đã lấy đi mạng sống của ông khỏi trần gian.
Ba nhân vật này đã đi vào cái chết khác nhau. Có người bình thản ra đi. Có người ra đi nhưng vẫn ôm trong lòng những ray rứt lương tâm. Có người ra đi trong bất mãn tột cùng. Và như vậy, cuộc đời chỉ có giá trị khi mình biết sống để phục vụ sự sống. Cuộc đời sẽ bị người đời khinh chê nếu chỉ biết gieo vãi sự chết chóc và kinh hoàng. Sự ra đi trong thanh thản bình an hay lo âu sợ hãi cũng tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta: nhân đức hay tội lỗi, công bình hay giả dối, hiền lành hay gian ác.
Cách đây hơn hai ngàn năm, trên đồi Golgôtha, có ba tử tội đã bị kết án tử hình trên thập tự giá. Ba tử tội, tuy sinh không cùng năm nhưng lại chết cùng ngày, cùng tháng. Ba tử tội đã đi vào cái chết thật khác nhau.
Người thứ nhất bên tả đã oán hận phận số của mình. Cuộc đời của anh chỉ biết giết người và cướp của. Cuộc đời anh chỉ lo gom góp cho bản thân, chỉ nhằm phục vụ bản thân, cuối cùng anh đã ra đi tay trắng trong uất hận đau thương.
Người thứ hai bên hữu đã đón nhận cái chết trong khiêm tốn, ăn năn. Anh đã hoang phí cuộc đời để chạy theo ảo ảnh trần gian. Thế nhưng, anh đã kịp ăn năn về cả một quá khứ lầm lạc. Anh đã chấp nhận cái chết khổ hình như một hình phạt xứng với tội lỗi của mình. Anh ra đi trong an bình của người biết sám hối ăn năn.
Ở chính giữa là Thập Giá Chúa Giêsu. Chúa đi vào cái chết như của lễ đền tội cho nhân sinh. Chúa chấp nhận cái chết vì loài người và để cứu rỗi loài người. Chúa đã chịu khổ hình không do lầm lỗi của mình mà vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chết vì tình yêu đối với nhân loại, đến nỗi đã trở thành khuôn mẫu cho mọi tình yêu. Vì “không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu dám chết thay cho bạn hữu.”
Hôm nay thứ sáu Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu. Khi mang thân phận của một con người như chúng ta, Chúa Giêsu đã sống một đời để phục vụ con người, và Ngài cũng đón nhận cái chết vì con người. Thế nên, tình yêu của Ngài đã thành bất tử trên trần gian. Thập Giá không còn là nỗi ô nhục mà là một cuộc khải hoàn vinh quang.
Đó chính là sứ điệp ngày thứ sáu Tuần Thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta, muốn trở môn đệ của Chúa hãy vác khổ giá mà buớc theo Chúa. Hãy sống một đời biết cho đi. Hãy biết dùng khả năng của mình mà phục vụ sự sống cho đồng loại. Và hãy biết hiến thân mình để đem lại hạnh phúc cho tha nhân, vì chưng: “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” Amen.
————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
TÌNH YÊU CAO VỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su phán: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống cho bạn hữu mình” (Ga 9,13).
Đúng vậy, Ngôi Hai Thiên Chúa đã dâng hiến mạng sống Ngài cho loài người tội lỗi để cứu họ khỏi hư mất đời đời. Vì thế, tình yêu của Ngài thật cao vời khôn ví.
Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi hư mất đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cùng với Chúa Cha tạo dựng nên vũ trụ càn khôn, tạo dựng nên mọi người trên thế gian này, đã hạ mình xuống thế làm người phàm yếu đuối, mang lấy tội lỗi của nhân loại vào thân và vì thế, phải chịu khổ nạn đau thương để đền tội thay, chết thay cho chúng ta.
Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa là Vua muôn vua, là Chúa muôn loài, đã để cho con người hèn hạ lùng bắt Ngài giữa đêm đen, buộc trói Ngài lại và điệu đi như một tên gian ác.
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán uy nghi trên cõi trời cao, là Đấng ngự trên toà tối cao phán xét cả thiên thần lẫn loài người, đã để cho những tên phàm phu tục tử, đê hèn và đốn mạt đứng ra xét xử Ngài, xỉ vả, nhiếc mắng, vung tay tát vào mặt Ngài, thậm chí khạc nhổ lên khuôn mặt cao quý thánh thiện của Ngài.
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể cả vũ trụ càn khôn, là Đấng đầy quyền năng phép tắc, đã để cho con người hèn mọn lột áo Ngài ra, quất lên thân thể Ngài những ngọn roi ác nghiệt. Ôi, những lằn roi ác nghiệt làm cho máu thánh Ngài tươm ra khắp toàn thân!
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đầy quyền năng và sức mạnh, chỉ phán một lời đủ làm cho bão tố phải lặng yên, lại chấp nhận làm “Con Chiên” đền tội, để cho người ta đóng đinh tay chân Ngài vào Thập tự giá. Một khi chịu treo lên Thập tự giá, Ngài trở nên yếu đuối hơn cả những người yếu đuối nhất: Dù muốn xua đuổi ruồi mòng bâu vào các vết thương, chích hút máu mủ của mình, Ngài cũng không làm được.
Chỉ vì muốn cứu chuộc chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng bá chủ đất trời, là chủ nhân của mọi kho báu trong hoàn vũ, lại trở nên người nghèo thiếu hơn mọi người nghèo nhất thế gian: Chết trần, chết trụi không mảnh vải che thân.
Chỉ vì muốn cho chúng ta được sống đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và thông ban sự sống cho các thiên thần và loài người, giờ đây chỉ còn là một xác chết, để cho người ta an táng trong mồ.
Một Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ càn khôn, một Thiên Chúa đầy quyền năng phép tắc, một Đấng trao ban sự sống cho muôn vật muôn loài… đã trở thành một thi hài im lìm bất động, không chút hơi thở, không còn sự sống, nằm im lìm trong lòng đất!
Tất cả chỉ vì để đền tội và cứu chuộc chúng ta.
Giờ đây, trước Thánh giá Chúa Giê-su, chúng ta hãy tự hỏi mình:
Chúa Cứu Thế đã hy sinh tột bậc, hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả vì ta, chúng ta phải báo đáp thế nào cho cân xứng?
Chúng ta phải dốc lòng chừa tội là nguyên nhân gây ra cuộc khổ nạn đau thương của Chúa hay cứ tiếp tục phạm tội để Chúa phải đau khổ triền miên?
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chịu đau khổ quá mức rồi, xin cho chúng con đừng tay lại, đừng phạm tội nữa để khỏi chất lên thân mình Chúa thêm nhiều cực hình và đau thương.
Chúa đã trả giá quá cao để cứu linh hồn chúng con khỏi tội lỗi và khỏi án phạt đời đời trong hoả ngục, xin cho chúng con quyết tâm chừa tội để khỏi làm lãng phí công trình cứu chuộc của Chúa.
—————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
SỐNG CAO ĐẸP CHẾT KHÔNG CÙNG- Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Đời người, ai cũng chết, nghĩa là ai cũng sẽ một lần nhắm mắt xuôi tay. Từ giã bạn bè, người thân ra đi biền biệt. Cái chết là phận số của con người. Không ai mà không chết. Điều quan yếu là chết cách nào? Chết để người đời thương nhớ, lưu danh hay chết là niềm vui của xã hội vì đã loại được một người ăn bám xã hội và hại người.
Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận nhưng xem ra vẫn chưa tận. Vì sau cái chết vẫn còn những lời xì xầm bình loạn của thế gian. Lắm khi cái ác mà người chết gây ra quá lớn thì dẫu chết cũng chưa tận, trong nỗi đau đã khoét sâu trong lòng người sống, khiến số đông không cam lòng. Và, chỉ có thể là “tận nghĩa” giữa cuộc tiễn đưa vắng bóng người, thậm chí không có nước mắt tiếc thương.
Có lẽ nhiều người cũng sợ cái chết của mình chưa tận với miệng lưỡi thế gian, nên trang mạng Facebook đang lan truyền ứng dụng Sát Thủ- chết bất hủ. Sát thủ – chết bất hủ là một ứng dụng dự đoán vui về kết thúc cuối đời của người tham gia. Những lý do chết mà ứng dụng tiên đoán đều khiến người xem bật cười ngay lần đọc đầu tiên. Kiểu như Chết cháy vì táy máy vào ổ điện, Ngủm vì ngửi phải mùi thum thủm, Chết vì nghĩa tình đã hết, Ra đi vì vợ nghi cặp bồ, Thăng vì rụng hết răng không ăn được, Nghẻo vì trèo cây cao, Thăng vì quá lăng nhăng. . .
Thực ra chết cách nào không quan trọng mà là sống thế nào để khi chết vẫn còn có người thương nhớ. Người chết không “tận” nơi người sống mà họ vẫn ở lại trong trái tim người sống về những hình ảnh yêu thương phục vụ của người ra đi. Họ đã sống đẹp cho đời thì hình ảnh đẹp ấy vẫn được người đời muôn đời ca tụng.
Con người và cuộc đời Chúa Giê-su dường như không kết thúc. Ngài vẫn sống trong lòng nhân loại dầu Ngài đã hiến tế cuộc đời trên đồi Golgotha cách đây hơn 2000 năm. Ngài vẫn ở lại trong trái tim từng người vì Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì loài người chúng ta.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su chúng ta chỉ thấy hai chữ hy sinh. Ngài hy sinh nên nhập thể làm người. Ngài hy sinh nên dong ruổi suốt dọc dài đất nước Palestine để thi ân, để cúi xuống phục vụ mọi mảnh đời khổ đau. Sự hy sinh của Ngài nên tới đỉnh điểm là chết cho người mình yêu. Ngài có thể tháo lui trước nhục hình. Ngài có thể từ chối uống chén đắng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã dùng cái chết để mở ra cho nhân loại một con đường về với trời cao. Ngài chết để minh chứng về Chúa Cha, và vì vâng phục Chúa Cha mà Ngài bằng lòng chịu chết. Sự chết của Ngài đã giao hòa con người với Thiên Chúa Cha, để từ nay nhờ hiến tế của Con Thiên Chúa mà con người được trở về nhà Cha.
Hôm nay chúng ta suy tôn thánh giá Chúa. Suy tôn tình yêu tự hiến hy sinh của Chúa. Nhờ hiến tế trên đồi Calve mà con người được sống trong ân nghĩa cùng Chúa Cha. Trong Phúc âm ghi lại: “Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua” (Ga 19,37). Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy tình yêu hiến dâng đến quên cả tính mạng cho người mình yêu. Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy mình cũng có trách nhiệm trong cuộc thương khó của Chúa, trong nỗi đau của anh chị em mình. Ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu để biết sống bù đắp những lỗi lầm của mình đã và đang gây đau khổ cho anh chị em mình.
Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh giúp chúng con mỗi lần ngắm nhìn Chúa biết giục lòng ăn năn thống hối và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho cuộc đời chúng ta sẽ mãi không “tận” trong lòng anh em, mà sống mãi trong mọi người nhờ những hy sinh đóng góp của chúng ta. Amen
——————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
TIẾNG NÓI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nếu như người ta vẫn nói trái tim có lý lẽ của nó, thì chúng ta cũng có thể nói : Tình yêu cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Ngôn ngữ của tình yêu không chỉ là những lời lẽ ngọt ngào, mà còn là những ngôn ngữ không lời, những dấu chỉ không thành tiếng. Ngôn ngữ của tình yêu, không chỉ được nghe bằng tai, mà còn bằng sự cảm nhận của trái tim, ngắm nhìn bằng con mắt và tiếp xúc bằng các giác quan.
Có thể nói bầu khí phụng vụ của ngày Thứ sáu Tuần thánh mang những màu sắc và cung điệu trầm buồn, nhưng trong sự trầm lắng này, chúng ta như có thể nghe được tiếng nói và đụng chạm được đến tình yêu của Thiên Chúa qua cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu.
Có những người cho rằng, phải chăng cái ác và sự bất công luôn thắng thế ? Phải chăng Thiên Chúa cũng chịu thua trước sức mạnh của ma quỷ và sự dữ ? Tại sao một Thiên Chúa vô tội lại phải chịu một bản án bất công như vậy ? Chúng ta sẽ không thể trả lời được bằng những lý lẽ thông thường, mà chỉ có thể trả lời rằng : Thiên Chúa có cách riêng của Ngài để bày tỏ tình yêu thương đối với con người.
Tiên tri Isai đã thấy trước và đã nói về Chúa Giêsu trong hình ảnh của một người tôi tớ chịu đau khổ. Người tôi tớ này một mực trung thành với Thiên Chúa. Nhìn dáng vẻ bề ngoài, người ta chỉ có thể thấy một gương mặt tan nát, một thân xác tả tơi vì bị hành hạ. Ngài hoàn toàn im lặng đón nhận tất cả sự xỉ nhục, hành hạ của kẻ dữ mà không buông một lời oán trách. Ngài đón nhận tất cả tội vạ của muôn dân, gánh chịu muôn nhục hình do tội nhân loại. Bị ngược đãi, Ngài không mở miệng phản kháng, giống như chiên cừu khi bị xén lông. Tiên tri Isai cho thấy, Người Tôi tớ của Thiên Chúa chịu tất cả những hành hạ ấy, chỉ vì một lòng hiếu trung với Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa được vinh danh và để đem lại sự sống và ơn tha thứ cho nhân loại.
Hình ảnh Người Tôi Trung đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu và được thánh Gioan thuật lại trong bài thương khó hôm nay. Có người đặt vấn đề : Chúa Giêsu có thể tránh cuộc khổ nạn và dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại không ? Chắc chắn Chúa có thể dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa đã không tìm cách tránh né. Ngài đối diện và đón nhận thập giá với lòng yêu mến, vâng phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn dành cho con người, là những kẻ được Chúa yêu thương.
Trong cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đau khổ thể xác bởi sự hành hạ dã man của những tên lính, thánh Gioan còn cho thấy, Chúa Giêsu vô cùng đau khổ trong tâm hồn bởi những người Ngài thương yêu đã gây tổn thương cho Ngài. Ngay từ bữa tiệc ly tối hôm qua, Chúa đã thể hiện tình yêu đến cùng dành cho các môn đệ, qua việc trao ban chính con người và mạng sống để làm của ăn của uống cho nhân loại. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để thể hiện tình yêu thương và dạy các ông bài học phục vụ. Trong lúc đó, các tông đồ dường như không quan tâm, họ tỏ ra dửng dưng trước hành động của Chúa Giêsu và quay sang bàn với nhau về chuyện khác.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đau đớn với tâm trạng bị phản bội bởi kẻ Ngài yêu thương là Giuđa. Ngài đã tin tưởng anh, đã yêu thương anh như những môn đệ khác, vậy mà giờ đây, chính anh lại đưa các thượng tế và quân lính đến bắt Thầy mình. Anh đã trở thành kẻ chỉ điểm để người ta bắt Thầy, anh đã lấy cái hôn làm dấu chỉ để phản bội Thầy. Người ta chỉ hôn nhau khi thể hiện tình yêu thương, nhưng Giuđa lại dùng cái hôn để làm dấu chỉ phản bội. Cái hôn ấy chẳng khác gì cái tát vào mặt Chúa Giêsu.
Không chỉ sự phản bội của Giuđa gây đau khổ trong tâm hồn Chúa Giêsu, các tông đồ khác cũng không khá hơn. Các ông trước đây có người từng thề sống thề chết với Thầy, thì giờ đây, chỉ một chút sợ hãi, các ông đã bỏ trốn hết. Simon Phêrô là người được Chúa tin tưởng đặt làm đầu trong anh em, ông chỉ dám đi theo Chúa xa xa vì sợ liên lụy. Khi thử thách đến, Phêrô đã không ngại ngần từ chối mối liên hệ của mình với Thầy Giêsu, Đấng đã yêu thương ông.
Một đau khổ khác mà Chúa Giêsu phải chịu, đó là sự vô ơn và vô cảm của đám đông. Trong những người la hét đòi đóng đinh Chúa, không thiếu những kẻ mới mấy ngày trước họ hoan hô, vỗ tay reo mừng khi Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là con vua Đavít. Thế mà trước dinh Philatô, họ đã trở mặt và tuyên bố : Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesare.
Trong lúc chịu đau khổ cùng cực trong tâm hồn và thể xác, chúng ta nhận thấy lòng thương xót của Chúa Giêsu vẫn tuôn trào qua hành động đón nhận tất cả những cực hình và qua ánh mắt yêu thương, tha thứ của Chúa. Trong lúc quân dữ đang hùng hổ tìm bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức ôn tồn, bình tĩnh bước ra gặp chúng và hỏi : Các anh tìm ai ? Nó đáp : Tìm Giêsu Nazareth. Ngài đáp : Chính tôi đây. Một lời nói với đầy sức mạnh và uy quyền đã khiến chúng bật ngã ra đàng sau. Lúc chúng ra tay bắt Chúa, Đức Giêsu đã không nghĩ đến mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với chúng : Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để những người này đi.
Lúc dân chúng tố cáo Chúa Giêsu trước mặt các Thượng tế về các bài giảng của Ngài, Chúa Giêsu đã không lên tiếng biện hộ cho mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với những kẻ tra hỏi Người : Tôi giảng dạy công khai trong đền thờ, tôi không nói gì lén lút cả, xin các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi, chính họ biết tôi đã nói gì. Thánh Gioan đã tinh tế cho thấy : Trong khi trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn hết lòng tin tưởng và yêu mến những kẻ Ngài đã tuyển chọn, thì bên ngoài, Phêrô, kẻ được Ngài tuyển chọn, lại công khai từ chối Chúa tới ba lần trước mặt một đứa đầy tớ gái. Lúc này, tình yêu thương của Thiên Chúa đã thể hiện qua cái nhìn của Chúa Giêsu. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã gặp được ánh mắt sợ hãi, phản bội của Phêrô, khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận suốt đời trước một tình yêu quá lớn lao.
Trước dinh Philatô, Chúa Giêsu cảm nhận sâu xa và đau đớn vô cùng bởi sự bội bạc, vô ơn của đám dân chúng. Họ đã chọn đứng về phía sự ác và sự dữ khi đòi tha Baraba và giết Giêsu. Họ công khai từ chối thẩm quyền của Thiên Chúa để quy phục quyền bính của một ông vua đang đô hộ họ. Những người Do Thái đã rắp tâm loại trừ Chúa Giêsu và họ đã tìm mọi cách gây áp lực để đạt được ý đồ gian ác của họ. Khi Chúa Giêsu phải vác thập giá trên vai, bước đi những bước nhọc nhằn, thì quân lính và dân chúng hả hê, thỏa mãn vì đã đạt được mưu đồ của họ là vùi dập một con người cho đến chết. Cái ác dường như thắng thế, công lý dường như bất lực, Thiên Chúa dường như cũng im lặng trước khổ đau của Chúa Giêsu. Nhưng trong khung cảnh tối tăm của sự ác ấy, ánh sáng của tình yêu vẫn không hề bị dập tắt.
Thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu, đã cảm nhận được sự đau khổ và tình yêu của Chúa qua hành trình thập giá. Mỗi bước đi, mỗi chặng dừng, từ dinh Thượng tế Anna đến Caipha, từ dinh Philatô đến dinh Herode và từ dinh Philatô đến cái chết thảm thương trên thập giá đồi Calvariô, là một chặng đường dài của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu chỉ nghe hoặc xem lại cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy một cuộc hành hình bất công, đầy hung ác, tàn bạo và máu me. Nhưng nếu chúng ta nghe bài thương khó này bằng trái tim và bằng sự cảm nhận của tâm hồn, chúng ta sẽ được đụng chạm đến tình thương của Thiên Chúa. Và, nếu chúng ta lắng nghe cuộc thương khó của Chúa trong thinh lặng, để cho trái tim mở ra, chúng ta sẽ nhận ra hình ảnh và trách nhiệm của mình có liên quan trong cuộc hành hình này.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta suy niệm chiều nay là cách thức Thiên Chúa nói với con người về một tình yêu bao la, về lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Với tiếng nói tình yêu này, chúng ta không chỉ nghe bằng tai, nhưng xin cho trái tim của chúng ta cũng biết lắng nghe, biết mở ra để cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trong chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ dửng dưng vô tình trước tình yêu của Chúa và cũng đừng bao giờ đóng cửa trái tim trước nỗi khổ đau của anh chị em. Amen.
——————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
“VINH QUANG CỦA TA LÀ THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ”- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ hôm nay không phải là Phụng vụ Thánh Thể mà là Phụng vụ Thánh Giá. Cao điểm của buổi phụng vụ này là nghi thức mở Thánh Giá và thờ lạy Thánh Giá. Nhưng để giúp chúng ta hiểu biết mầu nhiệm Thánh Giá, ba bài Kinh Thánh vừa nghe lần lượt giới thiệu với chúng ta những khía cạnh của Thánh giá Đức Kitô, cũng là những nét chính trên khuôn mặt Đức Kitô ở trên Thánh Giá. Là vì từ ngày Người bị đóng đinh, thập giá đã trở thành Thánh giá khi mang xác Thánh Người; và như lời thánh Phaolô nói, chúng ta cũng chẳng biết một Đức Kitô nào khác ngoài chings Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá. Nên suy nghĩ về Thánh giá, là chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu đóng đinh. Qua những bài Kinh Thánh vừa nghe, Phụng vụ muốn chúng ta nhìn ngắm Đức Kitô trên Thánh giá như là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, như là Vị Thượng Tế của Đạo Mới, và như là Đấng Hoàng Đế đã cứu chuộc chúng ta.
Tuần Thánh tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, ngày đại tang của Giáo hội. Chúa Giêsu chết trên thập giá cách đây hơn 2000 năm tại đồi Calvariô. Giáo hội làm nổi bật thập giá và tôn vinh Thánh Giá Chúa Giêsu. Giáo hội mong muốn con cái mình chia sẻ và cảm thông với Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người để bước theo con đường thập giá để được sống lại với Người.
Trước cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, con người chỉ biết thinh lặng để ngắm nhìn Chúa Giêsu, để lắng nghe tiếng nói từ thập giá, tiếng nói của tình yêu tha thứ cho đến cùng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu.
Thập giá đối với con người hôm nay vẫn luôn là một mầu nhiệm và í tai muốn bước theo, bởi ai cũng muốn cuộc sống nhàn hạ, sung sướng. Con đường thập giá là con đường chẳng mấy ai theo.
Đối với người Kitô, những người tin, thì thập giá của Chúa Giêsu:
– Dấu chỉ tình yêu cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu cứu độ, Đức Giêsu chết để con người được sống.
– Phương tiên cứu độ nhân loại.
Dấu chỉ của người môn đệ của Đức Kitô và cũng là dấu chỉ của người Công giáo.
– Thập giá là con đường vinh quang như lời thánh Phaolô xác quyết “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô”
Chuyện kể: Một đoàn người đông đảo trên con đường gồ ghề quanh co đang tiến lên ngọn núi cao. Mỗi người mang thập giá của mình vừa đi vừa ca hát… Một chàng thanh niên bất đắc dĩ phải vác thập giá, không chấp nhận thập giá. Vì thế thập giá của anh đã trở nên quá nặng nề. Anh chán nản, chịu cực không được… Anh nghĩ ra cách để làm nhẹ bớt gánh nặng thập giá. Anh ngồi xuống và lấy dao đốn bớt cây thập giá đi, cây thập giá cũng không nhẹ hơn, cùng đoàn người tiến bước.
Bỗng một con sông xuất hiện trước mặt. Điều vô cùng lạ lùng là thập giá của mỗi người đặt xuống đều vừa với dòng sông thành chiếc cầu để đi qua. Mọi người đi qua sông an toàn. Đến lượt chàng thanh niên tới, anh đặt cây thập giá của anh thì hụt, anh không thể qua bên kia sông được… anh bị bỏ lại. Đoàn người vác thập giá đã gặp được Đức Giêsu Kitô đang chờ đợi họ vào hưởng hạnh phúc đời đời.
Chối bỏ thập giá, chúng ta khôngt thể vào được Nước Trời. Chỉ có con đường thập giá là con đường duy nhất đưa chúng ta tới nguồn ơn cứu độ, hưởng hạnh phúc Nước Trời.
————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ SÁU TUẦN THÁNH
CHIẾN THẮNG TỪ CÂY THẬP GIÁ – Trích Logos năm A
Người ta thường xòe hai ngón tay, hoặc giơ cao hai cánh tay tạo thành hình chữ V để chúc nhau thắng lợi hoặc báo tin chiến thắng. Chữ V viết tắt từ danh từ Victory tiếng Anh và Victoire tiếng Pháp. Cử chỉ ấy xuất phát từ một sự kiện trong lịch sử :
Giữa thế chiến Thứ Hai, khi quân Đức quốc xã xâm chiếm nước Bỉ. Hàng loạt người Bỉ ra nước ngoài lánh nạn. Victor Tolaveli là một người Bỉ sang nước Anh và phục vụ trong chương trình tiếng Bỉ của đài BBC. Năm 1940, qua làn sóng phát thanh, ông kêu gọi đồng bào mình ở quê hương hãy viết thật nhiều chữ V ở những nơi công cộng để biểu lộ quyết tâm chống Đức quốc xã và niềm tin sắt đá vào chiến thắng. Bất ngờ thay, lời kêu gọi này lập tức được hưởng ứng nhiệt liệt không chỉ ở Bỉ mà còn trên toàn thế giới. Từ đó trở đi, dù đang sống trong hòa bình, người ta vẫn xoè hai ngón tay hoặc giơ cao hai cánh tay tạo thành chữ V để biểu lộ niềm vui chiến thắng.
Trên cây thập giá, khi Chúa Giêsu giang tay chịu đóng đinh, hai cánh tay của Ngài cũng tạo nên chữ V, dấu hiệu của sự chiến thắng vinh quang.
Thập giá là dụng cụ khủng khiếp dùng để hành hình các tội nhân. Đó là dấu hiệu của ô nhục và thảm bại. Nhưng từ khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, thập giá mang một ngôn ngữ khác :
Thập giá, dấu hiệu của ơn cứu độ.
Bài trích sách Dân Số thuật lại : khi dân Do Thái đi trong sa mạc cực khổ đã kêu trách Chúa. Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Dân Do Thái cầu cứu ông Môisen. Ông Môisen xin Chúa tha cho dân, Thiên Chúa truyền cho ông Môisen đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu sống (Ds 21, 4-9).
Hình ảnh con rắn đồng được treo lên giữa sa mạc tiên báo Chúa Giêsu cũng bị treo lên để trở nên “căn nguyên ơn cứu độ đời đời” cho nhân loại. Thập giá sự chết đã biến thành thánh giá sự sống. Thánh giá được giương cao trên toàn thế giới để những ai đang chìm sâu trong thất vọng, trong cơ cực nhọc nhằn, trong vực thẳm sự chết, nếu ngước mắt nhìn lên, sẽ nhận được ơn cứu sống.
Tiếc thay, con người thời nay ít nhìn lên thánh giá, vì họ cứ mải mê nhìn xuống đất để kiếm tìm thú vui trần thế, của cải mau qua. Họ cúi xuống vì những đam mê dục vọng đang đè nặng tâm trí họ. Hôm nay, đã đến lúc chúng ta ngẩng cao đầu, ngước nhìn về thánh giá Chúa cầu xin ơn giải thoát cho chính mình.
Người ta làm một thí nghiệm : thả con ong vào chiếc ly không có nắp. Con ong ở trong chiếc ly cho đến chết, nếu không được mang ra ngoài. Nó không bao giờ tìm thấy lối ra ở ngay trên đầu mình, mà chỉ tìm kiếm con đường thoát thân ở đáy ly. Nó tự giết mình vì không ngước đầu nhìn lên.
Từ cuộc sống vất vả lầm than, từ ngõ bí cuộc đời, trong giây phút này, chúng ta hãy nhìn lên thánh giá để thấy con đường giải thoát cho chính mình. Thánh giá Chúa sẽ mở ra một lối đi cho những ai khao khát kiếm tìm.
Thập giá, dấu hiệu của chiến thắng.
Sách Xuất Hành thuật lại : khi dân Do Thái chiến đấu với quân Amalec, ông Môisen đứng trên đỉnh đồi giang tay ra, khi ấy dân Do Thái thắng trận, còn khi mỏi mệt bỏ tay xuống, dân Do Thái thua trận. Sau đó, ông Aaron và ông Khua đã đứng hai bên để đỡ hai tay ông Môisen. Dân do Thái toàn thắng (Xh 17, 8 – 12).
Hình ảnh Chúa Giêsu giang tay trên thánh giá đã trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng. Chữ V nhiệm mầu vươn lên cao giữa một thế giới đang thua cuộc trước những thế lực của sự dữ, của “cái ác”, của bạo lực và khủng bố triền miên. Ông Môisen giang tay để chiến thắng một đạo quân, còn Chúa Giêsu giang tay để chiến thắng tội lỗi và sự chết. Đôi tay ông Môisen được người khác đỡ lên, còn đôi tay Chúa bị đóng đinh. Chỉ khi nào ta chịu đóng đinh vào thánh giá với Chúa, ta mới có thể cùng chiến thắng với Ngài. Chỉ khi nào ta giơ tay ra đón lấy người anh em khốn cùng, ta mới chiến thắng “cái tôi” và lòng vị kỷ.
Người ta làm một thí nghiệm : nhốt một con ó vào một cái chuồng rộng 2 mét và hoàn toàn mở nắp. Con chim ó vẫn cứ chỉ là một “tù binh” mặc dù nó có thể bay lên được. Lý do là loài chim ó luôn có thói quen chạy “lấy đà” từ 10 đến 12 mét trước khi cất cánh khỏi mặt đất. Nếu không có chỗ “lấy đà” theo thói quen, nó không bao giờ cố gắng để giang đôi cánh bay lên. Mãi mãi nó chấp nhận chịu giam hãm trong chuồng.
Chúng ta đang bị giam hãm trong tội lỗi và nỗi cô đơn. Tại sao chúng ta không cố gắng giang tay cùng với Chúa trên thánh giá đời mình để được nâng lên cao ?
———————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN– Chú giải của Noel Quesson (*)
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, “ngày thứ nhất” trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ “dựng nên” công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố”. Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta “chạy”. Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho “môn đệ” không nêu rõ danh tánh: “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ “ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: “ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”.
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, “ông đã thấy và đã tin”.
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau “quyền bính”, trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong “trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy “băng vải tuột ra” và “khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ”, nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng “trao ban đức tin” cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới “điều tin nhận”. Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: “Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?” Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống” và “những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: “Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết”.
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! “Ngôi mộ trống” chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
(*) Tựa đề do BTT. GPBR đặt
————————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình “tiệm tiến gây ấn tượng”.
– Trước tiên đó là những “di chuyển” rất nhiều và rất nhanh: động từ “chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
– Kế đó là những “dấu chỉ” ngày càng rõ nét (với những động từ “nhìn”, “thấy”), và “lời giải thích” về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
– Maria Madalêna “thấy” phiến đá lập cửa mồ “được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã “bị lật đi”. Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, “cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó”.
– Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. “Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra”. Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự “kinh ngạc” của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: “Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết”.
– Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó “ông đã thấy và ông đã tin”.
Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, “Môn đệ kia” được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; “Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; Người trong bữa Tiệc ly đã “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu”, với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người” (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan”. Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã “thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: “tin dù không thấy” (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài: (‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: “Tin dù không thấy” và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: “Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu”. Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý “đã thấy và đã tin”.
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
Tại ngôi mộ để ngỏ (G. Boucher trong “Thiên đường tại thế”)
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.
——————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
ĐÊM THÁNH- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
(Như trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến, trong đêm cực thánh này, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã vượt qua từ sự chết đến sự sống, Hội Thánh mời gọi con cái tản mát trên khắp địa cầu họp nhau canh thức cầu nguyện. Nếu chúng ta kính nhớ lễ Vượt qua của Chúa, nghe lời và cử hành mầu nhiệm của Người, thì chúng ta có hy vọng được thông phần vào cuộc toàn thắng sự chết của Người và được sống với Người trong Chúa.
LỜI CHÚA (phần thánh lễ)
Thánh Thư : Rm 6,3-11
Khi lãnh nhận phép rửa, tín hữu được tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa Giêsu :
Thánh Phaolô nói theo nghi thức Rửa Tội thời Giáo Hội sơ khai : người dự tòng được dẫn đến giếng rửa tội, rồi dìm toàn thân vào nước, sau đó đứng lên.
Nghi lễ ấy mang ý nghĩa vượt qua : việc dìm mình xuống nước có nghĩa là để cho con người cũ (xác thịt, tội lỗi) chết đi ; việc chỗi dậy có nghĩa là sống lại thành con người mới, con người thuộc về Thiên Chúa.
Đáp ca : Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
Tin Mừng : Mc 16,1-8
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, một số phụ nữ vội vàng ra mộ để xức thuốc thơm cho xác Chúa Giêsu. Nhưng các bà thấy tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, không có xác Chúa trong mộ. Một thiên sứ báo cho các bà biết Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà hãy đi loan Tin Mừng ấy cho các môn đệ.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Chúa Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây :
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Chúa Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / đặc biệt là anh chị em tân tòng / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Chúa Giêsu Phục sinh / cho những người lương dân sống chung quanh chúng ta.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước ấy được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.
– Chúc bình an : Chúa Giêsu phục sinh đã mang bình an đến cho chúng ta. Chúng ta hãy thành thật chúc nhau được hưởng bình an của Chúa.
GIẢI TÁN
Đức Kitô đã sống lại và đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến cho mọi người. Halleluia, Halleluia.
———————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
——————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
MỪNG CHÚA PHỤC SINH- ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
Anh chị em rất thân mến,
“Chúa đã sống lại thật”, đó là niềm tin của chúng ta, đó là niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta hân hoan tuyên xưng đức tin ấy trong Thánh lễ đêm nay.
Nhưng chúng ta tuyên xưng như thế nào, để lòng mọi người rộn rã hân hoan? Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng bừng lên trong bóng tối, bóng tối của tâm hồn còn nhiều tội lỗi của chúng ta, bóng tối của cuộc đời còn đầy những khó khăn và thử thách, bóng tối của xã hội còn tràn ngập những điều xấu xa và bẩn thỉu, bóng tối của thế giới còn bị đe doạ bởi bóng ma chiến tranh và chết chóc?
Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng xoá tan u tối, để mọi xiềng xích bị bẻ gãy và con người được tự do đích thực?
Chúng ta chỉ có thể làm được như vậy với quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần!
Chúng ta tuyên xưng trong tư cách của những người đã chịu Phép rửa, được mai táng trong cái chết của Đức Kitô, đang thừa hưởng sự sống mới, và sẽ được cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-4). Chúa đã chiến thắng các tội ác, chiến thắng thần dữ và sự chết. Sự chết không cầm giữ được Người nữa, không có quyền gì trên Người nữa. Người đã sống lại và không còn chết nữa (x. Rm 6, 9).
Thần dữ và sự chết sẽ không làm gì được chúng ta, vì chúng ta được chia sẻ Thần khí Phục sinh của Chúa, Sức mạnh Phục sinh, Quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa (x Rm 6, 3-5). Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống”. Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu, Ngài sẵn sàng đổi mới mặt địa cầu. Chúa Thánh Thần chính là Quà tặng Chúa Phục sinh ban cho chúng ta.
Chúa Phục sinh đầy tràn Thần Khí của Thiên Chúa, đầy tràn Ánh Sáng và Tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Yêu thương, chính là bản chất của Thiên Chúa và cũng là sức mạnh của Thiên Chúa. Điều kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, là làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Nơi biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện tất cả quyền năng, biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Ngài, một tình yêu bất diệt, luôn sinh ra tình yêu. Ngài nói với Chúa Giêsu Phục sinh: “Con là Con của Cha, Hôm nay Cha đã sinh ra Con !” (Lc 3,23). Sự sống của Chúa Giêsu là sự sống của Chúa Cha, vì Chúa Cha là Thiên Chúa hằng sống. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là bất diệt, chỉ có Tình yêu của Thiên Chúa là bất diệt! Anh chị em có dám tin như vậy không?
Bài Tin mừng Luca tường thuật việc mấy người phụ nữ ái mộ Chúa Giêsu đã đi thăm ngôi mộ của Chúa, mang theo dầu thơm, để xức cho thi hài của Chúa. Đến nơi, họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả (x. Lc 24, 1-3). Đang lúc các bà còn sợ hãi, thì có hai thiên sứ y phục sáng chói đã nói với các bà: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết? Đức Giêsu không còn trong ngôi mộ nữa, Người đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24, 5-6).
“Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết” ! Đó là nội dung lời rao giảng của các thánh Tông đồ. Và đó cũng là sứ điệp từ trời! Sứ điệp sẽ được công bố cho mọi người để mọi người tin, và nhờ tin mà được cứu rỗi, được đón nhận Chúa Thánh Thần và được ơn tha tội. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã nói một cách rõ ràng trong thư Rôma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 10).
Sự Sống lại của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử, vì đã xảy ra trong lịch sử. Người đã chết thật và đã được chôn cất trong một ngôi mộ, mà ngày nay vẫn còn di tích tại Thánh địa Giêrusalem. Người đã trỗi dậy, ra khỏi mồ, Người đã sống lại thật, đã hiện ra với các Tông đồ, và đã trao sứ mạng “Làm chứng” cho Giáo hội mà các ông là đại diện (x. Lc 2435-48 ; Mc 16, 9-15; Ga 20,19-31). Chúa đã sống lại thật, và đã sống lại vĩnh viễn, sự chết không cầm giữ được Người. Người đã chiến thắng sự chết một cách vĩnh viễn (x. Rm 6, 9-10). Chiến thắng tử thần là “chiến thắng lớn nhất”, không còn có chiến thắng nào lớn hơn, bởi vì tử thần là kẻ thù đáng sợ nhất của loài người. Chính vì thế mà Phaolô dám nói một cách khiêu khích với “tử thần”: Tử thần hỡi, chiến thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi nọc độc của ngươi đâu? Tử thần có độc là vì tội lỗi!” (1Cr15,55).
Nhưng Thiên Chúa đã ban cho ta “Ơn Tha tội” nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
————————————————————————————-
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
CANH THỨC VƯỢT QUA- ĐGM. Phêrô Nguyễn văn Khảm
Chúa Giêsu là người Do thái, các môn đệ đầu tiên của Người là người Do thái, cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên cũng là người Do thái và trong giai đoạn đầu của Kitô giáo, cộng đoàn ấy vẫn cầu nguyện chung trong đền thờ Do thái. Như thế, có mối liên hệ rất chặt chẽ giữa Do thái giáo và Kitô giáo, và nhiều cử hành phụng tự trong Hội Thnh Kitô bắt nguồn từ những ngày lễ của Do thái giáo. Cụ thể là việc cử hành Đêm Canh thức Vượt Qua.
Theo truyền thống Do thái giáo, có bốn đêm quan trọng nhất trong hoạt động của Thiên Chúa: đêm Thiên Chúa tạo dựng đất trời và vũ trụ, đêm Abraham hiến tế người con duy nhất của mình là Isaac cho Thiên Chúa, đêm xuất hành khi Môsê đưa dân ra khỏi đất nô lệ Ai Cập, cuối cùng là đêm tận thế khi lịch sử này chấm dứt.
Kitô giáo tiếp nối truyền thống của Do thái giáo, cho nên trong Đêm Canh Thức hôm nay, Hội Thánh cũng đọc lại các bài đọc Thánh Kinh về tạo dựng, về hiến tế Isaac (nếu đọc đầy đủ), và về cuộc xuất hành. Duy chỉ có một điều khác biệt và là điều hết sức quan trọng, đó là thay vì nói đến đêm tận thế thì Hội Thnh công bố Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh; cũng vì thế, đêm canh thức này còn được gọi là đêm vọng Phục sinh. Và chính Tin Mừng Phục Sinh soi chiếu một luồng sáng mới vào các bài đọc Cựu Ước, đồng thời giúp cho người Kitô hữu hiểu được ý nghĩa phong phú của mầu nhiệm phục sinh.
Phục Sinh chính là công cuộc tạo dựng mới. Trong công trình tạo dựng cũ, Thiên Chúa đã tạo dựng con người và cho họ sống trong hạnh phúc, nhưng con người lại cho rằng sống theo thánh ý Thiên Chúa chỉ làm cho đời mình mất hạnh phúc, nên con người đã tự chọn một hướng đi khác. Trong thực tế, hướng đi ấy chỉ dẫn con người đến sự chết. Phục sinh là công trình tạo dựng mới vì Chúa Giêsu, đại diện cho một nhân loại mới, đã dứt khoát chọn lựa con đường của Thiên Chúa cho dẫu con đường ấy đưa Người đến khổ nạn và thập giá, và Phục sinh minh chứng rằng đó chính là con đường sự sống. Cho nên Phục sinh là công trình tạo dựng mới; cũng vì thế, đêm nay, Hội Thánh cử hành nghi thức rửa tội cho các dự tòng, và sau khi được rửa tội, họ mặc tấm áo mới tượng trưng cho con người mới, tạo thành mới.
Phục Sinh cũng là một hiến tế mới. Abraham ngày xưa đã chấp nhận hiến dâng người con duy nhất của mình là Isaac để bày tỏ niềm tin và sự vâng phục tuyệt đối của ông đối với Thiên Chúa, nhưng cuối cùng khi vung dao sát tế con mình thì đã có bàn tay thiên thần ngăn ông lại. Còn trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa đã hiến dâng Người Con duy nhất của Ngài cho nhân loại. Không có bàn tay nào ngăn lại những nhát búa đóng đinh Con Thiên Chúa. Cũng không có bàn tay nào ngăn lại lưỡi đòng đâm thấu trái tim Con Thiên Chúa. Người trở thành Con Chiên bị sát tế, nhưng cũng nhờ đó mà sự sống mới được ban tặng cho ta. Cho nên đêm nay, khi vị chủ sự làm phép nước và rẩy lên cộng đoàn, chúng ta hát rằng : “Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra”, nghĩa là từ thân mình Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thấu, “và nước ấy chảy đến những ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên : Alleluia, Alleluia”.
Phục sinh còn là xuất hành mới. Cuộc xuất hành thời Môsê là xuất hành từ miền đất nô lệ Ai Cập đến vùng đất tự do. Nhưng có vào đất hứa đi nữa thì sau đó Dân Chúa cũng lại rơi vào cảnh nô lệ nhiều lần khác và cuối cùng vẫn phải chết. Còn trong mầu nhiệm Phục sinh, Chúa Giêsu dẫn ta vào cuộc xuất hành mới vì đưa ta ra khỏi cõi nô lệ sâu xa nhất là nô lệ tội lỗi và dẫn đến tự do đích thực là tự do nội tâm, cũng là con đường từ sự chết đến sự sống trọn vẹn. Đêm Vọng Phục Sinh được mở đầu bằng nghi thức làm php nến phục sinh và rước lửa từ cuối nhà thờ lên. Giữa màn đêm tăm tối của thế giới bị sự dữ thống trị, Chúa Kitô Phục sinh xuất hiện như ánh sáng và ánh sáng ấy tiến đến đâu, thì bóng tối bị xua tan đến đó. Và mỗi người trong cộng đoàn cũng được đón nhận ánh sáng ấy vào trong cuộc đời mình. Quả là hình ảnh tuyệt vời về cuộc xuất hành sâu xa nhất của những ai đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh.
Tóm lại, Phục sinh là cuộc tạo dựng mới, hiến lễ mới và xuất hành mới. Hiểu như thế, đêm nay là đêm trọng đại nhất trong mọi đêm. Hội Thánh cử hành đêm Vọng Phục Sinh này để hâm nóng niềm tin của ta vào Chúa Kitô Phục Sinh, đồng thời nhắc nhớ ta nhiệm vụ chuyển giao niềm tin ấy cho các thế hệ mai sau, đặc biệt trong bầu khí gia đình. Hãy thử nhìn lại lịch sử của dân Do Thái : làm sao họ có thể giữ được căn tính dân tộc sau bao nhiêu thế kỷ bị phát tán khắp nơi trên thế giới, trở thành một dân tộc duy nhất không có miền đất cố định để định cư? Chính là nhờ cử hành tôn giáo, đặc biệt là cử hành đêm Vượt qua trong bầu khí gia đình. Trong nghi thức đó, một người con trong nhà cất tiếng hỏi: Tại sao đêm nay lại khác mọi đêm? Người cha sẽ dựa vào Thánh Kinh để giải thích cho con cái và cả gia đình hiểu tại sao đêm nay lại là đêm trọng đại, khác hẳn mọi đêm? Chính nhờ đó, căn tính dân tộc của người Do Thái được bảo vệ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác giữa bao thăng trầm của đất nước và dân tộc. Lại chẳng phải là một tấm gương đáng cho các gia đình công giáo noi theo sao? Để đức tin Kitô giáo được chuyển giao cách trung thành và mạnh mẽ từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm nên nền tảng cho cuộc sống và sức mạnh cho những dấn thân giữa lòng đời. Và ngọn nến Phục sinh mà ta thắp lên giữa bóng tối mịt mùng khi bắt đầu Đêm Canh thức sẽ không chỉ còn là biểu tượng, nhưng là thực tế đầy thuyết phục trong cuộc sống hằng ngày.
—————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
NẤM MỒ– ĐGM. Giuse Vũ văn Thiên
Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội dừng chân suy tư bên mộ Chúa. Tại một số giáo phận có các thừa sai thuộc dòng Đaminh, quen gọi là “Địa phận dòng”, Tuần Thánh được cử hành với những nghi thức truyền thống của các thừa sai Đaminh Tây Ban Nha. Sau khi tháo đanh, Chúa Giêsu được an táng trong hang đá, suốt đêm thứ Sáu và cả ngày thứ Bảy. Từng nhóm tín hữu đến viếng và “hôn chân Chúa” trong tiếng ca vãn bi ai. Mọi người tham dự nghi thức “ngắm đàng Thánh Giá” chiều thứ Bảy đều mang vành tang trắng trên đầu, như để thương tiếc một người thân đã khuất.
Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Bằng chứng của sự chết là khi một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, máu và nước chảy ra. Người được an táng trong huyệt mộ. Những kỳ mục Do Thái cũng như những người đòi lên án tử cho Chúa đều nghĩ họ đã thành công. Bởi lẽ, loại trừ được vị Ngôn sứ thành Nagiarét, họ như trút được gánh nặng. Chúa Giêsu bị họ coi là một người phản loạn, một người hay bắt bẻ và phê phán họ trước quần chúng. Những người dân thành Giêrusalem, sau khi chứng kiến cái chết của Chúa, cũng trở về với những bận rộn của ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua. Sự kiện một người bị lên án tử đối với họ cũng dần trôi vào dĩ vãng. Cũng có những người thương cảm trước một người tử tội theo lẽ tình đồng loại, nhưng sự thương cảm ấy cũng phải nhường chỗ cho những âu lo của cuộc sống thường ngày.
Vào lúc sự ác dường như đã lên ngôi, thì chính Thiên Chúa hành động. Đức Giêsu được an táng trong mồ được sánh ví như ông Ađam ngủ say để từ đó, Chúa làm phát sinh một dân tộc mới từ cạnh sườn của ông. Sau ba ngày, Chúa Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những kẻ chết. Lòng đất tăm tối không thể giam hãm Đấng đã làm cho kẻ chết bước ra khỏi mồ. Tử thần không thể đánh bại Đấng ban sự sống. Nấm mộ không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã phục sinh để chứng minh quyền năng của Người. Khởi đi từ sự phục sinh của Con Thiên Chúa, Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới trong Đức Kitô. Kể từ khi Đức Giêsu sống lại, mỗi khi dừng lại bên nấm mộ của người thân, chúng ta có quyền tin rằng, sẽ có ngày nắp mộ sẽ bật mở ra để người chết đi ra. Vì con người không được tạo dựng để bị quên lãng mãi mãi trong lòng đất, mà để sống và ca tụng Chúa trong vinh quang đời đời.
Phụng vụ Canh thức Phục Sinh chia làm bốn phần: Nghi thức làm phép lửa, Phụng vụ Lời Chúa, Phụng vụ Phép Rửa và Phụng vụ Thánh Thể. Cả bốn phần đều nhấn mạnh đến sự sống / sự chết; ánh sáng / tối tăm; thánh thiện / tội lỗi; niềm vui / tang tóc. Như thế, đêm Canh thức diễn tả cuộc đời trần thế của chúng ta. Quả thật, sống là cuộc chiến đấu liên lỷ để sự sống chiến thắng sự chết; để ánh sáng đè bẹp tối tăm; để sự thánh thiện vượt lên tội lỗi và để niềm vui thay thế đau thương.
Đấng Phục Sinh như một vầng sáng bừng lên giữa nơi mồ tối. Nghi thức làm phép lửa mới chiếm vị trí quan trọng mở đầu buổi canh thức. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ánh sáng chan hòa sưởi ấm con người và cuộc sống nhân gian. Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô, như Người đã xác quyết: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”(Ga 8,12). Khởi đi từ ánh lửa bừng lên trong đêm tối, phụng vụ đêm nay kết thúc trong niềm vui chan hòa, vì “Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,9).
“Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Chúa Giêsu đã qua thập giá mà tiến tới phục sinh. Những ai muốn phục sinh với Chúa, cũng cần phải trải qua thập giá. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa chết đi cho tội để được phục sinh với Chúa. Nấm mộ là nơi vùi chôn những lỗi lầm của thời dĩ vãng. Nấm mộ là nơi chấm hết của nếp sống cũ với những yếu đuối khuyết điểm, đồng thời là nơi khởi đầu một cuộc sống mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi.
Khi mừng lễ Phục Sinh, mỗi chúng ta cần để cho ánh sáng của Chúa Giêsu sống lại chiếu sáng. Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để chúc lành và nâng đỡ chúng ta trong mọi nẻo đường của hành trình con người.
—————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI – Radio Veritas Asia.
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
THIÊN CHÚA VẪN HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
Đã có một thời người ta tưởng rằng: “Thiên Chúa đã chết.” Đã có một lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!” Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa. Nhưng rồi cho dù nhân loại có tốn bao nhiêu giấy mực, có tốn bao nhiêu công sức bỏ vào các công trình nghiên cứu đồ sộ để loại trừ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn hằng hữu. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong thế giới quanh ta và trong lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn hiện diện như là một sự thật hiển nhiên mà chẳng có gì có thể che lấp được. Sự thật hiển nhiên đó được chứng tỏ qua các tôn giáo, qua các lễ nghi thờ tự phong phú nơi các dân tộc qua mọi thời đại. Có thể nói “nơi nào có con người là nơi đấy có những cách biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa khác nhau.” Thế nên, niềm tin vào Thiên Chúa đã gắn liền với bản tính con người. Con người là loài vật duy nhất có khả năng nhìn nhận Thiên Chúa và bày tỏ những hình thức tôn thờ Ngài. Đó là một chân lý mà không ai có quyền bác bỏ nơi anh em của mình. Đó là quyền tự do bất khả xâm phạm của con người mà những ai có lương tri đều phải nhìn nhận và tôn trọng.
Cách đây hơn hai ngàn năm, những quan chức Do Thái đạo lẫn đời đã từng tưởng rằng: cái chết của Chúa Giêsu sẽ kết thúc mọi lời rao giảng của Ngài, kết thúc mọi công trình mà Ngài đã xây dựng trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng. Chính những người Do Thái tưởng rằng sau cái chết của Giêsu thì mọi sự sẽ tan rã như thân xác của Ngài cũng sẽ tan rã theo quy luật của thiên nhiên. Thế nhưng điều đó đã không xảy ra. Cửa huyệt đã bị bật tung. Huyệt lạnh chỉ còn tấm khăn liệm. Thân xác của Ngài không tan rã nhưng đã phục sinh và hiện ra với nhiều người. Sự Phục sinh của Ngài đã quy tụ lại tất cả các môn đệ trở về với mái nhà xưa, mái nhà tiệc ly, mái nhà của tình thầy trò, của tình hiệp nhất bằng hữu. Các tông đồ hôm qua đang tan nát cõi lòng vì Thầy đã chết hôm nay họ lại bừng lên một sức sống mới khi nghe tin Chúa đã sống lại. Sức sống mới đó càng trào dâng khi chính các ngài đã nhìn xem thấy Thầy sống lại và hiện ra với họ. Sức sống mới đó càng mãnh liệt hơn khi chính họ được nghe Chúa nói: “Tại sao các ngươi lại đi tìm kẻ sống nơi kẻ chết. Chúa đã sống lại.”
Vâng, Chúa đã sống lại, chúng ta hãy vui lên. Ưu sầu hãy đổi thành niềm vui. Thất vọng hãy nhường lối cho hy vọng được trồi sinh. Các tông đồ sau khi nhìn thấy nấm mồ đã bị bật tung, các ngài đã quên đi sợ hãi, quên đi ưu phiền để đem niềm vui Phục sinh đến cho anh em của mình. Lời rao giảng:”Chúa đã chết và đã sống lại” đã trải rộng khắp muôn nơi và đến tận cùng trái đất. Bất chấp mọi hiểm nguy, mọi đe doạ của các thế lực bạo quyền, các tông đồ vẫn trung thành với lời rao giảng về Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô thì bảo rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hay vâng lời vua quan trần thế?” Thánh Phaolô thì nói rằng: “Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kitô đang sống trong tôi.” Chính vì những xác tin đó mà các ngài đã vượt qua mọi sợ hãi, mọi gian nguy kể cả phải đi vào phong ba bão táp, tù đầy và bị giết, các ngài vẫn hiên ngang, vì tin rằng Chúa đã sống lại đó là niềm hy vọng và vui mừng của chúng ta, vì nếu chúng ta cùng chịu đóng đinh với Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại với người.
Ước gì niềm tin Phục sinh sẽ thay đổi đời sống chúng ta như đã từng thay đổi lối nghĩ, cách sống của các môn đệ. Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ giúp chúng ta dám vượt qua những cám dỗ thấp hèn để sống một cuộc đời cao đẹp hơn. Xin cho chúng ta dám làm chứng cho Tin Mừng Phục sinh của Chúa bằng đời sống lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống thường ngày. Amen.
—————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
HÃY LĂN TẢNG ĐÁ RA- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người ta kể lại trường hợp của một người bị nhồi máu cơ tim, sau khi sử dụng mọi biện pháp cấp cứu, bệnh viện kết luận rằng bệnh nhân đã chết và gia đình đã đem bệnh nhân về nhà để lo mai táng. Tuy nhiên khi tẩm liệm, người ta thấy xác người này vẫn mềm. Một người bạn thân đã đề nghị gia đình ngưng việc tẩm liệm. Đến chiều, người ta thấy cái xác dường như cử động. Mọi người sợ hãi bỏ chạy, người bạn kia mạnh dạn đến gần thì thấy cái xác mở mắt. Ông đã giục gia đình đem người nhà đến bệnh viện và người bệnh đã phục hồi. Các bác sĩ cho rằng, người chết này chỉ chết lâm sàng dạng sâu, nên các bác sĩ tại bệnh viện trước đây đã kết luận là ông đã chết. Điều đáng lưu ý là tại sao gia đình và người thân khi thấy xác ông cử động trở lại, họ không vui mừng vì thấy ông còn sống mà lại sợ hãi bỏ chạy ? Có lẽ vì trong đầu họ, người thân đã chết thật rồi.
Câu chuyện trên giúp chúng ta dễ hiểu tâm trạng của các phụ nữ Tin Mừng thuật lại : Khi được hai người mặc áo trắng báo tin Chúa đã sống lại, các bà ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía, không dám nói gì với ai vì sợ.
Sự kiện Chúa sống lại, mặc dù đã được Chúa nói trước nhiều lần, song đây vẫn là một điều vượt quá sức tưởng tượng, chưa bao giờ thấy. Vì thế, các phụ nữ này vô cùng sợ hãi và không dễ dàng chấp nhận. Trong tâm hồn các bà, Chúa đã chết, đã chấm dứt tất cả, không còn hy vọng gì nữa. Các bà ra mộ với một mục đích duy nhất là đi thăm và chăm sóc một cái xác đã chết. Ý nghĩ này bao trùm tâm trí các bà khiến tâm hồn các bà chìm ngập trong sự ám ảnh về cái chết của Chúa Giêsu. Bên cạnh đó, hòn đá lấp cửa mộ cũng đồng thời là hòn đá đang đè nặng trên tâm trí các bà và đè bẹp mọi hy vọng của các phụ nữ này. Các bà bảo nhau : Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm chúng ta ?
Chắc chắn không ai có thể lăn tảng đá ra khỏi tâm hồn, trừ khi có bàn tay của Thiên Chúa. Khi các phụ nữ đến nơi, ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mộ. Điều này cho thấy : Tin Mừng Phục sinh vượt quá lẽ tự nhiên của con người, nếu chúng ta cứ mãi cắm mặt xuống đất, nuôi dưỡng những lý luận theo kiểu dưới đất, thì chúng ta sẽ bị chôn vùi trong ngôi mộ chết chóc của nó. Ngược lại, biến cố phục sinh đòi chúng ta phải ngước mắt lên, chỉ khi ngước mắt lên chúng ta mới thấy và nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ; ngước mắt lên để chúng ta có sức mạnh đẩy lui hòn đá chết chóc ra khỏi tâm hồn.
Người thanh niên mặc áo trắng nói với các bà : Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazaret, Đấng bị đóng đinh ? Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa. Đó là tin mừng Phục sinh đầu tiên được loan báo cho các phụ nữ. Để củng cố cho niềm tin này, người thanh niên đó lại dặn các phụ nữ : Về nói với các môn đệ của Người và ông Phêrô rằng, Người sẽ đến Galilêa trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người.
Về báo cho các môn đệ và ông Phêrô – điều này cho thấy niềm tin vào Chúa phục sinh phải được cậy dựa vào niềm tin của các tông đồ là Giáo hội mà Phêrô là thủ lãnh. Chính Phêrô và các tông đồ mới là những người có tiếng nói quyết định và sau cùng về vấn đề này. Vì thế, để đón nhận được mầu nhiệm phục sinh, chúng ta phải gắn bó và nghe theo sự dạy bảo của Phêrô và các tông đồ.
Chúa phục sinh hẹn gặp các tông đồ tại Galiêa. Ngài vẫn hẹn chúng ta đến để được gặp Ngài. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi Thánh lễ mỗi ngày. Nơi đây, chúng ta sẽ được gặp Đấng Phục sinh một cách sống động, cụ thể qua Lời của Ngài, qua giáo huấn của Giáo hội. Đặc biệt, chúng ta sẽ gặp Ngài qua bí tích Thánh Thể. Nhờ gặp gỡ Chúa Phục sinh mỗi ngày, chúng ta sẽ được biến đổi nên con người mới.
Để đón nhận được Tin mừng phục sinh, chúng ta phải lật tảng đá chết chóc đang đè nặng tâm hồn. Cần lật bỏ hòn đá tội lỗi, đang làm chúng ta xa tránh Thiên Chúa, dửng dưng với Tin mừng Phục sinh, trở nên vô cảm với lời chứng của Giáo Hội. Bên cạnh đó còn có những tảng đá lớn mà xã hội và con người ngày nay đang cố ý dè trên chúng ta. Đó là lối sống duy khoa khọc, tư tưởng duy vật vô thần, những trào lưu sống thực dụng, tiêu dùng, hưởng thụ đang là những hòn đá lớn cản trở, khiến nhiều người nghi ngờ về Mầu nhiệm Phục sinh.
Điều quan trọng để đón nhận được Tin vui Phục sinh, chúng ta phải ngước mắt lên để nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa, để thấy những sự siêu việt mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử và trong cuộc đời mỗi người. Đừng cắm mặt xuống đất để tìm vật chất, cũng đừng cắm mặt xuống vì sợ hãi. Có những người sợ mất quyền lợi, mất địa vị xã hội, họ cố tình cắm mặt xuống đất, không dám thể hiện niềm tin cuả mình, không dám loan truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Hãy ngước mặt lên để bước ra khỏi sự sợ hãi ngại ngùng, hiên ngang sống và làm chứng về việc Chúa đã sống lại. Ngước mắt lên để nhìn thấy quyền năng biến đổi của Thiên Chúa, để dám phó thác, tin tưởng vào Ngài.
Sau cùng, Thánh Phalô đã dạy chúng ta : Dòng nước thánh tẩy đã làm cho chúng ta trở nên con người mới. Ánh sáng của Chúa Phục sinh đã được thắp sáng trong mỗi chúng ta. Hãy làm cho ngọn đèn phục sinh luôn cháy sáng và luôn chiếu tỏa ra cho anh chị em qua đời sống gương sáng của mình. Hãy để cho dòng nước tái sinh của Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta nên con người mới. Hãy chôn vùi khỏi chúng ta sự lười biếng, tội lỗi và những thói xấu để trở nên con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô Phục sinh. Amen.
—————————————————————————–
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
CÁC BÀ TÌM GIÊ-SU NA-DA-RÉT, NGƯỜI BỊ ĐÓNG ĐINH CHỨ GÌ?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Ấn tượng mạnh nhất mà tôi có khi đọc bài tường thuật biến cố Phục Sinh của Mác-cô là nỗi kinh hãi của các chứng nhân đầu tiên, nhóm phụ nữ ra thăm mồ từ sáng sớm. Không hề che đậy, tác giả Mác-cô đã hầu như cố tình lập đi lập lại mối hoảng sợ này, ‘Các bà hoảng sợ… Người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ!”… Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.” Tại sao họ lại hoảng sợ, tôi tự hỏi: vì họ là phụ nữ chăng? – Không hẳn thế (xem Mt. 28:4); vì người thanh niên mặc áo trắng chăng? – Lời trấn an cho thấy chàng không phải là nguyên nhân. Mối hoảng sợ tới chính từ ngôi mộ trống! Nếu tảng đá cửa mộ chưa được lăn ra, và rồi các bà tự tìm được cách vào bên trong để thấy xác Người còn đó, chắc hẳn họ sẽ mừng rỡ chứ không khiếp sợ đến thế. ‘Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ dùm ta đây?”’ Các bà hết hồn hết vía vì được loan báo: “Giê-su Na-da-rét bị đóng đinh… đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đặt Người đây này!”
Câu chuyện về Đức Giê-su của Mác-cô kết thúc đột ngột với trình thuật các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ trống, và tiếp đó là một bài ngắn gọn ghi nhận một số lần Chúa, trong một sức sống hoàn toàn mới, đã hiện ra cho một số nhân chứng. Đối với tác giả, đây không còn là con người Giê-su mà người ta từng biết trước kia nữa, nhưng là một Giê-su được sinh lại trong Thần Khí để không bao giời chết nữa. “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2). Con người Giê-su Na-da-rét cũ đã kết thúc với “Người lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37); sau đó một khoảng trống vắng lạnh lùng: ngôi mộ, nơi đã đặt xác Người, hoàn toàn trống rỗng; thế rồi một sức sống mới kỳ lạ xuất hiện và lan tỏa. Như vậy Phục sinh gồm cả hai phần: ‘ngôi mộ trống’ và ‘cuộc sống mới’ bởi Chúa Cha.
Ngôi mộ trống: Thoạt đầu tôi vẫn nghĩ ngôi mộ trống chỉ là một chi tiết nhỏ không có gì quan trọng. Nhưng rồi khi thấy cả bốn Phúc âm đều đề cập tới quang cảnh này cách rành rẽ tới từng chi tiết – đặc biệt Phúc âm Gio-an – tôi nhận ra nó phải có một ý nghĩa nào khác sâu sắc hơn hẳn một sự kiện vật thể đơn thuần. Đúng vậy, Ngôi mộ trống tượng trưng cho cả một khoảng cách biệt lớn lao và sắc nét giữa một Giê-su đã chết và một Giê-su Ki-tô với sự sống mới trong Thánh Thần. Ngôi mộ trống là biểu hiện sự khác biệt giữa một nhân loại chết trong tội và một nhân loại bừng sống trong tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự Vượt Qua của Đức Ki-tô không chỉ xóa tội, vượt qua tội lỗi (theo cách nói bình dân chúng ta thường dùng), mà là ban cho một sự sống hoàn toàn mới mẻ và kỳ lạ. Ki-tô hữu chúng ta quen gọi sự sống này là ‘sự sống của con cái Chúa’. Nếu hiểu đúng nội dung “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” mà Đức Giê-su đề cập tới trong cuộc đối thoại với Ni-cô-dê-mô, thì ta có thể coi ‘ngôi mộ trống’ như thời kỳ thai nghén chờ ngày cho chào đời một tạo vật hoàn toàn mới, như nhiều lần Phao-lô đã ví von.
Cuộc sống mới: Phục sinh thường được hiểu là sống lại, là trở lại từ cõi chết. Không hẳn chỉ có thế, hay nói cách khác, còn hơn thế nữa. Phục sinh đúng hơn là sinh lại, là đón lấy sự sống mới trong tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Giê-su phục sinh, trong nội dung này, quả là một A-đam mới, là người đầu tiên ‘được sinh ra một lần nữa trong Thần Khí’ (Ga 3:3-8). Chắc chắn Phao-lô đã luôn hiểu Phục sinh theo nội dung này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Ngắn gọn hơn Phao-lô khảng định: “Nếu đã cùng chết với đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Như thế, sống lại từ cõi chết chỉ là phụ, là nói theo cách tuần tự thời gian; điều chính yếu và quan trọng hơn là cuộc sống mới trong Thần Khí. Phục sinh không đơn thuần là chỗi dậy, ra khỏi mồ vào ngày thế tận; Phục sinh phải xảy ra trong đời Ki-tô hữu hàng ngày, đó là tiến trình làm chết mình (ngôi mộ trống rỗng) để được làm đầy với sức sống thần linh mới. Sống Ki-tô hữu là sống Ki-tô Phục sinh, sau khi đã chết cùng Ki-tô thập giá; “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21) phải được hiểu trong nội dung đó.
Trong tư cách một linh mục – tu sĩ, tôi thấy sống phục sinh đối với riêng mình là cả một chương trình và đòi hỏi; và trong hai điều kiện để có thể sống phục sinh, điều kiện mà tôi phải chủ động làm chính là làm trống rỗng con người mình. Thật là cả một thách đố, nhất là khi tôi đã tập cho có thói quen vun đắp con người mình nhiều quá!
Lạy Chúa Phục Sinh, Chúa đã chết trên thập giá, đã tự hủy mình ra như không nơi ngôi mộ trống, nhưng đã được Chúa Cha sinh lại trong Thần Khí cho cuộc sống nghĩa tử mới. Một khi trở thành Ki-tô hữu, chính con cũng đang không ngừng thực hiện các bước đó cho riêng mình. Xin cho con thực thi được trọn vẹn hơn khẩu hiệu con chọn ngày nhận tác vụ linh mục: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Xin cho con không thấy sợ tình trạng ‘ngôi mộ trống’, vì qua giai đoạn đó con mới có được sự sống mới hoàn toàn. A-men.
———————————————————————————
TAM NHẬT THÁNH- THỨ BẢY TUẦN THÁNH
ÁNH SÁNG NIỀM TIN- Trích Logos năm A
Khi Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, tâm hồn các môn đệ rơi vào một trạng thái bi thảm : sợ hãi, buồn rầu, thất vọng. Không những thế, tâm hồn các ngài còn bị bao phủ bởi bóng tối của sự hoài nghi. Các ngài đánh mất niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Còn đâu lời tuyên tín của Phêrô làm cho họ được phấn khởi. Còn đâu những lời Thầy giảng dạy, những phép lạ Thầy làm, những thành công Thầy trò gặt hái được trên bước đường loan báo Tin Mừng.
Niềm tin như tia sáng vừa bừng lên đã vụt tắt. Tất cả chỉ còn là nỗi thất vọng ê chề ! Tất cả đã chấm hết khi tảng đá được lăn vào che lấp cửa mồ của Chúa.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại vinh quang. Chúa phục sinh đã khiến cuộc đời các môn đệ thay đổi hoàn toàn !
Khi tảng đá che lấp cửa mồ của Chúa được lăn ra, tảng đá nghi nan che khuất tâm hồn các ngài cũng được mở tung. Ánh sáng niềm tin đã bừng lên trong lòng các ngài. Ánh sáng đó như rạng đông của một ngày mới đang ló dạng.
Ánh sáng niềm hy vọng.
Trước khi Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ luôn bám víu vào một tương lai đầy ảo tưởng. Niềm hy vọng của các ngài hết sức trần tục. Các ngài nuôi mãi niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang trần thế cùng với Thầy mình.
Khi Chúa chết, các ngài vỡ mộng ! Các ngài rơi vào một tâm trạng đầy bi quan; tất cả mọi công khó giờ đây chỉ còn 2 bàn tay trắng. Các ngài co cụm lại với nhau trong một căn phòng đóng kín, tâm hồn bị “gặm nhấm” với nỗi buồn khôn tả !
Bỗng nhiên, các người phụ nữ chạy về báo tin : Chúa sống lại ! Niềm hy vọng lại bừng lên tươi sáng. Các ngài không mất tất cả, nhưng lại được tất cả. Niềm hy vọng của các ngài được lọc qua ánh sáng Phục Sinh để trở thành trong sáng và tinh ròng hơn. Niềm hy vọng ấy không còn hão huyền và phàm tục nữa. Ánh sáng Phục Sinh đã mở ra cho các ngài một chân trời mới, làm cho các ngài trưởng thành hơn. Từ nay, các ngài sống bằng niềm hy vọng sáng ngời và chân thực. Niềm hy vọng ấy không bao giờ tàn phai nữa.
Ánh sáng niềm vui.
Khi Chúa bị bắt và bị giết, một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn họ trở thành những nấm mồ đau thương. Các môn đệ không muốn bước ra khỏi cửa vì buồn sầu chán nản, nhưng cũng còn vì sợ người Do Thái. Chỉ có những người phụ nữ ra thăm mồ Chúa từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần. Họ ra mồ Chúa để khóc thương, để than van và vật vã. Những giọt nước mắt của phụ nữ nhỏ xuống theo từng bước chân u buồn nặng nề trên đường đi.
Nhưng đến nơi, họ thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ. Các bà được thiên thần báo tin : Chúa sống lại rồi ! Niềm vui chợt vỡ oà trong tâm hồn họ. Niềm vui như chắp cánh cho trái tim sầu khổ. Niềm vui nở hoa trong tang tóc ly biệt. Chúa Phục Sinh đã hiện ra trước mắt các bà và trao cho các bà sứ mạng đi loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ.
Những giọt lệ đã biến thành nụ cười, niềm vui đã nâng bước chân hân hoan của các bà trên con đường sứ mạng. Niềm vui tràn ra từ cõi lòng họ, khiến họ vội vàng ra đi loan báo Tin Mừng.
Niềm vui nối tiếp niềm vui. Niềm vui lan tới tâm hồn các môn đệ để các ngài cũng lại lên đường loan báo tin vui cho người khác. Niềm vui như những tia sáng vẫn tiếp tục chiếu rọi khắp nơi cho đến tận cùng thế giới.
Ánh sáng cho đời.
Đêm nay, ánh sáng Phục Sinh đang bừng lên trong lòng chúng ta. Chúa sống lại để phục sinh tâm hồn mọi người. Có những tâm hồn đã chết nay sống lại. Ánh sáng phục sinh đã nâng dậy những mảnh đời đang chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng. Ánh sáng phục sinh cũng đang làm hồi sinh những tâm hồn héo úa và đau khổ. Tất cả là ơn Phục Sinh được Chúa đem đến cho chúng ta.
Đêm nay, Chúa cũng muốn chúng ta giữ mãi ngọn nến phục sinh được sáng mãi, để chúng ta cũng biết gieo vãi ánh sáng niềm tin, hy vọng và niềm vui đến cho mọi người. Có những người đang kéo lê cuộc “sống mòn” trong tăm tối của cuộc đời đói nghèo. Có những người đang bị giam hãm trong u mê thất học. Có những người đang tàn lụi trong bóng đêm của bệnh hoạn tật nguyền. Tất cả đang đợi chờ ánh sáng phục sinh.
Tác giả Trần Viết Sử viết một truyện ngắn mang tựa đề : “Lung Linh Ánh Nến”, trong đó, kể câu chuyện về người tử tù.
Người tử tù ấy chỉ còn 15 ngày nữa sẽ bị đem đi xử bắn. Anh ta nài nỉ người quản giáo mua giùm 10 cây nến. Anh ta dùng 10 cây nến đó để “luyện mắt” bằng cách ngồi nhìn chăm chú vào ngọn nến sáng nhiều giờ liền.
Sau khi anh ta bị xử bắn. Một vị bác sĩ đã kể cho người quản giáo biết : anh ta hiến đôi mắt của mình để lấy một khoản tiền cho người mẹ đang đau nặng. Anh ta muốn “luyện mắt” bằng những ngọn nến sáng, giữ cho mắt được tốt để trao cho bệnh viện mà anh ta hiến tặng.
Chúng ta không biết “luyện mắt” bằng những ngọn nến có làm cho mắt sáng hơn không. Nhưng có một điều chắc chắn: nếu chúng ta luôn nhìn vào Ngọn Nến Phục Sinh của Đức Kitô, tâm hồn chúng ta luôn sáng mãi niềm tin, niềm hy vọng và niềm vui.