LỄ RANG ĐÔNG
CHÚA CỨU THẾ ĐÃ SINH RA
Lm Carolô Hồ Bạc Xái
***
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Is 62,11-12) : “Này đây Đấng cứu độ ngươi đến”
– Đáp ca (Tv 96) : “Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta”
– Tin Mừng (Lc 2,15-20) : “Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài nhi”
– Bài đọc II (Tt 3,4-7) : “Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người”
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
“Chúa đã xuống làm người để loài người lên làm Chúa”. Thực vậy, mục đích của việc Đức Giêsu giáng sinh là để sống chung với loài người tội lỗi chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho thấy rõ mục đích này khi vừa mới sinh ra : những người khách mời đầu tiên đến hang đá Bêlem chính là những người chăn chiên, nghèo nàn, tội lỗi, bị xã hội khinh chê.
Chúng ta hãy có những tâm tình như các kẻ chăn chiên ấy để đến với Chúa Hài Đồng.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Trong Mùa Vọng, chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng đón rước Chúa.
– Chúa Cứu Thế đã mang lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi khinh những người nghèo.
– Chúa Cứu Thế là ánh sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(Is 62,11-12)
Bối cảnh của những lời tiên tri này là hoàn cảnh khốn khổ của dân do thái (“thiếu nữ Sion”) đang bị lưu đày bên Babylon.
Ngôn sứ Isaia báo cho họ biết rằng “Đấng cứu độ” sẽ đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày, làm cho họ trở thành một dân thánh, và thành Giêrusalem của họ sẽ trở nên thành được quý chuộng.
Trong bối cảnh lịch sử ngắn hẹp thời đó, “đấng cứu độ” là Cyrus vua nước Ba Tư. Còn trong lịch sử cứu độ phổ quát, Đấng cứu độ chính là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh xuống làm người mang tên là Giêsu.
- Đáp ca(Tv 96)
Đây là bài chúc tụng vương quyền của Đấng cứu độ. Tầm mức bao la của vương quyền này (“trái đất nhảy mừng, các đảo hân hoan, các tầng trời loan truyền sự công chính của Chúa, mọi dân tộc nhìn thấy vinh quang Người”) chỉ có thể thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
- Tin Mừng(Lc 2,15-20)
Bài tường thuật giáng sinh của Thánh Luca có nhiều chi tiết đáng suy gẫm :
– Những kẻ đầu tiên được thiên thần loan báo tin mừng giáng sinh là những mục tử : mặc dù họ nghèo, mặc dù họ không có cơ hội để thường xuyên đến Đền thờ tham dự các lễ nghi, mặc dù họ bị xã hội coi khinh, nhưng họ chính là “những người thiện tâm” (câu 14 phía trước) cho nên đáng được Thiên Chúa thương ban bình an (câu hát thiên thần : “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”).
– “Thiện tâm” của họ thể hiện trong cách họ đáp lại với Tin Mừng : sau khi nghe thiên thần loan báo, họ hối hả đi tìm, và sau khi gặp được Đức Giêsu, họ trở về loan truyền những việc kỳ diệu mà họ đã thấy.
– Phần Đức Maria thì ghi nhớ tất cả mọi sự và suy niệm trong lòng để ngày càng hiểu thêm về Đức Giêsu và về cách hành động kỳ diệu của Thiên Chúa.
- Bài đọc II(Tt 3,4-7)
Thánh Phaolô tìm hiểu ý nghĩa ơn cứu độ :
– Đó không phải do công lao hay sự công chính của loài người.
– mà là một ơn cho không.
– xuất phát từ lòng từ tâm và nhân ái của Thiên Chúa.
– Ơn này khởi sự từ việc con người lãnh nhận phép rửa
– và dẫn đến sự sống đời đời.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Một Thiên Chúa nghèo
Ngày nay, trong mức độ hoặc nhiều hoặc ít, việc mừng lễ Giáng sinh có phần sang trọng và tốn kém : trang hoàng, tiệc tùng, quà cáp v.v.
Nhưng ngày xưa ở Bêlem thì sao ? Thánh gia rất nghèo, nơi Đức Giêsu sinh ra rất nghèo… Những người nhận được “một Tin Mừng đặc biệt” cũng là những mục tử nghèo chứ không phải là những người Rôma quyền thế hay những cư dân Giêrusalem sang trọng.
Thiên Chúa yêu thương mọi người, Ngài ban Con mình cho mọi người, giàu cũng như nghèo. Nhưng Ngài ưu ái những người nghèo hơn ; và mặt khác những người nghèo dễ nhận ra Ngài hơn.
Muốn sống đúng ý nghĩa lễ Giáng sinh, chúng ta phải có tâm hồn nghèo, phải mở cửa lòng với những người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những người nghèo.
* 2. Một Thiên Chúa nhỏ bé
Chúng ta đã quen với hình ảnh một Thiên Chúa to lớn, uy quyền…
Nhưng khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta thấy cụ thể bằng hình hài xương thịt, thì lại là một đứa trẻ nhỏ bé, yếu đuối : không biết nói, không biết làm, không biết tự lo cho mình… Đứa trẻ cần mọi sự nơi người khác : nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ…
Vậy mà trong gia đình, đứa trẻ lại là người được chú ý nhất, có thể nói là uy thế nhất : mọi người từ cha mẹ đến anh chị đều phục vụ cho nó, chịu cực chịu khổ vì nó, tốn kém cho nó, sẵn sàng thay đổi giờ giấc và công việc vì nó… Thật là mầu nhiệm của sự nhỏ bé !
* 3. Ngôi Lời đã trở thành nhục thể
Ngày xưa có một cậu bé được tặng cho một chú lính chì trong dịp lễ Giáng sinh. Cậu rất sung sướng. Nhưng chẳng bao lâu sau cậu nghĩ : giá như có cách gì làm cho chú lính bằng chì này có được sự sống như mình thì hay biết mấy ! Và cũng chẳng bao lâu sau cậu bé lại lưỡng lự : làm cho chú lính này có sự sống tức là biến chú từ chì thành ra xác thịt ; mà như thế không biết chú có chịu hay không, bởi vì khi mang xác thịt thì có thể bị đau, bị thương và nhất là bị chết. Thế là cậu bé không nghĩ tới việc làm cho chú lính chì thành người nữa.
Câu chuyện nhỏ trên giúp ta hiểu mầu nhiệm Chúa nhập thể. Nhập thể là trở nên xác thịt như loài người. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã trở thành một đứa trẻ sơ sinh, và trước khi là một đứa trẻ sơ sinh Ngài còn là một bào thai trong lòng một phụ nữ. Khi nhập thể, Ngài muốn được giống như người phàm, gần gũi với người phàm, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu chết như người phàm.
Truyền thuyết Ấn giáo xem những vị thần Krishna và Rama là Thượng đế nhập thể. Tuy nhiên những vị thần này không bao giờ chịu khổ và chịu chết. Họ không phải là Thượng đế thực sự thành người, mà chỉ là những hình thái mà Thượng đế tạm mượn để hiện ra cho loài người thấy mà thôi. Còn Đức Giêsu thì khác : Ngài thực sự thành người và cùng chia xẻ mọi yếu đuối khổ đau của loài người.
* 4. Chúa ở cùng chúng ta
Một nhóm người đang trao đổi với nhau những suy nghĩ về ý nghĩa lễ Giáng sinh. Trong nhóm có một phụ nữ ít ai để ý tới, nhưng khi bà chia xẻ thì ai nấy đều chăm chú lắng nghe, vì bà kể về chính cuộc đời của bà.
Bà kể rằng gần đến lễ Giáng sinh thì bà rất sợ hãi, bởi vì bà rất cô đơn. Cha mẹ bà đã mất hết. Bà là đứa con độc nhất, không anh chị em. Bà cũng chẳng còn một người bà con nào cả vì bà là người cuối cùng trong dòng họ. Bạn bè thì bà cũng có, họ có gởi quà hoặc thiệp giáng sinh, nhưng chẳng ai mời bà đến nhà đề cùng gia đình họ mừng lễ Giáng sinh.
Thế thì ngày lễ Giáng sinh bà làm gì ? Sáng sớm Bà đến nhà thờ dự Thánh lễ. Sau lễ, bà đến một hội thiện nguyện giúp họ làm một số việc. Rồi trở về nhà, nấu cơm. Ăn xong, mở TV. Nhưng TV đâu có thay thế được những người thân ở bên cạnh mình, bởi đó bà vừa xem TV vừa khóc. Đến chiều, bà thả bộ dạo phố. Nhưng phố phường ngày lễ Giáng sinh rất vắng lặng, ai nấy đều rút vào mái ấm gia đình. Các cửa tiệm đóng kín cửa. Bà lần bước đến nhà thờ. Nhưng cửa nhà thờ cũng đóng kín. Bà đành trở về nhà, một mình gặm nhắm nỗi cô đơn, ý thức rất rõ mình chẳng có một chỗ nào giữa thành phố đông đảo và mênh mông này.
Nhưng chính lúc đó, bà chợt nghĩ đến câu Tin Mừng : “Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”. Bà thông cảm với hoàn cảnh hài nhi Giêsu và thấy mình với Ngài rất giống nhau. Ý tưởng ấy làm cho lòng bà ấm lại. Theo bà, ý nghĩa lễ Giáng sinh chính là Thiên Chúa đến chia xẻ thân phận con người.
* 5. Ghi nhớ và suy nghĩ
“Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”
Trong những dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta đã thấy và đã nghe rất nhiều điều. Nhưng các năm trước, tất cả những điều ấy chỉ rộn lên trong một ngày rồi mau chóng chìm vào quên lãng. Lễ Giáng sinh năm nay, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ “ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”
– Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự nghèo nàn. Tại sao Chúa có quyền chọn, thế mà Ngài lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo nàn ?
– Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về những mục tử. Họ là hạng người bị xã hội thời đó coi là hèn hạ, thậm chí bất hảo. Tại sao Chúa lại ưu ái họ đến nỗi mời họ đến gặp Ngài trước tiên ?
– Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về nhiệt tình của tín hữu trong dịp Lễ Giáng sinh. Tại sao hôm nay họ đi lễ đông đủ như thế, còn những Chúa nhựt khác thì thưa thớt ?
– Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự tham gia của những người không phải kitô hữu. Cả họ cũng mừng Lễ Giáng sinh, nhiều người còn đi lễ. Vì động cơ nào ? Họ nghĩ gì về Đức Giêsu và về Kitô giáo ?
* 7. Chuyện minh họa
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh : “Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay” (Trích “Món quà giáng sinh”)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trong niềm vui lớn lao của Lễ Giáng sinh, kỷ niệm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện tha thiết sau đây :
- Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng lễ Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
- Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải đáp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
- Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
- Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel hôm nay / biết sống một lễ Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
CT : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đem thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…