LỄ ĐÊM:
THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA
Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
***
Sợi chỉ đỏ
– Bài đọc I (Is 9,1-6) : “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời”
– Đáp ca (Tv 95) : “Hôm nay Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời”
– Tin Mừng (Lc 2,1-14) : “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ”
– Bài đọc II (Ti 2,11-15) : “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ”
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Đêm nay chúng ta cử hành Thánh lễ mừng Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Giáo Hội cử hành Thánh lễ ban đêm không phải chỉ để sống lại cảm nghiệm của các mục tử xưa đã đến thờ lạy Chúa lúc ban đêm, mà còn muốn làm nổi bật ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh sáng xóa tan đêm tối trần gian. Nguyện xin ánh sáng Đức Giêsu cũng xóa tan mọi tối tăm u ám trong lòng mỗi người chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhiều khi chúng ta đã chuộng bóng tối của tội lỗi hơn là ánh sáng của Chúa.
– Cuộc sống của chúng ta chẳng có gương sáng gì tỏa chiếu trước mặt trần gian.
– Đức Giêsu đã muốn làm Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không tiếp đón Ngài để cho Ngài ở cùng.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I: Is 9,1-6
Bối cảnh lịch sử của đoạn này là sau khi quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đày. Họ là “dân tộc bước đi trong u tối”, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức”…
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát : “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan”, những gông ách và roi vọt bị bẻ gãy… Ngôn sứ tin chắc vào tương lai ấy đến nỗi những động từ thay vì ở thì tương lai (“sẽ”) đã được ông đổi thành quá khứ (“đã”).
Nhân tố tạo nên sự thay đổi tuyệt vời ấy là “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, một người con đã được ban tặng cho chúng tôi”. Hài nhi hay người con ấy thời đó là vua Êdêkias. Nhưng Êdêkias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này : ông không phải là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, người cha muôn thuở, ông vua thái bình…”. Nội dung của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
- Đáp ca: Tv 95
Tv này là một khúc hoan ca mang chiều kích hoàn vũ : “Các tầng trời hãy hoan lạc, trái đất hãy nhảy mừng, biển và muôn loài dưới biển hãy chuyển động, cây cối trong rừng xanh hãy nhảy mừng”. Lý do hân hoan là Thiên Chúa đã đến xét xử trần gian và mọi dân tộc trong công bình và chân lý.
- Tin Mừng: Lc 2,1-14
Đoạn Tin Mừng này giống như một bộ tranh gồm hai bức đối chọi hẳn nhau :
– Phần đầu là bức tranh u tối : đất nước đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma, thánh gia nghèo nàn phải sinh Đức Giêsu trong máng cỏ…
– Phần sau là bức tranh sáng ngời : đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Chúa tỏa chiếu, hài nhi được gọi là Đấng cứu tin, tiếng hát thiên thần “vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Với biến cố Đức Giêsu sinh ra, tất cả đã được thay đổi từ tối tăm thành tươi sáng.
- Bài đọc II: Ti 2,11-15
Đoạn này là một suy tư của Thánh Phaolô về cuộc đời kitô hữu :
– Nguồn gốc của đời kitô hữu là những ân sủng mà Thiên Chúa đã tuôn ban, nhất là qua việc Đức Giêsu nhập thể và cứu độ loài người.
– Mục đích là hướng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này.
– Giữa hai cực đó là trong hiện tại, kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hang đá Noel
Dịp lễ Giáng sinh, nhà thờ nào cũng có hang đá. Ở một xứ đạo kia, đa số giáo dân đều giàu, năm nào họ cũng làm một hang đá rất đẹp : Đức Mẹ, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài đồng được trang điểm bằng những bộ y phục rất sang trọng ; ngay cả các mục đồng cũng thế. Nhưng năm nay Cha Xứ là một Linh mục mới được đổi đến. Ngài dọn một hang đá khác hẳn : từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Đức Giêsu cho đến các mục đồng đều ăn mặc rất nghèo nàn. Giáo dân vừa tiếc nuối những hang đá xinh đẹp những năm trước, vừa chưa quen với cảnh nghèo nàn của hang đá năm nay nên không được vui. Tuy nhiên Cha Xứ vẫn giữ nguyên ý định của mình.
Nguồn gốc làm hang đá Giáng sinh xuất phát từ sáng kiến của Thánh Phanxicô Assisi, năm 1223. Mục đích Ngài nhắm là làm cho câu chuyện Giáng sinh trở nên gần gũi với dân chúng, làm sao cho họ hiểu rằng Chúa giáng sinh là để đến gần họ và sống với họ. Bởi thế, gần đến lễ Giáng sinh, Ngài đặt những tượng Chúa, Đức Mẹ, Thánh Giuse v.v. vào một hốc đá trên sườn đồi. Tới ngày áp lễ, dân chúng trong vùng – đa số là nông dân và mục tử – cầm nến hoặc đuốc tập trung trước hang đá. Rồi Thánh Phanxicô giảng cho họ nghe về việc Con Thiên Chúa đến với loài người để dạy cho loài người biết họ là con của Thiên Chúa và Thiên Chúa dành sẵn cho mọi người một số phận vĩnh cửu. Sau đó mọi người trở về nhà, lòng tràn đầy bình an và vui sướng vì cảm thấy mình gần gũi hơn với Chúa và với nhau. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Vui vì đã tin
Có lẽ chúng ta phân bì với các mục tử vì họ được nhìn thấy Chúa Hài đồng bằng cặp mắt của họ, và đụng chạm Chúa Hài đồng bằng đôi tay của họ. Bởi vậy họ tin cách dễ dàng quá. Và chúng ta nghĩ rằng đức tin của chúng ta cũng dễ dàng như vậy nếu như chúng ta được thấy và được chạm tới Chúa như họ.
Tuy nhiên, đừng vội tưởng rằng các mục tử không phải vận dụng tới đức tin. Đành rằng họ có thấy đó, nhưng họ thấy gì ? Họ thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Một đứa trẻ “sơ sinh” nghĩa là rất yếu ớt ; “bọc tã” nghĩa là rất lạnh lẽo ; và “nằm trong máng cỏ” nghĩa là rất nghèo. Họ còn thấy gì nữa ? Thấy “Bà Maria và ông Giuse”, hai con người bình thường, hai người lữ hành nghèo không thể tìm được chỗ trong quán trọ đến nỗi phải sinh con trong hang súc vật. Tất cả những cái họ thấy chỉ có thể cho biết đó là một gia đình nghèo vừa mới sinh con. Thế thôi. Vậy mà họ tin rằng đứa bé đó là Đấng cứu thế.
Đức tin của các mục tử không phải do những điều họ thấy, mà do lời thiên sứ nói với họ. Thiên sứ đã bảo họ đứa bé yếu ớt và nghèo nàn ấy chính là Đấng cứu thế. Vì họ tin như thế nên khi thấy Ngài yếu ớt và nghèo nàn thì họ càng mừng rỡ hơn nữa, bởi vì Đấng cứu thế đã làm một người nghèo như họ, gần gũi họ, chia xẻ thân phận của họ. Bởi vậy, khi họ ra về, họ “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo”.
Vui mừng là dấu chỉ của Kitô giáo. Niềm vui này tuôn trào trước tiên từ những sự thiện hảo của chính Thiên Chúa, kế đó từ ý thức Thiên Chúa đã yêu thương đối xử nhân lành với chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ không thể hiểu nỗi và không thể chịu nỗi. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa thì con người sẽ bị mất mát rất nhiều, phải rơi vào một khoảng trống mênh mông.
Phúc cho những ai cảm nếm được niềm vui của đức tin. Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nhận được sự gần gũi thân thiết của Chúa, chúng ta biết rằng Ngài sống với chúng ta, chia xẻ những khổ cực của chúng ta và cứu độ chúng ta. Thế thì còn niềm vui nào bằng ? (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh
Đôi khi nghe người ta nói : “Tôi luôn cảm thấy cô đơn trong ngày lễ Giáng sinh”.
Có hai lý do chính làm cho người ta thấy cô đơn là “trống” và “vắng”.
Hãy dành một chút suy nghĩ, một lời cầu nguyện, và có thể là cuộc thăm viếng cho ai đó đang sống ngày lễ Giáng sinh một mình.
Và nếu sau những việc đó mà chúng ta vẫn còn cảm thấy cô đơn thì chúng ta hãy biết rằng mình đang khao khát một cái gì đó hơn nữa, hay đúng hơn là chúng ta đang khao khát một Đấng nào đó.
Trong con tim mỗi người có một khoảng trống vắng đang chờ một vị khách. Vị khách ấy chính là Thiên Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Thiên Chúa tìm kiếm con người.
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp nhau lại sau khi đã tìm thấy.
Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ : một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bầy con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bầy con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mãi mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên :
– Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi.
*
“Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc.
Ngay khi con người phản bội bất trung. Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về.
Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia : “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta” (Is.9,5).
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa. Thánh Gioan viết : “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
Giáng sinh là mùa tặng quà : “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga.3,16). Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang tặng cho chính Hài Nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài Nhi Giêsu đang mong đợi.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêxa Calcutta định nghĩa : “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
***
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã tìm kiếm chúng con, đã cứu chuộc chúng con, và đã cho chúng con được làm con Chúa.
Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình yêu bao la của Chúa bằng cách yêu thương anh em với tất cả trái tim nồng cháy của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Nguồn gốc Lễ Giáng sinh
Chúng ta quen kỷ niệm việc Đức Giêsu sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Thực ra Chúa sinh ra ngày nào người ta vẫn chưa biết rõ. Ngày 25 tháng 12 chỉ được Giáo Hội Rôma chọn làm lễ Giáng sinh từ năm 300. Lý do như sau :
Ngày xưa, khi nhân loại chưa khám phá ra lửa, mùa đông rất dài và rất tối, bởi vì trong mùa này mặt trời như đi vắng. Tuy nhiên người ta biết rằng tới một ngày nào đó mặt trời sẽ trở lại và cảnh vật sẽ tươi sáng hơn. Thế là người ta đặt ra một Lễ để mừng ngày đó, gọi là Lễ Kính Thần Mặt Trời Vô địch (Sol Invictus).
Để thánh hóa ngày lễ ngoại giáo ấy, Giáo Hội đã chọn chính ngày 25 tháng 12 này làm lễ kỷ niệm Đức Giêsu giáng sinh. Giáo Hội thấy việc Đức Giêsu giáng sinh làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia : “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng” (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu cũng tự giới thiệu mình : “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Sự thật là như vậy. Nếu Đức Giêsu không đến thì thế giới tối tăm biết chừng nào. Những lời Ngài dạy đúng là một nguồn sáng cho những ai tiếp nhận. Những việc Ngài làm và những cuộc gặp gỡ của Ngài đã đưa vô số người ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng.
Ánh sáng Đức Kitô không chỉ loé lên một lần ở Bêlem rồi tắt ngúm, bởi vì không giống như mặt trời chỉ chiếu sáng trong một khoảng thời gian hạn định, ánh sáng Đức Kitô vẫn tiếp tục tỏa chiếu mãi trong tâm hồn những ai tin Ngài và đi theo Ngài.
* 6. Đấng cứ độ cho tôi
Thiên thần đã loan báo cho các mục tử rằng : “Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em“.
– Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôn sứ vĩ đại, là Vua v.v. nhưng trên hết và trước hết Ngài là Đấng cứu độ. Ngài giảng dạy, Ngài làm phép lạ, Ngài sống nêu gương, nói tóm lại tất cả những gì Ngài làm cũng đều nhằm cứu độ.
– Một Đấng Cứu Độ như thế được Thiên Chúa dùng làm quà tặng cho chúng ta, cho chính tôi.
Người ta, có người là bác sĩ, có người là luật sư, có người là kiến trúc sư v.v. Nhưng mặc kệ họ, họ có liên quan gì tới tôi đâu. Tôi không có bệnh nên không cần bác sĩ, tôi không kiện cáo ai và cũng không bị ai kiện cáo nên cũng chẳng cần luật sư, tôi không có nhiều tiền nên kiến trúc sư không xây nhà cho tôi…
Nhưng tôi cần được cứu và Đức Giêsu là Đấng cứu độ được Thiên Chúa gởi đến cho tôi. Tôi cần Ngài và Ngài lúc nào cũng sẵn sàng cứu tôi.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đêm Noel là đêm thánh vô cùng, là đêm thanh bình, là đêm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện cầu đêm Noel.
- Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng đem Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
- Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải pháp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
- Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
- Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel đêm nay / biết sống một đêm Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
Chủ tế : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đêm thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…