CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TÔI TIN CÁC THÁNH THÔNG CÔNG (*) – Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 7
NÊN HÌNH BÓNG NGÀI- ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên. 32
NIỀM HI VỌNG HẠNH PHÚC- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 36
NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên. 40
ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI…….- Lm. GB Trần Văn Hào, SBD 45
HÂN HOAN MỪNG CHƯ THÁNH- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 52
CÓ THỂ NÊN THÁNH BẰNG CON ĐƯỜNG SIÊU TỐC KHÔNG? – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 57
NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO?– Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB.. 64
ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI SAU NÀY- Lm. Đan Vinh 69
CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 75
HÃY NÊN THÁNH VÌ TA LÀ ĐẤNG THÁNH- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 79
THIÊN CHÚA MONG MUỐN MỌI NGƯỜI ĐƯỢC NÊN THÁNH– Lm. Anthony Trung Thành 83
NIỀM VUI VỚI CÁC THÁNH TRÊN TRỜI- Lm. Phêrô Nguyễn văn Hương 89
ÁNH SÁNG CỦA CÁC THÁNH TRÊN TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 94
CHIỀU RỘNG CỦA ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 98
ANH EM HÃY VUI MỪNG HỚN HỞ VÌ PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO ANH EM TRÊN TRỜI THẬT LỚN LAO- Lm Nhân Tài 104
CHƯ THÁNH, CÁC NGÀI LÀ AI- Trích Logos B.. 108
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được,họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: “Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta”. Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”.
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: “Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen”. Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: “Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?” Tôi đáp lại rằng: “Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ”. Và người bảo tôi rằng: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Đáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a) .
- Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi.
- Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.
- Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Đấng giải thoát họ. Đấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp.
BÀI ĐỌC II: 1 Ga 3, 1-3
“Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Đấng Thánh. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mc 11, 28
-Chúa phán: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 1-12a
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”. Đó là lời Chúa.
TÔI TIN CÁC THÁNH THÔNG CÔNG (*) – Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan hòa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa. Đối với những ai đang lữ hành trên trần thế nầy, Giáo Hội đề nghị “các mối phúc thật” như chính lộ dẫn họ về cuộc sống đời đời. Ngày lễ Chư Thánh là ngày đại lễ của niềm hy vọng.
Kh 7: 2-4, 9-14:
Bài Đọc I, được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người không kể siết cử hành phụng vụ hùng vĩ tràn đầy niềm vui và tạ ơn trước ngai Thiên Chúa.
1Ga 3: 1-3:
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở vận mệnh của người Ki-tô hữu: trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, họ được mời gọi nên đồng hình đồng dạng với Con Một của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, và vì thế, được dự phần vào vinh quang của Ngài.
Mt 5: 1-12:
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su công bố “các mối phúc thật”, bản Hiến Chương Nước Trời.
BÀI ĐỌC I (Kh 7: 2-4, 9-14)
Bài Đọc I được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan miêu tả một đoàn người đông đúc khôn kể xiết vui hưởng nhan thánh Chúa và niềm hoan lạc thiên quốc. Lễ Các Thánh Nam Nữ được mừng trước Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, cả hai hình thành nên bộ đôi diễn tả niềm hy vọng của mọi người tín hữu.
Nhà thị kiến sách Khải Huyền diễn tả những xuất thần của mình bằng thể loại văn chương khải huyền. Thể loại văn chương nầy đã được tác giả sách Đa-ni-en khai mạc vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Tác giả này nhận nguồn cảm hứng từ các vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt từ các thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Tuy nhiên, các sách khải huyền của thế kỷ thứ hai và thứ nhất trước Công Nguyên (thể loại nầy nở rộ) và sách Khải Huyền của thánh Gioan sau Công Nguyên vừa giống nhưng vừa khác. Cái khác biệt cơ bản đó là, kỷ nguyên Mê-si-a đã được loan báo nay đã xảy ra. Thời Mê-si-a đã đi vào trong Lịch Sử; từ đây, kỷ nguyên Mê-si-a soi sáng kỷ nguyên cánh chung. Trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một dung mạo nổi bật: dung mạo Con Chiên, hình ảnh của Đức Kitô. Con Chiên vẫn mang những vết thương hy tế của mình, nhưng là Con Chiên khải hoàn. Như vậy, những viễn cảnh khai mở niềm hy vọng không còn là những giả sử: mọi lời hứa đã được thực hiện.
Sách Đa-ni-en được viết vào thời kỳ bách hại của vua An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê, vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để an ủi dân Do thái trong gian nan thử thách. Cũng vậy, sách Khải Huyền của thánh Gioan được biên soạn vào thời kỳ bách hại của hoàng đế Rô-ma, Domitien, cuối thế kỷ thứ nhất (91-96), vài phần có thể được đặt vào niên biểu của cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Nê-ron (64-68). Sách này cũng nhằm mục đích tương tự: gởi đến cho các Ki-tô hữu sứ điệp chứa chan hy vọng, để cho họ thoáng thấy niềm hoan lạc thiên quốc, vì niềm hy vọng nầy thật đáng phải chịu những đau khổ kể cả sự chết.
Sách Khải Huyền thánh Gioan là một cuốn sách được mã hóa, nhờ đó các tín hữu bị bách hại có thể đọc và chuyền tay nhau mà không sợ những kẻ bách hại mình đọc và hiểu được. Rô-ma không bao giờ được gọi đích danh, nhưng dưới biệt hiệu Ba-by-lon hay Con Thú, hay Con Điếm hoặc số 666 (con số 666 nầy muốn nói lên sự bất toàn tận căn, đối lập với con số 7). Nhưng cũng vì thế, chúng ta, những thế hệ cách xa sau này, không thể nào giải mã tất cả. Tác phẩm tiên báo cuộc sụp đổ đế quốc Rô-ma, cuộc khải hoàn của Giáo Hội và mô tả những viễn cảnh thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Bản văn mà chúng ta đọc hôm nay trình bày hai viễn cảnh liên tiếp nhau: viễn cảnh thứ nhất xảy ra ở dưới thế, gợi ra Giáo Hội đang chịu đau khổ và ơn cứu độ của những người công chính ở giữa lòng những gian truân nầy; viễn cảnh thứ hai là phụng vụ tạ ơn ở trên trời được cử hành bởi một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc đủ mọi dân, mọi nước.
Thị kiến thứ nhất: ở dưới thế (7: 2-4):
Để hiểu ý nghĩa thị kiến thứ nhất nầy, phải đặt nó trở lại vào trong bối cảnh lịch sử của nó.
A-Giáo Hội chịu đau khổ:
Những Kitô hữu bị bách hại tự hỏi những nỗi khốn khổ nầy sẽ kéo dài bao lâu? Khi nào những kẻ bách hại bị trừng trị? Nhà thị kiến rõ ràng nêu lên những vấn đề nầy và trả lời trong chương 6: 9-11, trước đoạn trích của chúng ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: ‘Lạy Cha chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải nền nợ máu chúng con?’ Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ”.
Như vậy, những Kitô hữu được báo trước thời kỳ bách hại không chấm dứt. Nhưng giờ trừng phạt của những ác nhân sẽ đến. Những tai ương khủng khiếp được loan báo trong viễn cảnh khải huyền về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vào thời cánh chung: chiến tranh, nạn đói, ôn dịch, động đất xảy đến trước khi Thiên Chúa xét xử.
B-Ấn tín:
Tuy nhiên, các Kitô hữu không phải lo lắng, vì Con Chiên cứu độ ngự trên ngai xét xử muôn dân. Những người công chính sẽ được đóng ấn của Người. “Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên”. Đây là biểu tượng kinh điển: chính từ phía mặt trời mọc nầy mà ánh sáng và sự sống đến, trong khi phía Tây là dấu chỉ của bóng tối và sự chết.
Hình tượng “dấu ấn” được mượn từ Ed 9: 4: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành”. Xuất xứ của đề tài nầy còn lên xa hơn nữa đến tận sách Xuất Hành, trong đó sứ thần hủy diệt, lãnh sứ mạng gieo rắc các tai ương khắp xứ Ai-cập, trừ các nhà của dân Do thái, được bôi máu con chiên vượt qua trên khung cửa.
Ấn tín được ghi trên trán các Kitô hữu thì khác, thuộc thực tại tinh thần. Thánh Gioan dùng từ “ấn tín” theo tiếng Hy-lạp mà không xác định. Chắc chắn đọc giả của ông biết ấn tín cốt là gì: thuật ngữ nầy được dùng để chỉ phép Rửa ngay từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Ý nghĩa của nó xuất hiện rồi trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 1: 21-22) và trong mạch văn Ba Ngôi.
C-Ý nghĩa của những biểu tượng khác:
Như vậy, qua mật mã và các biểu tượng nầy, những Kitô hữu bị bách hại được mời gọi nhớ lại rằng họ được Thiên Chúa đóng ấn, vì thế họ thuộc về gia đình đông đúc được bảo đảm ơn cứu độ đời đời.
Con số những người được đóng ấn là 144.000 người. Rõ ràng 144.000 là con số biểu tượng. 144 là tổng số của 12 x 12, con số viên mãn, được nhân lên gấp ngàn lần: 144.000, con số khuếch trương vô tận. Đây là 12 chi tộc của dân Ít-ra-en mới, tức là Giáo Hội, được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ tiếp tục sự nghiệp của 12 người con Gia-cóp / Ít-ra-en.
Trong viễn cảnh của mình, truyền thống khải huyền có thói quen lồng quá khứ, hiện tại và tương lai vào với nhau. Ở đây Giáo Hội, đương đầu với “quyền phá hoại đất trời”, đó là Giáo Hội muôn đời, đối mặt với biết bao gian nan thử thách, nhưng được Thiên Chúa bảo vệ và che chở.
2.Thị kiến thứ hai: ở trên trời (7: 9-14):
Thị kiến thứ hai là việc tham dự trước thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, được mô tả ở phần cuối sách. Sau khi đã loan báo những tai ương sắp xảy đến, ngay tự bây giờ cần phải mang đến một sứ điệp chứa chan hy vọng.
A-Đoàn người khải hoàn:
Một đoàn người thật đông khôn kể xiết của thị kiến thứ hai nầy phải chăng cũng là đoàn người được chỉ ra một cách biểu tượng bởi con số 144.000, hay nhà thị kiến đồng thời đã thoáng thấy một đoàn người công chính, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước mọi ngôn ngữ, đã thuộc về thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, dù họ không biết? Dù thế nào, “chiều kích ơn cứu độ phổ quát” được hàm chứa trong việc mô tả nầy, như trước đây: “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân” (5: 9-10). Đây là lời hứa được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham: hậu duệ của ông sẽ đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển (St 15: 5; 22: 17).
B-Phụng vụ thiên quốc:
Chỗ vinh dự được ban cho những ai đã được phúc tử đạo: “Họ đứng trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. “Mình mặc chiếc áo trắng” của sự vô tội và vinh quang; “tay cầm nhành lá thiên tuế” của sự khải hoàn; “họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”, bởi vì “họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”.
Phụng vụ thiên quốc nầy rất trang trọng. Những người được tuyển chọn công bố rằng ơn cứu độ của họ phát xuất từ Thiên Chúa và Con Chiên. Các thiên thần và những nhân vật khác đều cung kính phủ phục và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô bằng bảy lời tán tụng: chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh (chúng ta gặp thấy bài Vinh Tụng Ca tương tự ở 5: 12).
Chúng ta ghi nhận rằng Thiên Chúa không được miêu tả gì cả; chỉ duy “ngai” chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, được bao quanh bởi triều thần gồm các thiên thần, hai mươi bốn Kỳ Mục và bốn Con Vật.
C-Các Kỳ Mục:
Ở chương 4, hai mươi bốn Kỳ Mục được trình bày đang ngồi trên các ngai, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên bằng vàng. Họ có vai trò vừa tư tế vừa vương đế. Họ ngồi bên cạnh ngai Thiên Chúa. Đây không là thiên thần mà là những con người. Ở Ít-ra-en, tước hiệu Kỳ Mục được ban cho các thủ lãnh của dân (70 Kỳ Mục bên cạnh ông Mô-sê), cho những vị hữu trách trước các hội đường và cho một phần thành viên của Thượng Hội Đồng. Trong Giáo Hội tiên khởi, đó cũng là tước hiệu dành cho những người chịu trách nhiệm trước các cộng đoàn Kitô hữu.
D-Bốn Con Vật:
Bốn Con Vật kỳ bí nầy cũng đã được miêu tả ở chương 4: “Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt” (4: 7-8). Những dung mạo nầy được gợi hứng từ thị kiến của Ed 1: 5-21. Chúng xuất xứ từ Ba-by-lon, đó là bốn bức tượng của bốn con vật thần thoại canh giữ cung điện Ba-by-lon. Chúng là các Karibu (ngữ căn của từ “chérubin”), các con vật đầu người, mình sư tử, chân bò rừng và cánh đại bàng, bốn biểu tượng của sức mạnh và quyền năng. Trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en, những con vật lai tạp nầy được thắng vào xe của Đức Chúa, diễn tả sự siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en.
Bốn Con Vật của sách Khải Huyền lấy lại bốn biểu tuợng, được phân phối trên bốn con vật tách biệt. Chúng cũng được gộp vào trong một thị kiến về Thiên Chúa ngự trên ngai trong vinh quang của Ngài, nhưng ý nghĩa của chúng thì hơi khác. Bốn con vật gợi lên bốn phương trời, nói chính xác hơn, số bốn là số của vũ trụ (biểu tượng của nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo). Xem ra chúng biểu thị sự vĩ đại, sức mạnh, sự hoàn thiện của công trình sáng tạo và sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa trong công trình của Ngài (mắt của chúng không kể xiết); chúng được đồng hóa với các thiên thần, ngày đêm không ngừng ca ngợi kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Thị kiến được hoàn tất với việc gợi lên niềm hoan lạc của những người được tuyển chọn: “Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ”.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-3)
Đoạn văn nầy được trích từ Thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “nghĩa tử của Thiên Chúa”. Người Ki-tô là nghĩa tử của Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha, nhưng nghĩa tử nầy sẽ trở nên viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống với Đức Kitô vào ngày quang lâm của Người.
Nghĩa tử của Thiên Chúa:
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi chúng ta được gọi là con cái của Ngài. Đây không là một tước hiệu mà Ngài ban thưởng cho chúng ta, nhưng một thực tại: “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Sê-mít, danh xưng diễn tả chân lý sâu xa của con người: như vậy Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi liên kết chúng ta với Con Một của Ngài khi Ngài gọi chúng ta là “con của Ngài”. Phẩm chất nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: đó là lý do tại sao “thế gian không nhận biết chúng ta”. Những lời nầy xem ra vang dội lời của Đức Giê-su nói với các môn đệ Người, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 19).
Toàn bộ thư nầy được xây dựng theo phép đối ngẫu. Cuộc sống Kitô hữu đối lập với cuộc sống của những người không tin hay những người theo lạc giáo. Ở đây, phản đề bao phủ một phạm vi rộng lớn: thế gian, theo nghĩa tiêu cực, là thế giới tội lỗi “đã không nhận biết Thiên Chúa”.
Việc biến đổi trong tương lai:
Đoạn trích thư nầy có thể được đặt nhan đề: “từ phép rửa tội đến việc biến đổi”. Chúng ta được biến đổi rồi bởi sự sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu tiên. Việc chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa chỉ được thành toàn khi mà chúng ta nên giống như Con Một của Ngài. Điều này sẽ xảy ra vào thời cánh chung. Bản văn như muốn nói rằng chiêm ngắm Con Một Thiên Chúa trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Đó không là ý tưởng vì việc chúng ta được thay hình đổi dạng được ươm mầm rồi ở nơi phẩm chất con cái Thiên Chúa của chúng ta.
Lời khẳng định của vị tông đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là chứng nhân của cuộc Biến Hình, xem ra được ám chỉ trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Chúng ta cũng gặp thấy sự thay hình đổi dạng trong tương lai nầy trong Thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời xuống cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).
Trong vinh quang của ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, bản văn này gợi lên sự biến đổi hình dạng của chúng ta trong tương lai: “Chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Niềm hy vọng này làm cho chúng ta tinh tuyền vì nó thúc đẩy chúng ta mỗi ngày mỗi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô hơn nữa.
TIN MỪNG (Mt 5: 1-12)
Tin Mừng hôm nay được trích từ bài diễn từ đầu tiên trong một loạt năm bài diễn từ hình thành nên cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu. Bài diễn từ đầu tiên nầy bao gồm các chương 5 đến 7 và được gọi là “Bài Giảng Trên Núi”, vì ngay từ đầu, diễn từ nầy được định vị trong bối cảnh “trên núi” (5: 1-2). Núi là nơi thuận lợi cho những mặc khải thần linh. Chính trên núi Xi-nai, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Ngài qua ông Mô-sê (x. Xh 24: 1-2, 9). Chính cũng trên núi Ga-li-lê, Chúa Giê-su ban “Các Mối Phúc” cho dân mới của Người mà không qua trung gian và bằng chính uy quyền của Người. Nhưng Các Mối Phúc này không là Lề luật, càng không phải là những huấn lệnh: Đức Giê-su đưa ra những cách sống mở lối vào Nước Trời, vì các Mối Phúc này cho phép chúng ta cư xử như con cái đích thật của Thiên Chúa.
Thính giả của Đức Giê-su bao gồm “đám đông” (5: 1), họ sẽ tái xuất hiện ở cuối bài diễn từ (Mt 7: 28) để tạo thành thể đóng khung cho toàn bộ bài diễn từ, và “các môn đệ của Người”, diễn ngữ mà thánh Mát-thêu dùng ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình. Vì thế, sứ điệp được gởi đến cho tất cả mọi người, đặc biệt hơn cho các môn đệ: “Thấy dân chúng từ khắp nơi kéo về đông đảo, Đức Giê-su lên một ngọn núi. Khi Người ngối xuống, thì các môn đệ đến gần bên. Người lên tiếng dạy họ”. Quả thật, con đường thì hẹp; tuy nhiên nó mở rộng cho tất cả mọi người, cho đám đông thân cận và cho đám đông mênh mông, vô danh, tản mác trong thời gian và không gian, đám đông của những ai, dù không biết Người, đều có thể thuộc về Nước Trời, nếu đức hạnh của họ phù hợp với sứ điệp nầy, phù hợp với khoản Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại. Qua Các Mối Phúc, Đức Giê-su đã mở rộng “Ki-tô giáo”.
Thật ra, danh sách của những hạng người được chúc phúc ở đây thì không hoàn toàn mới mẽ; nó đã được giáo huấn ngôn sứ và minh triết Cựu Ước chuẩn bị dài lâu. Những người nghèo, khiêm hạ, công chính, thanh sạch, … đã được các Thánh Vịnh tán dương. Đức Giê-su minh nhiên quy chiếu đến những bản văn Cựu Ước nầy. Nhưng những đức hạnh hoàn thiện được phác họa ở đây xem ra có thể chỉ được thực hiện vào thời đại Mê-si-a. Đức Giê-su kiện toàn những đức hạnh này ở nơi chính con người của Người. Khi công bố những mối phúc nầy, Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta rằng hạnh phúc đích thật hiện ở trong tầm tay của chúng ta, bởi vì Người là Thiên Chúa, cội nguồn của tất cả những gì có thể làm cho chúng ta mãn nguyện.
1- “Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó…” :
Thánh Lu-ca nói một cách giản dị: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khổ” (Lc 6: 20). Khi viết “Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó”, thánh Mát-thêu mở rộng viễn cảnh cho tất cả những ai có tấm lòng nghèo khó, phù hợp với chiều hướng nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su muốn. Sự nghèo khó không được ca ngợi ở nơi chính nó, bởi vì sự nghèo khó có thể do sự biếng nhác, ăn không ngồi rồi, nhưng ở nơi sự giải thoát khỏi mọi gắn bó với của cải trần thế và mở rộng lòng mình ra đón nhận sự giàu có tinh thần.
Cuối cùng, khía cạnh Mê-si-a của mối phúc nầy thật hiển nhiên: Đức Giê-su sinh ra trong cảnh nghèo hèn và chết trong sự trần trụi để là quà tặng của Thiên Chúa được trao ban trọn vẹn cho con người. Đối với những ai lắng nghe Người và từ bỏ mọi sự mà theo Người, Người sẽ sai họ ra đi trên mọi nẽo đường thế giới, không tiền bạc, không bao bị, hoàn toàn trơ trụi, nhưng giàu có tận mức sứ điệp tinh thần mà họ công bố.
2- “Phúc thay ai hiền lành…”:
Mối phúc nầy được gợi hứng từ Thánh Vịnh 37, Thánh Vịnh này gợi ra số phận khác nhau giữa những người công chính và quân gian ác: “Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn, đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn. Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37: 10-11). “Đất Hứa” là đất Ca-na-an. Chủ đề nầy vọng lên đến lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15: 7; 28: 4), được triển khai phong phú trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 1: 8, 39; 4: 1, 5, 14…), nhưng mang lấy sắc thái cánh chung trong sách I-sai-a (Is 57: 13; 60: 21; 65: 9), và sẽ vang dội trong sách Khải Huyền, ở đó cốt là thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời (Kh 21: 2). Trong Tin Mừng Mát-thêu, “Đất Hứa” không còn là đất Ca-na-an nữa, nhưng mang một ý nghĩa tinh thần như trong Các Mối Phúc khác. Chủ đề “thừa hưởng” thường trở đi trở lại trong Tân Ước: chung chung, người ta thích cách nói “thừa hưởng Nước Trời” (Mt 25: 34; 1Cr 6: 9-10…), “thừa hưởng sự sống đời đời” (Mt 19: 29; Mc 10: 27; Lc 10: 25…) hơn là “thừa hưởng đất làm gia nghiệp”.
Đức tính hiền lành được nêu lên ở đây là một sự hiền lành không nhu nhược: đó cũng là sự hiền lành của Đức Ki-tô, mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhiều lần: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11: 29). Và trong chương 12 của mình, thánh Mát-thêu nhắc lại cung cách hiền lành của “Người Tôi Tớ”, dung mạo này được hiện thực nơi Đức Giê-su.
3- “Phúc thay ai sầu khổ…”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu, mạch văn chung của Các Mối Phúc có khuynh hướng thấy ở nơi sự sầu khổ sắc thái tinh thần. Xem ra thật khó xác định đối tượng của nỗi sầu muộn khóc than nầy.
Đây là Mối Phúc mâu thuẫn nhất trong Các Mối Phúc, nhưng có thể cũng mang chiều kích Mê-si-a nhất. Trải qua tất cả những gian nan thử thách của mình, dân Ít-ra-en đã luôn luôn trông chờ được Thiên Chúa ủi an. Trong truyền thống Do thái, việc Đấng Mê-si-a đến được gọi là “niềm an ủi của Ít-ra-en”, trong Tin Mừng, cụ già Si-mê-on cũng mong chờ và gặp thấy “niềm an ủi của Ít-ra-en” ở nơi Hài Nhi Giê-su.
Không thể chối cải, Đức Giê-su là Đấng an ủi những người nghèo khó, đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền: Ngài chữa lành, nâng dậy, phục sinh họ. Ngài đã kêu mời “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Cuối cùng, Ngài dâng hiến cho những ai sầu khổ một niềm ủi an tuyệt mức khi chính Ngài dự phần vào những cơn hấp hối khủng khiếp của cái chết.
Đức Giê-su không đề nghị hủy bỏ sự đau khổ, nhưng rút ra từ đó một giá trị vượt qua nó, nâng cao nó và có thể biến nó thành nguồn vui. Niềm vui hiện tại – khó đạt được – được bổ túc bởi viễn cảnh của niềm vui tương lai, trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3).
Tuy nhiên, không nên ngộ nhận viễn cảnh của thánh Mát-thêu: tác giả Tin Mừng nầy rất quan tâm đến chiều kích tinh thần của Các Mối Phúc. Thánh ký chắc chắn chủ yếu nhắm đến nỗi sầu muộn của các tín hữu đối mặt với thực tại trong đó sự ác chiến thắng trên những ý định của Thiên Chúa. Trên hết, Đức Giê-su hoàn lại niềm hy vọng cho những người công chính và đảm bảo cho họ sự chiến thắng tối hậu trên sự ác và sự chết.
4- “Phúc thay ai đói khát sự công chính…”:
Thánh Lu-ca viết: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thỏa” (Lc 6: 21), nghĩa là, sẽ xảy ra một sự đảo lộn những hoàn cảnh trong Nước Chúa. Thánh Mát-thêu, như trước đây, tinh thần hóa Mối Phúc nầy: “Phúc cho ai đói khát sự công chính”.
Chữ “công chính” mà Đức Giê-su công bố, chất nặng lịch sử Kinh Thánh nên không thể được hiểu thuần túy theo nét nghĩa thông thường hiện nay về sự công bình trần thế. Chắc chắn sự công bình trần thế hàm chứa ở đây, nhưng rất gián tiếp. Người công chính trong Cựu Ước và trong Tin Mừng (cụ già Si-mê-on, thánh Giu-se, vân vân) là một con người mà cách sống của họ luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Đó là lý tưởng hoàn thiện mà một người đạo hạnh nhắm đến. Đức “công chính” chính là lý tưởng nầy. Vì thế, chữ “thánh thiện” là từ thích hợp nhất để diễn tả đức công chính. Đức Giê-su định vị đức công chính nầy như tiếp nối nhưng vượt qua đức công chính của Lề Luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng vào Nước Trời” (Mt 5: 20).
Bởi vì sự thánh thiện của những “người công chính” đích thật theo hình ảnh sự công chính của Thiên Chúa, nên đây là một nhân đức siêu việt, nó vốn nội tại trong cõi thâm sâu của đời sống. Những ai hết lòng hết dạ khao khát nhân đức nầy, sẽ được mãn nguyện– trên bình diện tinh thần.
5- “Phúc thay ai xót thương người…”:
Trong Cựu Ước, lòng xót thương thường được liên kết với đức công chính (theo nghĩa pháp lý). Quả thật, chính nhờ lòng xót thương mà tình yêu và sự công chính gặp gỡ nhau; nó là một khía cạnh của tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa đặc biệt đối với tội nhân. Ít-ra-en đã thụ hưởng tấm lòng nhân hậu nầy nhiều lần trong suốt lịch sử của mình và đã ca ngợi Đức Chúa là “Thiên Chúa giàu lòng xót thương”.
Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su khai triển Mối Phúc nầy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ…Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 36-38).
6- “Phúc thay ai có tấm lòng thanh sạch…”:
Cách diễn tả: “tấm lòng thanh sạch”, là thành ngữ Kinh Thánh. “Tấm lòng thanh sạch” đối lập với nghi thức thanh sạch, hoàn toàn bên ngoài, không thể mang lại sự thanh sạch bên trong. Các Thánh Vịnh ca ngợi “kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24); “Thiên Chúa nhân hậu biết là dường nào …với những kẻ có lòng trong sạch!” (Tv 73). Trong lời cầu nguyện của mình, các tín hữu kêu cầu Thiên Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51).
“Tấm lòng”, theo ngôn ngữ Híp-ri, chỉ chiều kích sâu thẳm của con người. Chúa Giê-su lấy lại cách diễn tả nầy vì nó nêu bật nét đặc trưng của chiều kích nội tâm hóa luật luân lý. Sau nầy, Ngài quở trách những người Pha-ri-sêu chỉ “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những gian ác” (Mt 9: 6; 23: 25).
7- “Hạnh phúc thay những người kiến tạo hòa bình…”:
Mối Phúc nầy mang một chiều kích Mê-si-a. “Vị vua công chính” đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo là “Hoàng Tử Bình An” (Is 9: 6.). Thật vậy, hòa bình và công lý xã hội được gắn bó mật thiết với nhau trong Cựu Ước. Mối Phúc nầy đích thật là lời mời gọi gởi đến con người để mời gọi họ hãy làm cho công lý ngự trị giữa họ.
Theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a sẽ tái xuất hiện để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến qua sứ mạng hòa giải: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi…Nó sẽ đưa tấm lòng cha ông trở lại với con cháu, và đưa tấm lòng con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3: 23-24). Ngay trước thời Đức Kitô, các kinh sư đã đề ra những cử chỉ giao hòa trong gia đình, giữa bà con láng giềng… Đức Giê-su đòi hỏi phải hòa giải ngay cả trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5: 24).
Chúa Giê-su đã để lại cho các tông đồ của Người “Bình An của Người” (Ga 20: 19), vả lại, bình an nầy được định vị trong dòng chảy liên tục của tình yêu. Theo bước chân của Người, những người kiến tạo hòa bình sẽ được gọi “con Thiên Chúa” như Ngài.
8- “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính…”:
Mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám loan báo cho chúng ta rằng Nước Trời hiện diện rồi: “Vì Nước Trời là của họ” (5: 3 và 10), trong khi sáu mối phúc khác, nằm ở giữa thể loại đóng khung nầy, vẫn còn là lời hứa trong tương lai: “Vì họ sẽ được…”. Sự căng thẳng giữa hiện thực và lời hứa, giữa hiện tại và tương lai, xuất hiện ngay từ đầu, ở giữa lòng sự thành tựu. Nó bày tỏ vừa tính dứt khoát vừa tính lịch sử của Vương Quốc nầy, Vương Quốc đang trương rộng ra trên toàn thế giới. Sự căng thẳng nầy bày tỏ điều mà chúng ta gọi chiều kích “cánh chung” của Nước Trời.
9- “Phúc thay anh em khi vì Thầy….”:
Với Mối Phúc thứ chín này (5: 11), bài diễn từ đột nhiên chuyển từ ngôi thứ ba số ít: “Phúc thay ai…” như các mối phúc trước đó sang ngôi thứ hai số nhiều: “Phúc thay anh em…”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc thứ tám và Mối Phúc thứ chín đều ca ngợi những người bị bách hại. Trong khi Mối Phúc thứ tám mang chiều kích phổ quát, được gởi đến với toàn thể nhân loại: “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính”, thì Mối Phúc thứ chín được ngỏ lời trực tiếp với các môn đệ: “Phúc thay anh em khi ‘vì Thầy’ mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”.
Mối Phúc thứ chín đóng vai trò hiện tại hóa và cụ thể hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh của các môn đệ như một sự chuyển tiếp từ lý tưởng được đề nghị: “vì sự công chính” đến thực tại cụ thể được cảm thấy và được sống: “vì Thầy”. Ở vào giây phút các môn đệ bị bách hại và bị giết chết, nếu họ chấp nhận đặt mối liên hệ trực tiếp với Đấng công bố Các Mối Phúc nầy, họ có thể khám phá rằng Mối Phúc này được thành tựu ở nơi họ. Vào giây phút người môn đệ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, người ấy nhận thức rằng Nước Trời thực sự đã đến. Cũng thế, phần thưởng lớn lao dành cho họ là “ở trên trời” (5: 12). Phần thưởng nầy, nói một cách chính xác, không là bất cứ cái gì khác ngoài hiện thực hóa sự thành tựu mà Đức Giê-su mang đến, Đấng đưa họ vào “trong Nước Trời”, nghĩa là vào trong thực tại của Chúa Cha ở trên trời.
Như vậy, Mối Phúc thứ chín thăng hoa Các Mối Phúc khác. Các nhà thần học nhấn mạnh tính chất Ki-tô học của Mối Phúc thứ chín nầy: ai dám hứa phần thưởng Nước Trời cho những người phải chịu đau khổ “vì mình” nếu không là Đấng có thể sánh ngang bằng với Thiên Chúa?
Chúa Giê-su đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ mình về những bách hại mà họ sẽ phải chịu. Vào lúc thánh Mát-thêu soạn thảo Tin Mừng của mình, những lời báo trước nầy đã trở thành những thực tại khắc nghiệt. Giáo Hội Pa-lét-tin chịu những cuộc công kích liên tục từ phía những người Do thái nhiệt thành với luật cũ, họ xem những người cải đạo Ki-tô như những kẻ bội giáo. Rồi, thánh Tê-pha-nô bị một đám đông giận dữ ném đá cho đến chết, thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan Tin Mừng, bị xử trảm vào năm 44. Thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và những người bạn đồng hành của họ bị truy bắt, đánh đập, giam tù… Tiếp đó là những cuộc bách hại từ phía chính quyền dân sự Rô-ma. Nhưng sách Công Vụ nói với chúng ta rằng các tông đồ, dù bị bách hại như thế, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô” (Cv 5: 41).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NÊN HÌNH BÓNG NGÀI- ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
NIỀM HI VỌNG HẠNH PHÚC- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay, chúng ta hân hoan mừng đại lễ các Thánh Nam Nữ. Quả thật, việc mừng lễ Các Thánh mang lại cho chúng ta không chỉ niềm vui mừng, nhưng còn là niềm hy vọng về một đời sống vĩnh cửu ở sau cái chết.
Chúng ta vui, vì có biết bao người đã đi hết chặng đường của cuộc đời con người, các ngài đã chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp và ngày nay, các ngài đang được hưởng vinh phúc trên Thiên quốc cùng với Con Chiên tinh tuyền là Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta hy vọng, vì các ngài tuy là những con người, nhưng với sự trợ giúp của ơn Chúa, các ngài đã vượt qua chính bản thân mình, chiến thắng những sự cám dỗ của trần thế này, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ chiến đấu và chiến thắng để cũng được hưởng hạnh phúc trên Nước trời như các ngài.
Các Thánh Nam Nữ là ai ?
Chúng ta biết rằng, các Thánh trên trời không chỉ gồm những người đã được Giáo Hội tôn phong, mà là tất cả những ai ngày hôm nay đang được hưởng nhan thánh Chúa trên thiên quốc.
Họ là ai vậy ? Đây cũng là câu hỏi mà thánh Gioan Tông Đồ đặt ra cho “vị trưởng lão”, khi trong một thị kiến, ngài được đưa lên trên các tầng trời. Tác giả đã thuật lại trong sách Khải Huyền rằng: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” (Kh 7,9-10).
Vì các ngài là những người “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” nên chắc chắn, trong số đó có những người bà con thân thuộc của chúng ta. Họ là ông bà cha mẹ, anh chị em ruột thịt; họ là những người chúng ta đã từng quen biết, và có khi họ là những người hàng xóm láng giềng, những người hàng ngày đã từng sống bên cạnh chúng ta.
Không phải tự nhiên mà họ được đứng trong hàng ngũ các thánh, nhưng theo lời của sách Khải Huyền, sở dĩ họ được như vậy, là vì họ đã phải trải qua đau khổ lớn lao, họ đã giặt và tẩy áo mình trong Máu Con Chiên là Đức Giêsu.
“Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.” (Kh 7,15-17).
Con đường nên thánh của các Thánh Nam Nữ
Các thánh trong cuộc sống thường ngày cũng giống như chúng ta. Không phải các ngài là những người thần thông quảng đại, có khả năng biến hóa khôn lường, hay làm một điều gì đó phi thường, nhưng đúng hơn, các ngài đã làm những điều bình thường một cách phi thường. “Bí quyết” hay “con đường nên thánh” của các ngài chính là con đường Tám Mối Phúc mà Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay đã đưa ra cho chúng ta.
Các ngài nên thánh là vì các ngài đã biết sống khó nghèo, sống một đời hiền lành, sầu khổ, khao khát nên người công chính, thương xót người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình… và sau cùng là bị bách hại vì đã sống công chính.
Tất nhiên, không phải các thánh đều thực hành một cách xuất sắc tất cả các mối phúc nói trên, nhưng các ngài đã sống triệt để một trong các mối phúc đó. Sống khó nghèo đến không còn gì như thánh Phanxicô Assisi, sống trong sạch như thánh nữ Maria Gorétti, sống công chính như thánh Giuse, có lòng yêu người như thánh Maximilianô Kolbê, …
Đến con đường nên thánh của mỗi chúng ta
Nên thánh không phải là một đặc quyền đặc lợi của các linh mục, tu sĩ nam nữ hay chỉ dành cho một số ít người, nhưng là bổn phận và nhiệm vụ của tất cả chúng ta. Bởi vì nên thánh là điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên trong chương trình cứu độ của Ngài: “Điều Thiên Chúa muốn là anh em được cứu độ”. Việc nên thánh, không chỉ là một lời mời gọi, nhưng còn là một lệnh truyền: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Thế nên, không có gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh.
Nhưng để có thể trở nên những vị thánh, chúng ta không có con đường nào khác, ngoài con đường mà Đức Giêsu Kitô và các thánh đã đi, đó chính là con đường Tám Mối Phúc thật.
Ðức Kitô mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa. Ngài dạy chúng ta hãy có lòng khát khao sự công chính và chỉ mong làm trọn ý Ngài. Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta có lòng thương xót, biết đồng cảm và chia sẻ với những người bất hạnh, biết đau nỗi đau của người khác. Giữa một thế giới đầy dẫy những lọc lừa, toan tính, Ngài dạy chúng ta hãy có tâm hồn trong sạch, nghĩa là hãy sống một đời sống ngay thẳng, chân thành. Sau cùng, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy có tinh thần xây dựng hòa bình nghĩa là chăm lo cho sự phát triển của con người và đấu tranh cho công bằng xã hội.
Nên thánh còn là để cho ánh sáng của Chúa chiếu qua cuộc đời của chúng ta. Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống, là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân. Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại. Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao, là thuộc trọn về Chúa, là để Chúa chiếm lấy cuộc đời mình.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, chúng ta cùng nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để nên thánh theo lời mời gọi của Chúa, dẫu rằng, mỗi chúng ta vẫn còn nhiều những bất toàn và khiếm khuyết, với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại.
Lạy các Thánh Nam Nữ! Xin cầu cho chúng con. Amen.
ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI…….- Lm. GB Trần Văn Hào, SBD
Nếu có dịp viếng thăm đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng một cảnh quan rất ngoạn mục với nhiều tượng ảnh các thánh do các nghệ nhân nổi tiếng điêu khắc. Đặc biệt ở các ô cửa phía trên cao, có rất nhiều hình các thánh được lắp ghép bằng những mảnh kính mầu rất ấn tượng. Khi mặt trời lên cao và được ánh sáng chiếu qua, chân dung các thánh được hiện lộ và tỏa sáng. Có một đứa bé khi được cha xứ hỏi trong giờ giáo lý: “ Các thánh là ai ?”, em đã đơn sơ trả lời: “ Thưa Cha, các thánh là những vị được ánh sáng mặt trời chiếu qua”. Câu trả lời của đứa bé gợi nhắc chúng ta về ý nghĩa của ngày lễ hôm nay khi Giáo hội mừng kính các thánh nam nữ. Đúng như em bé nói, các thánh chính là những con người được ánh sáng Đức Kitô soi dọi và chiếu sáng. Ngài chính là mặt trời công chính, chiếu ánh quang vào tâm hồn mọi người. Các vị thánh là những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhưng đã đạt đến sự hoàn thiện, vì đã để ánh sáng Đức Kitô thẩm thấu và ngấm sâu vào trong cuộc đời mình.
Có bao nhiêu vị thánh trên trời?
Không khó để trả lời câu hỏi này. Trong cái nhìn thần học của Thánh Gioan, con số đó nhiều vô kể. Sách Khải Huyền đã ghi lại thị kiến : “Tôi thấy một đoàn người đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ (Kh 7, 9). Con số 144 ngàn (Kh 7, 4), bội số của 12 chi tộc Israel nhân lên 12 và nhân lên gấp ngàn lần nữa, chỉ mang tính biểu tượng, ám thị một con số khổng lồ. Bởi lẽ ơn cứu độ của Đức Giêsu bao trùm toàn thể vũ trụ, và phủ bóng trên tất cả mọi người không loại trừ ai. Không chỉ những ai được Giáo hội tuyên phong mới là thánh, nhưng tất cả những người được ân sủng Đức Kitô biến đổi nên công chính, đều là những vị thánh. Trong thư gởi các giáo đoàn, như thư Rôma, 2 lá thư Côrinthô, thư Êphêsô, thư Côlôssê.., Thánh Phaolô vẫn thường gọi các tín hữu là những vị thánh. Hằng tuần chúng ta tuyên tín khi đọc kinh tin kính: ‘Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền’. Giáo hội tự bản chất là thánh thiện, và những ai sống hiệp thông trong Hội thánh đều được thông phần vào sự thánh thiện của Giáo hội phát nguồn từ chính Đức Kitô, đấng Thánh của Thiên Chúa, bởi vì, Giáo hội chính là thân thể mầu nhiệm của Ngài.
Ơn gọi nên thánh
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta :“ Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Việc nên thánh không phải là một ơn gọi chuyên biệt chỉ dành riêng cho một số người, nhưng đó là ơn gọi phổ quát mà Chúa Giêsu ngỏ trao đến tất cả chúng ta. Giáo hội đã tuyên thánh (canonize) rất nhiều vị thuộc đủ thành phần, từ các Giáo Hoàng, các Giám mục, các linh mục, tu sĩ và cả giáo dân. Ngày 18 tháng Mười năm 2015, giữa lúc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới đang nhóm họp bàn về gia đình, Đức Thánh Cha Phanxicô với quyền bất khả ngộ đã long trọng công bố ông bà Martin Guérin, song thân của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux được ghi tên vào sổ bộ các thánh. Cả hai vị cũng là giáo dân giống như rất nhiều người trong chúng ta, với biết bao lo toan trong cuộc sống đời thường giữa một gia đình khá đông con cái. Bí quyết nên thánh của các Ngài rất giản đơn, đó là hoàn thiện ơn gọi tình yêu trong những bổn phận hằng ngày với niềm đam mê cháy bỏng dành cho Thiên Chúa. Cho dù trong cuộc sống, các Ngài có những khiếm khuyết, nhưng tình yêu Thiên Chúa đã lấp đầy những lỗ hổng của thiếu sót, và biến trở cuộc đời các Ngài nên hoàn thiện.
Trong các dịp lễ Giáng sinh, Thánh Gioan Bosco vẫn có thói quen cho các em học sinh mỗi người một món quà, tùy sở thích mỗi người. Đaminh Saviô đã viết trên một mảnh giấy nhỏ ước muốn đơn sơ của mình và trao cho Don Bosco: ‘ Con xin Cha hãy giúp con nên thánh’. Ước muốn này đã được thực hiện và Don Bosco không những là một vị thánh, Ngài còn là một nhà giáo dục, là thầy dạy đường nên thánh cho các con cái mình. Không ai trong chúng ta lên thiên đàng một mình cũng như không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh cũng bằng cách giúp người khác vươn đạt đến sự thánh thiện.
Đức Giêsu, mẫu gương trọn hảo về sự thánh thiện
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan tông đồ mời gọi chúng ta quy chiếu về Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa. “ Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người” (1Ga 3, 2 ). “Ai đặt hy vọng vào Đức Kitô, thì làm cho mình nên thanh sạch” (1Ga 3,3). Đức Kitô Đấng thanh sạch, là Con Chiên tinh tuyền, chính là chuẩn mẫu về sự thánh thiện để chúng ta noi theo. Ngài đã sống tận căn mầu nhiệm yêu thương để quảng diễn sự thánh thiện nơi Ngài. Vì thế Đức Giêsu mời gọi các môn sinh phải sao chép lại tình yêu mà Ngài đã diễn bày. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga 15,12) . Thập giá và cái chết của Đức Giêsu là nguyên mẫu về sự thánh thiện mà chúng ta luôn phải học hỏi, phải đào sâu, phải khám phá không ngừng nhằm tìm ra con đường thánh thiện để dấn bước. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta bản Hiến chương Nước Trời, đó là tám mối phúc Đức Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi. Đây chính là nẻo đường dẫn chúng ta đi dần vào mầu nhiệm Thập giá. Sống tinh thần khó nghèo, sống hiền lành khiêm tốn, sống nhẫn nhục trong lao nhọc, sống quảng đại với tấm lòng xót thương, sống như là những sứ giả hòa bình… Tất cả đều là những sắc nét của mầu nhiệm Thập giá, con đường dẫn đưa chúng ta đến sự trọn lành.
Tuy nhiên, chúng ta thường hay nghĩ rằng tôi chỉ là một con người tầm thường với biết bao tội lỗi và yếu đuối, làm sao tôi có thể nên thánh được. Chúng ta đừng quên rằng, vị thánh đầu tiên được Chúa Giêsu ‘tấn phong’ và mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào, không ai khác chính là một tên trộm khét tiếng. Một nhà tu đức đã dí dỏm nói rằng, đây là một tay trộm cắp chuyên nghiệp vì cánh cửa nào anh ta cũng có thể mở ra được. Anh ta dùng một chiếc chìa khóa vạn năng để mở các loại cửa, kể cả cửa Thiên Đàng. Chiếc chìa khóa vạn năng đó chính là tín thác vào lòng thương xót của Chúa. Mức độ trộm cắp chuyên nghiệp của anh ta đạt đến đỉnh điểm, vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả nước Thiên Đàng. Trong bộ sách Confessio, Thánh Augustinô cũng viết một câu chuyện tưởng tượng. Ngài gặp tên trộm và hỏi anh ta: “ Thưa anh, anh không phải là người Công giáo, anh chưa từng bước chân vào nhà thờ, anh cũng chưa hề học giáo lý và cũng chưa biết Đức Giêsu là ai, vậy tại sao anh lại đựơc Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng cho vào?”. Người trộm trả lời “ Ông nói đúng, tôi chỉ là một tên cướp với quá khứ đặc kín tội ác. Tôi chưa từng học giáo lý, chưa được rửa tội, cũng chưa biết Đức Giêsu là ai. Nhưng trên thập giá, tôi đã nhìn vào Ngài. Cặp mắt Đức Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng kỳ diệu, đó là ánh sáng của lòng thương xót. Tâm hồn tôi đã bị khuất phục hoàn toàn trước ánh mắt đầy trìu mến và thân thương ấy. Cuối cùng, tôi đã tin. Tôi đã vào Thiên Đàng không phải do công cán của tôi, nhưng tất cả là hồng ân của lòng thương xót Chúa.
Kết luận
Ngày 05 tháng Chín năm 1997, ông Kofi Anan lúc bấy giờ là Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã viết một bản cáo phó gửi đi khắp thế giới với nội dung: ‘ Một người giàu quyền lực nhất vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Nhưng người giầu quyền lực đó là ai? Thưa, đó chỉ là một phụ nữ già nua ốm yếu, 87 tuổi, trong tay không có lấy một tấc sắt làm vũ khí để bảo vệ mình. Người giàu quyền lực đó đã chết với gia sản không một xu dính túi, đã phải ngửa tay xin từng cái giường cũ của những người nhà giàu đem phân chia cho người nghèo. Người giàu quyền lực đó đã can đảm vượt qua mọi rào cản của các luồng ý thức hệ để đến tận Liên Xô, Cuba, Trung Quốc hầu giang rộng vòng tay ôm đón những con người khốn khổ nhất bị vất ra bên lề xã hội. Người giầu quyền lực đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã tuyên phong Chân phước cho Mẹ, chỉ 6 năm sau khi Mẹ qua đời, và vào ngày mùng 4 tháng 9 năm 2016, Mẹ đã được tôn phong Hiển Thánh. Đó là một vị thánh của đời thường với cuộc sống dung dị, một con người rất con người nhưng cũng là một vị thánh rất là thánh. Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “ Ta khát”. Lời gào thét đó vẫn đang vang vọng nơi khuôn mặt những con người khốn khổ của xã hội ngày hôm nay. Mẹ đã nên thánh bằng việc cảm nghiệm sâu xa tình yêu Chúa và đã trải rộng tình yêu đó đến những người cùng khổ một cách cụ thể. Đó là một dung mạo rất gần gũi và thân quen trong muôn vàn vị thánh, để chúng ta suy nghiệm và chiêm ngắm trong ngày lễ mừng kính các thánh hôm nay.
HÂN HOAN MỪNG CHƯ THÁNH- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :” Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh ” (1Pr 1, 16). Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là một loạt các từ “phúc”, chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là “những người thánh”. Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là “chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu”(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là “thánh” rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, “để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái” (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc “trở nên giống” Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta “cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm” (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem “Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: ” Phúc cho những ai…” (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
CÓ THỂ NÊN THÁNH BẰNG CON ĐƯỜNG SIÊU TỐC KHÔNG? – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Do sức ép của công việc và quỹ thời gian hạn hẹp, nhiều người muốn cái gì cũng phải siêu tốc : ấm đun nước siêu tốc, xe siêu tốc ; tốc độ của những chiếc máy vi tính, chiếc điện thoại, những con đường đều phải là siêu tốc. Người ta quảng cáo các máy tập thể dục, thuốc giảm cân, giảm béo siêu tốc, nhưng người ta không hề nói gì đến những chế độ ăn kiêng kèm theo, khiến nhiều người cho rằng những chiếc máy và những viên thuốc đó là giải pháp không tốn công sức, thời gian. Bữa ăn trong gia đình cũng phải chịu cảnh siêu tốc : cửa hàng tiện lợi, thức ăn chế biến sẵn tại siêu thị, thức ăn nhanh (fast food) được mua về cho gia đình để khỏi mất giờ chế biến, bữa cơm trong gia đình cũng vội vàng, tranh thủ thời gian. Tuy nhiên, dù tranh thủ rút ngắn mọi thứ, kể cả bữa ăn cũng bị rút ngắn như thế, nhưng dường như người ta cũng không dành thêm được giờ nào cho gia đình và cho nhau.
Lối sống siêu tốc ngày hôm nay cũng đang ảnh hưởng trên suy nghĩ và đời sống đạo của các tín hữu. Người ta đến với Chúa cũng siêu tốc, mất sự kiên trì trong cầu nguyện, mất sự bền bỉ, trung thành trong đời sống đức tin, trong thực hành đạo. Nhiều người muốn có một con đường, một cách thức siêu tốc để nên thánh mà không mất nhiều thời gian, không phải đi qua những con đường gập ghềnh, gian khó tập luyện mà vẫn đạt được Nước Trời. Như vậy, liệu có thể theo Chúa bằng con đường siêu tốc không ? Có thể nên thánh bằng những con đường, những phương tiện thoải mái không ?
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, là tất cả những tín hữu đã hoàn tất tốt đẹp hành trình trần thế, đã về tới quê Trời trong niềm vui và hạnh phúc. Các thánh không chỉ là những người được tôn phong, được kính nhớ, mà trong đó còn có cả những người thân của chúng ta, những người chưa bao giờ được tôn phong công khai, những người sống âm thầm không ai biết đến…, nhưng tất cả họ đã đạt tới mục đích của cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời, đã nên thánh, thì đều được Giáo Hội mừng chung vào ngày hôm nay.
Mừng lễ Các Thánh, các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy một điều chắc chắn rằng : Sẽ không bao giờ có những con đường siêu tốc để nên thánh, cũng không thể có những con đường tắt để đạt tới Nước Trời. Mà trái lại, muốn vào được Nước Trời, muốn đạt được hạnh phúc đời đời thì không có con đường nào khác ngoài con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc.
Bài đọc một cho thấy, số những người đã hoàn tất hành trình trần thế đạt được Nước Trời là con số đông không thể đếm nổi, thuộc mọi nước, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế mà tung hô, ca tụng Thiên Chúa. Mặc áo trắng là hình ảnh cho thấy họ đã có một cuộc sống thanh sạch, đã được thanh luyện và không còn bận vướng, hoen ố bởi những tội lỗi, dục vọng và đam mê. Cành lá thiên tuế là cành lá được trao cho những người chiến thắng. Như thế chứng tỏ rằng, những người mặc áo trắng này đã trải qua những cuộc chiến đấu với ma quỷ, xác thịt, thế gian, đã trải qua những thử thách trong cuộc sống và đã chiến thắng. Họ là những người từ trong đau khổ lớn lao mà đến. Họ đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Họ là những con người trung thành với Con Chiên là Đức Giêsu Kitô, đã hết lòng yêu mến, gắn bó với Ngài, đã tẩy rửa cuộc đời mình bằng máu của Ngài, nên giờ đây, họ đã được trở nên tinh tuyền và được gia nhập vào hàng ngũ các thánh đến trình diện trước mặt Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời, đó là con đường của Tám Mối Phúc. Không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá. Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì. Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.
Tám Mối Phúc không phải là một thứ quảng cáo siêu tốc, không phải dạng mì ăn liền, mà là những đòi hỏi, buộc mỗi người phải kiên trì thực hiện từng ngày, từng ngày trong suốt cuộc đời. Nó không phải là một sự buông chiều theo trào lưu dễ dãi của xã hội, mà là một thách thức, một đòi hỏi phải lội ngược dòng, phải dám sống khác, sống tốt hơn, sống siêu thoát, từ bỏ nhiều hơn. Nếu như người đời ngày nay tìm kiếm sự giàu sang phú quý, con người bị quay quắt với ước mơ làm giàu, thì mối phúc thứ nhất đòi mọi người phải có tinh thần nghèo khó. Đòi buộc này không có nghĩa là kẻ theo Chúa phải là những kẻ khố rách áo ôm, bữa no bữa đói, mà là tất cả mọi người, dù họ đang được thuận lợi giàu có, hay đang nghèo hèn khốn khó, thì cũng cần phải có một tâm hồn nghèo khó.
Người có tâm hồn nghèo khó là người khiêm nhường, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, không tự cao tự đại khi thành công, cũng không thất vọng khi gặp thất bại. Người có tâm hồn nghèo khó không để cho của cải vật chất làm chủ đời mình, cũng không để cho tiếng tăm, danh vọng điều khiển cuộc sống mình, nhưng vẫn luôn sống đơn giản, nghèo khó, biết quan tâm đến người khác để đồng cảm, thông cảm và sẻ chia. Hơn nữa, người có tinh thần nghèo khó là người dám chọn Thiên Chúa là gia nghiệp, là tương lai, là hy vọng, là Đấng giải thoát cuộc đời của mình, dám để cho Thiên Chúa điều khiển và dẫn lối cuộc sống mình. Như thế thì đòi hỏi của mối phúc thứ nhất không làm nghèo con người, nhưng trái lại, làm phong phú, giàu có trong tâm hồn của con người.
Cùng vậy, trong một xã hội đầy dẫy bạo lực, giết chóc, tranh chấp như ngày nay, chúng ta được mời gọi sống hiền lành. Trong khi người đời tìm kiếm sự thoải mái dễ dãi, tìm kiếm những cuộc vui mau qua, thì chúng ta lại được mời gọi đón nhận những đau khổ trong tâm hồn để được Thiên Chúa ủi an. Vì Thiên Chúa luôn để tai nghe tiếng kêu cầu của những người đau khổ trong tinh thần và trong thể xác, ra tay bênh đỡ những người cậy trông, tin tưởng vào Chúa. Trong khi người đời chạy theo lợi nhuận, gian tham, dối trá, gian ác, bất công, dửng dưng, vô cảm, thì chúng ta được mời gọi tìm kiếm và khát khao sự công chính, nuôi dưỡng lòng xót thương trắc ẩn. Trong khi xã hội cổ võ một lối sống buông thả, những quan hệ dễ dãi, sự hận thù trả thù, thì chúng ta được mời gọi để sống trong sạch, trở thành những người xây dựng hòa bình.
Như thế, con đường của Tám Mối Phúc không phải là con đường siêu tốc dễ dãi, cũng không phải là những chiếc xe gường nằm thoải mái. Có người đặt vấn đề : Với dòng chảy như thác lũ của lối sống thực dụng, liệu người Kitô hữu có thể lội ngược dòng đời này hay không ? Chúng ta có thể nên thánh trong thế giới phàm tục hôm nay hay không ?
Thưa, chắc chắn là có, chúng ta có thể lội ngược dòng và có thể nên thánh trong thế giới hôm nay, chỉ có điều là chúng ta có dám quyết định hay không mà thôi. Lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay là một minh chứng cho chúng ta. Vì có rất nhiều vị thánh không xa lạ với chúng ta, họ sống cùng thời, cùng hoàn cảnh với chúng ta và họ đã thành công, thì chúng ta, với ơn Chúa và sự cố gắng kiên trì, chúng ta cũng sẽ thành công. Họ không chỉ là những linh mục hoặc tu sĩ, mà đa số họ là những người sống đời sống gia đình, họ cũng đông con nhiều cháu, cũng vất vả mưu sinh, có những người đã có những địa vị cao trong xã hội, có những người nổi tiếng, và có nhiều người cha người mẹ, người vợ người chồng rất đỗi bình thường, họ đã có quyết tâm, đã có chọn lựa đúng và họ đã thành công.
Chúng ta dám quả quyết rằng, chúng ta có thể thể nên thánh, có thể sống theo các Mối Phúc Thật dù có phải lội ngược dòng, vì chúng ta còn có Chúa luôn trợ giúp chúng ta, Ngài luôn ở bên để đồng hành, để tiếp sức cho chúng ta. Ngài cho chúng ta lương thực bổ dưỡng là Thánh Thể của ngài, Ngài dùng Bí Tích giải tội để băng bó, an ủi, chữa lành chúng ta mỗi khi chúng ta bị thương tích. Khi biết khiêm tốn đón nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thành công.
Xin Các Thánh Nam Nữ trên trời phù hộ cho chúng ta trên hành trình trần thế này để chúng ta có thể đạt được Nước Trời và chia sẻ niềm vui, hạnh phúc Chúa ban cho người chiến thắng cùng với các Ngài. Amen
NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO?– Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB
Tôi rất thích câu chuyện hóm hỉnh: “Trong một lớp giáo lý, vị linh mục hỏi nhóm trẻ con có ai biết định nghĩa thế nào là một vị thánh. Nhớ tới những ô cửa kính mầu có vẽ hình các thánh mà em rất thích nhìn ngắm mỗi khi đi lễ nhà thờ xứ, một em nhỏ giơ tay lên xin trả lời: ‘Thánh là người để cho ánh sáng chiếu xuyên qua mình”. Tôi thấy câu trả lời đơn sơ ấy quả là tuyệt vời và sâu sắc! Nếu thánh không tự mình có nguồn sáng mà chỉ là người có khả năng để cho ánh sáng chiếu xuyên qua, thì ta có thể đặt thêm hai câu hỏi khác nữa: ánh sáng nào chiếu qua, và làm thế nào để ánh sáng có thể chiếu qua được?
Ánh sáng nào chiếu qua?– Đương nhiên là ánh sáng của Chúa rồi, thế nhưng Chúa cũng có nhiều thứ ánh sáng lắm đấy. Ánh sáng của Chúa có thể là quyền phép, là toàn thiện, là khôn ngoan, là sức mạnh… những thứ ánh sáng này đã được Cựu Ước (và có lẽ cả các tôn giáo khác nữa) đề cập tới cách khá thường xuyên và rành rẽ. Thế nhưng có một thứ ánh sáng khác nữa của Thiên Chúa mà chỉ Đức Ki-tô khi cất công xuống thế làm người và chịu chết mới chỉ cho nhân loại thấy được; đó là ánh sáng của một Thiên Chúa tình yêu, đầy từ tâm và hay xót thương. Các Thánh của Tân Ước và của Hội Thánh phải là những vị có khả năng để cho thứ ánh sáng này của Thiên Chúa chiếu xuyên qua, cả khi họ còn sống lẫn khi họ đã qua đời. Nói ‘xuyên qua’ là đứng từ góc độ các người khác nhìn vào các ngài và nhận ra, miễn là họ không bị bưng kín trong lối suy nghĩ cố hữu; còn về phần Các Thánh, vì là những người đã tiếp nhận trọn vẹn Tin Mừng của Đức Ki-tô, chắc chắn các ngài cách này hay cách khác đã nhận ra và thâm tín điều này, vì biết rằng“Họ đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14). Chỉ cần nhìn sâu vào tâm tình của Đức Maria hay của bất kỳ vị thánh nào đã từng có dịp diễn tả tâm tình riêng tư của mình, như Âu Tinh hay Tê-rê-xa chẳng hạn, là ta nhận ra ngay. Nên chú ý là nếu chiêm ngưỡng các Thánh mà chỉ thấy nơi các ngài toàn là ánh sáng của quyền phép (phép lạ) của toàn thiện (nhân đức, khổ chế) của khôn ngoan (tiến sĩ) hay can đảm mạnh bạo (tử đạo) là ta chưa thực sự hiểu các ngài. Nói cách khác, chúng ta đang làm các ngài thất bại trong việc để cho ánh sáng đích thực của Đức Ki-tô lọt qua.
Làm cách nào để ánh sáng có thể chiếu qua?Đừng có lo! Đức Giê-su đã khảng định: chỉ cần là một Ki-tô hữu thấp hèn nhất là ta đã có thể tỏa sáng cơ mà;“anh em là ánh sáng… là ngọn đèn…” (Mt 5:13-16). Thế nhưng để có thể tiếp nhận ánh sáng đích thực của Đức Ki-tô, ta vẫn cần phải hội đủ một số điều kiện và nắm được một bí quyết. Chính Phúc âm ngày hôm nay đang vạch ra điều này khi trình bày các mối phúc được Đức Giê-su công bố. Các mối phúc đâu phải là một lối tu đức mới hầu làm cho con người nên hoàn thiện hơn! Chúng sẽ chẳng có giá trị gì nếu không phải là những ‘điều kiện’ (hay đúng hơn, những ‘dịp may’) để ta có thể lãnh hội được ánh sáng của Tin Mừng tình yêu. Tất cả các vị thánh đều là những người đã từng sống các mối phúc, cách này hay cách khác, và vì thế đã có khả năng tiếp nhận và chiếu tỏa ánh sáng của Đức Ki-tô.
Nếu quả là như thế thì chúng ta đừng có mơ tới một sự trọn lành qua luyện tập như một ánh sáng tự phát! Điều đó có thể một số vị nào đó đã đạt được, trong số họ có cả các bậc thánh hiền của các tôn giáo khác hay các vĩ nhân anh hùng của các học thuyết ngoài Ki-tô giáo. Không, các Thánh Ki-tô hữu sẽ giản dị hơn nhiều; các ngài là những người đã không ngừng tiếp nhận ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa vào cuộc sống mình, và đôi khi qua chính những thất bại, các đổ vỡ tinh thần hay yếu đuối sa ngã, điều mà người đời vẫn coi là ‘bất hạnh’, thì các ngài lại coi chúng như những ‘dịp may’ được cống hiến để tiếp nhận và làm tỏa sáng tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Đức Ki-tô hôm nay long trọng công bố thái độ này như một bí quyết (chìa khóa) để đi vào vương quốc tình yêu (“vì Nước Trời là của họ… đất hứa làm gia nghiệp…”).
Lễ Các Thánh do đó, nhắc nhở và mời gọi từng người chúng ta, qua việc chiêm ngắm các ngài, thể hiện cái bí quyết này trong cuộc sống đời thường của mình. Qua Các Thánh (và lòng sùng kính chân thực đối với các ngài) chúng ta càng dễ dàng hơn nhìn thấy và tiếp nhận luồng ánh sáng của Đức Ki-tô, để nó chiếu soi vào con người mình, lọt qua và làm những người chung quanh cũng có thể nhìn thấy được ánh sáng đó.
Như vậy tất cả chúng ta đều có thể nên thánh, vì ‘dịp may’ không thiếu và bí quyết đã được trao tay. Chỉ cần chúng ta vượt qua nghi ngại của một quan niệm sai lầm… và ánh sáng Tình yêu nhân ái và hay thương xót của Thiên Chúa đang chờ đợi để chiếu sáng trên tất cả chúng ta. Quả vậy, các Thánh cũng như sự thánh thiện của các ngài gần gũi chúng ta biết là dường nào và trong tầm tay với của mọi Ki-tô hữu, kể cả những người yếu đuối tội lỗi nhật!
Kính lạy hết thảy Các Thánh Nam Nữ trên trời, chắc hẳn các ngài có rất nhiều điều để dạy dỗ con, và đời sống các ngài cũng có nhiều gương sáng để con học đòi bắt chước; thế nhưng các điều đó chẳng mấy ích lợi cho con, nhất là trong hoàn cảnh sống rất khác biệt giữa con với các ngài. Con nghĩ rằng các ngài cũng chẳng muốn như thế đâu, vì đó đâu phải là mục tiêu các ngài nhắm tới khi còn sống. Vậy thì xin hãy dạy con đón nhận tình yêu thương xót của Chúa như các ngài đã từng đón nhận, và xin cho con cũng biết ca ngợi lòng thương xót Chúa như các ngài ca ngợi lúc này trên thiên quốc. A-men
ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI SAU NÀY- Lm. Đan Vinh
– Đức Khổng Phu Tử đã nói: “Làm thánh thì tôi không dám” (thánh ngã bất cảm); còn Đức Giê-su thì lại dạy môn đệ : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Chúa Giê-su cũng được ma quỷ gọi là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34). Nhờ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã dạy con đường nên thánh cho loài người.
– Sách giáo lý Công giáo dạy: Các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh. Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.
MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG
Chúa Giêsu thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành còn ở trần gian, hai là Hội Thánh Vinh Thắng trên Thiên Đàng và ba là Hội Thánh Đau Khổ trong chốn luyện hình:
– HỘI THÁNH LỮ HÀNH TRẦN GIAN: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giêsu. Như dân Ít-ra-en xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian về Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội Thánh lữ hành còn phải tiếp tục chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Họ được Chúa ban cho 2 của ăn thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để về đến miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
– HỘI THÁNH KHẢI HOÀN TRÊN TRỜI: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Các ngài đã sống theo hiến chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật do Chúa Giêsu công bố và ngày nay các ngài đang được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
– HỘI THÁNH ĐAU KHỔ ĐANG THANH LUYỆN: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng đã qua đời trong tình trạng còn nhiều sai sót, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyện hình.
TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt xa Chúa đời đời, như lời Chúa phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41), còn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều cầu nguyện cho nhau và được thông hiệp vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng Nhà thờ hay Đất thánh (kèm theo việc đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang sẽđược nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11), nhất là xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ để cầu nguyện cho các linh hồn. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được ơn tha thứ tội lỗi như Chúa đã dạy: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”(Lc 7,47). Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được vào Thiên Đàng và sẽ cầu bầu cùng Chúa ban các ơn lành hồn xác cho chúng ta còn sống ở trần gian.
LỜI CẦU
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa làm gì cả! Con thật dại khờ khi nghĩ mình sẽ có thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa xưa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận biết con không, hay Chúa sẽ bảo con rằng: “Hãy đi cho khuất mắt Ta, hỡi kẻ làm điều gian ác!”
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con biết sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi được Chúa gọi, con sẽ trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng là hai người rất thân quen. Để khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên rất trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.-Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời là một hành trình. Hành trình luôn trôi theo dòng thời gian. Thời gian cứ trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn, con người vẫn tồn tại như một hạt cát giữa đại dương mênh mông. Có điều hạt cát thì vô tư, nhưng con người luôn phải đối diện trước biết bao cám dỗ mời mọc, biết bao công việc khó khăn, biết bao sóng gió nổi trổi. Con người phải vươn lên, phải phấn đấu để vượt thắng những cản trở trên dòng đời. Thế nên, có ai đó nói rằng: “Cuộc sống giống như một con đường, nhưng không luôn luôn thẳng tắp. Để có thể chinh phục được con đường của chính mình, điều quan trọng đầu tiên là ta có biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã trên chính con đường ấy hay không?”.
Quả thực, hành trình cuộc sống dường như không bao giờ có một con đường nào là luôn thẳng tắp, mọi con đường đều sẽ có những ngã rẽ, những góc tối mà ta phải chấp nhận. Cũng không có con đường nào trải đầy hoa hồng để nâng những bước chân ta đi tới, bao giờ cũng thế, nhiều hoa hồng – ắt hẳn phải lắm chông gai; nhưng ta không có quyền bỏ cuộc, vì sống là phải bước đi, hành trình phải đi tới, phải chạy theo dòng chảy của thời gian…
Hôm nay chúng ta mừng kính chư thánh Nam Nữ ở trên trời. Họ là những người đã đi qua hành trình cuộc đời này không phải là hành trình đầy hoa hồng mà là hành trình vác thập giá hy sinh. Hành trình của họ lắm chông gai nhưng họ vẫn đi hết hành trình trong niềm trông cậy vào Chúa. Điều quan trọng là họ đã mang trong mình cuộc thương khó của Đức Ky-tô. Họ vì Chúa để đón nhận mọi hy sinh, mọi gian khó, mọi gai góc cuộc đời. Họ hiến dâng chính mình để thánh hóa bản thân và tôn vinh Thiên Chúa.
Họ chính là những người đã sống triệt để tin mừng. Khuôn mặt của họ được Chúa Giê-su phác thảo qua Hiến Chương Nước Trời. Họ chọn sống nghèo khó để tránh những tham lam bất chính. Họ sống hiền lành để tránh những tranh chấp của cải trần gian. Họ đón nhận mọi sầu khổ vì họ cảm nhận được Lòng Thương Xót Chúa luôn ủi an họ. Họ khao khát sự trọn lành nên họ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Họ luôn biết xót thương người anh em nên Thiên Chúa cũng yêu mến họ. Họ luôn gìn giữ tâm hồn trong sạch để có thể nhận ra thân xác là đền thờ Thiên Chúa. Cuộc đời họ luôn sống phục vụ và kiến tạo hòa bình. Cho dẫu có bị bách hại họ vẫn hân hoan vì phần thưởng của họ thật lớn lao trên quê trời.
Cuộc đời của họ là một cuộc đời đẹp. Đẹp dưới mắt người đời, vì họ luôn sống có mục đích, có ước mơ, có lý tưởng. Họ biết đứng dậy bằng chính đôi chân của mình khi vấp ngã, biết bền lòng và dũng cảm vượt qua những thử thách, khó khăn để vươn lên. Họ dám sống đẹp vì dám hy sinh vì tha nhân mà phục vụ, mà dâng hiến chính bản thân mình.
Những cách sống đẹp ấy rất cần được chúng ta họa lại hôm nay. Giữa thế giới đang chối bỏ Thiên Chúa nên cũng khan hiếm những cách sống đẹp để tích đức cho đời sau. Họ không tin Thiên Chúa nên họ chỉ sống cho bản thân. Một thế giới vắng bóng Thiên Chúa nên cũng thiếu tình liên đới sẻ chia với nhau. Con người chỉ biết sống cho bản thân và vì bản thân.
Thế nên là người ky-tô hữu chúng ta hãy sống đẹp để làm chứng cho tình yêu của Đức Ky-tô. Hãy sống bằng một tấm lòng yêu thương như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trên đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”. Gió sẽ cuốn tấm lòng đầy ắp tình yêu thương để gieo vào khắp muôn nơi, để đi đến mọi ngõ ngách cuộc đời, để mang lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh khổ đau.
Khi chúng ta sống đẹp là chúng ta đang xây dựng cho quê hương trần thế này được hạnh phúc , được thăng tiến, đồng thời cũng là tích đức những viên gạch xây dựng ngôi nhà hạnh phúc đời sau.
Xin cho chúng ta biết noi gương các thánh nam nữ luôn sống đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Đẹp lòng Chúa khi vì Chúa mà đón nhận mọi thập giá Chúa gởi đến. Đẹp lòng mọi người khi biết chu toàn bổn phận nơi gia đình một cách trọn vẹn trong hy sinh phục vụ. Nhất là biết sống đạo yêu thương khi dấn thân phục vụ mà không mong đền đáp để giới thiệu cho trần thế nét đẹp của Đạo Thiên Chúa tình thương. Xin Chúa giúp chúng ta nên thánh trong chính đời sống phục vụ của chúng ta. Amen
HÃY NÊN THÁNH VÌ TA LÀ ĐẤNG THÁNH- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng thành Giê-su-sa-lem thiên quốc là Mẹ chúng ta. Nơi đó, có Đức Maria và anh chị em chúng ta là toàn thể các thánh muôn đời ca tụng Chúa, và chúng ta là lữ khách được đức tin soi dẫn đang vội vã tiến về và ước ao trở nên như thế.
Trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, thánh Bernarđô đã bắt đầu bài giảng nổi tiếng với câu hỏi như sau : “Có ích gì hay không lời chúc tụng của chúng ta dành cho các vị thánh, có ích gì hay không lời tôn vinh của chúng ta, có ích gì hay không việc chúng ta cử hành long trọng như thế này?” Ðây cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay. Câu trả lời của thánh Bernardô thật thú vị và cũng rất thời sự: “Những vị thánh của chúng ta không cần đến những danh dự chúng ta dành cho các ngài, và việc phụng tự chúng ta dành cho các ngài cũng không mang lại cho các ngài điều gì thêm. Phần tôi, tôi cần thú nhận rằng, khi tôi nghĩ đến các vị thánh, tôi cảm thấy bừng cháy lên những ước muốn to lớn”.
Ước muốn to lớn mà thánh Bernarđô nói ở trên là ước muốn nên thánh. Cho dù việc chúng ta mừng kính chẳng thêm ích gì cho Các Thánh, nhưng điều đó lại thúc dục chúng ta trở nên thánh. Ai trong chúng ta lại không mơ ước trở nên tốt lành. Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Chúa, giống như Chúa (x.St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :” Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh ” (1Pr 1, 16).
Đầu mỗi câu Tin Mừng hôm nay bằng từ “phúc”. Chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những thánh nhân, phúc nhân. Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Quả thật, chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, hiền lành, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, và trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng hoạt động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính, nhưng Chúa muốn chúng ta noi theo.
Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5,10). Trong số chúng ta đã có những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, nghĩa là sự thánh thiện. Với sự thôi thúc của ơn thánh Chúa, các ngài không bằng lòng với sự kém cỏi; các ngài không bằng lòng với những biện pháp nửa vời, bằng mọi cách phấn đấu để nên thánh. Các ngài “đã giặt áo mình trong máu Con Chiên”, và “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế.
Tuy nhiên lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: “Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? “. Chúng ta hãy noi gương các Thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân đã đi trước chúng ta và giờ đây đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách : “hãy cố lên! ” Ai trong chúng ta cũng phải cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9) nên chúng ta hy vọng chắc mình sẽ làm thánh nếu ta thực hành Lời Chúa dạy.
Thôi, chúng ta phải nên thánh thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài : “Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh” (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Tám Mối, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo hội mừng kinh hôm nay.
Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
THIÊN CHÚA MONG MUỐN MỌI NGƯỜI ĐƯỢC NÊN THÁNH– Lm. Anthony Trung Thành
Trong mầu nhiệm các thánh thông công, có ba thành phần sau đây: Một là các kitô hữu còn sống ở thế gian, gọi là thành phần chiến đấu; Hai là các linh hồn đang thanh luyện trong luyện ngục, gọi là thành phần đau khổ; Ba là tất cả các thánh ở trên trời, gọi là thành phần chiến thắng. Cả ba thành phần này liên kết mật thiết với nhau: Các thánh trên Thiên đàng bầu cử cho các kitô hữu còn sống; Các kitô hữu còn sống cầu nguyện, dâng hy sinh, làm việc lành chỉ cho các linh hồn trong luyện ngục; Các linh hồn trong luyện ngục khi đã được lên Thiên đàng sẽ bầu cử cho các kitô hữu. Thánh lễ hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các Thánh trên Thiên đàng, tức là thành phần chiến thắng, xin được gợi ý suy niệm một số điểm sau đây:
Trước hết, chúng ta nên nhớ rằng, Thiên Chúa mong muốn mọi người được nên thánh:
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dựng nên con người “giống hình ảnh Ngài” (x. St 1,26-27). Sau khi sa ngã phạm tội, Nguyên tổ mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, tức là mất đi ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người, trái lại, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu con người (x. St 3,15). Đến thời gian tới hồi viên mãn, lời hứa đó được thực hiện bởi biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1,26-38). Sau biến cố Truyền tin, Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Ngài sống ẩn dật với Đức Mẹ và Thánh Giuse ở Nazarét suốt 30 năm. Để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó là giúp mọi người được lãnh nhận ơn cứu độ, trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã tuyển chọn các Tông đồ, thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích, sau cùng Ngài chịu chết, sống lại và lên trời. Trước khi về trời, Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 4,1-2). Như vậy, những gì Thiên Chúa đã làm đều tạo điều kiện và mong muốn mọi người được nên thánh, được ở trên Thiên đàng với Ngài.
Nên thánh là bổn phận của mỗi người chúng ta:
Từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mời gọi dân Do thái rằng: “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 20,26). Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã lặp lại lời mời gọi đó: “Các Con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5,48). Sau này, tôi tớ đáng kính của Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng đã cho biết: “Ai phải nên Thánh? Tất cả mọi người không có luật trừ. Khởi sự từ chính mình con, vì Chúa mời gọi tất cả.” (Đường Hy Vọng số 92). Như vậy, nên thánh là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta.
Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể nên thánh?
Để nên thánh thì cần phải muốn: Tục ngữ Tây phương có câu: “Vouloir c’est pouvoir” (muốn là có thể): Muốn làm giáo viên thì có thể trở thành giáo viên; Muốn làm bác sĩ thì có thể trở thành bác sĩ; Muốn làm kỷ sư thì có thể trở thành kỷ sư; muốn làm tu sĩ, linh mục thì có thể trở thành tu sĩ, linh mục…Nhưng động từ “muốn” đó diễn tả một quá trình phấn đấu, học tập, trau dồi những gì cần thiết cho “chức vụ” của mình. Chẳng hạn, muốn làm kỷ sư thì phải vào trường đào tạo nghề kỷ sư, muốn làm linh mục thì phải trải qua thời gian đào tạo của Giáo hội. Từ đó chúng ta có thể nói: Muốn nên thánh thì có thể nên thánh được. Thật vậy, khi nghe tin phong thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Thánh Phanxicô Salê (Francois de Sales) liền nói: – Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn. Qủa thực, ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ bốn. Thánh Augustinô thì nói: “Ông nọ bà kia làm được sao tôi không” và Ngài đã nên thánh. Cho nên, muốn là có thể. Tôi muốn nên thánh thì tôi có thể nên thánh, với điều kiện tôi phải thực hành những gì cần thiết mà Chúa và Giáo hội đòi buộc để nên thánh.
Để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội: Giữ mình sạch tội là tuân giữ 10 điều răn Thiên Chúa, các điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu. Vì tội đối nghịch với sự thánh thiện như bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Thánh vịnh 24,4 của bài đáp ca hôm nay cho biết, các thánh là những “người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.” Phúc thứ sáu trong tám mối phúc thật cũng cho biết rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Vì thế, để nên thánh cần phải giữ mình sạch tội.
Để nên thánh cần phải có lòng sám hối: Nếu giữ được mình sạch tội thì quá tốt, vì đã nên thánh. Nhưng trong suốt hành trình dương thế ít người giữ được tâm hồn trong sạch, vô tội. Vì thế, ai phạm tội thì phải có lòng sám hối ăn năn và nhận lãnh ơn tha thứ của Chúa qua Bí tích Giao hòa. Thánh Phaolô nói rằng: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4,22-24). Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.” (1Ga 2,1-2).
Trong hạnh các thánh, rất nhiều vị có quá khứ tội lỗi nhưng nhờ có lòng sám hối mà đã nên thánh: Thánh Mathêu, thánh Augustinô, thánh Phêrô, thánh Maria Madalêna…Nếu chúng ta có tội, nhất là tội nặng nhưng biết sám hối kịp thời chúng ta cũng có thể nên thánh.
Để nên thánh cần phải chu toàn bổn phận: Rất nhiều vị thánh đã nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta không thể bắt chước được. Nhưng có một cách nên thánh chung mà ai cũng có thể làm được, đó là nên thánh bằng cách chu toàn bổn phận: Bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ, con cái, linh mục, tu sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, công nhân… Tôi tớ đáng kính, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nói: “Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các Ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận” (ĐHV số 25). Đối với Ngài, “Bổn phận chính là Thánh Ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV Số 17). Vì thế, Ngài cho biết: “Thợ nên thánh ở công xưởng, lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận” (ĐHV 24). Và Ngài kết luận: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27). Như vậy, chu toàn bổn phận thì đã nên thánh rồi. Nên thánh bằng cách này thì hết sức dễ dàng, ai cũng có thể làm được.
Ngày kia, cha Dan nói chuyện với một người thợ sắp chữ in. Cha đặt câu hỏi: “Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không?”
Người thợ đơn sơ trả lời: “Thưa cha, khó quá vì từ mai đến tối, con phải sắp chữ để in, không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.”
Cha Dan động viên: “Nên thánh không khó gì đâu. Nên thánh không cần phải làm điều chi lạ. Khi con sắp chữ, con sắp vì Chúa, con làm vì lòng kính mến Chúa.”
Người thợ thuận lời: “Dạ, để con thử.”
Vài ngày sau, người thợ đến tìm cha Dan và nói: “Thưa cha, nên thánh không khó như con đã tưởng.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chu toàn bổn phận là hoàn tất ý định của Chúa Cha trao phó, xin giúp chúng con cũng biết chu toàn bổn phận hằng ngày của mình với lòng yêu mến Chúa. Amen.
NIỀM VUI VỚI CÁC THÁNH TRÊN TRỜI- Lm. Phêrô Nguyễn văn Hương
1- Ngày lễ của niềm vui
Ngày nay, các nhà khoa học đã phóng những tín hiệu vào không trung, với hy vọng có thể nhận được những tín hiệu liên lạc với những sinh linh trên những hành tinh đã biến mất. Nếu có một lớp con người nào đã sống và tồn tại ở ngoài hệ hành tinh chúng ta, sự liên lạc với họ có lẽ là không thể, bởi vì khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời là hàng triệu năm qua rồi.
Hôm nay, chúng ta cử hành đại lễ các Thánh Nam Nữ. Qua thánh lễ này, Giáo Hội muốn diễn tả mầu nhiệm hiệp thông của chúng ta với những người thuộc thế giới khác, đó là với vô số Các Thánh Nam Nữ trên thiên đàng. Đây là chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin Các Thánh thông công.” Đối với đức tin Kitô giáo, câu trả lời là trực tiếp và rõ ràng, bởi lẽ, chúng ta có một trung tâm điểm cho sự hiệp thông và nối kết này là Đức Kitô Phục Sinh.
Có lẽ lễ Các Thánh là lễ mà người tín hữu rất thích tham dự, bởi vì, nó được cử hành trong một thời điểm đặc biệt là gần cuối năm phụng vụ, nhưng đặc biệt hơn, nó diễn tả ý nghĩa cuộc đời và định mệnh mỗi người mà ai cũng khát khao hướng về với niềm hy vọng lớn lao. Lý do hệ tại ở điều được thánh Gioan nói tới trong bài đọc II: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,1-3). Chúng ta giống như phôi thai trong dạ mẹ mong được sinh ra. Các Thánh đã được “sinh ra.” Vì thế, phụng vụ coi ngày từ trần của Các Thánh là “ngày sinh nhật” của các ngài trên trời (dies natalis). Chiêm ngắm Các Thánh là chiêm ngắm vận mệnh chúng ta. Mùa thu về, thiên nhiên như tàn lụi, cây cối tàn úa, mùa lá rụng, nhưng lễ Các Thánh mời gọi chúng ta nhìn xa hơn, nhắc nhở mỗi người ý thức rằng chúng ta không được tiền định để tàn lụi mãi mãi như lá cây, nhưng là để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa như Các Thánh.
2- Các Thánh là ai?
Vậy thì, Các Thánh là những ai? Bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu Các Thánh là ai. Họ “đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Các Thánh là những người đã chấp những thử thách, đau khổ để theo bước theo Đức Kitô, họ đón nhận sự thánh thiện từ Chúa Kitô; họ được kết hợp với Chúa Kitô.
Các Thánh là những người đã trung thành và kiên nhẫn sống các giá trị Tin Mừng, đặc biệt sống trọn vẹn các mối phúc như được nói ở Bài Tin Mừng. Các Thánh đã sống tinh thần nghèo khó vì Nước Trời. Các Thánh là những người hiền lành vì Nước Trời. Các Thánh là những người phải chịu sầu khổ vì Nước Trời. Các Thánh là những người chịu bách hại vì sống công chính vì Nước Trời là của họ (Mt 5,10). Tắt một lời, Các Thánh không chấp nhận sống một cuộc sống tầm thường; họ không hài lòng với kiểu sống nửa vời, nhưng chấp nhận đánh mất mọi sự, để sống thánh thiện theo lý tưởng của Chúa Kitô.
Các Thánh không chỉ là những người được đề cập trong lịch phụng vụ hoặc trong sách Hạnh Các Thánh. Nhưng còn có rất nhiều vị thánh mà chúng ta chưa biết đến: Các thánh là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Có vô số Các Thánh là những người đã sống một cuộc đời thánh thiện trong sự âm thầm, nhưng đã được Thiên Chúa vinh thăng. Có rất nhiều vị âm thầm hy sinh cuộc đời của mình vì tha nhân; có nhiều vị phải tử đạo vì công lý và tự do; có nhiều vị một đời tận tụy phục vụ người khác nơi bệnh viện, nơi học đường, nơi các gia đình và các tổ chức Giáo Hội… Dầu không ai biết đến, nhưng họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên, vì họ sống theo tiếng nói lương tâm và họ luôn xây dựng hòa bình và vì thiện ích của tha nhân.
3- Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Một câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây: Các Thánh trên trời làm gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở đây trong bài đọc I: “Họ sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen!” (Kh 7,11-12). Như thế, ơn gọi đích thực của con người được thành toàn trong họ, đó là được “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (Eph 1,14). Dưới sự hướng dẫn của Đức Maria, ca đoàn Các Thánh tiếp tục hát bài thánh thi tạ ơn trên thiên đàng: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” Trong lời ca ngợi này các thánh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. “Linh hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa.” Một người đang yêu là người luôn biết ngưỡng mộ và ca ngợi. Khi yêu mến và ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa, tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Người.
Một ngày nọ, thánh Saint Simon The New Theologian trải qua kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài kêu lên rằng: “Đủ cho con rồi, Thiên đàng không thể hơn thế này được.” Nhưng Chúa Kitô nói với ngài: “Con là người rất tội nghiệp nếu con chỉ bằng lòng với điều đó. Niềm vui mà con vừa trải nghiệm so sánh với thiên đàng giống như bầu trời được vẽ trên giấy.”
Như thế, lễ Các Thánh là ngày cử hành niềm vui của chúng ta, bởi vì Các Thánh là những thành viên trong gia đình, giáo xứ, công đoàn chúng ta. Các ngài đã được vinh thăng. Đồng thời, ngày lễ này nhắc nhở và cũng cố niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta về định mệnh cao cả nhất của mỗi người là được kết hợp với Đức Kitô.
Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ trên trời cầu bầu cho chúng ta. Amen.
ÁNH SÁNG CỦA CÁC THÁNH TRÊN TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
– Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: ‘tôi đã thấy’.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
– Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
– Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
– Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta… (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa. Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội lỗi.
Trong ngày lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục mỗi người: “Anh em là ánh sáng cho thế gian” (Mt 5, 14). Thế gian tăm tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân thật.
Đang khi nhân loại sống hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm tốt.
Sở dĩ người ta không nhận ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi người…” ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
CHIỀU RỘNG CỦA ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai cao điểm:
– Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
– Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy (12×12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục. Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại không?
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
ANH EM HÃY VUI MỪNG HỚN HỞ VÌ PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO ANH EM TRÊN TRỜI THẬT LỚN LAO- Lm Nhân Tài
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
CHƯ THÁNH, CÁC NGÀI LÀ AI- Trích Logos B
Trong ngôi thánh đường nổi tiếng nọ ở nước Ý, người ta thuê một họa sĩ trứ danh vẽ một bức tranh chân dung thánh Phanxicô Assisi thật lớn. Khi họa sĩ bắt đầu vẽ, thì một tu sĩ Phanxicô đến góp ý : “Xin họa sĩ lưu ý, thánh Phanxicô không có râu đâu, xin vẽ cho đúng sự thật”. Vị họa sĩ hứa sẽ vẽ đúng như vậy.
Hôm sau, một tu sĩ Phanxicô khác thuộc ngành Capuxinô lại đến gợi ý : “Thánh Phanxicô của chúng tôi có râu đầy đủ, nhớ vẽ cho đúng”. Thế là cuộc tranh cãi xem thánh Phanxicô có râu hay không có râu đã nổ ra giữa hai phe. Vị họa sĩ rất bối rối không biết vẽ thế nào. Cuối cùng họa sĩ đã nghĩ ra một cách để làm vừa lòng mọi người.
Ngày khánh thành bức tranh đã đến ! Hai phe tu sĩ đều tham dự. Bức màn che bức tranh từ từ hạ xuống… Trên khung bức tranh, thánh Phanxicô từ từ xuất hiện: ngài nằm dài, trên mình đắp chiếc mền trông có vẻ đang ốm liệt. Oái oăm thay, chiếc mền ấy lại kéo lên tận sống mũi, khiến không ai biết vị thánh nghèo có râu hay không có râu. Cả 2 phe tu sĩ dòng Phanxicô đều hài lòng !
Câu chuyện hài hước và dí dỏm trên đây cho chúng ta thấy vẽ chân dung của một vị thánh trên khung vải đã là một điều khó, họa lại cuộc đời của các ngài trong cuộc sống của chúng ta hôm nay lại càng khó hơn. Trong ngày mừng kính các thánh nam nữ, chúng ta thử phác họa đôi nét chấm phá về dung mạo của các ngài.
Chư thánh, các ngài là ai ?
Trước hết các thánh nam nữ trên trời là những người hoàn toàn giống chúng ta. Các ngài cũng là những con người với những yếu đuối lỗi lầm và những giới hạn cơ bản của kiếp người. Các ngài cũng được sinh ra trong một gia đình, có một tổ quốc và thuộc về một dân tộc. Các ngài là người phàm ở giữa chúng ta, chứ không hề là một “siêu nhân”.
Các ngài thuộc mọi giai cấp và mọi lứa tuổi. Các ngài có thể là những cụ ông, cụ bà cao niên, nhưng cũng có thể là những em bé, thậm chí các ngài cũng có thể là những hài nhi. Các ngài là giáo hoàng, là hồng y, là giám mục, là linh mục hay tu sĩ. Tuy nhiên, các ngài cũng có thể là một giáo dân tầm thường, thậm chí các ngài xuất thân từ tầng lớp bình dân, hay có khi là một nô lệ. Các ngài là vua chúa giàu sang hay trí thức, nhưng cũng có thể là những người nghèo khó và thất học. Các ngài là những người đạo đức thánh thiện, nhưng cũng có khi là người tội lỗi thấp hèn. Các ngài làm những việc lớn lao phi thường, nhưng có khi chỉ là những người “vô danh tiểu tốt” ít ai biết đến.
Điều đó cho chúng ta thấy : ơn gọi nên thánh không dành riêng cho ai, nhưng đó là con đường chung dành cho mọi người, như lời Chúa Giêsu mời gọi : “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Công đồng Vaticanô II cũng lập lại ý tưởng đó : “Mọi kitô hữu dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11, 3).
Chư thánh, các ngài đã làm gì ?
Thánh Gioan trong sách Khải Huyền đã phác họa dung mạo và việc làm của các thánh nam nữ thật xác đáng : “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. Đúng thực, các thánh nam nữ là những con người “bình thường” nhưng đã sống một cách “phi thường”. Sự “phi thường” ở đây không phải là các ngài làm những việc trổi trang nhằm lưu danh hậu thế. Nhưng việc “phi thường” mà các Ngài đã làm là bước theo con đường “đau khổ lớn lao”, nhất là đã chấp nhận hy sinh mạng sống, nghĩa là dám “giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”.
Mỗi vị thánh đi theo một con đường nên thánh riêng. Những con đường nên thánh trong Giáo Hội thật đa dạng và phong phú. Mỗi vị thánh mang một dung mạo khác nhau. Tuy nhiên, tất cả mọi con đường đều dẫn tới đỉnh đồi thập giá và mọi dung mạo của chư thánh đều họa lại dung mạo đau khổ của Đức Kitô. Có những vị thánh sáng chói trên ngai tòa tử đạo. Có vị thánh đã chết thay cho người khác. Nhưng cũng lại có những vị thánh sống âm thầm lặng lẽ trong bốn bức tường tu viện. Có những vị thánh làm được những việc trọng đại và lớn lao trong Giáo Hội. Nhưng cũng có những vị thánh chỉ với lời cầu nguyện và sự hy sinh nhỏ bé đã làm thay đổi biết bao con người. Tuy nhiên, ở nơi các ngài luôn có một “mẫu số chung” : các ngài đã can đảm và trung thành đi theo con đường đau khổ, để rồi ở cuối con đường đó là vinh quang bất diệt dành cho các ngài.
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu, đã phác họa con đường của “Tám Mối Phúc Thật”. Đó là những con đường mà thế gian từ khước và chối bỏ, vì những con đường đó luôn mang dấu ấn của sự đau khổ. Tuy vậy, đó lại là những con đường ngắn nhất dẫn đến hạnh phúc đời đời. Đó là những con đường các thánh nam nữ đã đi và hôm nay đang mở ra để mời gọi chúng ta tiếp bước. Chỉ khi nào đi trên những con đường đó, chúng ta mới tìm được hạnh phúc và vinh quang đích thực.
Nên thánh, con đường của mọi người
Một ngày nọ, những người Mỹ đến nói với Mẹ Têrêxa Calcutta : “Hình như Giáo Hội sắp phong thánh cho Mẹ đấy !”. Mẹ Têrêxa đã trả lời cách hóm hỉnh : “Cứ để tôi chết cái đã !”.
Lần khác, một phóng viên đã đặt cho Mẹ Têrêxa một câu hỏi hóc búa : “Mẹ nghĩ sao, khi người ta nói rằng Đức Giáo Hoàng sẽ phong thánh cho Mẹ ngay sau khi Mẹ chết ?”. Mẹ Têrêxa bình tĩnh trả lời : “Việc nên thánh đâu phải là việc của riêng tôi, mà là của tất cả mọi người”.
Câu trả lời tuyệt vời của Mẹ Têrêxa đã trình bày được một đòi hỏi cơ bản dành cho mọi kitô hữu : đó là mỗi người kitô hữu dù ở bậc sống nào cũng phải mang khát vọng nên thánh. Chúng ta không bị bắt buộc phải đi theo con đường nên thánh nào. Nhưng tùy vào bậc sống, tùy hoàn cảnh, chúng ta lựa chọn con đường nên thánh của riêng mình. Tuy nhiên, tất cả mọi con đường nên thánh đều phải mang “dấu thánh giá” và đều dẫn đến đỉnh đồi Canvê.
Hôm nay, chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt của các thánh nam nữ để thấy được rằng : khuôn mặt của các ngài đã phản ánh dung mạo của Đức Kitô, dung mạo mà chúng ta phải họa lại từng ngày trong đời sống chúng ta. Với quyết tâm nên thánh, mỗi ngày chúng ta hãy lập lại lời thánh Augustinô : “Ông nọ bà kia nên thánh, còn tôi, tại sao không ?”.