CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
THÁNH LỄ BAN NGÀY GIÁNG SINH 2017
Bản văn các bài đọc Lễ Ban Ngày. 5
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. 19
Lời ngỏ của Tình Yêu – Ga 1,1-18. 27
Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18). 37
Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18). 40
Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18). 42
giáng Sinh: Nhập thể (Ga 1, 1-18). 45
Giáng Sinh: Hoà Bình (Ga 1, 1-18). 47
Tại sao Thiên Chúa làm người?. 50
Thiên Chúa làm người để con người làm con Thiên Chúa. 53
Ngôi LỜI Tự Hủy Để Nên Người Phàm.. 56
Bản văn các bài đọc Lễ Ban Ngày
BÀI ĐỌC I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Đáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c) .
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. – Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. – Đáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! – Đáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Đấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!” Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! – Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 1-18 hoặc 1-5. 9-14
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”.
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Đó là lời Chúa.
LỄ GIÁNG SINH
Chú giải của Noel Quesson Ga 1,1-18
Đối với tất cả mọi người, Kitô hữu hay không, lễ Giáng sinh là “hang đá”, những mục đồng, Maria, bé Giêsu. Tất cả đều đúng. Đấy là Tin Mừng của Thánh lễ Nửa Đêm, và Thánh lễ Bình Minh, do Luca viết. (Chúng ta đã bắt đầu Tin Mừng này trong hai cuốn sách trước, các năm B và C). Nhưng hôm nay, huyền nhiệm quá phong phú đến nỗi cần có nhiều Tin Mừng là để giúp chúng ta đi sâu hơn trong biến cố đã làm thay đối bộ mặt trái đất, và đang làm rung động lại gần hai nghìn năm sau, các dàn ông và đàn bà thuộc mọi đất nước trên thế giới: Một hài nhi sinh ra. Chúng ta cũng đọc Lời tựa của Thánh Gioan (Thánh lễ Ban Ngày)
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu Người vẫn hướng về Thiên Chúa
Đức Giêsu sinh ra tại Bê-lem, có ngày tháng có nơi chỗ. Nhưng trước đó, lại đã có một sự sinh ra khác, trước khi thời gian bắt đầu. Thánh Gioan, chỉ qua một cái nhảy, đã đưa chúng ta tới “lúc bắt đầu của thế giới”. Và chúng ta tuyên xưng theo kinh Tin Kính của đức tin chúng ta: “sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn thế kỷ, người là Thiên Chúa, Thiên Chúa thật, sinh ra bởi Thiên Chúa thật”. Để nói về huyền nhiệm này, Gioan sử dụng từ “Ngôi Lời” hay “Lời”. Qua từ này Gioan gợi lên cho ta thấy rằng nới Thiên Chúa, có một thứ “đối thoại”: nói chúng ta cũng thế, trước khi hiện ra bên ngoài, trước khi được phát hiện ra, lời nói của chúng ta đã có bên trong chúng ta, dưới hình thức một tư tưởng, một cuộc nói chuyện bên trong. Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa, sẽ tỏ Thiên Chúa ra”, sẽ làm chúng ta trông thấy Thiên Chúa… bởi vì trước hết, người là tư tưởng của Thiên Chúa, và là chính Thiên Chúa.
Trước khi sinh ra bên ngoài, trước khi tỏ mình ra trong hang đá Bêlem, Ngôi Lời đã có trước bên trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi ngắm nhìn Đức Giêsu sinh ra dưới trần này, ta đừng quên rằng chính, Thiên Chúa tự mạc khải mình ở đó: “Ai thấy ta, là thấy Chúa Cha” (Ga 12,45 – 14,9).
Hài nhi hang đá nói gì cho tôi? Có phải đó là Lời nào cho tôi? Người mạc khải điều gì cho ta về Thiên Chúa?
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành.
Sau sự sinh ra đời đời của Ngôi Lời Thiên Chúa, đây là điều gợi cho thấy về “sự sinh ra thế giới”. Nhờ Người vạn vật được tạo thành và không có Người không có gì được tạo thành. Sự biểu hiện đầu tiên của Thiên Chúa chính là sự sáng tạo của Người. Vũ trụ nói cho ta biết Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nói với chúng ta về Đấng Sáng tạo. Khi nhìn các tinh tú, bông hoa, trái đất, những kỳ diệu hạt nhân, và các tế bào sống, khi nhìn người đàn ông và người đàn bà, khi nhìn một hài nhi, khi nhìn cuộc sống và ánh sáng… chúng đã có thể cho ta một ý tưởng về Thiên Chúa.
Nếu Người tự biểu hiện, thì Người đã thông truyền một cái gì đó của Người vào trong cái Người sáng tạo. Và một cách tuyệt đối, “không gì” có mà không ở ngoài Người… Đức Giêsu là người sinh ra đầu tiên của tất cả các tạo vật.
Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
Sau sự sinh ra đời đời và sự sinh ra thế giới, thì đây, theo những nhân chú giải hay nhất, “sự sinh ra công cuộc cứu độ sự sống và ánh sáng của lời người”. Dịch thuật tốt nhất có lẽ là cách dịch này: “Cái gì được tạo thành nơi Người, đó là sự sống, và sự sống là ánh sáng của con người…”. Quả thế từ “sự sống”, trong Thánh Gioan, thực sự luôn luôn có nghĩa là cuộc sống vĩnh cửu, “cuộc sống siêu nhiên”, cuộc sống Thiên Chúa, và không phải là cuộc sống tự nhiên: “Cái gì được tạo thành nơi Người, chính là sự sống”. Đấy là công trình của Đức Kitô: cuộc sống đích thực duy nhất cho con người, chính ở nơi Người, trong sự sinh ra của Người ngày lễ Giáng sinh, trong những lời Người, trong các phép lạ của Người, trong sự chết và sự sống lại của Người. Như thế, trong năm tiết đầu tiên, Gioan đã thảo phác cho chúng ta một bức tranh vĩ đại về dự định của Thiên Chúa: Chúa Ba Ngôi, Sáng Tạo, Cứu Độ. Từ muôn thuở, từ bên trong huyền nhiệm tình yêu của Người, Thiên Chúa mơ ước làm cho chúng ta chia sẻ cuộc sống riêng của Người.
Sáng tạo là một công trình Thiên Chúa hóa tuyệt vời: Đấng hằng sống đã dự định sáng tạo ta những hữu thể hằng sống, và bóng tối không thể chặn được ánh sáng, cái chết và cái xấu không thể có ánh sáng. Giáng sinh! Giáng sinh! sự sống! Ánh sáng!
Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
Trở thành quá cao siêu trong chiêm niệm, tác giả Tin Mừng thứ tư đi lại từ dưới thấp. Bởi vì, trong câu truyện bắt đầu hôm nay, ông muốn kể về chính lịch sử của Đức Giêsu. Thế mà Đức Giêsu, chính là một sự kiện lịch sử không thể phủ nhận được, đã được chuẩn bị do lời rao truyền của Gioan Tẩy Giả. Ông này chỉ là một người. Ông không phải là ánh sáng (và tác giả Tin Mừng nhấn mạch đến điều này, để không một người nào có thể lạm chiếm địa vị của Thiên Chúa, hay của Đấng Mêsia).
Nhưng rõ ràng Thiên Chúa cần con người. Đức Giêsu đã cần Gioan Tẩy Giả. Và để sinh ra ngày Giáng sinh, người đã cần đến Đức Maria. Khi quyết định “tạo dựng” loài người, có trách nhiệm và có tự do, như một người chia phần trước mặt Chúa, Chúa đã đóng vai loài người. Bình thường, không ai có thể đến với đức tin nơi Đức Giêsu Kitô một cách trực tiếp, mà trước hết thông qua những trung gian con người, qua những môi giới, những chung nhân… nghĩa là qua những người nam và người nữ chuẩn bị trước con đường ánh sáng.
Này bạn, bạn mừng lễ Giáng sinh hôm nay, bạn có phải là chứng nhân của lễ Giáng sinh không? Cuộc đời của bạn có mang cùng một sứ điệp như của Đức Giêsu trong máng cỏ không?
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
Chỉ một mình Đức Giêsu mới tỏ cho chúng ta biết cái nền tảng của các sự vật. Ý nghĩa quyết định của tất cả.
Trong ngày lễ Giáng sinh, ngày mà nhiều người không có thói quen đến nhà thờ, thì ngày hôm nay đã đi vào đó, điều tốt là ta nên nghe Thánh Gioan nói lại với chúng ta rằng sự kết hợp sáng lạng của Ngôi Lời: lan tỏa đến hết mọi người không trừ ai… Vâng Thiên Chúa nói với cõi lòng của mọi người, bằng một cách mà chúng ta không biết.
Đúng thế, lễ Giáng sinh nói với cõi lòng mọi người. Một làn sóng của lòng nhân ái đổ tràn trên thế giới trong những ngày này. Mỗi người cảm thấy trong đáy lòng mình tiếng gọi phải yêu mến nhiều hơn. Thiên Chúa bị che khuất không ở xa mỗi người chúng ta, bởi vì người là ánh sáng nhỏ bé này thỉnh thoảng chiếu sáng cuộc đời tăm tối của chúng ta.
Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Tất cả Tin Mừng Thánh Gioan đầy tính cách nước đôi đáng khiếp sợ này: trước mặt Đức Giêsu, có những kẻ theo Người , và những người khước từ…có những người tin và những người không tin. Bạn mừng lễ Giáng sinh hôm nay, bạn có làm một hành vi đức tin, mà ở đó, bạn có đi thêm một bước nữa theo Đức Giêsu không? Chúng ta có tật hỏi mình có nhận biết Thiên Chúa trong cuộc đời mọi ngày của chúng ta không?
Chuyện đó không hiển nhiên. Điều đó không dễ dàng: “những người nhà của người đã không nhận biết Người…”. Thập giá đã hiện lên trên máng cỏ, được làm cũng bằng chính thứ gỗ đau khổ: con người khước từ tin vào Tình yêu, và thế là khước từ sự sống và ánh sáng..
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể hoặc do ý muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.
Như thế trong cùng một bản văn, chúng ta được Chúa mạc khải “sự sinh ra đời đời” của Ngôi Lời, Gioan cũng cho chúng ta biết rằng chính ta, ta có hai sự sinh ra: chúng ta được sinh ra cho loài người phải chết và bị giới hạn bởi cha mẹ chúng ta, “bởi ý chỉ con người”, bởi xác thịt và bởi máu, và chúng ta biết rõ tính mong manh liên hệ với thân phận con người của chúng ta… Nhưng đức tin cho chúng ta thấy một sự sinh ra, thuộc về Thiên Chúa; chúng ta sinh ra bởi Thiên Chúa… như thế có một cuộc sống Thiên Chúa ở nơi chính giữa hữu thể mong manh của chúng ta, và cuộc sống này là đời đời như Thánh Gioan không ngừng nói lại (Ga 3,15 – 3,36 – 4,14 – 4,36 – 5,24-39 – 6,27 – 40,47 – 54,68 – 10,28 – 12,25-50 – 17,2-3).
Thế thì điều kỳ diệu, chính là, theo cách giải thích sâu xa nhất về câu nói của Thánh Gioan, có ở tất cả mọi người, như thể hai mức độ sinh ra của Thiên Chúa, mà Gioan dùng hai kiểu nói sinh ra từ Thiên Chúa… con cái Thiên Chúa
1.”Sinh ra từ Thiên Chúa”, mọi người đều ở trong tương quan đầu tiên về con cái với Người. Không có người đàn ông hay đàn bà nào lại hoàn toàn ở ngoài đời sống mà Thiên Chúa đã ban cho. Như thế cũng không bao giờ có con người hiện hữu mà không có Thiên Chúa ở đó. Thánh Phaolô nói rõ tư tưởng này: những người ngoại giáo, không biết Chúa, cũng từ Chúa mà sinh ra và có thể được cứu thoát trong khi họ thực thi “luật lệ được ghi trong dòng họ” (Gr 1,33; II Cr 3,2-3). Vâng, Thiên Chúa muốn cứu thoát tất cả những ai sinh ra từ Người, và Người ban cho họ ơn cứu độ trong khi giúp họ sống theo lương tâm của họ (Rm 2,14-16).
2.”Con cái Thiên Chúa”, chính là một giai đoạn khác, dựa trên giai đoạn trước: người ta trở nên con Thiên Chúa nhờ đức tin khi người ta tin vào danh Đức Giêsu. Và ở đây chúng ta có cách nói rất mạnh mẽ mời gọi những người của Thiên Chúa đã sống một cách ẩn tàng, trở nên những con cái của Người một cách rõ ràng nhờ tình trạng dự tòng và thanh tẩy, nghĩa là bằng cửa ngõ rõ ràng gia nhập Giáo Hội, người dân hữu hình của con cái Thiên Chúa.
Tại sao biết bao người đàn ông và đàn bà, trong ngày lễ Giáng sinh này, bỗng chốc lại muốn “trở lại vào nhà thờ”, dù ít khi đến đó? Tại sao họ đến mừng lễ Giáng sinh? Phải chăng họ không tự cảm thấy điều thánh Gioan nói ở đây sao? Phải chăng ở đáy lòng mỗi người không có một ước muốn thầm kín: nếu điều đó là thật sao? Nếu sự thật là chúng ta chỉ là những con người phải chết… nhưng trong chúng ta có một sự sống đời đời chăng?
Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con một đầy tràn ân sủng và sự thật
Này đây chúng ta được dẫn trở lại một cách rất cụ thể đến với hài nhi Bê-lem: trong hang bò lừa, trên rơm rác nghèo hèn của con người giống như chúng ta, chúng ta có thể chiêm ngắm “xác thịt” mà Người đã nhận. Vâng, Người đã trở nên mong manh để ban cho chúng ta tính đời đời của Người… Người trở nên phải chết, để ban cho chúng ta tính bất tử của Người người trở thành người để chúng ta trở thành “những Thiên Chúa”, nhử các giáo phụ của Giáo Hội sơ khai đã dám quả quyết như thế. Ở thế giới đã tỉnh ngộ và trải qua cơn khủng hoảng xã hội, nơi mà dường như tất cả đều sụp đổ Thánh Lêon vào thế kỷ IV, chính lúc mà Attila và những quân man di của ông vây hãm nền văn minh Rôma, đã kêu lên trong một bài giảng ngày lễ Giáng sinh: “Oi người Kitô hữu, hãy nhận biết phẩm cách của người, và sau khi đã được làm cho dự phần vào thiên tính, chớ quay trở lại sự thấp hèn ban đầu của ngươi, qua cách ứng xử bất xứng của nòi giống ngươi”.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, Người Con độc nhất. Khi nãy, để nói về chúng ta, Gioan đã dùng những từ “tekna Théou”, “con cái Thiên Chúa”. Nhưng ở đây Người dùng những từ dành riêng cho Thiên Chúa: “Uios Théou”, Con (trai) Thiên Chúa. Tính chất con của Đức Giêsu là “độc nhất”. Và để gợi ý cho chúng ta biết về huyện nhiệm mà chỉ có đức tin mới giới thiệu cho ta, ở đó, Gioan dùng một thuật ngữ rõ ràng và có tính mạc khải “eskenoisei” “người đã ở”…mà đáng lẽ ta nên dịch là: “người đã dựng lều” giữa chúng ta. Từ Hy Lạp này đã được dùng trong Bản Bảy Mươi, bản dịch Hy Lạp của Cựu ước để dịch khái niệm Do Thái “Shekinah”, “nhà ở của Thiên Chúa” nơi dân Người… cái “lều của Thiên Chúa” với dân Người ở sa mạc… rồi cái Đền Thờ Giêrusalem, nơi hiện diện thực sự, nơi Vinh Quang của Thiên Chúa.
Chính từ nay trở đi “nhục thể” của hài nhi Bê-lem là nơi này.
Ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người, ông tuyên bố : “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”
Trong đoạn thứ hai về Gioan Tẩy Giả này, tác giả khởi đi lại đến một làn sóng mới trong tư tưởng của ông theo vòng xoáy tròn ốc đi lên, đi lên mãi.
Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng của Cựu ước, người cuối cùng trong các ngồn sứ, khẳng định lại sự khác nhau về bản tính giữa ông và Đức Giêsu: chúng ta sinh ra trong thời gian, Đức Giêsu sinh ra trước thời gian. Chúng ta được ban cho một sự “Thiên Chúa hóa” làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa… nhưng Đức Giêsu là Thiên Chúa từ đời đời trước tôi đã có Người.
Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế lề luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môisê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.
Lịch sử của Thiên Chúa với loài người là một công trình sung mãn, Tình yêu dạt dào từ ơn này đến ơn khác, tình yêu cho không này đến tình yêu cho không khác, quà tặng này đến quà tặng kia. Luật ban cho Môisê, và tất cả cuộc phiêu lưu của Do Thái xưa, đã là một lịch sử kỳ diệu về tình yêu, lịch sử về Giao ước: hai từ “ơn huệ và sự thật” cho thấy đặc tính hành động của Thiên Chúa là từ đời đời. Nhưng nơi Đức Giêsu thì tràn đầy, có thể nói như thế: đó là sự sung mãn. Loài người, từ nay, có tràn đầy Thiên Chúa! Nơi Đức tin của Đức Maria, gương mẫu của tất cả mọi tin hữu sau này, loài người, tràn đầy Thiên Chúa, sẽ sinh ra Người trong cung lòng của chính mình.
Và ngày nay như muôn thời gian, “toàn thể tạo vật những ngong ngóng chờ đợi ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người… và quằn quại rên la như sắp sinh con” (Rm 8,18-22). Vâng hôm nay, trong lễ Giáng sinh này, ân huệ và sự thật đến, nhờ Đức Giêsu Kitô, đang sinh ra trong cõi lòng nhân loại.
Thiên Chúa chưa có ai thấy cả; nhưng Con Một vồn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
Vĩ đại biết bao, tình yêu này của Thiên Chúa? Người biết mình siêu việt, vượt trên tất cả mọi thụ tạo. Người không thể được xem như một trong những vật thể trên thế gian này. Nhưng người đã nhập thể nơi Đức Giêsu. Và trong khi nhìn ngắm Đức Giêsu, chúng ta có thể đoán biết Thiên Chúa bị che khuất là gì.
Trong khi lắng nghe Đức Giêsu, chúng ta có thể biết Thiên Chúa lặng lẽ này nghĩ gì và muốn gì…
Đây là lời tựa “của Tin Mừng theo Thánh Gioan, sẽ hòa điệu với tất cả những gì theo sau: nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa nói với con người, người bộc lộ bí mật của Người và huyền nhiệm của Người. Ai yêu mến, dù người đó là Kitô hữu hay không, đều được hợp nhất với Thiên Chúa và sinh ra từ Thiên Chúa…Nhưng ai tin vào Chúa Giêsu thì vào trong chốn sung mãn mới, bởi vì người biết Thiên Chúa và trở nên con của Người.
Lạy Chúa trong ngày lễ Giáng Sinh này, xin cho chúng con thuộc về chân trong, thuộc về Giáo Hội của Người, nhờ tình yêu của cuộc sống dâng hiến, và cũng cho chúng con, một cách rõ rệt và hữu hình, thuộc về Giáo Hội của Người nhờ nhiệm tích Thanh Tẩy và Thánh Thể
LỄ BAN NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Một bài thánh ca thay cho lời tựa.
Mátthêu mở đầu tác phẩm của mình bằng “Cuốn Sách Gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham”. Luca mở đầu “Bài tường thuật về những điều đã thực hiện giữa chúng ta” (1,1) của ông bằng một trình bày thứ tự về một vài tình tiết cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu: cuộc đời Đức Kitô cùng một lúc được Luca đưa vào đó để giới thiệu trước. Máccô, như ta biết ở Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng – lại thích đặt cho cuốn sách của ông cái danh hiệu rất ý nghĩa này: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Còn Gioan như trổi lên khúc nhạo dạo đầu cho Phúc Âm của ngài bằng Lời Tựa mang hình thức một bài thánh ca, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đã được cộng đồng của Gioan hát trước khi được đem vào làm lời tựa cho Phúc Âm thứ tư. Theo kiểu cách “dạo đầu” của một bản giao hưởng – hay đúng hơn theo cácb thức chuyển động nhịp điệu để chuẩn bị kết thúc – bài thánh ca này phối trí các chủ đề một cách rất cô đọng.
Alain Marchadour giải thích, “Khi tìm nhập đề cho sách Tin Mừng của mình, Gioan đã chọn và thích ứng bài thánh ca để làm nhập đề trình bày lần lượt những chủ đề chính của
Tin Mừng, tựa như phần nhạc dạo đầu của một vở nhạc kịch vậy: Đức Giêsu mà Tin Mừng sắp kể lại thân thế và sự nghiệp khi sống giữa nhân loại, được tác giả trình bày đi từ lịch sử và cuộc sống trần gian để tới cội nguồn của Người. Người là Ngôi Lời đã có từ khởi thuỷ và mật thiết với Thiên Chúa đến độ nhà thi sĩ, tác giả của bài thơ quả quyết rằng Người là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt ra ngoài phạm vi dân Israel, vì Người là Đấng tác tạo, là Sự Sống và Ánh Sáng cho hết mọi người sinh ra ở trần gian này. Việc xuống thế nhờ mầu nhiệm nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời đi vào lịch sử, quyết định gặp gỡ con người và dân Do Thái: từ đó phân ra hai loại người: kẻ thì từ khước như dân Do Thái, người thì đón nhận: đó là cộng đoàn Kitô hữu. Bài thánh ca này kể lại với một vẻ trang trọng hành trình của Ngôi Lời, từ nơi Người là Thiên Chúa (1-2), đến với loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11), rồi nhập thể, (14) cho đến khi trở về với Thiên Chúa, vì Người vốn ở trong cung lòng Đức Chúa Cha” (“Tin Mừng thánh Gioan”, Centurion, 1992, trg 31).
- …để tán dương hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa:
Chúng ta sẽ lần lượt đi vào từng câu để thấy cách quảng diễn của bài thánh ca.
– Xuất xứ huyền nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi lời tác tạo:
+ Hai từ đầu tiên “khởi đầu” nối kết việc Đức Giêsu đến, với những chương đầu của sách Sáng Thế. Như thế Đức Giêsu được đọc lại từ khởi đầu của mạc khải: trải dài suốt sách Tin Mừng, Người sẽ được trình bày như “thành quả của mọi mạc khải, là Đấng mạc khải tối cao, là ân huệ cuối cùng của
Thiên Chúa, là con đường duy nhất có thể đưa đến ơn cứu độ, là dung mạo Thiên Chúa ở giữa loài người” (A. Marchadour, Sđd, trg 34).
+ “Ngôi Lời Thiên Chúa” (từ để chỉ Ngôi Hai Thiên Chúa, chỉ có trong Tin Mừng Gioan thôi) trước hết được giới thiệu là có trước từ đời đời, vô cùng mật thiết với Chúa Cha, khác biệt với Chúa Cha, có cùng bản tính Thiên Chúa: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Rồi bài thánh ca tán dương công trình tạo dựng vũ trụ của Đấng là Lời vĩnh hằng của Thiên Chúa: “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời Ngôi Lời ban sự sống cho thế gian và cho thế gian hiện hữu.
– Ngôi Lời Thiên Chúa là Ánh Sáng và Sự Sống cho
mọi người.
Mặc dầu vẫn hướng về Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, Ngôi Lời từ đời đời vẫn có một tương quan độc đáo với loài người. người không chỉ là Đấng tạo thành; Người ban “Sự Sống” và “Ánh Sáng”; Người không chỉ là nguồn mạch mọi sự sống; việc Ngôi Lời hiện diện giữa loài người mang lại hoa trái là biểu lộ và thông ban sự sống siêu nhiên cho con người. Ngôi Lời cũng là Ánh Sáng, không phải ánh sáng vật chất của vũ trụ mà là ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng siêu nhiên soi sáng và hướng dẫn mọi người.
+ Chứng của Gioan Tẩy Giả.
Tương phản khác thường với vẻ trang trọng của những câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả lên sân khấu: “Có một người…”.
Ánh sáng đến trong thế gian có người làm chứng đi trước: Gioan con ông Dacaria. Ông này được nên cao cả là vì đã được Thiên Chúa sai đến và đã nhận lãnh sứ mạng làm chứng cho Ánh sáng; với tư cách là Tiền Hô, ông đưa người ta đến với niềm tin vào Đấng là Ánh sáng và là Đấng phải nắm giữ mọi địa vị: “Ông không phải là Ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về Ánh sáng”.
– Ánh sáng đến thế gian.
+ Nhưng khi Ánh sáng đến thế gian, thì đã vấp phải sự chống đối và khước từ của con người. Thế gian do Ngôi Lời tạo thành đã từ chối Ánh sáng, đó đã là một chuyện tai tiếng rồi: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. Còn một xì-căng-đan lớn hơn nữa, đó là: “những người nhà”, dân của Lời hứa, dân của Giao Ước “không chịu đón nhận”.
+ Thế nhưng “những ai đón nhận” là người Israel, hay không phải là Israel, “thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”.
– Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”: Gioan đã không viết là Ngôi Lời đã trở nên người; ông cao rao rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm, một từ chỉ toàn diện con người cả xác lẫn hồn, yếu đuối, mỏng giòn, hay hư nát.
+ “và cư ngụ giữa chúng ta” (dịch sát chữ là: “đã dựng lều giữa chúng ta”): đối với các độc giả của Gioan lúc ấy, kiểu nói “dựng lều” gợi nhớ ngay đến “nơi cư ngụ của Chúa” giữa dân Người. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người xưa được biểu tượng bằng Nhà Lều ở sa mạc thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, thì giờ đây được thể hiện một cách trọn vẹn và triệt để nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người (cf. Ga. 2,19-22: “… Đền thờ Người muốn nói ở đây là chính thân thể người”).
+ “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của người”: nơi con người Đức Giêsu, cộng đoàn của thánh Gioan quả quyết rằng họ đã được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là nhìn thấy một phẩm chất, một ánh rạng ngời tỏ lộ Thiên Chúa.
– Đức Giêsu Kitô đã tỏ cho thấy Thiên Chúa vô hình.
“Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
- Perron lưu ý, “Vì ở đầu bài thánh ca đã có nói về Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, nên bài được kết thúc bằng nêu lên câu “Con một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha”. Đó cũng chính là hành trình cuộc đời của Đức Giêsu như Gioan đã tóm tắt lại ở phần cuối Tin Mừng của ngài trong câu: “Biết rằng Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (13,3). Nhưng khi lên cùng Đấng mà chỉ có mình Người được biết (“Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, ngay cả ông Môsê!”), thì Người muốn đem ta theo Người: “để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (14,3).
Hơn nữa, Người còn đưa chúng ta vào đời sống riêng tư mật thiết này: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (14,23) (“Đọc Thánh Kinh” số 52, trg 34-35).
Lễ Giáng Sinh: Lễ Ban Ngày (Ga 1,1-18)
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”
Chữ “rực sáng” xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 21 lần. Theo Gioan Chúa Giêsu là ánh sáng của loài người. Hai lần Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian, lần thứ nhất sau vụ nhóm Biệt phái và Kinh sư dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình để gài bẫy Chúa (Ga 8,12). Lần thứ hai sau khi Chúa chữa lành người mù bẩm sinh (Ga 9,5). Ánh sáng ấy đến giữa loài người để họ trở thành con cái của ánh sáng: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36).
Về Chúa Giêsu là ánh sáng, tác giả Gioan đã dùng một chữ đầy ý nghĩa để mô tả. Ông bảo rằng Chúa Giêsu là ánh sáng thật. Trong tiếng Hy lạp có hai từ rất giống nhau. Chữ thứ nhất Alethes có nghĩa là thật, đối lập với chữ giả. Chữ kia là Alethinos nghĩa là có thật, hay đích thật, đối lập với không thật.
Theo tông đồ Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng đích thực, soi sáng cho loài người, trước khi Chúa Giêsu đến, đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo, một số là những tia sáng chớp loé của chân lý, một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại, một số khác nữa giống như những đốm lửa rơm dẫn loài người vào trong đêm tối rồi bỏ mặc.
Ngày nay điều này vẫn còn xảy ra, vẫn có những tia sáng mù mờ, vẫn còn những tia sáng giả tạo, và loài người vẫn bước theo chúng. Chúa Giêsu chính là ánh sáng đích thực duy nhất, là ánh sáng có thật để dẫn đường cho nhân loại.
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng thật đến cho loài người. Sự giáng thế của Chúa Giêsu giống như một vùng ánh sáng chói chang, bắt đầu buổi bình minh. Một nhà du lịch kể lại, có lần ông đến nước Ý, đứng trên ngọn đồi nhìn xuống vịnh Naples, lúc ấy trời tối đen khiến ông chẳng thấy gì cả, nhưng thình lình, một tia chớp loé lên, và mọi sự bỗng được soi dọi rõ ràng đến từng chi tiết. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài như vầng sáng chiếu dọi trong đêm tối.
- Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối nghi ngờ
Khi Ngài chưa đến, thế gian chỉ suy đoán về Thiên Chúa. Theo người Hy lạp: “Thật khó biết về Thiên Chúa, mà nếu bạn có tìm biết Ngài, thì cũng không thể nói cho ai biết về Ngài”. Với người ngoại đạo, thì Thiên Chúa đang ở trong bóng tối dày đặc không ai thâm nhập được, hoặc Ngài đang ở trong một thứ ánh sáng chói loà không ai tới gần được. Nhưng khi Chúa Giêsu giáng thế, loài người được thấy Thiên Chúa phơi bày cách rõ ràng. Bóng tối, sương mù tan biến, những ngày đoán mò đã qua, người ta không cần phải mơ ước trong sự tối tăm ngu dốt nữa, ánh sáng đã đến.
- Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối tuyệt vọng
Chúa Giêsu đã đến với một thế gian đang tuyệt vọng. Triết gia Seneca nói: “Loài người ý thức mình bất lực trước những điều cần thiết”. Họ đang trông chờ một bàn tay đưa xuống để nâng đỡ họ lên. “Họ ghét tội nhưng không lìa bỏ nó được”. Loài người bất lực, không thể làm cho mình và thế giới tốt hơn. Nhưng khi Chúa đến không chỉ đem kiến thức mà đem cả quyền năng nữa. Ngài đến không phải chỉ vạch ra con đường đúng cho nhân loại, mà còn giúp họ đi trên con đường đó. Chẳng những Ngài dạy bảo họ, mà còn có mặt trong mọi việc họ không làm nổi để giúp họ thực hiện. Bóng tối của bi quan và tuyệt vọng đã tan biến vĩnh viễn.
- Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối sự chết
Thế giới thời cổ rất sợ sự chết. Loài người luôn bị trói buộc trong xiềng xích của sự sợ chết. Cách suy nghĩ tốt nhất cho rằng chết là hết, nhưng linh hồn người ta rùng mình trước ý nghĩ đó. Tệ hại nhất khi suy nghĩ chết sẽ bị quỷ thần hành tội, tra tấn nên người ta càng sợ hãi hơn. Nhưng bởi sự nhập thế, đời sống, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, sự chết chỉ là con đường dẫn loài người đến sự sống bao la hơn. Bóng tối của sự chết chỉ là con đường dẫn đến sự sống rộng lớn hơn. Bóng tối của sự chết đã tan biến. Trong truyện của Stevenson, ông mô tả một thanh niên thoát chết một cách lạ lùng trong cuộc đấu kiếm mà chàng nghĩ mình chắc chắn sẽ bị giết, lúc ra về lòng chàng vang lên bài ca “nỗi cay đắng của sự chết đã qua rồi”. Nhờ Chúa Giêsu, nỗi cay đắng của cái chết đã qua đi với mọi người.
Hơn nữa, Chúa Giêsu là ánh sáng đã soi sáng cho mọi người được sinh ra trên đời này. Thế giới thời cổ là một thế giới khép kín, hẹp hòi. Dân Do Thái ghét người ngoài bang và chủ truơng người ngoại bang được dựng nên chỉ để làm nhiên liệu cho lửa hoả ngục. Đúng, một tiên tri cô đơn đã thấy định mệnh của dân Israel sẽ là ánh sáng cho dân ngoại (Is 42,6.49,6) nhưng đó là định mệnh mà dân Israel đã dứt khoát khước từ. Thế giới Hy lạp chẳng bao giờ mơ ước tri thức được dành cho tất cả mọi người. Thế giới La mã khinh dể các dân sắc tộc, xem họ như những loài hạ đẳng, không có pháp luật. Nhưng Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến để làm ánh sáng cho mọi người. Chỉ một mình Thiên Chúa là Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu mới có tấm lòng lớn đã để chứa toàn thể thế gian.
Lời ngỏ của Tình Yêu – Ga 1,1-18
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
Đừng thờ lầm – Ga 1, 1-18
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm – Ga 1,1-8
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18)
Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân. Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giuse và Mẹ Maria vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh hang lừa máng cỏ. Ban giám đốc và các phụ huynh rất lo âu cho các trẻ, sợ chúng diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn tiến khá lắm. Qua màn hai, người ta thấy Giuse và Maria gõ cửa quán trọ. Nhìn Giuse thì nghèo nàn, Maria thì bụng mang dạ chửa, chủ quán đưa tay xua đuổi lia lịa, miệng thao thao:
Không có chỗ, không có chỗ! Hai vợ chồng năn nỉ, với nét mặt âu sầu. Chủ quán hơi lưỡng lự, những rồi cũng đọc hàng chữ ghi trên quán: Không còn chỗ. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra một lần nữa. Và lần này hai ông bà có vẻ tha thiết nài xin. Chủ quán trẻ cũng vẫn đưa tay từ chối. Nhưng vừa bắt đầu mấy tiếng: “Tôi đã nói rằng hết… thì em không tiếp tục nói thêm được nữa. Tay em giựt xuống tấm bảng: Không còn chỗ. Và nghẹn ngào thổn thức trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà!”.
Trước cảnh bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ ra bực bội, lúng túng và cho ngưng diễn. Nhưng toàn thể khán giả đều cảm xúc ra mặt, vì cái vẻ hồn nhiên trong trắng của em bé tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh.
Tất cả mọi người chúng ta, cách nầy hay cách khác, đang đóng vai người chủ quán. Chúng ta dang rộng tay đón tiếp kẻ này, vung tay xua đuổi kẻ khác. Chúng ta hãy tự vấn lương tam để hỏi mình: Tôi có phải là người chủ quán ngày xưa, đã xua đuổi Thánh Giuse và Mẹ Maria trong đêm tịch mịch cô đơn không? Hay tôi là đứa bé tàn tật đóng vai chủ quán trong vở kịch hôm ấy? “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà”. Có lẽ chúng ta cũng treo một tấm bảng: Không rảnh, bận việc, tức là bằng những hành động thiếu tế nhị, những cử chỉ thiếu mềm mại, những giọng nói thiếu dịu dàng, làm cho người khác hiểu rằng: Ta không muốn bị quấy rầy, ta bận rộn quá hay mệt nhọc quá. Nếu chúng ta là những người chỉ ân cần đến những kẻ giàu có, những vị chức quyền, thì ta coi chừng, có khi chúng ta đã quay lưng cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, và vô hình chung, chúng ta cũng trở lưng cho cả Đức Giêsu. Vị Cứu Chúa đang nương náu trong cung lòng Mẹ. Vâng, ở đời có những hạng người giả điếc làm ngơ, không lay chuyển trước những van xin của người khác. Nhưng có kẻ lại tự nghĩ rằng mình luôn dành một chỗ cho người khác. Ước gì khi nghe đọc lại Lời Chúa: “Bà Maria bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi cõi lòng chúng ta, khỏi gia đình chúng ta.
Hơn nữa, Lễ Giáng Sinh là lễ đoàn tụ gia đình. Mỗi người cũng sẽ nói với cha mẹ: Thưa ba, thưa má, đây lòng con, ba má có một chỗ trong đó. Thưa anh, thưa chị, thưa chú bác cô dì, nếu có lần nào cháu đã ơ hờ lạnh nhạt, thì giờ đây, xin nhớ rằng, vẫn còn có chỗ nào trong lòng cháu cho quý vị. Ngoài ra, Lễ Giáng Sinh là lễ tha thứ và hoà giải. Chúng ta hãy nói với những người thù ghét chúng ta, những người không thông cảm với chúng ta rằng: “Xin hãy tha thứ những lầm lỗi của tôi, vì lòng tôi vẫn còn chỗ dành cho các bạn”.
Người ta kể rằng: Mẹ Têrêsa thành Calcutta, đã giúp trên nửa triệu người nghèo khổ đói rách, giúp họ hồi phục nhân phẩm, vì bà đã luôn luôn dành trong lòng mình một chỗ riêng cho họ.
Lễ Giáng Sinh còn là một lễ san sẻ. Vì thế mà các nước đã hấp thụ nền văn minh Kitô giáo có truyền thống chúc mừng nhau qua những thiệp Giáng Sinh, gởi cho nhau những món quà mang đầy ý nghĩa, tổ chức những buổi liên hoan, chia sẻ tấm bánh, ly rượu… Thánh Gioan đã nói: “Ngôi Lời –Con Thiên Chúa đã đến trong nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài”. Còn đối với những ai tiếp nhận Ngài thì được trở thành Con Thiên Chúa và sẽ nhận thấy vinh quang của Thiên Chúa.
Những người trong thành Bêlem năm xưa vì tham tiền tài, của cải, danh vọng; họ đã thiếu vắng tình thương, không nhận ra nỗi thống khổ của những người khách lỡ đường, đã xua đuổi anh chị em, và đó cũng chính là xua đuổi chính Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Thế nên, trong vui ngày Chúa Giáng Sinh, khi đứng trước máng cỏ, khi chiêm ngưỡng Hài Nhi mới sinh, với ánh sáng của niềm tin vào Lời Chúa, chúng ta cần khám phá ra tình yêu thương bao la của Thiên Chúa đối với con người. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa vĩ đại đến nơi cô thế, trở nên bé nhỏ để chúng ta có thể đổi mới cuộc đời, trở nên chứng nhân ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho tha nhân, để khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa và cho niềm vui của chúng ta hôm nay nên trọn vẹn.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
“Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa.” Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, “Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận.” Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, “Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý” (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, “Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?” Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
“Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy”. Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. “Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời” (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng “Xin Vâng” với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu “hết chỗ” (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ… tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt… nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
Suy Niệm Lễ Ban Ngày
(Ga 1, 1-18)
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc : Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).
Câu “Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi “, gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng : Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói : “Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…” Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo : Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: “Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó” (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại : “Người đã đến nhà các gia nhân Người” (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta “; “ Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người “quyền trở nên con cái Thiên Chúa“(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào “gen”, đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Ðấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Ðấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Ðấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Ðấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thiên Chúa làm người để con người làm con Thiên Chúa
Suy Niệm Lễ Ban Ngày
(Ga 1, 1-18)
Nhìn ngắm Hài Nhi Giêsu dưới dáng dấp của một Hài Nhi đơn sơ nằm trong máng cỏ, quả là một mầu nhiệm cao cả tuyệt vời của đức tin. Sự ra đời của Chúa Giêsu đánh dấu “thời viên mãn” đã tới. Vì tội lỗi của ông bà nguyên tổ, con người mất đi sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng nay Thiên Chúa đầy lòng từ bi đã xót thương đến sự buồn tủi của con người mà sai Chúa Con hằng có đời đời, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm người để cứu chuộc chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi.
Bằng cách sử dụng các công thức có chiều kích thần học sâu xa, thánh Tông đồ Gioan đã giải thích cho chúng ta : “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Gioan gọi ngôi vị thứ hai trong Chúa Ba Ngôi là “Ngôi Lời”, Con Thiên Chúa. Ngài còn thêm: “Và Ngôi Lời đã nhập thể làm người, và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt nơi cung lòng của Mẹ. Đấng vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Thiên Chúa đã đến cắm lều và cư ngụ giữa con người.
Đó chính là lý do ngày hôm nay chúng ta cử hành, và mừng lễ. Thật ngỡ ngàng, khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu vừa chào đời. Một Hài Nhi mới sinh ra … nhưng đồng thời Hài Nhi ấy cũng là Thiên Chúa toàn năng. Thiên Chúa làm người và giờ đây đang ở giữa chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên địa cầu để làm cho chúng ta sống trên mặt đất này trở nên con Thiên Chúa. Vì thế, toàn trái đất hãy vui mừng và hải đảo hãy hân hoan, vì ơn cứu độ đã được ban tặng cho thế giới. Như lời thánh Gioan giải thích, “phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Trở nên con Thiên Chúa ư! Thật không thể tưởng tượng được, mầu nhiệm cao vời khôn thấu này. Thánh Gioan Kim Khầu nói : “Con Thiên Chúa đã trở nên con của loài người để làm cho con người trở nên con Thiên Chúa“.
Thiên Chúa làm người. Các tác giả Tin Mừng đều chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Thiên Chúa làm người không chỉ là mượn thân xác con người, mà làm một con người thực thụ, như bao con người khác sống trong kiếp nhân sinh, chỉ trừ tội lỗi. Mầu nhiệm này diễn tả mối tương quan gần gũi giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiện Giáng sinh không chỉ là một câu chuyện cổ tích, nhưng là sự hiện diện của Thiên Chúa làm người và ở với nhân loại cho đến ngày tận thế.
Chúng ta tìm kiếm Người và khi đã tìm được thì hãy tiếp nhận Người : vì chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có ơn cứu độ ; chỉ mình Chúa Giêsu mới mang lại cho chúng ta ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và khổ đau. Vì vậy, chúng ta hãy đọc Tin Mừng, chiêm ngắm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta và cố gắng sống theo lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ thấy sự thật như thế nào khi chúng ta đang nỗ lực làm cho thế giới chúng ta đang sống ngày một tốt đẹp hơn.
Vâng, Noel Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã đến trần gian, “và những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”(Ga 1,12). Bên Hang đá máng cỏ, hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con người đích thực, để rồi nhờ đó mà chúng ta trở nên con của Đấng Tối Cao. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
LỄ GIÁNG SINH – BAN NGÀY, NĂM B
NGÔI LỜI TỰ HỦY ĐỂ NÊN NGƯỜI PHÀM
(Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-5.9-14)
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ngài đến để chiếu soi nhân loại và giải thoát con người khỏi bóng đêm tội lỗi. Thánh lễ Rạng Đông thì nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các mục đồng là đại diện cho những người bé mọn, nghèo khổ và bị loại ra bên lề. Còn thánh lễ này, Phụng Vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến sự tự hạ của Đức Giêsu khi giới thiệu Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu chuộc con người.
- Vì yêu, nên Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể
Khởi đầu Tin Mừng thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này vượt quá sự hiểu biết, suy tư của con người! Bởi vì theo lẽ thường thì hiểu sao được khi một vị Thiên Chúa toàn năng vô biên, trí tuệ khôn lường; Ngài là Đấng hằng hữu, trường cửu; Đấng tạo dựng đất trời và biển khơi; Đấng làm chủ không gian và thời gian; Đấng là nguồn mạch sự sống và mọi điều thiện hảo…. (x. Dt 1, 3; Cl 1,15). Thế mà hôm nay, Ngài lại trở nên một con người hữu hạn và chịu sự chi phối như một loài thụ tạo bình thường với những truyền thống và văn hóa của một dân tộc nhỏ bé.
Đây quả là điều rất khó hiểu đối với chúng ta!
Nhưng, theo thánh Gioan, chìa khóa để mở ra cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm cao cả này, chính là hai chữ “tình yêu”.
Vì thế, ngài viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16 ). Lúc khác ngài khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
Chính vì yêu, Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại món quà quý giá nhất là Con Một của Người. Cũng chính vì yêu, nên khi đến lượt mình, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1, 14 ). Khi trở nên một Đức Giêsu – người, Ngài cũng trở thành Đấng Cứu Chuộc, Hoàng Tử Hòa Bình, Vua muôn thủa và Ánh Sáng chiếu soi mọi người để dẫn đưa nhân loại về với nguồn sự thật và sự sống để được hạnh phúc viên mãn.
Đây là điều mà chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” ( Ga 1, 18 ), Nhờ sự mạc khải đó mà: “Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 97, 3 ).
Tuy nhiên, hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay, nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, dễ đồng lõa hơn (x. Ga 3,19). Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (x. Ga 1,11).
- Đón nhận Ngôi Lời như thế nào?
Đây là một nỗi buồn cho nhân loại. Là tấm màn đen của thế giới con người. Là cảnh buồn và ảm đạm trong một thước phim vui. Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình không chỉ mừng lễ với những đèn sao nhấp nháy, tiệc tùng linh đình và những thứ bề ngoài khác. Ngược lại, Giáo Hội không ngớt lên tiếng thúc dục mọi thành phần hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật xứng đáng, để đón nhận mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu vào trong tâm hồn của mình.
Một trong những cách thiết thực nhất thể hiện việc sẵn sàng đón nhận Chúa đến với mình, đó là mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ Maria để suy đi nghĩ lại trong lòng những gì mắt thấy, tai nghe, ngõ hầu mọi sự diễn ra trước mắt lại được ngấm thật sâu trong tâm hồn mỗi người và toát ra nơi cuộc sống. .
- Hãy làm cho Ngôi Lời của Thiên Chúa được hiện hữu nơi chúng ta
Như vậy, việc mừng Lễ Giáng Sinh đối với người Công Giáo chắc chắn không phải là mừng một biến cố hay kỷ niệm hoặc lễ hội thuần túy, nhưng ngang qua đó, làm toát lên một mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm cứu chuộc.
Chính vì vậy mà ơn cứu độ của Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Đức Giêsu đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay và lúc này.
Vì thế, nếu Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận từ chỗ vị trí là Ngôi Lời, là Thiên Chúa đến chỗ Ngôi Lời hóa thành nhục để làm người và để cứu độ con người đang lầm than tội lỗi. Thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm cho Ngôi Lời trở nên sống động và thiết thực trong cung cách sống của mỗi người.
Nói cách khác, chúng ta cũng hãy noi gương Ngôi Lời là Đức Giêsu để làm một cuộc nhập thế ngay trong môi trường, khung cảnh sống của mỗi người.
Sự nhập thế ấy ta hiểu như một sự hóa thân để từ chỗ là một người giàu sang, quyền quý trở nên người cận thân cận lân của những người ốm đau, bệnh tật, cô thế, cô thân, nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, bỏ rơi. Trở nên những người cha, người mẹ đầy yêu thương của các trẻ em mồ côi nơi góc chợ, vỉa hè, trên đường phố hay gầm cầu, công viên. Trở nên người thầy – cô giáo tận tâm, hướng dẫn, dạy dỗ để chắp cánh cho tương lai đầy xán lạn nơi các học sinh thân yêu. Trở thành người có trách nhiệm với người khác như: bảo vệ môi trường, bênh vực công lý, xây dựng công bình và loan báo sự thật trong tin yêu và hy vọng.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải làm một cuộc nhập thể khác nữa, cần thiết hơn và cấp bách hơn, đó là một cuộc nhập thể ngay trong gia đình của mình.
Nếu là người cha/ chồng nơi gia đình, thì sự nhập thể chính là trở nên người chồng, người cha mẫu mực, biết yêu thương, lo lắng, dạy dỗ con cái nên người; biết quan tâm và sống có trách nhiệm cũng như chung thủy với vợ….
Nếu là người vợ / mẹ, thì sự nhập thể chính là biết sống hiền lành, nhã nhặn, vui vẻ, vun quén cho gia đình; biết giữ hòa khí yêu thương và biết chu toàn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ….
Nếu là người con, thì sự nhập thể chính là biết ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ và thầy cô giáo; chú tâm đến việc học văn hóa, giáo lý nơi nhà trường và nhà thờ; chu toàn bổn phận hằng ngày trong gia đình….
Đây chính là kết quả của việc lắng nghe, suy đi nghĩ lại và tuân giữ Lời Chúa trong lòng như Mẹ Maria. Đây cũng chính là sống tinh thần Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu. Và, đây cũng chính là một hành trình nhập cuộc theo gương Ngôi Lời Thiên Chúa.
Giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ để cùng nhau đi sâu hơn khi cảm nghiệm và sống mầu nhiệm tự hủy của Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong Bí tích Thánh Thể sắp tới.
Đây chính là quà tặng vô giá mà Đức Giêsu không ngừng ban tặng cho nhân loại, để ai tin và đón rước thì được bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời mai sau.
Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ngài là Đấng Emmanuel, xin cho chúng con biết cảm nghiệm sâu xa tình yêu tự hủy của Chúa, để đến lượt chúng con, mỗi người cũng biết sống mầu nhiệm ấy trong cuộc đời của mình, ngõ hầu mang lại cho nhân loại niềm hy vọng, bình an và ơn cứu độ qua mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa. Amen.