CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017 – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA (*)- Chú giải Noel Quession 6
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM- Chú giải của Fiches Dominicales. 14
TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 36
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt. 48
ĐÊM ÁNH SÁNG- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 52
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B.. 55
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 55
ƯỚC MƠ ĐÊM GIÁNG SINH – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 58
KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL- Lm. Mark Link, SJ. 62
AI THỰC SỰ MỪNG LỄ GIÁNG SINH- Lm JB. Nguyễn Minh Hùng. 66
CHIA SẺ GIÁNG SINH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 69
TÌNH YÊU GIÁNG SINH- Lm. Gioan M Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 74
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH- Lm. Giuse Đinh tất Quý. 78
NHẬP THỂ, MỘT TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn 83
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG- Trích Logos B.. 89
MỘT HÀI NHI ĐÃ SINH RA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 95
ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG- Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P 102
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017 – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúa ban Con của Người cho chúng ta”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.] Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
All. All. – Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. – All.
“Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”. Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA (*)- Chú giải Noel Quession
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm” nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề” thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là “Sebastos”, có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ”. Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông “vua trần gian” như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng… để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê”.
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng “Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta” . Và những biến cố là “những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta” (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca “giải thích” biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là “cứu Chúa” mà “một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, “trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê”, giữa những người nghèo khổ, thuộc “số nhỏ còn lại”… trong “thành của Đavít”. Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di… Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới “kín mật”, một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào “những nhà hữu trách” chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: “Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai”. Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là “trinh nữ” Vậy mà, cô lại “có thai”! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là “Cha” của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta” các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, ‘đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười… Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai…
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để “nhận ra” cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra ” Từ giờ trở đi”, Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở “củng chúng ta”. Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm “trong máng cỏ”, hiện diện trong một “hang” bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha”. (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những “người chăn chiên”, trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống “ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng “quê mùa”!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ “bé mọn”, những người “nghèo khổ” những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. “Vinh quang” là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. “Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói” của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi “Truyền đạt” của Thiên Chúa đều là “Tin Mừng tin vui”. Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ “phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời “truyền đạt” của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố “giấy chứng minh” đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách “Cứu Chúa” này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự “nghèo khó” và “yếu đuối”! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của “ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM- Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Bóng tối của một sự ra đời…
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia – lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy – nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với “sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” J. Potin suy diễn thêm: “ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra” (“Đức Giêsu, lịch sử có thật”, Centurion tr. 93).
– Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem “thành của Đavid” để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ ” ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong “phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại “phòng tập thể” trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
“Sẽ soi sáng mọi đêm tối”.
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây “trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: “ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại”. những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ “hèn hạ ” (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ ” (15, 2) (“Tin Mừng thánh Luca”, Centurion tr. 38-39).
– Sứ điệp mà “các thiên thần của Chúa” mang đến cho họ là một “Tin Mừng” (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho “Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: “Đấng cứu độ”, “Đấng Mêsia “, “Chúa ” đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ “, “Đấng Mêsia” (Kitô), “Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36…) và của Phaolô (Cv 13,33…).
– “dấu chỉ” cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có”, để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu (“Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học”, Cerf, tr. 36).
– Lời tạ ơn “đột nhiên” vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự “bình an” mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền “hoà bình Rô-ma” Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
Từ Bêlem đến Phục Sinh” (A.George, trong “Assemblées du Seigneur”, số 10, tr. 6f’ 67).
“Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón… bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sựï hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, “chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan ” ( 2 C r 12, 9 ) .
“Đã 2000 năm” (Mgr. F.Favreau trong “Mùa Vọng năm 2000″, Documents ” épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Đêm Giáng Sinh tập trung mọi ánh sáng vào biến cố Giáng Sinh của Hài Nhi Bê-lem. Chính Hài Nhi này đã được ngôn sứ I-sai-a trước đó đến sáu thế kỷ loan báo là Đấng Cứu Độ của chúng ta và cũng được thánh Phao-lô sau này tuyên xưng là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta.
Is 9: 2-4, 6-7.
Bài đọc I là bài thơ chan chứa niềm hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Sáu trăm năm trước đó, vị ngôn sứ đã hân hoan loan báo cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Độ: “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu ta”.
Tt 2: 11-14.
Trong đoạn trích thư gởi cho Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là cộng tác viên của mình rằng ân sủng của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi biến cố Giáng Sinh của “Đức Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta”, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm ánh vinh quang rực rỡ của lễ Phục Sinh.
Lc 2: 1-14.
Khi thuật lại biến cố Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Vinh quang và bình an của Thiên Chúa tràn ngập cõi thế. Sứ điệp hân hoan mà các thiên sứ loan báo đã là khúc dạo đầu cho Sứ Điệp Tin Mừng cứu độ được gởi đến cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en. Bài thơ này gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Trong bài thơ này, vị ngôn sứ hoan hĩ loan báo “Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu chúng ta”, chắc hẳn trẻ thơ nầy là Đấng “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê. Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã lưu đày thành phần ưu tú của dân Ga-li-lê đến Át-sua. Ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến nỗi khốn cùng này: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…”.
Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (9: 2-4).
Nhưng vị ngôn sứ loan báo một niềm vui vỡ bờ: Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Ông phác họa một bức tranh đầy sắc màu tươi vui: niềm tủi nhục biến thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa:
“Vì mọi giày lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9: 4).
Thiên hạ sẽ không cần những quân nhu chiến cụ nữa, vì chính Thiên Chúa đích thân can thiệp để đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử. Trước đây Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn lịch sử đau thương của họ, khi họ gặp phải quân Ma-đi-an bạo tàn thống trị, Ngài đã giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (9: 6-7).
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính là:
“Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta” (9: 5).
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).
Kiểu nói: “Người con đó gánh vác quyền bính trên vai” khiến người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương hay trao vào tay tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng quyền bính nầy đều được chứng thực trong nghi lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết:
“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập. Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). Danh hiệu “Người cha muôn thuở” thường được ban cho vua, vì vua được xem như người cha của dân tộc, để cầu chúc vương triều của vua muôn năm bền vững. Ngài được gọi là “Hoàng Tử Hoà Bình”, bởi vì một trong dấu hiệu thời Mê-si-a chính là nền hoà bình viên mãn sẽ ngự trị. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy. Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên khắp xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc miền Nam, ở kinh đô Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc Bắc và Nam sẽ được thống nhất dưới triều đại vua Mê-si-a?
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau đó. Miền Ga-li-lê rực lên ánh sáng Tin Mừng. Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê, nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam xưa. Bài ca hợp xướng của đoàn thiên sứ loan tin vui cho toàn dân (Lc 2: 10) hòa chung nhịp điệu với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
Ông Ti-tô đã là một người môn đệ và cũng là bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã trở lại đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông coi sóc các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Ở đây, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông phải đương đầu với những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái chịu ảnh hưởng Hy lạp mà chính thánh Phao-lô đã từng chạm trán ở những nơi khác. Vì thế, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo đối với ông Ti-tô.
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
Thần Tính của Đức Giê-su.
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở cho ông Ti-tô biết rằng giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt, đó là ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Các Ki-tô hữu đòi buộc phải từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của “Đức Giê-su Ki tô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng danh xưng Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách thức quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường dành riêng danh xưng “Thiên Chúa” cho Chúa Cha. Việc thánh nhân dùng danh xưng này cho Chúa Giê-su chúng ta chỉ gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki-tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Vfi thế, chúng ta có thể nghĩ rằng dường như những người Do thái bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
Lợi ích của bức thư.
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì trong đó thánh Phao-lô đã đưa ra những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các vị Tông Đồ của Đức Giê-su đã lần lượt qua đời, vì thế đây là thời kỳ của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét, cũng như việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô được thực hiện trên khắp xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, những ghi nhớ về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt trong tâm trí, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn bảo tồn trong kỳ ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a cùng đi theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
Hoàn cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su.
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi không có nơi tá túc qua đêm, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán vốn hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau ồn ào náo nhiệt trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng vào những dịp như thế này chắc chắn tiền thuê rất đắt, chỉ dành cho những người giàu có.
Hai dấu chỉ cùng một lúc.
Đức Giê-su chào đời ở “Bê-lem”, nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: không chỉ trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, nhưng còn vì tình yêu, Ngài làm cho mình trở thành một tấm bánh. Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của Hài Nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ này là từ ngữ pháp lý; từ ngữ này muốn nói rằng ngoài Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a không có người con nào khác. Cách nói “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký đề cập đến trong sách Tin Mừng của mình là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (x. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến, tức dâng hiến cho Thiên Chúa và được “chuộc lại” nhờ hy lễ như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo khó). Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới, Trưởng Tử của các vong nhân. Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, như lời của thánh Phao-lô: “người anh cả của một đàn em đông đúc”.
“Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân một Hài Nhi yếu hèn và bé bỏng hoàn toàn phụ thuộc vào tấm lòng ân cần săn sóc của cha mẹ trần thế. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng, tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao nhiêu con người khác.
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách tự mình trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn nơi chính bản thân mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một phạm nhân nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (l’Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách như vậy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những người bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, dù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
Các mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở ngoài đồng và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lê-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm sinh nhật của Ngài là nhằm đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối. Ngày lễ Giáng Sinh tự gốc tích là ngày lương dân mừng thần mặt trời.
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những mục đồng, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học và bị bị khinh bĩ nhất, được liệt vào hàng tội lỗi và những kẻ thu thuế. Vì thế, Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo hèn, khiêm hạ và bé nhỏ. Những mục đồng đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài. Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”: Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những mục đồng xứ Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Tân Đa-vít.
Sứ điệp của các thiên sứ.
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên quốc đã dời chỗ từ thượng giới xuống hạ giới bởi vì Hài Nhi Máng Cỏ này không ai khác hơn là Thiên Chúa tự thân.
Các thiên sứ loan báo: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo biết bao lần (ví dụ như bài đọc I), đây thật sự khúc dạo đầu niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
Sứ điệp mà các thiên sứ gởi đến cho họ thật vĩ đại biết bao với những ngôn từ làm nức lòng người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đã ra đời trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Sứ điệp này thật tương phản biết bao với lời kết rất mực khiêm tốn nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Sự tương phản nầy tiên trưng cho một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao phủ bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của đồi Can-vê. Vì Ngôi Lời hóa thành một phàm nhân, không phải là để phàm nhân nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm rất sâu sắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10: 5-7).
Bài ca tôn vinh của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô tôn vinh của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem được trích dẫn theo cùng những ngôn từ như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
Một sự trao đổi kỳ diệu.
Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa mặc khải Thiên Chúa vừa mặc khải con người. Trong một cuộc yết kiến vào thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP
EMMANUEL hay NOEL có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hôm nay cả thế giới hân hoan mùng lễ Noel, là kỷ niệm ngày Thiên Chúa xuống thế làm người, là việc kỷ niệm Thiên Chúa hạ cố làm người để nâng con người lên làm Thiên Chúa. Hôm nay trời đất gặp nhau, hôn nhau âu yếm, tạo nên một chữ đồng. Chúa giáng trần để cứu rỗi loài người, đem con người trở lại làm con Thiên Chúa và ban cho con người tràn trề hy vọng trong cuộc sống mai hậu. Ta hãy hợp cùng Giáo hội long trọng mừng lễ đêm nay để cảm tạ Chúa về hồng ân Giáng sinh này, và xin Chúa ban cho mọi người được sựï bình an hồn xác như các thiên thần ca hát :
Thượng vinh ư Thiên Chúa
Hạ hòa ư thiện nhân.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 9,1-6.
Vì bất trung với Giao ước, dân Israel đã kéo cơn thịnh nộ của Chúa xuống trên mình : quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đầy ở Babylon. Họ trở thành “dân tộc bước đi trong u tối”, bị quân thù áp bức đủ bề.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát :”Dân tộc bước đi trong u tối sẽ được thấy ánh sáng chứa chan”. Đó là một hài nhi sẽ sinh ra cho họ. Trước mắt, hài nhi này thời đó, là vua Ezechias, nhưng thực ra vua Ezechias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này. Nội dung đầy đủ của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô mà thôi. Đây là Tin mừng mà ngôn sứ Isaia loan báo cho dân Israel khi họ còn sống trong “miền âm u của sự chết”.
+ Bài đọc 2 : Tt 2,11-14.
Thánh Phaolô viết thư này cho ông Titô có lẽ vào khoảng năm 65 trước khi thánh nhân chịu tử đạo tại Rôma. Ngài nhấn mạnh về tính chất nhưng không của ân sủng mà Thiên Chúa ban cho ta qua Đức Giêsu Kitô. Kitô hữu hãy hướng lòng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của chúng ta không dựa trên những công việc tốt lành mà chúng ta thực hiện được, nhưng dựa vào lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Trong lúc chờ đợi, Kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
Bài Tin mừng : Lc 2, 1-14.
Thánh Luca thuật lại cho chúng ta bối cảnh ngày Chúa Giáng sinh. Bối cảnh này có thể chia thành hai phần đối chọi nhau :
* Phần đen tối : lúc đó người Rôma đặt ách cai trị trên dân tộc Israel, dân chúng phải sống trong cảnh áp bức, đời sống tinh thần và vật chất gặp nhiều khó khăn, phải tuân hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền đô hộ… Gia đình Thánh gia cũng là một gia đình nghèo nàn như nhiều gia đình khác, không tìm được chỗ trọ trong hàng quán nên phải sinh Đức Giêsu nơi hang đá Be lem, nằm trong máng cỏ.
* Phần sáng chói : Chính trong sự đơn sơ khó nghèo này mà quyền năng và nhất là lòng nhân từ của Thiên Chúa được tỏ rạng. Hài sinh mới sinh này là Con Thiên Chúa. Do đó, quang cảnh ngày Giáng sinh rất rực rỡ : đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa, tiếng ca hát của muôn thiên thần vang lên trên không trung :
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Việc Đức Giêsu sinh ra đã làm đảo lộn cục diện thế giới : đen tối trở thành ánh sáng, tội lỗi sẽ được thay thế bằng ân sủng, buồn sầu sẽ trở thành mừng vui vì Đấng Cứu thể đã sinh ra.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
CHÚNG TA MỪNG LỄ GIÁNG SINH.
Ý nghĩa ngày lễ Giáng sinh.
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ không phải của một dân tộc nào ; đối với Kitô hữu , hôm nay được gọi là lễ Chúa Giáng sinh. Nhiều người không muốn dùng từ lễ Giáng sinh mà chỉ dùng chữ Noel trên các tấm thiệp cũng như trong các đèn ông sao và nơi hang đá.
Tại sao gọi là Noel ? Chính ra phải gọi là lễ Nuel mới đúng, vì từ Nuel được rút ra từ chữ Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Sau này người ta đổi chữ Nuel thành Noel. Như vậy mừng lễ Noel là mừng ngày Thiên Chúa giáng trần và ở cùng chúng ta.
Ngược dòng lịch sử : khi Ađam và Evà phạm tội bất trung, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà, nhưng đồng thời cũng hứa ban Đấng Cứu thế đến cứu chuộc nhân loại bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta , và sẽ dùng cái chết của mình trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi cho con người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria và đã được sinh ra tại hang đá Belem trong một đêm đông lạnh lẽo.
Hôm nay khắp thế giới kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần để ở cùng loài người. Loài người chúng ta hân hạnh quá vì được đồng hành với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta, nhận lấy kiếp sống phàm trần như ta để chia sẻ buồn vui với loài người và nâng cao thân phận con người lên để xứng đáng làm con Thiên Chúa.
Mừng ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay Con trẻ Giêsu được sinh ra tại hang đá Belem, mọi người đều hướng về Ngài. Vậy Ngài là ai mà quan trọng thế ? Ngài vừa là Con Thiên Chúa vừa là con của loài người. Ngài đến nối kết trời và đất, Ngài là Đấng Trung hòa. Trong Ngài trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói :Ngài thực sự là Đấng “Chí Trung Hoà”, là Đấng “Thái Hoà” thực hiện đúng lý tưởng của văn hóa Đông phương hằng mong ước.
Ngài là Con Thiên Chúa , cho nên Ngài nên một với Thiên Chúa. Ngài là con người nên hoà đồng với con người, nhận lấy thân phận khốn khổ của loài người. Chính thánh Phaolô đã giải thích mầu nhiệm này :”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó :”Cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình” (Thân văn Tường, Kitô học, tr 136).
Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Hoà”. Chững Trung O gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông Vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, sai lệch một chút nào, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu là trung tâm trời đất. Còn Chí Hoà, chữ Hoà gồm chữ hoà là lúa và chữ khẩu là miệng :
Cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực :Chí Hoà”. Thật Người là Đấng ChíTrung Chí Hoà để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn không gian, thời gian nào phân ly được nữa…(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22)
Truyện : Hoàng tử và cậu bé nghèo.
Văn hào Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một cuốn sách tiểu thuyết nổi tiếng tựa đề “Hoàng tử và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình một mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin… Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom cậu bé nghèo sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện… Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giầu lòng thương người (Lẽ sống,447)
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Người mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước hiệu làm con Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
Những Đấng Kitô ngày nay !
Chúa Giêsu đã xuống thế lần thứ nhất vào ngày Ngài giáng sinh. Ngài hứa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang của Ngài để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai, ngày nay ta thấy xuất hiện nhiều người tự xưng là Đấng Kitô, Chúa Cứu thế. Cho đến nay, đã xuất hiện 18 tân Kitô tại Ấn độï, Nga, Mỹ và Pháp và tự xưng mình là Chúa, trong đó có một nữ Chúa Cứu thế với 15 triệu tín đồ. Điên khùng hay bịp bợm, các nhà tiên tri ấy hứa hẹn với các tín đồ một thiên đàng dưới đất chăng ?
Cách đây 1000 năm, loan báo ngày tận thế sẽ vào năm 1000, phải chăng nay lại tái diễn? Trong số các Đấng Cứu thế này có Sathya Sai Baba là nổi tiếng nhất trong số các Messie hiện tại. Ông ở tuổi 68, ông Kitô Ấn độ này với kiểu tóc bờm ngựa, đã chiêu tập được 10 triệu tín đồ. Xuất hiện trước công chúng, ông ta luôn mặc cái áo dài màu cam, ngồi trên ngai và để chân lên đệm. Ông cũng làm được một vài điều lạ như đẻ ra trứng trước mặt nhiều người, chữa bệnh bằng thần giao cách cảm. Có một cặp vợ chồng người Tây phương hỏi ông có phải là Đấng Kitô đăng quang lần thứ hai không, ông ta chỉ mỉm cười.
Còn Đấng Kitô đáng chú ý nữa là Mary Davy Christ, Kitô đàn bà, người Do thái. Theo truyền thống Do thái, lại không nhận có Kitô đàn bà. Nhưng các đệ tử của Mary Davy Christ lại lý giải thật đơn giản : đăng quang lần đầu tiên Kitô là đàn ông, thì lần thứ hai để loan báo ngày tận thế, Kitô sẽ là đàn bà : chuyện đó rất đơn giản.
Đấng Cứu thế đã đến rồi và Ngài sẽ trở lại mà chưa biết ngày nào, chúng ta hãy chờ đợi. Còn những Kitô giả hiệu không được có chỗ đứng trong suy nghĩ của chúng ta : Chúng ta chỉ có một Chúa Kitô là Đức Giêsu.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA- Bài giảng của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: “Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta”.
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:”Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta”. Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Ðây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. “Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta”.
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Ðấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Ðức Nữ Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Ðấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Ðông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương”.
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh ra, Ðấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI– ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
ĐÊM ÁNH SÁNG- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng
kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Ánh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại “vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng”. Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. “Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
ƯỚC MƠ ĐÊM GIÁNG SINH – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Con người luôn có những hoài bão và ước mơ. Hoài bão về quá khứ huy hoàng. Ước mơ về tương lai tương sáng. Chính những hoài bão, ước mơ ấy đã thúc đẩy con người dấn thân để xây dựng một thế giới an bình, thịnh vượng hơn. Cho dù phải đương đầu với thách đố và hiểm nguy.
Ngày 28/8/1963, mục sư Martin Luther King đã phát biểu bài diễn văn hay nhất thế kỷ với tựa đề: “Tôi có một giấc mơ”. Ông đã nói với hơn 200.000 người, trước đài tưởng niệm Lincohn. Ông kêu gọi thực hiện sự bình đẳng giữa những người khác màu da và chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc. Nhân đó, ông đã nói về những ước mơ của mình, cũng là ước mơ của nhiều người Mỹ:
Ông nói:
Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày, trên những ngọn đồi vùng Georgia, con cái của nô lệ và chủ nô cũ có thể ngồi với nhau như anh em.
Tôi có một ước mơ, tôi mơ tới một ngày bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng sẽ không bị đối xử bằng màu da mà bằng chính thực chất con người chúng.
Diễn văn đầy nhiệt huyết của ông đã gióng lên hồi chuông, hiệu triệu và cổ vũ nhân loại đứng lên chống lại việc đối xử bất công, tàn nhẫn đối với một lớp người, vốn đã ăn sâu, bám rễ trong lòng xã hội Mỹ.
Ước mơ của ông dường như đã thành hiện thực khi mà Nước Mỹ đã bỏ phân biệt màu da. Người da đen có thể làm chính trị và thậm chí đã giữ chức vụ to lớn nhất Nước Mỹ là đương kim tổng thống Obama.
Vâng, ước mơ hòa bình, ước mơ được đối xử bình đẳng vẫn là ước mơ của con người qua mọi thời đại. Ước mơ không chỉ là một tương lai chưa đến mà là một hoài bão của con người mong được hưởng những quyền lợi mà tạo hóa ngay từ lúc tạo dựng đã ban tặng. Thiên Chúa tạo dựng ban đầu mọi sự đều tốt đẹp. Vạn vật và con người là khúc nhạc hài hòa. Con người tràn ngập hạnh phúc trong vườn địa đàng. Thế nhưng, mọi sự đã trở thành hoài bão khi mà con người quay lưng lại với Đấng tạo hóa. Con người theo ma quỷ để từ chối quyền tối thượng của tạo hóa. Hậu quả là con người sinh ra phải đau khổ và phải chết. Tệ hại hơn nữa là vạn vật đứng lên chống lại con người.
Ước mơ được sống lại giây phút ban đầu nơi vườn địa đàng đã đi vào trong lòng người qua muôn thế hệ. Con người vẫn khao khát. Con người vẫn chờ mong được sống những giây phút bình yên hoan lạc của vườn địa đàng. Lời cầu nguyện trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời dường như là một khắc khoải khôn nguôi của con người mong đến ngày trời đất giao hòa, vạn vật và con người cùng chung niềm vui vì có Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Hôm nay chúng ta tưng bừng mừng kỷ niệm việc Con Thiên Chúa xuống trần. Thiên Chúa đã đến trần gian để thực hiện ước mơ hoài bão cho con người, để giao hòa trời với đất, để trao lại cho con người quyền làm con Thiên Chúa. Từ nay Thiên Chúa không xa cách biệt con người. Từ nay Thiên Chúa chọn chốn dương gian làm ngôi nhà của mình. Thiên Chúa ở giữa nhân loại để những ai đón nhận Người thì Ngài sẽ ban cho họ ngập tràn ánh sáng của niềm vui và hạnh phúc. Bình an và hoan lạc sẽ ngự trị nơi tâm hồn những ai thành tâm thiện chí đi tìm Ngài.
Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Đây là niềm vui, niềm hạnh phúc vì nhờ cuộc viếng thăm này mà thân phận con người được đổi thay. Từ nay Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Đồng thời, khi con người chấp nhận mở lòng cho Thiên Chúa viếng thăm cũng là lúc mời gọi con người dũ bỏ bỏ thói đời tội lỗi để mặc lấy con người mới trong ân sủng của Chúa. Đó là cách chúng ta có bình an tâm hồn. Bình an là điều ai cũng khao khát chờ mong. Nhưng bình an không ở xa mà ở tại lòng người thiện chí, biết thành tâm thiện chí theo đường thiện, biết tìm kiếm Chúa là cứu cánh đời mình.
Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.
Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.
Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- NĂM B
KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL- Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người:
“Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta.
Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con”.
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?” Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Thú thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy. Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem. Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”. Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Ngài” (Ga 3: 16). Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được.
Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người “Tin Mừng” về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu. Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được” và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu.
Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu. Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa. Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Ngài biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi. Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Lúc đó, lời hứa của Ngài qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: “Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở. Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu. Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai hoạ hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương” (Is 11: 1-2, 6-9)
Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy. Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này. Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu.
Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà “hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất” và “thiện chí” toả lần đến mọi người.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
AI THỰC SỰ MỪNG LỄ GIÁNG SINH- Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến. Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ. Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa? Nếu đêm Chúa sinh ra – đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người. Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an. Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNH SINH 2017- Năm B
CHIA SẺ GIÁNG SINH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế ! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo.
Thôi, đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao ! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giê-su chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn : Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giê-su là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giê-su, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Ki-tô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giê-su Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Ki-tô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giê-su,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
TÌNH YÊU GIÁNG SINH- Lm. Gioan M Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thưa chị anh em,
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng đêm Thánh, đêm giao hòa giữa đất với Trời, đêm mà Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, đêm Thiên Chúa trở thành con người, để con người trở thành con Thiên Chúa, đêm mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong dáng dấp của một Hài Nhi. Chính vì thế, lễ giáng sinh mang nhiều ý nghĩa:
Lễ của tình yêu
Tình yêu của Thiên Chúa Cha vì yêu thương xót nhân loại lỗi lầm, nên đã trao ban người Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài, thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời (Ga 3,16). Tình yêu của Ngôi Hai Thiên Chúa đã vì yêu thương mà hạ mình nhập thể làm người trong thân phận một Hài Nhi bé nhỏ, nằm rét run trong hang bò lừa, giữa mùa đông giá rét. Chúng ta là thụ tạo thấp hèn, thì không thể nào hiểu được mầu nhiệm giáng sinh. Điều mà con người không thể làm được, thì Thiên Chúa đã làm vì yêu thương chúng ta. Vì hạnh phúc của Thiên Chúa là được ở với con cái loài người.
Lễ của niềm vui
Trước ngày lễ giáng sinh, người ta giăng đèn kết nến, làm hang đá. Thật là từng bừng náo nức. Đó đây hàng triệu sari điện được giăng lên thắp sáng trên các cây Noel, rực rỡ trong các khu xóm. Tất cả những hình thức ấy muốn diễn tả niềm vui bên trong. Đó là niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, nên Mẹ đã cất lên lời ca: “Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46).
Niềm vui lớn lao này, được các thiên thần từ trời xuống loan tin: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”, và niềm vui ấy cũng loan báo cho các mục đồng biết: “Ta báo cho anh em một Tin mừng, hôm nay Đấng cứu độ anh em đã ra đời, Ngài là Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
Ngài đến gánh lấy tội trần gian. Ngài đến mở xiềng xích trói buộc con người. Xưa kia dân tộc Do thái một thời đã lần bước trong u tối, sống cảnh lưu đầy, đêm ngày họ khao khát Đấng cứu độ đến giải thoát.
Ngày nay, phần đông nhân loại cũng bị tình, tiền, tài vây hãm, làm cho họ chỉ tìm thấy niềm vui rất đổi mau qua. Bởi vì đó chỉ là niềm vui giả tạo. Niềm vui đích thực chỉ có nơi Đấng mà thiên hạ gọi là: Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha muôn thuở, Ông Vua Thái Bình mới lắp đầy, mới làm thỏa mãn khát vọng con người mà thôi.
Lễ của quà tặng
Hằng năm, vào dịp tháng 12 đổ về, các hàng quán bày bán những đồ kỷ niệm mang tính giáng sinh rất nhiều, qua đó chúng ta thấy con người cũng muốn tặng cho nhau những món quà, kèm theo những lời chúc tốt đẹp may mắn trong dịp đại lễ và năm mới sắp đến.
Thiên Chúa Ngài cũng thể hiện tình yêu theo cách thức của con người, Ngài cũng tặng quà cho nhân loại, món quà đó không phải bằng vật chất, nhưng bằng chính Con Một của Ngài. Món quà vô giá này, được gói lại trong bao bì mang tên Maria, và được trưng bày ở siêu thị Bêlem, đúng như lời ngôn sứ Isaia nói trong bài đọc I hôm nay: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người Con được ban tặng cho chúng ta”.
Lễ của gặp gỡ
Ngoài truyền thống tết dân tộc ra, thì không có dịp nào con người đến với nhau thân tình cho bằng dịp lễ Giáng sinh. Người ta đến với nhau để chia sẻ niềm vui và những bữa tiệc ngồi bên nhau gần gũi thân thương.
Qua mầu nhiệm Giáng sinh, Thiên Chúa đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể để đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Bởi lẽ, tên của ngài là Emmanuel: nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tuy là Thiên Chúa, Đức Kitô đã không muốn xuất hiện trong vị thế của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã đến dưới dáng vẽ như một phàm nhân. Một vị Thiên Chúa quyền năng cao sang, thánh thiện, lại đến với chúng ta trong thân phận trẻ thơ nghèo khó, bé bỏng.
Ngài đến gánh lấy tội lỗi chúng ta. Ngài không đến theo kiểu thần thoại, như tiên giáng trần, như thần hóa thân. Ngài đến cắm lều ở giữa nhân loại, ở với con người, hầu minh chứng cho một cuộc tình, “Sống và chết cho người mình yêu”.
Ước gì mừng kỷ niệm Chúa giáng sinh, chúng ta hãy khơi dậy với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha đã thương tặng ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài. Noi gương Chúa, chúng ta cũng tặng quà cho nhau. Món quà mà Chúa thích nhất, cũng như mang lại ý nghĩa nhất, đó là đem ơn bình an và niềm vui của Chúa giáng sinh đến cho nhau.
Xin kính chúc quý ông bà anh chị em một đêm Giáng sinh an lành, tràn đầy niềm vui trong Chúa; và một mùa Giáng sinh trải dài chan chứa tình thương. Cầu chúc mọi người hãy là một Emmanuel khác, hiện diện một cách dễ thương và đáng yêu giữa những người đang sống chung quanh chúng ta. Amen.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH- Lm. Giuse Đinh tất Quý
Cách đây hơn hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp băng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền…..khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại cò dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai ?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sỹ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc Lamã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đới thường rời cuộc đời trần thế bằng nắm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu .
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
NHẬP THỂ, MỘT TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI- Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.” Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay. Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người.
Tin mừng được giải thoát Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4). Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được. Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”. Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
Tin mừng được cứu độ Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người…. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”. Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người.
Nhiệm vụ loan báo Tin mừng Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống. Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG- Trích Logos B
Có một bài hát giáng sinh rất quen thuộc với chúng ta và cũng rất nổi tiếng trên thế giới, đó là bài “Đêm Thánh Vô Cùng” (Silent Night). Lời ca và âm điệu của bài hát đã để một dấu ấn không phai nhòa trong lòng mọi người. Mỗi mùa Giáng Sinh, khi bài hát được cất lên, người ta có thể cảm nhận được sự thánh thiện và vẻ huyền diệu sâu lắng của đêm giáng sinh :
“Đêm thánh vô cùng,Giây phút tưng bừng. Đất với trời xe chữ đồng …”.
Bài hát này ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt. Vào năm 1818, tại một giáo xứ nhỏ bé thuộc nước Áo, vào mấy ngày trước lễ giáng sinh, dân chúng đang chuẩn bị tập hát cho thánh lễ đêm giáng sinh, thì phát hiện cây đàn Harmonium (đạp hơi) bị chuột cắn nát bộ phận đạp hơi, không thể khắc phục được. Trong tình thế khó khăn đó, vị linh mục quản xứ là cha Moises đã sáng tác một bài thơ và được ông Franz Grubert, người phụ trách thánh ca, phổ nhạc cho bài thơ để hát trong đêm giáng sinh. Đây là một bài hợp xướng 4 bè thuộc thể loại Acapella, một loại nhạc không cần đàn đệm.
Thế là bài thánh ca giáng sinh mang tên “Đêm Thánh Vô Cùng” đã ra đời một cách đơn sơ hèn mọn như cách Chúa Hài Đồng được sinh ra. Sau đó, bài hát trở thành nổi tiếng trên thế giới và tên tuổi của nhạc sĩ Franz Grubert được mọi người biết đến.
Đêm nay thực sự là “đêm thánh vô cùng”, không phải vì là đêm Chúa sinh ra. Thực ra, các sử gia chưa xác định thời gian Chúa Kitô chào đời.
Đêm nay được gọi là “đêm thánh vô cùng” cũng không phải vì quang cảnh các giáo hữu với dáng vẻ thánh thiện trong những tà áo thướt tha, những bộ quần áo đẹp đẽ, đang nô nức tuốn đến các giáo đường dự lễ. Thực ra, nhiều người đi dự lễ đêm nay mà tâm hồn đang nặng trĩu âu lo và chán chường. Đêm nay là “đêm thánh vô cùng” cũng không phải vì là một đêm tràn ngập niềm vui trên toàn thế giới. Thực ra nhiều người chỉ tìm thấy niềm vui bên ngoài, còn lòng họ thì chất chứa ưu phiền và thất vọng.
Đêm ánh sáng
Đêm nay đích thực là “đêm thánh vô cùng” vì là đêm đầy ánh sáng. Đó không phải là ánh sáng của những ngọn đèn màu rực rỡ được trang hoàng khắp nơi, nhưng là ánh sáng thần linh chiếu tỏa vào đêm tối trần gian. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai xuống thế làm người.
Đêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu. Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc và mừng vui. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang trên mình tất cả sự tăm tối của nhân loại đang hư vong và ban lại cho họ ánh sáng ơn cứu độ.
Chính tiên tri Isaia đã thoáng nhìn thấy ánh sáng ấy bừng lên trong cảnh điêu tàn đổ nát của một đất nước Giuđa đang bị đế quốc Assyria đè bẹp. Dân chúng rên xiết dưới ách thống trị bạo tàn của ngoại bang. Giữa lúc bóng tối kinh hoàng đang bao trùm, vị tiên tri đã tiên báo một thời kỳ tươi sáng do Đấng Messia mang tới : “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy ánh sáng chứa chan …” (bài đọc I).
Đêm nay đích thực là “đêm thánh vô cùng”, vì Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô xuất hiện giữa đêm dài tội lỗi của nhân loại. Mặt Trời thật nhỏ bé khiêm nhường trong hình hài một bé thơ. Tuy nhiên, Mặt Trời nhỏ bé ấy đang tỏa sáng nơi những tâm hồn chìm đắm trong bóng tối sự chết.
Sở dĩ Giáo Hội chọn ngày 25/12 để cử hành lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô vì đây là ngày lễ mừng Thần Mặt Trời của người Rôma ngoại giáo, là ngày mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm. Giáo Hội muốn mọi người hiểu rằng Chúa Giêsu Kitô là Mặt Trời đích thực đã ló dạng trên trần gian, xua tan bóng đêm tội lỗi và sự chết.
Đêm thầm lặng
Đêm nay chính là “đêm thánh vô cùng” không phải vì sự huyên náo nhộn nhịp, không phải vì những ca khúc giáng sinh rộn ràng vui tươi, cũng không phải vì những ồn ào náo động của một đêm lễ hội tưng bừng. Thực ra, trong bài Tin Mừng thánh Luca đã phác họa bức tranh đêm giáng sinh thật âm thầm và tĩnh lặng.
Khởi đầu là những bước chân lặng lẽ của Đức Mẹ và thánh Giuse trên cánh đồng Bêlem lạnh lẽo, sau khi không tìm được chỗ nghỉ trong quán trọ. Có lẽ đó là bước chân đầy lo âu của thánh Giuse đi tìm một chỗ nghỉ đêm, là bước chân nặng nhọc của Mẹ Maria vì sắp đến ngày sinh nở. Những bước chân ấy hòa lẫn trong màn đêm tĩnh mịch, mang vị Thiên Chúa cao cả vào thế giới.
Sau khi Chúa Hài Đồng sinh ra, các mục đồng được các thiên thần báo tin, họ đã vội vã tìm đến tôn thờ Chúa. Cuộc viếng thăm của các mục đồng thật đơn sơ : không quà mừng, không lễ phục, không ngựa xe đưa rước. Có chăng chỉ là tiếng hát thiên thần vang vọng từ trời, không đủ đánh thức dân thành Bêlem tỉnh giấc.
Chúa chào đời không phải trong cảnh cao sang của các quý tộc, nhưng chỉ là một Hài Nhi nhỏ bé, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ. Tất cả trong âm thầm lặng lẽ giữa bóng tối của đêm đông lạnh giá.
Tuy nhiên, đó chính là “đêm thánh vô cùng” vì trong sự thầm lặng ấy chứa đựng cả một mầu nhiệm cao siêu. Trong sự nghèo hèn ấy chứa đựng cả một nguồn ơn cao cả. Trong sự thấp hèn ấy chứa đựng một sự thánh thiện khôn tả. Trong sự thinh lặng ấy, chứa đựng cả một Tin Mừng lớn lao: “Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi”.
Chúa Cứu Thế đã bước vào thế giới bằng những bước chân thầm lặng, nhưng đã lay động cả nhân loại. Tuy nhiên, chỉ có những đôi mắt đức tin mới nhận ra Ngài, chỉ có những đôi tai nhạy bén mới nghe thấy bước chân của Ngài, chỉ có những trái tim biết thương yêu mới cảm nhận được Ngài, chỉ có những tấm lòng biết mở ra mới đón tiếp được Ngài. Như thánh Phaolô đã nói : Chỉ có những ai biết từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục mới nhận được ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta (bài đọc II).
Số báo “Thừa Sai Công Giáo” phát hành tháng 11/1930, đã kể lại cuộc tiếp xúc đầu tiên của Mẹ Têrêsa Calcutta với các người nghèo và bệnh tật tại Ấn Độ. Lúc ấy, Mẹ Têrêsa là một nữ tu dòng Loretto.
Ngày kia, một người đàn ông mang đến cho chị nữ tu Têrêsa một cái gói bên trong thò ra cái gì giống như 2 cành cây khô. Chị nữ tu nhìn kỹ thì nhận ra đó là đôi chân gầy gò của một đứa bé sắp chết. Nó rất yếu ớt với đôi mắt bị mù hoàn toàn. Chị nữ tu Têrêsa đã ẵm nó vào lòng. Từ đó, đứa trẻ đã tìm được người mẹ thứ hai.
Hình ảnh sống động của Mẹ Têrêsa Calcutta ôm đứa bé bất hạnh trên tay, đã phản ánh một khung cảnh giáng sinh đầy hiện thực của thế giới hôm nay.
Xã hội ngày nay còn có biết bao hài nhi Giêsu đang bị bỏ rơi, thậm chí bị giết chết ngay khi còn trong lòng mẹ. Xã hội đang cần biết bao những “tấm lòng Maria”, những “trái tim Maria” để ôm ấp, bảo vệ và cứu giúp những trẻ thơ bất hạnh.
Đêm hôm nay chỉ thật sự là “đêm thánh vô cùng” nếu chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn đón nhận Hài Nhi Giêsu và đem Ngài đến cho tha nhân. Chính Ngài là ân sủng, hạnh phúc và niềm vui cần được chia sẻ cho mọi người.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
MỘT HÀI NHI ĐÃ SINH RA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 20.11.2012, cuốn cuối cùng trong bộ sách ba cuốn về cuộc đời Chúa Giêsu Nazareth của tác giả Joseph Ratzinger (ĐGH Bênêđictô XVI), mang tựa đề “Thời thơ ấu của Chúa Giêsu” đã có mặt tại các nhà sách trên 50 nước. Sách do hai nhà xuất bản Rizzoli và Vatican hợp tác thực hiện bằng 8 ngôn ngữ khác nhau (Ý, Đức, Croat, Pháp, Anh, Ba Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) với ấn bản đầu tiên là một triệu bản. Trong những tháng tới, tập sách sẽ được dịch ra 20 ngôn ngữ khác và phát hành tại 72 quốc gia.
Nội dung cuốn sách bao gồm 4 chương giải trình về: gia phả Chúa Giêsu; Đức Maria và tiếng Fiat; biến cố Chúa Giêsu sinh ra tại Belem; và việc thăm viếng của các đạo sĩ.
Sáng 20.11, tại Hội trường Piô X, Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa đã giới thiệu với báo chí tác phẩm mới này và đã ghi nhận: cuốn sách như một công trình tô đậm sự tương tác giữa lịch sử và đức tin, vì xét cho cùng Hài Nhi Giêsu là chính trọng tâm của cuốn sách. Tất cả có được ý nghĩa vì Một Hài Nhi đã sinh ra. (VIS, 20-11-2012).
Bài đọc 1 trong Lễ Đêm Giáng Sinh trích từ (Is 9,1-6) là lời sấm thích hợp rõ ràng khơi lên mầu nhiệm Một Hài Nhi đã sinh ra.
Vào năm 734-732, các đạo quân Assyrie đánh chiếm vùng rộng lớn của vương quốc Miền Bắc, đất nước rơi vào ách nô lệ lầm than (x.2V 15,29). Vương quốc Giuđa Miền Nam bé nhỏ chỉ giữ được một phần độc lập nhờ chấp nhận quyền bảo hộ của vương quốc Assyrie. Dân chúng phải nếm nhục nhằn của cảnh tôi đòi (Is 8,23). Sự tang tóc và cảnh tôi mọi làm cho những miền này trở thành “miền tăm tối”. Gợi lại hình ảnh “một dân đi trong tối tăm” (Is 9,1), ngôn sứ nghĩ đến một đoàn người bị phát lưu đang tiến về miền đất lưu đày. Nhưng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu thoát Dân Người, sẽ ban tặng “một quyền bính rộng lớn” và “một nền hoà bình vô tận trên ngai Đavit và vương quốc của Người” (Is 9,6). Niềm hy vọng của dân tộc về một vương quốc lý tưởng được thực hiện bởi một Hài Nhi “vì một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người cha muôn thửơ. Thủ Lãnh hoà bình.” (Is 9,5).
Lời sấm trên đây là một ám chỉ về việc sinh ra của một vị thừa kế ngai báu và sự thực hiện “dấu Emmanuel” đã được nói đến trong (Is 7,14). Đối với ngôn sứ, việc Đấng sinh ra này đã là một biểu lộ quan phòng về sự vững bền của lời hứa cho triều đại Đavit (x. 2Sm 16). Giữa những thảm cảnh và nổi khắc khoải của quốc gia, Isaia đã tuyên xưng niềm tin của mình vào việc xuất hiện của vị vua lý tưởng. Niềm tín thác của ngôn sứ vào lòng trung tín của Yahvê thật lớn lao. Trái với những kẻ chán chường, những kẻ hoài nghi hay những người chỉ muốn tìm sự trợ lực nơi những liên minh trần thế, vị ngôn sứ nhắc lại tính hiện thực trường tồn của sự lựa chọn : bất chấp những nổi thăng trầm hiện tại, niềm tin của Isaia vào Thiên Chúa Giao Ước đã làm cho ông dự đoán thấy sự viên mãn đáng mong ước của quốc gia. Bài thơ Is 9,1-6 được linh hứng nên đã được đem vào dòng liên tục của truyền thống Kinh Thánh; nó chuẩn bị cho những mạc khải sau này và soi sáng cho niềm hy vọng của Dân Chúa về Đấng Thiên Sai. Bài thơ loan báo sự xuất hiện của Chúa Giêsu và vương quốc thiêng liêng của Người. (theo Joseph Ponthot, “Un enfant nous est né”).
Phụng vụ ngày lễ Giáng sinh đã ưu tiên chọn lựa bài thơ Isaia nhằm hướng cộng đoàn về Tin mừng trọng đại : “Hôm nay Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavit, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,11). Dấu chỉ để nhận ra Người là : “Một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ. Một Hài Nhi đã sinh ra là điểm nhấn vĩ đại đánh dấu lịch sử Tình Yêu Thiên Chúa.
Một Hài Nhi đã sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn, dưới mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những hài nhi khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi này lại là một niềm vui cao cả, một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Một Hài Nhi đã sinh ra là Tin mừng trọng đại cho nhân loại.
Thánh Matthêu và Luca đã viết những bản gia phả của Chúa Giêsu. Gia phả theo thánh Matthêu cho thấy Hài Nhi thuộc về hoàng tộc Đavít và là con cháu tổ phụ Abraham; còn gia phả theo thánh Luca mang một nhãn giới rộng rãi hơn, trình bày Hài Nhi thuộc về gia đình nhân loại bao gồm mọi thành phần đi từ thánh Giuse ngược lên cho tới con người đầu tiên là Ađam. Tổng hợp cả hai bản gia phả này, ta nhận biết lý lịch nhân loại của Hài Nhi, dẫu gốc nguồn là Thiên Chúa, đã hóa thân làm người, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, theo lời sấm của Isaia (7,14), Hài Nhi được gọi tên là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Và rồi bằng câu mở đầu trình thuật Giáng Sinh “Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ” (Lc 2,1), Giuse và Maria theo lệnh ấy phải lên thành vua Đavit là Bêlem và Hài Nhi đã giáng sinh tại đó, thánh sử đã toát lược cả một thời gian và không gian lịch sử, không chỉ chứng nghiệm việc Hài Nhi Giêsu sinh ra là thật, mà còn hữu ý khẳng định một khi Ngôi Lời từ đời đời hóa thành xác phàm, cũng bị ghi dấu bởi lịch sử trần thế, có thể được nghiên cứu truy tìm như bất cứ con người nào hiện hữu thật sự trên trần thế. Chúa dựng nên đất trời đã làm người trong trời đất. Chúa đến trong thế gian không như kẻ rong chơi nhàn tản vi hành, mà như như người đồng hành đón nhận kiếp phận con người với những định luật nhân sinh và quy luật pháp định trần thế. “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Một Hài Nhi đã sinh ra mang một ý nghĩa hiện sinh sâu sắc: Thiên Chúa trở nên một trẻ thơ. Ngắm nhìn trẻ thơ Giêsu trong máng cỏ nghèo hèn, chúng ta nghĩ tới bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Thiếu thốn vật chất, thiếu thốn tình thương. Thiếu thốn nhà cửa, thiếu thốn một mái gia đình. Giá lạnh của rét mướt và giá lạnh bởi thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về. Hài Nhi Giêsu ấm áp trong tình thương của cha mẹ, bàn tay nâng niu của Đức Mẹ, ánh mắt âu yếm của Thánh Giuse. Đó là bầu khí gia đình đầm ấm. Gia đình là chiếc nôi êm ái vỗ về giấc ngũ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bồi bổ, là thành trì bảo vệ tuổi thơ. Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn cảnh gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào lạnh giá hơn mùa đông của trái tim.
Một Hài Nhi đã sinh ra là tin vui cho toàn nhân loại.
Hài Nhi chính là Thiên Chúa Giáng Sinh đem ơn cứu rỗi cho hết mọi loài. Ngài là Đấng cứu nhân độ thế. Để cứu thế, Thiên Chúa đã nhập thế; và để cứu người, Thiên Chúa đã làm người. Hài Nhi sinh ra không là tin vui cho riêng ai, mà là tin vui cho toàn nhân loại, cho hết mọi người từ thuở tổ tông cho đến ngày tận thế. Chính vì vậy khi loan tin cho các mục đồng, thiên thần đã giải thích: “Ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành, thì việc Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng, hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân, hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống, và hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, xét cho cùng, khi xuống thế, Thiên Chúa đâu có rời bỏ thiên đàng, mà đích thực Ngài đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Một Hài Nhi đã sinh ra chính là trọng tâm của đêm nay. Với niềm tin kính thẳm sâu và trong lòng cung chiêm thờ lạy, ta hãy hướng về hang đá để đón nhận niềm vui trọng đại và quyết tâm mỗi người từ cương vị và góc độ nhiệm vụ của mình, hãy trở thành niềm vui cho người khác, như bênh đỡ những người già cả cô thế cô thân, giúp đỡ những người cơ nhỡ thiếu thốn hoặc nâng đỡ những ai vì yếu đuối một thời đã rơi vào đam mê lầm lạc mà xa rời tình thương của Chúa. Nếu niềm vui đêm nay hệ tại việc Hài Nhi sinh ra cho chúng ta, thì trong Hài Nhi Giêsu, chúng ta cũng nhận lấy sức mạnh mà lên đường trở thành niềm vui cho người xung quanh mình.
THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH 2017- Năm B
ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG- Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.
Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.
Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.
Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).
Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.
Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.
Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.
Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian
Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse – Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.