KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU
Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo, Matthêu viết: “Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.
Đối diện với các sứ giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng”. Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”. Khi “những sứ giả của Gioan đi rồi”, Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.
1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Matthêu đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với “Chúa trời đất”. Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là “Cha”, đã tự nhận mình là “Con”: một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan “Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: “Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một “bài ca tán tụng”. Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những “người bé nhỏ”, những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.
Cl Tassin ghi nhận: “Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.
2. …và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. “Gánh” mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng”hoàn thành”, Người “chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ”. Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất “nhân lành và khiêm nhường trong lòng” đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu “chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người – trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã “chúc tụng” Ngài nói “Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một… ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này. Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho “những ai đơn sơ”: vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa “là Cha” Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, Con chúc tụng Cha”.
2. Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Lời nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn…”. Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần… Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: “Con chúc tụng Cha…vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. “Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: -“Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là “Đấng vượt trên tất cả”. Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. “Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho….Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người… Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.