CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NOI GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC (*) – Chú giải Lm. Inhaxiô Hồ Thôg 7
THƯA VÂNG VỚI THIÊN CHÚA MỖI NGÀY (*)- Achille Dergeest 16
GIA ĐÌNH KIỂU MẪU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 18
MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 43
CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 59
BÀI HỌC VỀ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 63
GIA ĐÌNH MẪU MỰC CHO MỌI GIA ĐÌNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 72
GIA ĐÌNH THÁNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 77
SỢI CHỈ ĐỎ TÌNH YÊU- Trích Logos C.. 82
THÁNH HÓA GIA ĐÌNH– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 89
THÁNH GIA, GƯƠNG SÁNG CỦA TIN YÊU- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 94
GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 97
KẾT HỢP- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 108
HỌC ĐƯỢC GÌ NƠI THÁNH GIA- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 114
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ”.
Trích sách Huấn Ca.
Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).
Xướng: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
Xướng: Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa.
Xướng: Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con!
BÀI ÐỌC II: Cl 3, 12-21
“Về đời sống gia đình trong Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Cl 3, 15a. 16a
Alleluia, alleluia! – Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 41-52
“Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.
Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.
Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.
Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.
Ðó là lời Chúa.
NOI GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC (*) – Chú giải Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng Đức Giê-su sống thầm lặng trong suốt thời thơ ấu và trưởng thành dưới mái ấm gia đình Na-da-rét, mẫu gương của mọi gia đình.
Hc 3: 2-6, 12-14.
Hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
Cl 3: 12-21.
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-xê thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một trong đời sống gia đình và cộng đoàn.
Lc 2: 22-40.
Tin Mừng Lu-ca trước hết tường thuật lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Hài Nhi Giê-su ở Đền Thánh, tiếp đó gợi lên một cách ngắn gọn thời thơ ấu của Đức Giê-su ở dưới mái ấm gia đình Na-da-rét.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 2-6, 12-14)
Ông Si-rắc là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm và những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri, sau đó được cháu nội của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 130 trước Công Nguyên.
Tác phẩm của ông là sách dạy đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiển. Ông viết tác phẩm nầy vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình, đồng thời không muốn dân mình bị ảnh hưởng do văn hóa ngoại giáo chung quanh, đặc biệt do sức quyến rủ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất đa dạng. Sách được điểm xuyết bằng những câu châm ngôn dễ nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách nầy như Sách Thánh của mình.
Sách cho thấy ông nhất mực gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rắc khai triển phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
Thảo kính cha mẹ, đạo tự nhiên.
Bổn phận thảo kính cha mẹ nhất là vào lúc các ngài già yếu thuộc về những truyền thống rất lâu đời của các nền văn minh, được các tôn giáo lẫn triết học ca ngợi. Chúng ta có thể sánh ví những lời khuyên bảo của hiền nhân Cựu Ước nầy với nhiều bản văn của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy lạp xưa. Ở Trung Quốc cũng như ở Ấn độ, bổn phận làm con đối với cha mẹ trở thành một thứ đạo hiếu đòi buộc hết mọi người. Ở Hy-lạp, xin được trích dẫn mẫu gương của hiền nhân Socrate khuyên các con của mình phải bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với mẹ của chúng, vì tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ đối với mình (Xénophon, Les Mémorables, II, 2). Ở Việt Nam chúng ta, không ai không thuộc câu ca dao nầy:
“Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Thảo kính cha mẹ, đạo Thiên Chúa.
Giới răn thảo kính cha mẹ không chỉ thuộc đạo tự nhiên, nhưng cũng còn chương trình của Đấng Tạo Hóa đối với con người. Cuộc sống gia đình ở Ít-ra-en được ghi khắc trong chiều kích siêu nhiên: không chỉ lưu truyền nòi gióng, mà còn truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác niềm tin của cha ông vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải mình ra. Chính vị Thiên Chúa nầy “muốn con cái phải có lòng thảo kính cha và phục quyền mẹ”. Chính Ngài chúc phúc cho con cái nào giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ của mình.
“Kẻ kính cha sẽ được trường thọ”, đây là lời chúc phúc cổ truyền nhất. Cuộc sống trường thọ là phần thưởng dành cho con cái có tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (chỉ vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, viễn cảnh niềm tin vào cuộc sống mai sau mới xuất hiện).
Còn ngạc nhiên hơn nữa đối với lời hứa “Kẻ thờ cha thì được thứ tha tội lỗi”, cũng như “người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng”, nghĩa là lập công tích đức để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi của mình. Cách nói nầy tương tự với câu cuối của đoạn trích hôm nay: “Vì việc hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.
Trong Do thái giáo sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rắc thuộc vào những thế hệ nầy: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng nầy, ông khai triển rất xa và ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt ở đây: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rắc cẩn trọng trích dẫn bổn phận đối với cha và bổn phận đối với mẹ gần như đối xứng với nhau. Điều nầy rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-xê đã được thánh Phao-lô viết trong cảnh thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-63 sau Công Nguyên, vì thế nội dung của hai bức thư nầy rất gần nhau.
Hoàn cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki-tô hữu. Cộng đoàn nầy được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ nầy. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư nầy cho các tín hữu Cô-lô-xê. Thánh nhân tập chú giáo huấn của mình vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
Nội dung:
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát.
Đoạn thư hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều nầy trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32.
TIN MỪNG (Lc 2: 22-40)
Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Đức Giê-su, con trai đầu lòng.
Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ nầy, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều nầy cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ nầy như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”.
Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, dâng hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là của lễ của một gia đình nghèo.
Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se.
Vào giây phút Đức Giê-su, được trao ban hoàn toàn vào tay của con người và được dâng tiến lên Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi nầy.
Cụ già Si-mê-on.
Cụ già Si-mê-on đang mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en”, đây là tước hiệu chỉ Đấng Mê-si-a từ thời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tức là cuối thời lưu đày (Is 49: 13). Cụ nhận ra ở nơi Hài Nhi nầy Đấng Cứu Độ không chỉ của dân Ít-ra-en nhưng của muôn dân nữa. Mặc Khải nầy làm cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Bài thánh thi của cụ già Si-mê-on tiên báo về sứ mạng của Đức Giê-su đối xứng với bài thánh thi của ông Da-ca-ri-a tiên báo sứ mạng của Gioan Tẩy giả. Thánh Lu-ca thiết lập một sự đối xứng giữa cuộc đời thơ ấu của hai con trẻ nầy.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cha hai ông bà”, nhưng chỉ hướng về một mình Đức Ma-ria và nói với chỉ một mình Mẹ, bởi vì thánh Giu-se qua đời sớm nên không thể làm chứng về cuộc đời công khai của Đức Giê-su. Cụ già Si-mê-on báo trước cho Đức Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi, số phận bi thương đang chờ đợi Mẹ: Mẹ sẽ đau khổ vì dân Ít-ra-en bị chia rẻ về Con của Mẹ: tin vào Ngài hay từ chối Ngài. Chúng ta có thể đọc thấy trong lời tiên báo nầy viễn cảnh núi Sọ. Mạch văn không đòi buộc điều nầy nhưng cũng không tuyệt đối loại bỏ.
Bà ngôn sứ An-na.
Còn Bà ngôn sứ An-na cảm tạ Thiên Chúa và lớn tiếng thông báo cho những ai mong chờ ngày Thiên Chúa giải phóng Giê-ru-sa-lem qua con trẻ nầy.
Đây là sự ghi nhận mang đậm nét của thánh ký Lu-ca. Đối với thánh Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là trung tâm Mặc Khải. Dung mạo của hai ông bà cao tuổi nầy đại diện rất rõ nét nỗi mong chờ dài lâu của dân Ít-ra-en. Thế nên, đây là hai người tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa đến chứng thực rằng việc dân Ít-ra-en chuẩn bị chờ đón Đấng Mê-si-a đã đến hồi kết thúc. Họ được sánh ví như thời Cựu Ước đã đến hồi hoàn tất để nhường chỗ cho thời Tân Ước, kỷ nguyên Mê-si-a. Trong số bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất những giai đoạn cứu độ.
Lời kết.
Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay với đời sống ẩn dật của Đức Giê-su trong mái ấm gia đình Na-da-rét. Thánh ký ghi nhận rất ngắn gọn cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su: “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh”. Lời nhận xét nầy được đặt đối xứng với lời nhận xét khác liên quan đến cuộc đời thơ ấu của Gioan Tẩy giả: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc1: 80) . Tuy nhiên, thánh ký còn nói thêm về Chúa Giê-su: “Đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, Đức Giê-su thì vĩ đại hơn Gioan Tẩy giả ngay từ thời thơ ấu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
THƯA VÂNG VỚI THIÊN CHÚA MỖI NGÀY (*)- Achille Dergeest
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của ‘cái ta’.
Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.
GIA ĐÌNH KIỂU MẪU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
LỜI CHÚA
Bài đọc I: 1 Sm 1,20-22.24-28
Vợ chồng Anna và Elqana son sẻ, nhờ cầu xin Chúa nên cuối cùng sinh được đứa con trai, đặt tên là Samuel.
Vì ý thức rằng con cái là ơn ban của Chúa, cho nên vừa sinh con thì hai ông bà đã đem nó dâng cho Chúa.
Đáp ca: Tv 83
Đây là một Thánh Vịnh hành hương. Điều đáng chúng ta lưu ý là mặc dù hôm nay là lễ Gia đình, nhưng Phụng vụ đã chọn đọc một Thánh vịnh hành hương “Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài siết bao khả ái. Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới được khuôn viên đền vàng… Phúc thay người ở trong Thánh điện”. Nghĩa là: ngoài ngôi nhà gia đình, chúng ta còn một ngôi nhà khác, đó là Nhà Chúa.
Tin Mừng (Lc 2,41-52)
a/. Tường thuật chuyện Thánh gia hành hương lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua:
- Luật hành hương chỉ buộc những “nam nhân”, tức là người nam và từ 13 tuổi (tuổi được luật pháp công nhân là trưởng thành) trở lên. Thế mà cả Đức Mẹ và Chúa Giêsu năm đó mới 12 tuổi cũng đi.
- Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày. Nhưng luật chỉ buộc dự 3 ngày đầu thôi, những ngày sau tuỳ ý. Thánh gia đã dự cho đến “xong kỳ lễ”.
- Như thế, Thánh Gia đã giữ luật đạo rất chín chắn, hơn cả mức đòi buộc của Luật.
b/Sau khi kỳ lễ đã xong, trong khi mọi người ra về thì Chúa Giêsu còn ở lại trong Đền thờ. Khi cha mẹ tìm gặp Ngài thì Ngài đáp “Con có bổn phận ở nhà của Cha con”. Qua thái độ và lời nói này, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha.
c/ Nhưng Chúa Giêsu không phải là một đứa con bất hiếu, bởi vì Tin Mừng thuật tiếp rằng “Sau đó Ngài cùng cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.
Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2.21-24
Thánh Gioan lưu ý rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vì thế hãy mạnh dạn đến với Thiên Chúa là Cha chúng ta, mặt khác hãy tuân giữ các giời răn của Ngài, nhất là giới răn yêu thương nhau.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Những bài học từ Lời Chúa hôm nay
a/ Từ bài đọc I: (1) Con cái là ơn ban của Chúa: Vợ chồng Anna và Elqana ý thức rằng đứa con của họ là ơn ban của Chúa, vì thế nên vừa sinh con ra thì họ đã đem lên Đền thờ dâng hiến cho Chúa. (2) Ý hướng của đứa con: Khi lớn lên cậu bé Samuen đã từ giã gia đình vào đền thờ Silô dâng mình cho Chúa. Cha mẹ nào cũng có những ý định cho tương lai con cái. Nhưng cha mẹ không thể thay con cái mà sống cuộc đời của nó. Vì thế Cha mẹ cũng phải tôn trọng chọn lựa của con. (3) Ơn gọi của đứa con: Chúa đã gọi Samuel, cậu đã đáp lời, cha mẹ cậu chẳng những không ngăn cản mà còn đưa con vào sống trong đền thờ để tạo điều kiện thuận lợi cho cậu đáp lời Chúa gọi.
b/ Từ bài Tin Mừng: (1) Chuyện trẻ Giêsu ở lại Đền thờ khiến Thánh Giuse và Đức Mẹ lo lắng cho thấy dù là đối với một gia đình tốt lành thánh thiện đến mức nào đi nữa, vẫn không tránh khỏi những buồn phiền, va chạm. Tuy nhiên gia đình thánh thiện biết giải quyết và vượt qua những lúc u tối đó bằng cách làm theo ý Thiên Chúa. (2) Ta thường nói rằng trẻ Giêsu bị lạc mất trong Đền thờ. Thực ra Chúa Giêsu không đi lạc vào một nơi xa lạ, mà Ngài đến ở trong Nhà của Cha Ngài. Điều này cho chúng ta thấy ngoài ngôi nhà ở gia đình, chúng ta còn một ngôi nhà khác nữa, là Nhà Thờ, Nhà của Cha trên trời. Nhiều kẻ vô phúc không nhà không cửa đã tìm được hạnh phúc khi đến với Chúa trong Nhà thờ; nhiều người ngột ngạt khổ sở ở nhà mình đã tìm được an ủi và sức mạnh trong Nhà thờ.
c/ Từ bài đọc II: Thánh Gioan nhắc nhở rằng: cũng như Chúa Giêsu vừa là con của Thánh Giuse và Đức Mẹ, vừa là con của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng thế. Đừng quên mình là con Thiên Chúa nên hãy sống thân mật với Ngài và sống theo giới luật yêu thương Ngài dạy.
* 2. “Mất con”
Tiến trình lớn lên của đứa con có thể khiến cho cha mẹ cảm thấy như mình dần dần bị mất con. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay giúp ta hiểu thêm nhiều khía cạnh tâm lý về vấn đề này:
– “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết”: Không phải Chúa Giêsu vì mãi chơi mà ở lại. Ngài cố ý ở lại. Các nhà tâm lý giáo dục lưu ý rằng khi một đứa con cứ quấn quít mãi bên cạnh cha mẹ thì đó là dấu hiệu không tốt, cho thấy rằng dù tuổi nó đã lớn nhưng nó vẫn cảm thấy không an toàn nên không dám tự lập. Còn khi đứa con đã an tâm về tình thương của cha mẹ thì nó dám rời xa cha mẹ để đi khám phá thế giới của nó. Cha mẹ đừng buồn vì chuyện đó, cũng đừng vì thế mà giảm bớt yêu thương. Thật là dễ khi yêu thương đứa con lúc nó còn nhỏ cứ bám víu lấy mình. Nhưng khi nó lớn, bắt đầu rời xa vòng tay che chở của mình mà mình vẫn yêu thương nó thì tình thương đó phải lớn hơn và khéo léo hơn nhiều.
– “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”: Có lẽ thánh Giuse và Đức Mẹ – cũng như mọi cha mẹ khác – vẫn coi Chúa Giêsu là một đứa trẻ và mãi mãi là một đứa trẻ. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở hai Đấng rằng Ngài đã lớn, Ngài có cuộc đời riêng của Ngài và Ngài có bổn phận phải sống ơn gọi riêng ấy. à Khi đứa con bắt đầu có những suy nghĩ riêng và những dự định riêng của mình, cha mẹ đừng vội rầy là hay phản đối kẻo bóp chết đi đà phát triển của nó. Khôn ngoan hơn, hãy lắng nghe và nếu thấy đúng thì hãy khuyến khích, tạo điều kiện.
– “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”: Thánh Giuse và Đức Maria không rầy la, nhưng im lặng và suy nghĩ. à Im lặng, lắng nghe và tìm hiểu con cái, đó là điều mà nhiều cha mẹ không biết; cha mẹ không lắng nghe và không tìm hiểu, đó cũng là điều mà nhiều đứa con trách cha mẹ mình; và cũng là mấu chốt khiến mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái càng thắm thiết hơn hay càng ngày càng xấu đi.
– “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”: Sau biến cố này, Chúa Giêsu càng thấy rõ hơn tình thương, sự lo lắng và sự tôn trọng của cha mẹ đối với mình, nên Ngài càng yêu mến, tôn kính và vâng phục hai đấng. Hạnh phúc gia đình không phải vì gia đình không gặp sóng gió. Hạnh phúc gia đình là do cha mẹ con cái hiểu nhau, yêu thương nhau và tôn trọng nhau. Những sóng gió, va chạm nhiều khi còn làm cho người ta hiểu nhau và thương nhau hơn, do đó hạnh phúc gia đình càng được củng cố thêm.
* 3. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Thánh Gia Nadarét là một gia đình như hầu hết các gia đình khác nhưng lại khác hẳn tất cả những gia đình khác.
Như hầu hết các gia đình gia đình Nadarét:
- Nghèo
- Vì nghèo không có vốn đầu tư kinh doanh, gia đình Nadarét phải lấy sức mình ra làm việc để sinh sống: thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Maria làm nội trợ suốt ngày bận rộn với những việc nấu nướng, giặt giũ, may vá, quét dọn… Chúa Giêsu khi còn nhỏ thì phụ giúp cha mẹ, lớn lên nối nghiệp thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Đây là một gia đình lao động, tay chân.
- Lao động tay chân thì vất vả: đổ mồ hôi, tay chân chai sạm, quần quật suốt ngày…
- Mặc dù quần quật suốt ngày nhưng cũng chỉ đủ ăn không dư giả. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai bằng chứng về tình trạng không dư dả của gia đình Nadarét: Khi đem con đầu lòng dâng vào Đền Thờ cùng với lễ vật theo luật định, những gia đình khác người thì dâng tiền, người thì dâng chiên cừu, còn gia đình của thánh Giuse chỉ dâng có một đôi chim câu là thứ lễ vật của những người nghèo. Khi đi Bêlem, hai ông bà không có tiền thuê nhà trọ nên đành phải trú chân trong hóc đá, chỗ làm nơi tạm trú cho súc vật. Gia đình này không dư dả.
- Vì không có dư giả nên dĩ nhiên cũng có những lúc túng thiếu, những ngày lo âu vì miếng cơm manh áo.
- Vì túng thiếu nên dĩ nhiên cũng không được người đời coi trọng mà còn bị khinh chê. Ta nhớ lúc Chúa Giêsu đã đi rao giảng mà vẫn còn có người nhận xét về Ngài bằng một giọng khinh chê “Con ông thợ mộc như thế mà là Đấng Cứu thế cái nỗi gì!”
Nhưng gia đình Nadarét lại khác tất cả các gia đình khác:
- Khác ở chỗ tự ý chọn cuộc sống: lao động chân tay nghèo nàn, là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể chọn sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo nàn như thế.
- Khác ở chỗ mặc dù nghèo nhưng những người trong gia đình này không lục đục với nhau như thường thấy trong các gia đình chúng ta: khi túng thiếu chúng ta sinh ra bực bội, gắt gỏng, gia đình hay cãi và xung đột với nhau.
- Khác ở chỗ dù nghèo nhưng không gian tham, trộm cắp như thường thấy trong nhiều gia đình khác.
Tóm lại gia đình Nadarét dù nghèo, dù làm lụng vất vả nhưng rất hạnh phúc rất thánh thiện.
Gia đình Nadarét của thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu thật là
- một niềm hãnh diện cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- một nguồn an ủi khích lệ cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- Và là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Nhìn vào nếp sống gia đình này ta có thể học được rất nhiều bài học quý giá.
1/ Bài học thứ nhất là: trong gia đình, mọi người đều phải làm việc.
Thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Mẹ làm nội trợ, Chúa Giêsu khi nhỏ giúp cha giúp mẹ và lớn lên cũng làm nghề thợ mộc. Người nào việc ấy, người mạnh làm việc nặng, người yếu làm việc nhẹ, người chưa rành thì phụ giúp những người khác, ai cũng có công việc theo khả năng của mình.
Cổ nhân đã nói “nhàn cư vi bất thiện” ở không thì sinh ra hư đốn làm điều không tốt. Những gia đình giàu có ở không riết rồi chồng thì say sưa, ngoại tình, vợ thì cờ bạc, ngồi lê đôi mách, con cái thì đua đòi, chơi bời lêu lỏng, tập tành nhiều thói xấu. ngay cả những gia đình nghèo nhưng không biết thu xếp công việc, cho con cái đi chơi suốt ngày thì chúng cũng hư: làm biếng, trộm cắp, ăn nói sàm sở, chửi thề nói tục, đủ thứ…
Một số gia đình tổ chức công việc rất khéo: con cái những đứa còn nhỏ thì giao cho chúng những việc nhỏ, như quét nhà, rửa chén, giữ em; những đứa lớn hơn thì tập cho chúng may vá, nấu cơm, nuôi heo, làm gia công những đồ tiểu thủ công nghiệp… Giờ nào học thì học, còn những giờ khác thì làm việc, ai cũng có việc nấy. Dần dần thành nếp, mọi người đều cần cù siêng năng, biết dùng thời giờ của mình làm việc hữu ích, biết giá trị của đồng tiền và nhờ đó biết tiết kiệm không hoang phí, cũng không có những thói xấu như chơi bời lêu lỏng, ngồi lê đôi mách, trộm cắp gian tham…. Những gia đình biết thu xếp như vậy tuy nghèo nhưng không đến nỗi thiếu thốn vì ai cũng siêng năng và biết xoay sở.
Ngược lại trong một số gia đình chúng ta, cha mẹ thì làm ăn rất là vất vả nhưng con cái thì lại không tập cho chúng làm, để chúng đi chơi hầu như suốt ngày. Chúng vừa chẳng giúp gì cho gia đình, vừa là một gánh nặng cho gia đình, lại vừa lây nhiễm đủ thứ thói xấu ngoài xã hội.
b/ Bài học thứ hai là ta phải nên thánh ngay trong những việc lao động hằng ngày của chúng ta.
Có rất nhiều người than rằng vì bận rộn làm ăn nên đạo hạnh bê trễ. Đây là một quan niệm sai lầm, tách đời ra khỏi đạo, chia cách việc làm với đạo đức. Dĩ nhiên người bận rộn làm việc thì không có nhiều giờ để đọc kinh, để đến nhà thờ. Nhưng mỗi sáng dành ra vài phút để cầu nguyện, mỗi tối dành vài phút cầu nguyện nữa, Chúa nhật thu xếp đi lễ khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ, như vậy đâu phải là nhiều. Và thậm chí nếu mình quá bận rộn thực sự để không thể làm những việc đó thì Chúa cũng không bắt tội chúng ta, Chúa chỉ bắt tội lười không có thể làm mà không làm thôi. Vả lại sống đạo đâu phải chỉ là đọc kinh cầu nguyện, mà là đem tinh thần đạo vào chính cuộc sống của mình.
- Người sống đạo thật không đợi đến lúc tới nhà thờ mới nhớ tới Chúa, nhưng họ luôn dâng mọi việc họ làm hằng ngày cho Chúa, kết hợp với Chúa trong chính công việc của mình.
- Người sống đạo thật cố gắng tránh những cám dỗ trong khi làm việc: cám dỗ làm cẩu thả, gian dối, cám dỗ lười biếng, cám dỗ trộm cắp. Như vậy vừa làm việc họ vừa rèn luyện đạo đức và lập công trước mặt Chúa.
- Người sống đạo thật biến việc làm hằng ngày thành những công nghiệp, những lễ vật dâng lên Thiên Chúa và họ nên thánh bằng chính những công việc họ làm.
Chúa Giêsu đã dùng 30 năm trong số vỏn vẹn 33 năm ở trần gian để sống trong gia đình Nadarét, để làm việc lao động chân tay cực nhọc. Điều đó rất có ý nghĩa: Chúa muốn cho chúng ta thấy giá trị thánh thiện của việc lao động hằng ngày và Chúa muốn nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ dạy cho con cháu mình biết làm việc cần cù siêng năng, và chúng ta hãy tự thánh hóa đời mình bằng chính những công việc hằng ngày.
- Những cánh cửa mở ra phía nhân loại
Ánh sáng soi cho các dân tộc.
Thánh Luca là người Hy lạp. Ngài loan báo tin mừng cho đồng bào mình và đôi khi ngài phải chống lại những Kitô hữu gốc Do thái cứ muốn bắt những tân tòng người nước ngoài phải tuân giữ luật lệ và lễ nghi Do thái. Khi trình thuật sự kiện “Đức Bà dâng Con trong đền thờ”, thánh Luca có dụng ý cho ai nấy hiểu rằng, sứ điệp tin mừng không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà được gởi cho hết mọi người đàn ông, mọi người phụ nữ trên toàn thế giới.
Vì vậy mà việc “dâng con” thay vì chỉ là việc riêng của gia đình diễn ra trong vòng ấm cúng thân mật, lại trở nên một biến cố có liên quan đến cả loài người mọi nơi mọi thời. Cái nghi thức theo truyền thống chỉ là nghi thức thanh tẩy người mẹ, lại trở thành cuộc biểu dương sứ mệnh đặc biệt của người con, như nói với cả thế giới rằng: Đây là Đấng Thiên Sai sắp khai trương một thời đại mới. Hai cụ già Simêon và Anna tượng trưng cho các thế hệ mòn mỏi chờ mong Đấng Cứu Thế.
Cha mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người miền Bắc, người Nadaréth và lễ cung hiến người con lại diễn ra tại Giêrusalem, trong Đền Thờ. Đó là những chi tiết mang nhiều ý nghĩa. Giêrusalem là thành Thánh có Đền Thờ làm trung tâm. Chính tại Đền Thờ, Chúa Giêsu nhận được tước hiệu là Cứu Chúa muôn dân, là ánh sáng soi cho các dân ngoại, là sự biểu hiệu của Thiên Chúa vô hình.
Ơn cứu độ không thể bị cất giấu trong một đền thờ duy nhất cho dù đền thờ ấy có uy thế lẫy lừng cách mấy. Mà cả vũ trụ sẽ là đền thờ. Đền Thờ sẽ là tấm lòng của bất cứ người nào đón nhận Lời của Thần Khí. Thánh Luca cho biết, Đức Mẹ và thánh Giuse rất đổi ngạc nhiên. Mà các ngài ngạc nhiên cũng phải, vì các ngài lên đền thờ chỉ để cử hành một nghi thức gia đình, vậy mà lại vỡ lở ra thành lời tụng ca của muôn người muôn thế hệ.
Trong niềm vui được tin Đấng Thiên sai đến, lại có lẫn nỗi lo âu. Đấng có sứ mạng gom các dân tộc về một mối, một dân tộc duy nhất gồm những người anh em, thì lại nên dấu chỉ cho sự chia rẽ.
Bởi vì những kẻ từ chối Đấng Thiên Sai phổ quát (cho cả loài người, chứ không riêng dân Israel) sẽ nổi lên chống lại Ngài. Những người cứ khăng khăng không muốn thoát ra khỏi những cái khung suy nghĩ hẹp hòi, những cái khung đức tin và cuộc sống thiển cận, cũng sẽ nổi lên chống lại ngài, chứ không muốn theo chân Ngài đi gặp gỡ mọi người, thuộc mọi tiếng nói mầu da, chủng tộc, để sống với nhau trong tình anh em.
Ngày nay, những hình thái mới của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lao động và giải trí, đang khiến các gia đình lung lay.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, liệu chúng ta sẽ đón nhận Đấng Thiên sai của thời mới, Đấng có những lời lẽ phát minh và sáng tạo? Lễ này cho chúng ta biết rằng gia đình theo Chúa Giêsu có những cánh cửa mở ra phía gia đình nhân loại bao la rộng lớn (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’99)
Gia đình là trường học
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
“Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bất chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm gì thế. Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!”. Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?
Thánh Gia Thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
Thánh Gia Thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Giuse đích thực là một người cha: Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nadarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia Thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nadarét suốt ba mươi năm. Nadarét là trường dạy cầu nguyện dạy lao động, dạy yêu thương. Nadarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nadarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nadarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa ” (Cl 3,21)
*
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia Thất, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình. và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
Xin cho chúng con biết kính trọng và yêu thương Nhau, không phán xét khi hồ nghi, không kết án khi chưa tường, không phụ rẫy khi còn cứu vãn được, nhưng thông cảm và tìm hiểu, nâng đỡ và tha thứ, và trên hết luôn tìm sống theo thánh ý Chúa. Amen (TP)
Hy sinh cho con cái
Có câu nói “Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm sóc nổi một người mẹ”. Chúng ta hãy suy nghĩ xem câu nói này đúng không.
Một con chim mẹ có một con chim con. Chim mẹ thương yêu chim con vô cùng. Mùa đông đến, các loài chim phải rời xứ lạnh để bay đến những xứ ấm áp hơn. Chim mẹ biết chim con còn yếu không bay xa nổi nên cõng con trên lưng. Ban đầu chim mẹ còn khoẻ nên bay khá nhanh. Nhung sau một đoạn đường dài, chim mẹ mệt và cảm thấy đứa con trên lưng mình ngày càng nặng, nhưng vẫn cố bay. Tuy nhiên một ngày kia chim mẹ đuối sức nên đành phải đáp xuống nghỉ. Trong lúc nghỉ ngơi, chim mẹ hỏi chim con: “Con ơi, hãy nói thật cho mẹ nghe nhé. Sau nay khi mẹ đã già, không còn sức bay về phía nam ngang qua những đại dương bao la thì con có cõng mẹ trên lưng như mẹ đang làm cho con bây giờ không?” Chim con trả lời: “Con e rằng không mẹ ạ!”. Chim mẹ ngạc nhiên hỏi tiếp: “Sao vậy?”. Chim con lại đáp: “Vì khi đó, con phải cõng con của con”.
Câu trả lời của chim con gợi cho ta thấy hai điều:
- a/ Một sự thật phũ phàng: Cha mẹ nào cũng hết lòng thương con và hy sinh tất cả vì con. Nhưng con cái thì đáp lại không được bao nhiêu. Ca dao Việt Nam có câu: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”
- b/ Một quy luật tự nhiên: Cũng có câu “Nước luôn chảy xuống”. Cũng như dòng nước luôn chảy xuống thấp chứ không chảy lên cao. Chảy xuống là chảy xuôi, còn chảy lên là chảy ngược. Cha mẹ yêu thương con cái và hết lòng chăm sóc con cái là quy luật tự nhiên.
Trước hai điều hiển nhiên trên, chúng ta phải làm sao? Một mặt, chúng ta hãy làm tất cả những gì có thể làm được để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ; và mặt khác chúng ta hãy hết lòng chăm sóc con cái chúng ta. Hết lòng chăm sóc con cái mình cũng là một cách để đền đáp công ơn cha mẹ trước đây đã hết lòng chăm sóc mình vậy.
Chuyện minh họa
a/ Làm thế nào chịu thế ấy
Một Cha sở ở miền núi trước khi lên giường ngủ quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa và cầu nguyện. Đêm yên lặng, những nấm mộ chập chờn trong bóng tối, những cây thánh giá lô nhô trong nghĩa địa. Tất cả những cái đó làm cho ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia ngài nghe có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Trong bóng tối ngài thấy một hình người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm? Một tên điên? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một cây, ngài thấy rõ người lạ mặt đến quỳ trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi, cha nói đi”
Cha sở nhìn kỹ và biết đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến chết đi.
– Ồ con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bổn đạo khiếp sợ quá nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
– Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
– Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng sẽ xử tệ với con như vậy. Ngày mai con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa. Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên truyện này. (Trích “Phúc”)
b/ Không phải khách
Một bé gái 5 tuổi. Sau khi làm dấu ăn cơm, được mẹ dậy nên em thường nói: “Lạy Chúa Giêsu, xin dùng cơm với gia đình chúng con!” Lần đó, em đột ngột ngó mẹ, nói:
– Mẹ ơi, con không muốn Chúa là khách nhà mình.
– Sao vậy con?
– Vì khách thỉnh thoảng mới đến. Con muốn Chúa ở luôn đây cơ!
c/ Bận lắm!
Một thiếu niên phải ra trước vành móng ngựa vì tội làm bạc giả. Vị thẩm phán biết rõ gia đình em. Bố em là một luật gia nổi tiếng, từng viết nhiều bài báo nói về “Sự thật”. Vị thẩm phán hỏi:
– Cháu có nhớ bố mình không? Người bố mà cháu đã bôi nhọ thanh danh của ông.
– Có, cháu nhớ ông ấy rất rõ. Nhưng mỗi khi cháu muốn lại gần xin bố chỉ dạy, bố cháu thường mắng: “Nhóc con, cút đi, tao bận lắm!” Bố cháu thường dành hết thời giờ cho công việc, ít quan tâm đến cháu, nên giờ cháu mới ra thế này.
Vị luật gia thường viết về sự thật, nhưng lại quên mất sự thật lớn lao nhất là con mình. Thật là sai lầm.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, bà Anna đã cầu nguyện với lòng tin mãnh liệt và Chúa đã ban cho bà một đứa con trai mà bà đã kiên trì khấn xin. Cùng với bà Anna, chúng ta hãy khẩn cầu Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót:
- Ngày hôm nay có rất nhiều trẻ em bị tổn thương tình cảm vì cha mẹ ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn quan tâm và tìm mọi cách nâng đỡ những trẻ em bất hạnh này.
- Nhiều gia đình tan vỡ vì gặp cảnh hiếm muộn / hoặc đôi khi niềm tin bị lung lay vì cái chết của đứa con yêu quý / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ xác tín rằng / Chúa luôn yêu thương hết thảy mọi con cái của Người.
- Một trong những tội ác làm thiệt hại cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là vấn đề đồng tình luyến ái / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / thức tỉnh những ai đang sống trong tình trạng sai trái này.
- Để tình yêu được bền vững / và hạnh phúc gia đình được bảo đảm / việc học hỏi giáo lý hôn nhân là một việc làm hết sức cần thiết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các thanh niên nam nữ trong giáo xứ chúng ta / biết tích cực chuẩn bị trước khi kết hôn.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban thêm ơn trợ giúp cho các bậc làm cha làm mẹ, để giữa muôn vàn thử thách trong đời sống hôn nhân và gia đình, các ngài vẫn có thể luôn chu toàn bổn phận giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái của mình. Chúng con cầu xin
TRONG THÁNH LỄ
- Trước Kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Chúa Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
GIẢI TÁN
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.
MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Hằng năm, lễ Thánh gia được tổ chức vào Chúa nhật sau lễ Giáng sinh để nêu lên một tấm gương sáng chói cho các gia đình noi theo. Sách Tin mừng thuật lại rất ít sự kiện có liên quan đến lễ này. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp thấy những gương nhân đức của từng thành phần trong gia đình thánh gia như : các nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse và sự vâng phục của Đức Giêsu.
Đấy là những mẫu gương sán lạn, những bài học quí giá cho chúng ta. Nếu mỗi thành phần trong gia đình thực hành được những nhân đức ấy thì gia đình sẽ trở nên một cộng đoàn yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau, trong cảnh trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
Ngày nay các gia đình trên thế giới nói chung, và gia đình Công giáo nói riêng, đang trên đã xuống dốc : ly dị lan tràn khắp nơi, gia đình tan vỡ ly tán, gây ra cho xã hội biết bao cảnh thương tâm. Nếu mỗi thành phần trong gia đình biết noi gương Thánh gia mà xây dựng gia đình, cố gắng trung thành thi hành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo thì gia đình sẽ thành một cộng đoàn hạnh phúc, một “Giáo hội tại gia” đúng nghĩa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 3,3-7.14-17a.
Sách Huấn ca hôm nay dạy con cái phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên mà còn là ý muốn của Thiên Chúa :”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Việc thảo kính cha mẹ sẽ đem lại nhiều ơn ích :
– Đền bù các tội lỗi đã phạm.
– Khi cầu xin, sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
– Nếu ai hiếu thảo với cha mẹ thì sau này sẽ dược con cháu thảo hiếu lại vì như người ta nói :” sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”.
+ Bài đọc 2 : Cl 3,12-21.
Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Colossê và Eâphêsô, thánh Phaolô rất chú trọng đến đời sống gia đình. Theo đó, trong đời sống gia đình phải có những đức tính như : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, thánh Phaolô đặc biệt chú trọng đến việc tha thứ. Ngài khuyên :”Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em hãy tha thứ cho nhau”. Nhưng muốn thực hiện được các đức tính trên, cần phải có một nhân đức nền tảng : đó là đức bác ái yêu thương.
+ Bài Tin mừng .
Năm A : Mt 2,13-15.19-23.
Thánh Matthêu làm nổi bật vai trò của thánh Giuse trong gia đình Nazareth, với tư cách là gia trưởng, Thiên Chúa hướng dẫn và điều khiển gia đình Thánh gia qua vai trò của thánh Giuse. Vì thế, thiên thần Chúa báo mộng cho thánh Giuse phải đem hài nhi Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết con trẻ Giêsu. Khi vua Hêrôđê băng hà, thiên thần Chúa lại báo mộng cho Giuse phải đem con trẻ và Mẹ Người trở về quê hương. Giuse đã mau mắn đem gia đình trở về và định cư tại Nazareth. Trong mọi bước đường gian nay buổi ban đầu, thánh Giuse hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, còn Đức Maria và Đức Giêsu hoàn toàn sống theo sự hướng dẫn của thánh Giuse. Do đó, đây là một gia đình trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
Năm B : Lc 2,22-40.
Thánh Luca tường thuật cho chúng ta việc Đức Maria và thánh Giuse lên đền thờ dâng con trẻ Giêsu cho Thiên Chúa theo Lề Luật. Và trong dịp này có hai người là ông già Simêon và cụ bà Anna nói tiên tri về tương lai của con trẻ. Qua sự kiện này, chúng ta cần lưu ý đến mấy điểm :
- a) Thánh gia là những người giữ Luật rất chín chắn. Thi hành đầy đủ mọi luật : như luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con trẻ, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa, mặc dầu các Ngài không bị buộc phải giữ những luật này.
- b) Gia đình Thánh gia rất hiệp thông : lúc nào mọi thành phần trong gia đình cũng cùng chung nhau thi hành Luật. Lúc nào cũng có sự hiện diện của nhau.
- c) Cha mẹ rất kinh ngạc về tương lai của con trẻ Giêsu khi ông già Simêon và bà Anna tiên báo vận mệnh vừa bi thương vừa vinh quang của con. Tuy Đức Maria và thánh Giuse chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình, nhưng các Ngài vẫn sẵn sàng tuân theo sự chỉ dẫn và sắp xếp của Thiên Chúa .
Năm C : Lc 2,41-52.
Theo lối giải thích của các thầy rabbi thì dường như luật buộc phải đi hành hương Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hằng năm chỉ bắt đầu áp dụng lúc 13 tuổi và chỉ bắt buộc các nam nhân. Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày, nhưng luật buộc chỉ phải dự 3 ngày đầu thôi. Tuy thế, Đức Maria và thánh Giuse tham dự cho đến cuối :”Khi lễ đã chấm dứt…”. Như vậy, Thánh gia đã giữ luật rất chín chắn hơn cả mức đòi hỏi của luật.
Sau kỳ lễ chấm dứt, các Ngài ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Giêrusalem. Sau ba ngày đi tìm Đức Giêsu thì cha mẹ Ngài mới tìm thấy Con và các ngài hết sức bỡ ngỡ khi thấy Con mình đàng ngồi đàm đạo với các tiến sĩ luật. Được hỏi lý do thì Đức Giêsu chỉ trả lời với cha mẹ :”Con có bổn phận ở nhà của Cha Con”. Câu trả lời như thế khiến hai ông bà chưa hiểu hết ý nghĩa của nó.
Dù là người con ngoan, vào lúc 12 tuổi, Đức Giêsu đã làm một cuộc “thoát ly gia đình” để ưu tiên sống cho một Đấng mà Ngài gọi là “Cha” bằng một giọng thân thương nhất. Qua thái độ và lời nói này, Đức Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha. Tuy thế, Ngài luôn là người con có hiếu với cha mẹ :”Sau đó, Ngài cùng cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài”(Lc 2,52).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xây dựng gia đình hạnh phúc.
LÝ DO CỦA NGÀY LỄ THÁNH GIA.
Phong trào “gia đình Công giáo” đã có từ thế kỷ 16, nhưng đến cuối thế kỷ 19, Đức Giáo hoàng Lêô XIII cổ vũ mạnh và đặt ra “Lễ Thánh Gia” nhằm thúc giục mọi người theo gương thánh gia thất mà sống trên thuận dưới hòa để tạo lập những gia đình hạnh phúc.
Năm 1994 Liên hiệp quốc cũng như Giáo hội chọn làm năm quốc tế về gia đình. Gia đình đang gặp cơn khủng hoảng, đang trên đà xuống dốc một cách trầm trọng. Gia đình là nền tảng của xã hội, mà nền tảng hư hỏng thì xã hội cũng sụp đổ.
Do đó, Giáo hội muốn cho ta tổ chức lễ kính Thánh gia là để đề cao vai trò của gia đình và đưa ra mật mẫu gương tuyệt vời cho mọi người bắt chước, hầu củng cố lại gia đình và giúp cho xã hội thêm vững chắc.
SỰ QUAN TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH
Chúng ta thấy mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Giáo hội tại gia” (Lumen gentium, số 11). Vì thế, công đồng Vatican II nói :”Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽvới tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (MV số 47).
Trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consortio”, Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã khẳng định:”Gia đình là “trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(Gđ số 3).
PHÂN NHIỆM TRONG GIA ĐÌNH.
1* Gia đình Thánh gia.
Nhìn vào gia đình Thánh gia, theo bài Tin mừng hôm nay, ta thấy Đức Maria và Đức Giêsu không làm gì cả. Nói đúng ra, hai Đấng không làm gì khác ngoài việc làm theo sự chỉ đạo của thánh Giuse; còn thánh Giuse thì không làm gì khác ngoài việc làm theo sứ thần Thiên Chúa. Đúng như người ta nói :”Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ).
Có sự thuận ý từ trên xuống : Thiên Chúa điều khiển thánh Giuse, thánh Giuse lại điều khiển Đức Maria và Đức Giêsu mà không có điều gì trục trặc, các ngài đã thực hiện chữ “thuận” vì người ta thường nói :
“Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” (Tục ngữ).
Theo đó, các Ngài đã thuận vợ, thuận chồng và cả con cũng thuận nữa. Tất cả đều hài hòa để qui hướng về một mối là “Thuận Thiên”như người ta nói :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nhờ đó, gia đình có thể vượt qua được mọi sự khó khăn chủ quan cũng như khách quan.
Gia đình chúng ta.
Gia đình Thánh gia là một mô hình tuyệt vời trong sự phân công các thành viên trong gia đình cho có lớp lang thứ tự, hợp tình hợp lý để tạo nên sự hài hòa trong các thành phần.
Trong việc giáo dục gia đình, Đức Khổng Tử đã đưa ra một công thức giáo dục rất hay, đó là : quân, thần, phụ, tử, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải sống ra tôi, cha phải sống xứng với vai trò của cha, và con phải sống theo bậc làm con; bậc nào phải sống theo bậc ấy, đừng bao giờ đảo lộn. Trong gia đình có ba cấp thành viên : cha, mẹ và con cái. Chúng ta sẽ phân tích từng thành viên.
- a) Người cha trong gia đình.
Người ta nói : Kim chỉ phải có đầu”. Vậy ai nên làm chủ gia đình ? Đương nhiên là người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn vì người cha đồng thời cũng là người chồng; và theo thánh Phaolô thì “Người chồng là đầu của người vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh”(Ep 5,23). Tại sao vậy ? Vì người cha có khả năng tốt hơn, có cái nhìn bao quát hơn, cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, có uy tín hơn để hướng dẫn các con. Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi sự trong nhà đều dễ trở nên tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng. Nếu ngược lại, thì người ta bảo :”nhà dột từ nóc”, gia đình bị hư hỏng từ đầu :”cá thối từ đầu”(Piscis a capite vivit et a capite faetet”. Hậu quả sẽ xẩy ra như người ta nói :
Người trên ở chẳng chính ngôi,
Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào.(Ca dao)
Nói thế không phải là một mình người cha điều khiển gia đình, vẫn có sự tham gia của người mẹ một cách rất nhẹ nhàng mà người ta không ngờ. Đôi lúc vì người cha thiếu khả năng nên người mẹ đã lấn át vai trò của người cha.
Truyện vui : Hư danh.
Con chạy về hỏi cha :
– Ba ơi, Ba giảng cho con thế nào là “hư danh”.
Người cha trả lời :
– Hư danh hả ? Ví dụ như má con giới thiệu Ba là chủ gia đình !!!
Hoặc truyện khác :
Đôi tân hôn chưa sống với nhau được bao lâu, người chồng hiền lành, điệu bộ có vẻ cù lần, nhưng vợ tinh anh sắc xảo, cần phải có tác phong bảo vệ quyền bính, nhất là con nhà có đạo phải dựa vào Kinh Bổn mới có nền tảng vững chắc, kẻo người nội trợ lấn át quyền gia trưởng.
– Thứ nhất dựa vào Kinh :
Một hôm gặp cơ hội bị chị vợ lấn át, anh ta mới dõng dạc tuyên bố : Mày phải biết ngày chịu phép Hôn phối, cha giảng : chồng là gia trưởng, là chủ , chồng giữ địa vị thánh Giuse trong nhà Nazareth. Mày không nhớ trong kinh cầu ông thánh Giuse : thánh Giuse làm đầu thánh gia. Thế tao là đầu trong nhà, thay địa vị thánh Giuse, mày phải nhận điều đó mới được.
– Thứ hai, sách Bổn dạy làm sao ?
Sách bổn dạy :”Cha mẹ phải săn sóc con cái, chồng phải coi sóc vợ, chúa nhà phải coi sóc đầy tớ : bấy nhiêu “Đấng ấy” phải coi sóc kẻ thuộc về mình, hầu bằng cha mẹ phải săn sóc con cái vậy, chả gì tao cũng vào số “các đấng”. Đừng có mà khinh tao”.(Nguyễn duy Phượng, Thực chuộng vâng phục, 1969, tr 241-242)
Người mẹ trong gia đình.
Thiên Chúa đã dựng nên người nam nữ có bản chất riêng, khác nhau mà không dẫm chân lên nhau. Dường như trong gia đình đã vốn sẵn có một sự phân nhiệm tự nhiên cho hai người :
– Nếu người chồng là rường cột chống đỡ gia đình, thì người vợ là sợi dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc.
– Nếu người chồng là người đứng mũi chịu sào, đặt kế hoạch, tạo điều kiện kinh tế cho gia đình, thì người vợ lại là người quản lý tốt, quán xuyến sắp xếp mọi công việc trong nhà và bảo vệ tổ ấm gia đình hơn mọi người khác.
– Nếu người chồng là lý trí, là khối óc sáng suốt để chỉ huy, hướng dẫn gia đình như một ông thuyền trưởng chỉ huy con tầu, thì người vợ chính là người tài công khéo léo điều động con tầu đến mục tiêu đã định.
– Nếu người chồng là biểu tượng của quyền uy, nghiêm nghị và cứng cỏi, là khuôn mẫu, là kỷ luật, thì người vợ là sự dịu dàng, mềm mỏng cởi mở để con cái được thoải mái, dễ chịu trong khuôn khổ gia đình.
– Và sau cùng, nếu cần phải đối phó với một xã hội, một cuộc sống đa đoan, phức tạp, muôn mặt, khi sự cứng rắn và sức mạnh của người chồng không đủ đáp ứng, thì đã có sự khôn ngoan, tế nhị, mềm mỏng của người vợ bổ sung vào để đạt được kết quả.
Quan niệm “Phu xướng phụ tùy” của xã hội ta ngày xưa không còn phù hợp nữa. Nếu chồng là giám đốc thì vợ phải là quản lý hay phụ tá giám đốc chứ không phải là tôi tớ :”Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam… Xin cho anh biết trọn niềm tin tưởng ở chị, nhìn nhận chị là người bình đẳûng và cùng được thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban”(Lời cầu lễ Hôn phối).
Truyện : Tài tử Galicopter và người vợ.
Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ôâng nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau :
“Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến n àng. Nàng là người vợ đích thực”.
Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng : người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng. Nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu : “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ).
Con cái trong gia đình.
Còn Đức Giêsu trong gia đình Nazareth đã được thánh Luca mô tả vài nét trong Tin mừng:”Và Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”(Lc 2,51-52).
Đức Giêsu tuy là Thiên Chúa, nhưng với cương vị làm con, Ngài vẫn phải vâng phục thánh Giuse và Đức Maria với tâm tình con thảo. Sách Huấn ca hôm nay dạy ta :”Ai kính sợ Thiên Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ, ai thờ cha kính mẹ thì sẽ bù đắp lỗi lầm và sẽ được đền bù tội lỗi”.
Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải là một tình cảm tự nhiên mà còn là một điều luật của Chúa:”Ngươi phải hiếu thảo với cha mẹ, như Thiên Chúa ngươi đã truyền dạy, để được sống lâu và được hạnh phúc trên phần đất Thiên Chúa dành cho ngươi”(Đnl 5,16).
Ngày xưa khi cắp sách đi học, các em nhỏ đã được đọc trong sách Quốc văn giáo khoa thư một bài học căn bản về đạo làm con :
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là ĐẠO CON.
Không thiếu gì những bậc danh nhân trên thế giới đã làm gương cho chúng ta về lòng thảo hiếu đối với cha mẹ, ngay khi các ngài còn ở bậc cao trong danh vọng.
Truyện : Nhà bác học Louis Pasteur.
Ngày 14.07.1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra trên nỗi biết ơn cha mẹ :
‘Ôi ! hỡi cha con, mẹ con ! Ôi, hỡi những người thân yêu đã chết ! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn tất cả bởi các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con đã thấm nhuầãn những cảm tình mà mẹ phấn khích ở trong con. Và còn người, hỡi cha thân yêu, mà đời sống cũng nặng nhọc như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… Con chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống con người, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay”( Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 59-60).
TRUNG THÀNH TRONG HÔN NHÂN.
Còn một vấn đề rất quan trọng trong hạnh phúc hôn nhân mà ngày nay người ta đã coi thường, đó là trung thành trong đời sống hôn nhân. Ngày xưa người ta chỉ chú trọng vào sự chung thủy của người phụ nữ màø không đề cập đến đàn ông. Người ta đã có một cái nhìn thiên lệch về phụ nữ với quan niệm “chồng chúa vợ tôi”. Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh phải tuyệt đối chung thủy với chồng mình. Họ phải giữ cái đạo “Tam tòng” :
Tại gia tòng phụ
Xuất giá tòng phu.
Phu tử tòng tử
Nghĩa là : người con gái ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông được thả lỏng :
Trai thì năm thê bảy thiếp.
Trong khi đó thì :
Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Và nếu có một vợ một chồng thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là :
Nhất phu nhất phụ
Mỗi mụ mỗi nơi.
Còn thời nay thì sao ? Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo theo phương châm “Hay thì ở, dở thì đi”. Có nơi số đôi hôn phối ly dị lên tới 50% hay hơn nữa. Các hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia đình bị lung lay tận nền tảng, tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ vì những lý do không đâu.
Truyện : Trên chuyến xe đò.
Có một lần trên chuyến xe đò đi Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than rằng chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng. Sau cùng, có một bà kết luận : chỉ có mấy bà công giáo là sướng. Đạo của họ cấm chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau.
Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng vì từ xưa và cho đến nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ đã là nét son của hôn nhân công giáo. Vì ai cũng biết hôn nhân công giáo là một khế ước song phương được ký kết giữa hai người nam và nữ. Do đó, hôn nhân của công giáo có hai đặc tính là “đơn nhất và vĩnh viễn”. Không ai có thể hủy bỏ hôn ước khi cả hai người còn sống vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9).
Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải tuyệt đối trung thành với người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ trộm vụng của người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén cho kẻ khác không phải là bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi đêm lắm có ngày gặp ma”… thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió.
Để kết luận, chúng ta hãy dâng lên Thánh Gia lời cầu xin cho các gia đình :
Lạy Chúa Giêsu,/ chúng con xác tín rằng: / Hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa,/ công trình của yêu thương,/ khôn ngoan và thanh thiện./ Chúng con tin rằng,/ Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn,/ để hôn nhân được hạnh phúc,/ trong sự duy nhất và bền bỉ,/ trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.
Lạy Chúa,/ Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích./ Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau,/ cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái,/ cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ./ Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ,/ tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của ho,ï/ và được trưởng thành trong Chân lý và Tình thương.
Lạy Thánh gia Nazareth,/ là gương mẫu của đời sống thánh thiện,/ công bình và yêu thương./ Xin cho gia đình chúng con,/ trở nên nơi đào tạo nhân đức,/ trong hiền hòa,/ phục vụ và cầu nguyện./ Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách./ Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình,/ đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội,/ và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội.
CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?
- Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
- Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?
BÀI HỌC VỀ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Tại Malila ngày 05-01-1964 trong bài huấn từ Đức Thánh Cha Phaolô VI nói: cuộc sống ở Nagiareth đem lại cho chúng ta 3 bài học này.
Trước hết là bài học về thinh lặng.
Đức Thánh Cha nói: “Đây là điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ước chi sự thinh lặng của Nadarét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở về với nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn.”
Truyện kể rằng: Trước khi ông Moisê dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, người phải qua một thời gian huấn luyện dưới sự chỉ giáo của một thầy dạy. Kỷ luật đầu tiên mà Moisê phải tuân giữ, là sự im lặng tuyệt đối trước bất cứ điều trái ý nào.
Một hôm, hai thầy trò đi du ngoạn tại một miền quê có đồi núi hùng vĩ, cây cối xanh tươi, hoa cỏ muôn màu muôn sắc, sông nước trong mát. Nhưng Moisê cũng phải im lặng không dám mở miệng khen ngợi.
Ðến gần bờ sông, Moisê thấy một đứa bé đang chìm dần xuống nước, trong khi đó người mẹ trên bờ sông không biết làm gì hơn là khóc than thảm thiết.
Moisê không cầm lòng được trước cảnh tượng đáng thương đó, liền buột miệng nói:
– Thầy không thể làm gì để cứu đứa bé được chăng?
Thầy giáo bảo Moisê hãy giữ im lặng.
Moisê cắn lưỡi giữ yên, nhưng cảm thấy áy náy trong tâm hồn. Ông tự nghĩ, không lẽ thầy mình lại có tấm lòng chai đá như vậy hay sao? Hay là chỉ vì bất lực không thể cứu giúp người gặp cảnh khó khăn được? Mặc dù Moisê không dám nuôi những tư tưởng xấu về thầy mình, nhưng lại rất khó mà xua đuổi những tư tưởng ấy đi.
Hai thầy trò lặng lẽ tiếp tục tiến về phía biển. Ðứng trên bờ biển, Moisê thấy chiếc thuyền nhỏ lao đao, vật lộn với sóng lớn và đang chìm dần với cả nhóm thủy thủ. Moisê kêu lên:
– Lạy thầy, xin hãy nhìn xem kìa, chiếc thuyền nhỏ đang chìm dần.
Một lần nữa thầy giáo ra hiệu cho Moisê phải giữ im lặng. Moisê không dám nói gì thêm nữa, nhưng trong lòng không khỏi phân vân lo lắng.
Khi hai thầy trò trở về nhà, Moisê liền đem sự việc đến bàn hỏi cùng Chúa.
Chúa phán:
– Thầy con làm như vậy là có lý, đứa bé chết đuối trong nước sông, nếu không chết, lớn lên nó sẽ là tên tướng giặc gây chiến giữa hai quốc gia, và hàng ngàn người vô tội sẽ phải chết thảm thương. Còn chiếc thuyền nhỏ ngoài biển kia đang chở theo một bọn cướp hung dữ, chúng đang dự bị tấn công một làng nhỏ gần vùng biển. Nếu chúng không bị đắm thuyền, thì chúng sẽ cướp phá và giết hại dân làng vô tội.
Ước chi mỗi người chúng ta biết quí trọng sự thinh lặng, tìm ra những giây phút thinh lặng để được kết hợp với Chúa và để nghe Chúa nói với chúng ta như Đức Maria và thánh Giuse thuở xưa.
Thứ đến bài học về lao động.
Đức thánh Cha nói: “Căn nhà Nagiaréth, là ngôi nhà của người con bác thợ mộc. Hơn bất cứ nơi nào khác, tại đây chúng ta hiểu được và ca tụng lề luật tuy khắt khe nhưng mang tính cứu chuộc đòi buộc con người phải lao động. Tại đây, tôi mong ước mọi người ý thức lại về sự cao cả của lao động. Tại đây, dưới mái nhà này, tôi muốn nhắc nhở rằng lao động tự nó không phải là cùng đích. Đàng khác, sự tự do và tính cao cả của lao động không hệ tại ở các giá trị kinh tế mà thôi, nhưng còn ở những giá trị hướng lao động đến cứu cánh đích thực của nó.”
EUCLIDE, nhà toán học thành Athène ở Hylạp, sống trước đây 23 thế kỷ, đến thành Alexandria mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai cập, dẫn hoàng từ Seronus đến xin học và xin ông dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là hoàng tử.
Euclide trả lời:
– Tâu Vua, không có lối học đế vương; mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải cố gắng hết sức tập trung ý chí và làm việc hăng say. Cách ngôn nói:
“Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ”.
“Đại dương dễ dàng rơi ra những viên sỏi nhưng dấu kín những hạt ngọc”.
Nhà toán học Euclide không chủ trương dạy làm giàu, như dạy phát triển đức tính tốt. Ông nói với Vua Ptolémée biết rằng không dễ mà trở thành một nhân tài. Phải thu hút sức lực, tập trung ý chí mới có thể lãnh hội được kiến thức.
Theo Euclide, kiến thức chỉ có hiệu quả nơi những người có tim óc thuận lợi. Cũng như Lời Chúa chỉ được hiệu nghiệm nơi những tâm hồn biết đón nhận và sẵn sàng, đúng như dụ ngôn Chúa nói về người gieo giống. (Mc 4, 1-20).
Sau cùng là bài học về đời sống gia đình.
Đức thánh Cha nói: “Nadaréth dạy cho chúng ta biết ý nghĩa của gia đình, của sự hiệp thông trong tình yêu, của vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, cũng như tính cách linh thánh và bất khả xâm phạm của gia đình. Ước chi Nadaréth chỉ cho chúng ta biết rằng việc huấn luyện tại gia đình êm dịu biết dường nào, và không gì có thể thay thế được. Ước chi Nadaréth dạy cho chúng ta biết vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội.”
Vâng! Nazareth cho chúng ta biết được ý nghĩa của một gia đình, biết được ý nghĩa của sự hiệp thông trong tình yêu và nhất là cho chúng ta biết vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội.
Lincoln vốn xuất thân trong một gia đình làm nghề đóng giày. Trong khi tranh cử cho một cuộc vận động bầu tổng thống, ông đã bị một nghị sỹ sỉ nhục về thân thế yếu hèn của gia đình mình.
Để gây sốc đồng thời làm mất đi ý chí và sự tự tin của Lincoln, vị nghị sĩ ấy đã nói thẳng với Lincoln: “Thưa ngài Lincoln, trước khi ngài diễn thuyết, tôi hy vọng ngài nhớ rằng, ngài là con trai của một người đóng giày”. Ai ngờ Lincoln không hề tự ti mặc cảm chút nào. Ông nói “Tôi vô cùng cảm ơn ông đã làm tôi nhớ lại người cha đáng kính của tôi. Tuy cha tôi đã qua đời rồi, nhưng nhất định tôi sẽ ghi nhớ mãi lời nhắc nhở chân thành của người. Tôi biết rằng nếu tôi có làm tổng thống thì cũng sẽ không thể giỏi như cha tôi làm nghề đóng giầy”.
Nghe những lời nói chân thành của Lincoln, vị nghị sĩ kia chìm trong im lặng. Rồi Lincoln quay đầu lại, nói với viên nghị sĩ ngạo mạn rằng “Theo tôi được biết, trước đây cha tôi đã từng đóng giày cho những người trong gia tộc ông. Nếu giày của ông không vừa chân, tôi có thể sửa cho ông. Tuy tôi không phải là một người thợ đóng giày vĩ đại như cha tôi, nhưng từ bé tôi đã đi theo cha và học được một số kỹ năng”. Sau đó, Lincoln nói với tất cả các nghị sĩ “Với bất kỳ ai trong thượng nghị viện này cũng vậy, nếu giày của quí vị là do cha tôi đóng, mà quí cần sửa chúng, nhất định tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp quí vị. Thế nhưng, tôi xin nói trước với quí vị một điều, tôi không vĩ đại như cha tôi, tay nghề của ông ấy không ai có thể sánh kịp”.
Nói đến đây, Lincoln rưng rưng nước mắt. Trong chốc lát, tất cả những sự chế giễu đều biến thành những tràng vỗ tay chân thành. Sau đó, Lincoln đã trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ 16.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm
đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,”
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
GIA ĐÌNH MẪU MỰC CHO MỌI GIA ĐÌNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào xứng đáng là mẫu mực cho mọi gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì khác hơn là thánh gia thất Nadarét.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã cùng nhau xây nên một gia đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.
Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người công chính.
Là người công chính, thánh Giuse đã không hành động cách nông nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người bạn trăm năm của mình mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao dung, quảng đại và khôn ngoan. (Mt 1, 19)
Thánh Giuse là một người cha luôn mau mắn phục vụ gia đình không quản khó nhọc, không quản ngày đêm: “Đang đêm, sứ thần hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ và bảo: “hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập”, thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14). Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en”, thánh Giuse mau mắn thi hành không do dự. ( Mt 2, 19 # 21)
Thánh Giuse là người lao động cần cù để nuôi dưỡng gia đình. Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ trong làng Nadarét thì người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét gọi Chúa Giêsu là con bác thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. ( Mt 13, 55).
Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời.
Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường. Cho dù được sứ thần Gabrien gọi là “Đấng đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì Mẹ vẫn nhận mình chỉ là “nữ tì hèn mọn” (Lc 1, 48).
Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và phục vụ: khi vừa hay tin người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai trong tuổi già, Mẹ tất tả lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian thai nghén và sinh nở ròng rã ba tháng trời.
Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc người khác, thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là người nhà, Mẹ là người đầu tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách chữa cháy cho sự việc nầy. (Ga 2, 3)
Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù phải nôn nao, lo lắng, cực lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ vẫn giữ được sự dịu dàng hiếm có: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”
Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.
Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu đã trở thành một người con hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế. Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ mạng.
Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể, nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Thánh Luca tóm tắt cuộc sống tại gia của Ngài như sau: “Người hằng vâng phục cha mẹ… ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 51-52)
* * *
Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một ngôi nhà rất đẹp, rất ấm cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa nhận thấy đây là một mẫu nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô hình đó để dựng xây gia đình mình y như vậy.
Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
* * *
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình, nhắn nhủ: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình… Những gì mà các thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa”.
Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa Giêsu ưu ái trao tặng cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Và thế là một phần thưởng vô cùng quý báu đang nằm trong tầm tay mọi người.
GIA ĐÌNH THÁNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Ai cũng có một gia đình. Trong đó, con cái phát triển và trưởng thành nhờ tình yêu của cha mẹ, và cha mẹ có thể được trổi trang vinh dự nhờ con cái. Đối với một vài người, gia đình cũng có thể là nơi người ta cảm thấy bị đàn áp và muốn thoát ra, nhưng cứ bình thường gia đình là mái ấm mà mọi người mong ước được trở về. Để gia đình thành tổ ấm thân thương, mỗi người được mời gọi để noi gương Thánh Gia mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Con cái là qùa tặng của Thiên Chúa cho cha mẹ
Anna hiếm mọn không con, bị những người láng giềng cười chê, cho là người vô phúc, bị Thiên Chúa nguyền rủa. Dù được chồng Elkana cưng chiều nhưng bà vẫn buồn. Bà thường cầu xin với Chúa, để Chúa cho bà được một người con. Mỗi năm người Do Thái đều đi lên Giêrusalem để thờ phượng Chúa theo luật, và bà Anna đã cầu nguyện sốt sắng trong dịp này trước mắt thầy thượng tế Hêli. Thầy tưởng bà say rượu nói nhảm, nên khuyên bà đi giải rượu. Được bà Anna giải thích, thầy hiểu và đã chúc lành cho bà. Khi trở về bà có thai và sinh ra Samuel, một thẩm phán nổi tiếng kế vị Hêli, đã xức dầu phong vương cho cả Saul lẫn Đavit.
Samuel là qùa tặng Thiên Chúa ban cho bà Anna. Điều bà Anna mong ước, Thiên Chúa đã ban cho bà, và bà đã dâng Samuel lại cho Chúa như bà đã khấn nguyện. Con cái là qùa tặng Thiên Chúa ban cho cha mẹ, nên các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng sẵn sàng dâng con cho Chúa, đừng bao giờ ngăn cản con “thuộc về Chúa”.
Con cái ngoan hiền tài giỏi, là vinh dự và niềm tự hào của cha mẹ; nhưng con hư lại là mối tủi nhục, thế nên những người làm con đừng làm hổ danh hoặc đau lòng cha mẹ mình. Hãy cố gắng thành người tốt, để cha mẹ được hãnh diện về mình.
Cách thức cha mẹ đối xử với con cái
Mỗi năm cha mẹ Đức Giêsu đều đi Giêrusalem dự lễ hội Vượt Qua. Đây là lễ kỷ niệm Thiên Chúa giúp dân Do Thái vượt qua biển đỏ, thoát khỏi sự truy lùng của người Aicập. Từ Nadarét tới Giêrusalem xa khoảng trên 100 cây số, và vì hồi đó chưa có phương tiện di chuyển như bây giờ, cũng như các ngài là những người nghèo, nên các ngài phải đi bộ khoảng ba ngày đường. Gian nan cực khổ để đi thờ phượng Chúa. Sự kiện trên cho thấy thánh Giuse và Đức Mẹ đạo đức như thế nào. Cách các ngài sống đạo rất gần với lối sống đạo của đa số dân quê Việt Nam.
Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, Đức Giêsu được đi cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ. Sau lễ hội khoảng một tuần, gia đình thánh cùng với tất cả người làng Nadarét ra về, nhưng Đức Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Ngài không biết, tưởng Ngài đi chung với những người khác cùng làng Nadarét. Sau một ngày đường, cha mẹ Ngài mới nhận ra Ngài không có trong đoàn lữ hành, và cha mẹ Ngài đã lập tức đi tìm. Hãy hình dung để cảm nghiệm nỗi lo lắng của Đức Mẹ và thánh Giuse như thế nào. “Tại sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con”. Đức Giêsu đáp lại: “tại sao lại tìm con, lại không biết rằng con phải ở nhà Cha con sao?” Đức Maria và thánh Giuse không hiểu lời của Đức Giêsu. Tại sao con của mình nói như vậy? Tuy vậy Mẹ im lặng, và thánh Giuse không nói một lời.
Ở vào địa vị chúng ta, nếu con cái của chúng ta làm như Đức Giêsu đã làm, chúng ta đã đối xử với con cái của chúng ta như thế nào? Chúng ta học được gì qua cách đối xử với con của Đức Mẹ và thánh Giuse?
Cung cách hành xử của người con
Đức Giêsu trở về Nadarét cùng với Đức Mẹ và thánh Giuse, và hằng tùng phục các Ngài. Đức Giêsu càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và được nhiều người yêu mến. Vâng phục cha mẹ, đó là điều dễ nhất và khó nhất mà Ngài không thua bất cứ ai.
Ngài đối xử rất tốt với các bạn cùng trang lứa, kính trọng các người lớn tuổi, chu toàn phận vụ làm con: thảo hiếu và giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã sống như tất cả các thiếu niên khác trong làng, nhưng tâm hồn Ngài luôn hướng về Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa vẫn là nhất đối với Ngài, dù Ngài sống ở đâu và vào bất cứ thời điểm nào.
Thánh Gia, gia đình gồm những con người thánh, nghĩa là những người chọn Thiên Chúa trên tất cả, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Thánh Giuse tôn trọng và yêu mến Đức Mẹ cùng Đức Giêsu. Đức Mẹ yêu mến và trân trọng thánh Giuse và con mình. Đức Giêsu luôn yêu mến, kính trọng và tùng phục cha mẹ. Khi còn sống ở Nadarét, Đức Giêsu không làm cái gì đặc biệt khác người, trừ chính thái độ sống khiêm tốn và dễ thương đối với Thiên Chúa và con người.
Trong ngày lễ Thánh Gia, mỗi người hãy cầu nguyện cho mọi gia đình, cho cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, được bắt chước thánh Giuse, Đức Mẹ, Đức Giêsu, để nên thánh qua cách đối xử với nhau. Nên thánh, nằm trong tầm tay của mỗi người nhưng dường như mỗi người đều bất lực. Xin Chúa giúp để chúng ta làm được tất cả, để mỗi người chúng ta nên thánh và làm cuộc sống của mình và của những người thân được hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
-Theo bạn, thánh Giuse làm được điều gì đặc biệt hơn một người chồng và một người cha bình thường? Đức Mẹ làm được gì đặc biệt hơn một người vợ và một người mẹ bình thường? Và Đức Giêsu làm được gì đặc biệt hơn một người con bình thường?
-Theo bạn, thập giá lớn nhất của đời sống gia đình là gì?
-Theo bạn, “Đức” Giuse và Đức Maria nên thánh bằng cách nào?
SỢI CHỈ ĐỎ TÌNH YÊU- Trích Logos C
Vào tháng 9 năm 2006 vừa qua, tờ nhật Báo Bild am Sonntag, xuất Bản tại Đức đã quả quyết : năm 1920, cha mẹ của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 gặp gỡ nhau nhờ mục “Tìm Bạn Bốn Phương” trên một tờ Báo vùng Bavaria, nước Đức. Nhật Báo này đã tìm được hai mẩu tin nhắn của thân phụ Đức Giáo Hoàng là ông Joseph Zatzinger với nội dung như sau : “Một công chức Bình thường, Công Giáo, độc thân, 43 tuổi, tìm một thiếu nữ Công Giáo Biết nội trợ và vá may chút đỉnh để đi đến hôn nhân”. Mấy tháng sau, một cô gái làm nghề cấp dưỡng tên Maria Peintner đã trả lời mẩu tin nhắn. Họ đã tìm hiểu nhau và kết hôn vào ngày 9/11/1920. Hai ông Bà sinh được 3 người con : Maria, qua đời năm 1991; Georg, một linh mục đã 82 tuổi và Joseph, trở thành đương kim Giáo Hoàng (Theo AP, Reuters).
Tuy nên vợ nên chồng chỉ Bằng mục “Tìm Bạn Bốn Phương”, nhưng đôi vợ chồng ấy đã xây dựng được một gia đình hạnh phúc và đạo đức. Họ đã dâng hiến cả hai người con trai cho Thiên Chúa : Một làm Linh mục, một làm Giáo Hoàng. Quả thật, gia đình của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô là một gia đình gương mẫu.
Hôm nay, ngày Lễ Thánh Gia Thất, chúng ta tự hỏi : thế nào là một gia đình gương mẫu ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy chiêm ngưỡng Thánh Gia Thất : Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Đó chính là một gia đình gương mẫu tuyệt vời cho mọi gia đình qua mọi thế hệ.
Trong Bài Tin Mừng, thánh Luca đã thuật lại câu chuyện Mẹ Maria và thánh Giuse “lạc mất” Chúa Giêsu khi lên đền thờ Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Trong câu chuyện này, chúng ta nhìn vào mỗi thành viên trong Gia Đình Thánh ấy để thấy mỗi Đấng có một “điểm sáng” riêng làm nên “tấm gương sáng” rạng ngời cho chúng ta. Đàng khác, tuy “lạc nhau” nhưng các Đấng luôn tìm thấy nhau nhờ “sợi chỉ đỏ tình yêu”. Nhờ mối dây tình yêu Bền chặt ấy, các Ngài đã liên kết với nhau để trở thành một gia đình gương mẫu.
Thánh Giuse, người cha hiền lành
Trong câu chuyện Chúa Giêsu Bị “lạc mất” tại Giêrusalem, chúng ta thấy một nhân cách kỳ lạ của thánh Giuse : sự thinh lặng. Trong suốt câu chuyện, các nhân vật đối thoại với nhau rất nhiều. Trước hết là Chúa Giêsu. Sau 3 ngày tìm kiếm, cha mẹ Ngài tìm thấy Ngài trong đền thờ, ngồi giữa các vị tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Chúa Giêsu đã đàm đạo với các người thông giỏi và đã làm cho họ cảm phục. Thứ đến là Đức Mẹ Maria. Đoạn Tin Mừng đã ghi lại cuộc đối thoại giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu khi các Ngài gặp lại nhau. Hai Mẹ Con đã Bày tỏ nỗi lòng cũng như công việc của mình trong 3 ngày xa cách. Cuối cùng là thánh Giuse. Giữa những ồn ào náo động của những ngày hành hương tại Giêrusalem, giữa những cuộc đối thoại của Bao người, thánh Giuse vẫn thinh lặng. Ngài thinh lặng và nhẫn nại đi tìm Chúa Giêsu, không một lời than thở hay tức Bực. Ngài thinh lặng khi tìm thấy Chúa Giêsu, không một lời trách mắng hay phàn nàn. Ngài thinh lặng trở về Nazareth để tiếp tục vai trò của một người chồng, người cha hiền lành và siêng năng phục vụ gia đình. Sự thinh lặng của thánh Giuse không phải Biểu lộ tinh thần nhu nhược hay thiếu trách nhiệm. Nhưng ngài nói Bằng việc làm hơn là ngôn từ suông. Ngài thinh lặng, nhưng trong lòng đầy ắp tình yêu phụ tử đối với Chúa Giêsu và tình yêu phu thê đối với Mẹ Maria. Thánh Giuse xứng đáng là người cha gương mẫu cho mọi người cha.
Mẹ Maria, người mẹ hết lòng yêu con
Theo tâm lý thông thường, người mẹ khi lạc mất con sẽ vô cùng lo lắng và đau khổ. Vì thế, thật vui mừng Biết Bao khi người mẹ tìm lại được người con đã lạc mất. Mẹ Maria đã xúc động nói với Chúa Giêsu khi gặp lại Ngài : “Cha Con và Mẹ đây đã đau khổ tìm con”. Nhưng Chúa Giêsu đã đáp lại một câu khó hiểu : “Tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không Biết rằng con phải lo việc của Cha Con sao?”. Chính lúc ấy, Mẹ Maria và thánh Giuse đều không hiểu lời nói của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì. Nhưng Mẹ Maria đã ghi nhớ và suy gẫm các sự việc trong lòng để sau đó, đã nhận ra sứ vụ cao cả của Chúa Giêsu : Ngài còn phải lo “công việc của Cha Ngài”, nghĩa là Ngài phải chu toàn sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Chỉ có người mẹ hết lòng yêu con mới thấu hiểu tất cả những gì thuộc về người con. Chỉ có người mẹ thương con tha thiết mới sẵn sàng hiệp thông với người con trong mọi sự. Mẹ Maria đã thể hiện vai trò từ mẫu khi thông phần vào công cuộc cứu độ trần gian của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, người con hiếu thảo
Trước hết, Chúa Giêsu đã luôn tỏ ra là người con thảo hiền đối với Chúa Cha. Dù là con trong gia đình Nazareth, nhưng thực ra, Ngài chính là một Thiên Chúa cao cả, không phải thi hành luật lệ của loài người. Thế nhưng, Ngài vẫn tuân thủ lề luật. Dù luật lệ chỉ Bắt những người nam từ 13 tuổi trở lên mới phải đi lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, nhưng Chúa Giêsu mới 12 tuổi đã lên Giêrusalem để thi hành luật lệ. Ngài muốn chứng tỏ lòng yêu mến lề luật và qua đó là yêu mến thánh ý Chúa Cha. Đó cũng là cách Ngài muốn làm gương cho mọi người.
Chúa Giêsu còn chứng tỏ lòng yêu mến và thảo hiếu với Cha Ngài khi Ngài tỏ lộ lòng nhiệt thành tha thiết với “công việc của Cha Ngài”. Mặc dù khi Biểu lộ sứ mạng Cứu Thế cách Bất ngờ, Ngài đã khiến cho Mẹ Maria và thánh Giuse không thể hiểu được : “Cha mẹ không Biết con phải lo công việc của Cha con ư?”. Tất cả chỉ vì tình yêu Ngài muốn dành cho Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu đã Biểu lộ lòng hiếu thảo với Mẹ Maria và thánh Giuse dưới mái nhà Nazareth. Sau Biến cố tìm thấy Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Thánh Gia Thất đã trở về Nazareth. Ở đó, Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ, Ngài “luôn tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta”. Chúa Giêsu xứng đáng nên gương mẫu cho mọi người con cái trong gia đình qua mọi thế hệ.
Tóm lại, dù Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse là Ba tấm gương với Ba tính cách khác nhau dưới mái gia đình Nazareth, nhưng các Ngài luôn được ràng Buộc với nhau Bởi “sợi chỉ đỏ tình yêu” xuyên suốt và Bền chặt. Thánh Giuse và Mẹ Maria yêu thương nhau trong tình nghĩa vợ chồng. Cả hai ngài yêu thương Chúa Giêsu với tình yêu của Bậc cha mẹ. Đối lại, Chúa Giêsu yêu mến và vâng phục cha mẹ như con thảo. Và “đầu mối” sợi chỉ tình yêu đó xuất phát từ Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn mạch của tình yêu vĩnh cửu.
Ngày nay, tất cả mọi gia đình trong Giáo Hội, nếu luôn Biết gắn Bó với nhau Bằng “sợi chỉ đỏ tình yêu” như thế, họ sẽ không “lạc mất” nhau và nhất là không “lạc mất” Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Chính sợi chỉ tình yêu đó sẽ giúp cho họ luôn hiệp nhất nên một trong tình yêu của Thiên Chúa.
Mới đây, tại Trung Quốc, một câu chuyện tình được Bầu chọn là câu chuyện tình tuyệt vời nhất năm 2006. Câu chuyện đó như sau : Cách đây nửa thế kỷ, chàng trai tên Liu Guojiang đã yêu một quả phụ lớn hơn mình 10 tuổi tên Xu Chaoqing. Bị gia đình và mọi người phản đối, hai người đã đưa nhau lên một hang núi để chung sống. Từ đó, chàng Liu đã Bắt đầu đục 6000 Bậc thang trên núi làm lối để hai người đi. Bây giờ ông cụ Liu đã 70 tuổi, Bà cụ Xu đã 80 tuổi. Nhưng 6000 Bậc thang vẫn còn được dùng để con cháu đi lại. Người ta gọi đó là “những nấc thang tình yêu” (Báo Thanh Niên, số ra ngày 13/11/2006).
Theo mẫu gương của Thánh Gia Thất, với tình yêu, sự thủy chung và lòng hiếu thảo, mọi gia đình có thể tạo cho mình “những nấc thang tình yêu” đưa mọi người vào Bầu trời hạnh phúc viên mãn.
LỄ THÁNH GIA THẤT
THÁNH HÓA GIA ĐÌNH– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Giáo hội mừng lễ Thánh gia thất ngay trong tuần Bát Nhật giáng sinh là có ý nhấn mạnh Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài sinh ra trong một gia đình có cha có mẹ. Như vậy, gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng trong mầu nhiệm giáng sinh, mầu nhiệm con Thiên Chúa xuống thế làm người. Chỉ cần nói như thế cũng đủ cho chúng ta thấy rằng: gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo hội.
Gia đình là cái nôi sự sống, là mái ấm tình thương, là nơi mà mỗi người chúng ta được sinh ra và lớn lên, được dưỡng dục, được trải nghiệm những giây phút thần tiên đầu đời. Còn gì đẹp hơn hình ảnh vợ chồng và con cái xum họp nhau.
Ngày nay, người ta quan niệm gia đình lý tưởng, là người chồng có công ăn việc làm thu nhập cao, người vợ xinh đẹp và việc làm cũng ổn định. Có nhà lầu xe hơi và con cái chăm chỉ học hành.
Thế nhưng, Tin mừng lại trình bày cho chúng ta một gia đình lý tưởng theo khuôn mẫu khác. Thánh Giuse không phải là người có học vị tiến sĩ, cũng không phải là một nhà kinh doanh. Còn Mẹ Maria không phải là một hoa hậu hay thiếu nữ học thức ở thành phố biết ăn diện sành điệu, nhưng thánh Giuse chỉ là một bác thợ mộc nghèo, và Mẹ Maria là thiếu nữ âm thầm trong làng quê Nazareth. Vậy mà, cả hai đã thực sự sống trọn vẹn lý tưởng của đời sống hôn nhân hơn mọi gia đình khác.
Thế thì, con xin hỏi quí ông bà và anh chị em: thời gian tuổi ấu thơ của Đức Giêsu, Ngài có đi học như chúng ta không?. Mặc dù Thánh Kinh không kể lại Đức Giêsu đi học ở trường nào, nhưng dựa vào lời thánh Phaolô nói ” Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”. Như vậy, Đức Giêsu học ở mái trường Nazareth, thánh Giuse và Đức Mẹ là thầy cô giáo đầu tiên, tập cho Chúa đi, tập cho Chúa ăn, tập cho Chúa nói…. Bởi vì sinh con và giáo dục con cái là trách nhiệm hàng đầu của cha mẹ.
Trong thư chung của Hội đồng Giám mục Việt nam có nhắn nhủ: ” Chính cha mẹ là những Giáo lý viên đầu tiên, dạy cho con cái mình biết Chúa ngay từ tấm bé bằng những lời cầu nguyện đơn sơ. Tập cho con cái mình biết làm dấu Thánh giá, rồi khi chúng lớn lên, cha mẹ dẫn chúng đi tham dự thánh lễ, đi học Giáo lý, tham gia nhưng việc đạo đức để lớn lên trong đời sống đức tin” (số 14).
Như Tin mừng hôm nay ghi lại, hằng năm thánh Giuse và Đức Mẹ dẫn Chúa Giêsu đi hành hương lên đền thờ Giêrusalem. Qua đó, gia đình Thánh Gia nêu gương cho các bậc cha mẹ bổn phận giáo dục đức tin cho con cái. Rất có thể Chúa Giêsu nhìn thấy cảnh nhộn nhịp của thành Giêrusalem và bầu khí sốt sắng trong đền thờ nên Ngài ở lại, nhưng khi nhìn thấy cha mẹ vì mình mà phải lo lắng đi tìm, thì “Ngài liền đứng dậy trở về nhà vâng phục hai ông bà” (Lc 2,51).
Qua đó, chúng ta ghi nhận rằng: tinh thần vâng lời của Chúa Giêsu được hấp thụ từ trong mái ấm gia đình, nhờ lời dạy bảo của cha mẹ, chứ không phải từ học đường hay nơi trung tâm văn hoá nào khác.
Cho nên, nhân ngày quốc tế gia đình, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng: ” Tương lai của Giáo hội và xã hội hệ tại ở các gia đình”. Tại sao Ngài không nói tương lai của Giáo hội và xã hội hệ tại ở các dòng tu hay các trường học, mà là ở các gia đình? Thưa, vì gia đình là trường học, là chủng viện đầu tiên giáo dục những con người tốt cho Giáo hội và cho xã hội.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắn nhủ những ai sống ơn gọi hôn nhân: “Hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
Anh chị em thân mến,
Nhìn vào gia đình ngày nay, có những gia đình đang đối diện với những khó khăn. Lý do là vì không sống theo điều Chúa dạy, không trung thành với lời giao ước hôn nhân, mà đôi vợ chồng đã thề hứa trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh. Đồng thời, do môi trường xã hội có nhiều thứ hấp dẫn lôi kéo, làm cho vợ chồng khó trung thành chung thủy với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, đi đến những mối tình vụn trộm, ông ăn chả, bà ăn nem.
Rồi vì hoàn cảnh làm ăn sinh sống, chồng làm một nơi, vợ làm một nẻo, con cái đi học thêm, cho nên hiếm khi có những bữa cơm chung hay những giờ kinh tối trong gia đình.
Cũng chỉ vì cơm áo gạo tiền, lo toan kinh tế, cho nên một số cha mẹ không quan tâm đủ, không dành thời giờ cho con cái, nhất là những đứa con đi học hay đi làm ở xa gia đình, thiếu sự nhắc nhở của cha mẹ, nên con cái dễ bị hư hỏng.
Một số cha mẹ chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, làm sao kiếm được nhiều tiền, chứ ít quan tâm đến đời sống đạo đức giáo dục đức tin cho con cái.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, chúng ta cầu nguyện cho hết mọi gia đình trên toàn thế giới, biết noi theo mẫu gương gia đình Nazareth xưa, là luôn coi trọng tình nghĩa vợ chồng, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, biết chăm lo giáo dục đức tin cho con cái, nhất là đời sống đạo đức, và trong mọi sự luôn sống theo Thánh ý Chúa. Amen.
THÁNH GIA, GƯƠNG SÁNG CỦA TIN YÊU- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: “chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng”. Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam – Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: “Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm”. Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giê-su, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.
GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tolstoy viết lời mở đầu cuốn sách “Anna Karenina”: Những gia đình hạnh phúc đều giống nhau, nhưng gia đình bất hạnh thì lại muôn màu muôn vẻ.
Vậy gia đình hạnh phúc có những điều nào giống nhau? Thực tế cho thấy rằng, một gia đình hạnh phúc là mẹ được ưu ái, cha được tôn trọng và con được tiếp nhận. Mẹ được chiều chuộng, gia đình càng hạnh phúc. Cha được tôn trọng sẽ càng yêu mẹ hơn. Con cái được tiếp nhận, gia đình mới thực sự là mái ấm.Gia đình là thế giới của mẹ, là vương quốc của cha, là khu vườn thần tiên của con trẻ. Đây chính là hình mẫu về một mái ấm hạnh phúc.
Gia đình là tổ ấm yêu thương cho từng thành viên. Trước ngưỡng cửa của đời sống hôn nhân gia đình, ai cũng muốn cho mình có được một cuộc tình êm xuôi, một gia đình hạnh phúc, trên thuận dưới hoà, con cái hiếu thảo, vợ chồng yêu thương nhau. Hôn nhân gia đình là một quyết định và là bước ngoặt lớn trong cuộc sống con người, nên người ta đặt vào đó cả niềm hy vọng và sự mong đợi lớn lao.
Đời sống hôn nhân gia đình có một ơn gọi và sứ mạng cao quý trong Giáo hội và xã hội. Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong khung cảnh của một gia đình. Qua cuộc sống của Thánh Gia, “chúng ta hiểu cách sống trong gia đình. Nadarét nhắc chúng ta về ý nghĩa của gia đình, về sự hiệp thông tình yêu, vẻ đẹp đơn sơ và giản dị, tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình; Nadarét làm cho chúng ta thấy gia đình là một trường học ngọt ngào và không thể thay thế, dạy cho ta biết thế nào là chức năng tự nhiên của gia đình đối với trật tự xã hội” (ĐTC Phaolô VI, Diễn từ tại Nadarét)…Muốn có những con người tốt và những Kitô hữu thánh, gia đình phải tốt và thánh thiện; muốn đổi mới đất nước, xã hội và Hội Thánh, phải bắt đầu từ gia đình. “Gia đình là con đường của Hội Thánh” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi các gia đình, số 2).
Lễ Thánh Gia, Giáo hội mời gọi mỗi gia đình Công giáo hướng về gia đình Nadarét. Không phải lúc nào cũng màu hồng mà Tin Mừng cho thấy Thánh Gia đã trải qua những lận đận lao đao vất vả giữa bao hiểm nguy khó khăn thử thách trăm bề. Thánh Giuse khéo léo chống chèo vượt qua tất cả và cùng với Mẹ Maria – Chúa Giêsu xây dựng mái ấm hạnh phúc.
Thánh Gia là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác, chuẩn bị cho Chúa Giêsu gánh vác sứ vụ Chúa Cha trao phó sau này.Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật trường này, chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ và Người đã lớn lên chững chạc, trưởng thành, quân bình thể xác trí tuệ, tâm linh. Chúa đã sống học tập rèn luyện 30 năm để rao giảng 3 năm. Một năm Chúa Giêsu giảng đạo thì 10 năm Người ở với gia đình. Chúa ưu tiên và đề cao tầm quan trọng của gia đình biết bao.
Mái ấm gia đình
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba câu nói của ba con người – vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ – đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình”.
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
Hạnh phúc gia đình
Theo Đức cha Bùi Tuần, có ba yếu tố làm nên hạnh phúc gia đình: Quy tụ gia đình; Lễ giáo gia đình và Tình nghĩa gia đình.
Quy tụ gia đình
Gia đình là nơi con người được “ở với nhau”. Các môn đệ đầu tiên không tìm đến với Chúa Giêsu như một vị thầy dạy học, nhưng như “Đấng ở với” (Ga 1,38). Chúa đã mời gọi các ông, trước tiên không phải là học một bài học, mà là xem chỗ Người ở và ở lại với Người (Ga 1,39). Cũng vậy các thành viên trong gia đình hiện diện cho nhau với toàn vẹn cái tôi của mình, được chấp nhận và chấp nhận người khác với toàn vẹn cái tôi ấy. Dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, gia đình là nơi chốn bình an cho tâm hồn mình; “Đấng Tạo Hoá đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người nên gia đình trở thành ‘tế bào đầu tiên và sống động của xã hội’ (x.Tông huấn gia đình số 42).
Quy tụ là họp mặt, là gặp nhau, là nói chuyện với nhau, là gần gũi nhau, là chia sẻ với nhau. Quy tụ gia đình làm nên một bầu khí ấm áp thiêng liêng. Có thể nói, mọi quy tụ gia đình, dù thường ngày, dù bất thường, đều mang bầu khí đạo đức, có ánh sáng của đức tin và có hương thơm của đức ái.Quy tụ gia đình như thế sẽ có Chúa hiện diện. Nhờ có Chúa hiện diện, gia đình sẽ biết phân định điều gì là tốt cần làm, điều gì là xấu cần tránh, nhất là trong tình hình hiện nay tốt xấu lẫn lộn một cách quá phức tạp.
Lễ giáo gia đình
Lễ giáo là nghi lễ và giáo dục gia đình. Gia đình là một cộng đoàn, một đời sống chung của những con người. Họ có những dây liên đới với nhau. Nên cần phải có những hình thức thể hiện những dây liên đới đó. Do vậy, mà phải được giáo dục, để có được lối sống liên đới tốt đẹp, trong trật tự. Liên đới thấp nhất thuộc nhân bản của cộng đoàn là biết diễn tả sự gần gũi nhau và có trách nhiệm đối với nhau. Biết siêng năng và lương thiện làm hết sức mình, để góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc chung gia đình, đó là nét đẹp căn bản của lễ giáo gia đình.Biết chào kính, chào thăm, chào hỏi, với nhiều bình thức, là một nghi lễ đơn sơ chứng tỏ con người có giáo dục gia đình. Biết cảm ơn, biết xin lỗi cũng là những điều lễ phép thô sơ của con người có giáo dục trong cộng đoàn. Biết kính trên nhường dưới cũng là một biểu hiện lễ phép của nền giáo dục liên đới. Biết sống chân thành và trung thành trong các liên đới gia đình cũng là một giá trị của con người có giáo dục gia đình.
“Các bạn trẻ hãy suy nghĩ kỹ càng và chọn người bạn đời dựa trên tiêu chuẩn tình yêu và các đức tính tốt. Tiền bạc, sắc dục và địa vị xã hội không làm nên hạnh phúc gia đình ; trái lại, nếu không biết sống theo các nguyên tắc đạo đức, rất nhiều khi chính những điều ấy lại trở thành nguy cơ phá hoại hạnh phúc. Cha mẹ hãy hướng dẫn cho con cái biết chọn lựa cho đúng đắn, và con cái cần lắng nghe kinh nghiệm khôn ngoan của cha mẹ. Tuy nhiên cha mẹ không có quyền ngăn cản hay ép buộc con cái theo ý mình. Tự do kết hôn là quyền cơ bản của con cái, và con cái phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình”. (x.Thư Mục Vụ Giáng Sinh 2016, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng)
Tình nghĩa gia đình
Tình nghĩa gia đình cần được vun trồng, cần được chăm sóc, cần được xây dựng với những tình tiết nhỏ. Người tình nghĩa đích thực là người biết xót thương như người Samari đó. Chúng ta chỉ có được một cách đích thực bằng tấm lòng bén nhạy và giàu tình xót thương với những tình tiết nhỏ, do trực giác đạo đức hơn là do lý luận.
Tình yêu gia đình
“Hôn nhân gia đình vốn là hình ảnh tiêu biểu của tình yêu. Những áp lực của đời sống xã hội đang làm rúng động tận nền tảng của đời sống gia đình, làm biến dạng ý nghĩa chân thực của tình yêu. Không kể những đổ vỡ trong đời sống gia đình, trên thế giới ngày nay còn xuất hiện và đang lây lan những mẫu gia đình kỳ lạ, gia đình đồng tính, gia đình tạm thời, gia đình ba hoặc bốn vợ/chồng…Kitô giáo không chấp nhận những mẫu gia đình kỳ lạ ấy, không phải chỉ chúng khác lạ, nhưng vì chúng phá vỡ ý nghĩa đích thực của tình yêu”. (x. Gia đình kitô hữu trước những thách đố thời đại, Nội san chia sẻ số 76).
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ.Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục đức tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có những em sau khi Thêm Sức là bỏ nhà thờ. Sự đa dạng của vi tính và internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế và lao vào thế giới ảo, lối sống ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau.
Các bậc phụ huynh xin hãy nhớ, sức mạnh của sự quy tụ các thành viên trong tình nghĩa và với lễ giáo gia phong sẽ làm thành mái ấm gia đình cao quý. Chính đức tin và tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình. “Quả vậy, chính trong gia đình mà mỗi người lớn lên không những về thể lý, mà cả về tâm lý và đạo đức. Gia đình là ngôi trường đầu tiên dạy những giá trị nhân bản. Chính từ trong gia đình mà mỗi người học được những thói quen và lối sống tốt để từ đó định hình tính tình của mình. Gia đình là nơi mỗi người tập sống mối liên hệ với người khác, tập lắng nghe và tôn trọng tha nhân, tập hy sinh quên mình để sống vì người khác, quảng đại và tha thứ. Nếu lớn lên từ trong môi trường như thế, khi bước vào đời sống xã hội, người trẻ sẽ sống vị tha, hòa hợp và bao dung nhân hậu, thay cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ và tìm cách thống trị người khác. Từ trong gia đình, mỗi người tập sống theo lương tâm ngay thẳng, theo sự thật, công bằng, liêm khiết, tinh thần trách nhiệm, biết làm chủ bản thân và khôn ngoan chọn lựa để sống theo nguyên tắc đạo đức, chứ không gian dối lừa đảo, không nhắm mắt chạy theo đồng tiền và khoái lạc. Cũng từ trong gia đình, con cái được lớn lên trong đức tin qua sự dạy dỗ và đời sống chứng nhân của cha mẹ. Mọi người trong gia đình cùng cầu nguyện chung, cùng tìm thánh ý Chúa và nâng đỡ nhau trong những giờ phút quan trọng, đó chính là bài học đức tin sống động và hữu hiệu” (x.Thư Mục Vụ Giáng Sinh 2016, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng).
Ở các nước Âu Mỹ, có một câu ngạn ngữ nổi tiếng nhà nhà đều biết: “Happy wife happy life”, nghĩa là “Vợ vui lòng, cuộc sống vui vẻ”. Câu này nên trở thành kim chỉ nam của mỗi một ông chồng.Một người phụ nữ được chiều chuộng sẽ rất rạng rỡ, ấm áp, mềm mại như ngọc. Một người đàn ông được tôn trọng sẽ có thần thái, phong độ ngời ngời. Chồng càng yêu thương vợ, vợ lại càng tôn trọng chồng. Vợ càng tôn trọng chồng, chồng lại càng yêu thương vợ. Tình cảm hài hoà, cha mẹ tôn trọng ý nguyện của con cái, quan tâm và tán dương con cái, gia đình thật hạnh phúc, chan hòa niềm vui tình yêu.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Niềm vui của tình yêu trong đời sống của các gia đình cũng là niềm vui của Hội Thánh” (Tông huấn Niềm vui tình yêu, số 1).
Theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình hãy nỗ lực thực thi lời mời gọi của HĐGMVN : “Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Công Giáo”. Hạnh phúc gia đình khởi đi từ tình yêu, niềm tin và hoà bình. Gia đình sẽ là “vườn ươm” các nhân đức, là “nơi đào tạo” nhân bản và tâm linh cho con cái, để trở thành một Hội Thánh tại gia.
KẾT HỢP- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Kể câu truyện vui có ý nghĩa: Vào một tối nọ, ông Ađam về nhà trễ và bà Evà đổ lỗi cho ông là đi lại với người đàn bà khác. Ađam năn nỉ: Tại sao, em yêu, không thể có một người đàn bà nào khác. Tuy nhiên, sau khi ông Ađam ngủ say, bà Evà đã hết sức cẩn thận đếm lại những cái xương sườn còn lại của ông. Thiếu tin tưởng lẫn nhau là một trong những đầu mối gây phiền hà trong đời sống gia đình. Gia đình là một tổ ấm có cha mẹ và con cái. Cha mẹ là rường cột và là kiên thuẫn chở che để con cái có chỗ nương thân.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Chúa. Chúa đã kết hợp gia đình đầu tiên giữa người nam và người nữ. Ông Ađam và bà Evà đã nhận lãnh sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Chúa trao cho hai ông bà trách nhiệm truyền sinh giống nòi theo hình ảnh của Thiên Chúa. Sự khác biệt của nam nữ về sự kết cấu giới tính, lý trí, ý chí, tình cảm, tâm sinh lý và sở thích làm nên sự trọn hảo khôn lường. Giữa phái nam va phái nữ có sự thu hút tìm đến với nhau để xây dựng sống chung gia đình. Theo ý định của Thiên Chúa và theo lẽ sống tự nhiên, trải qua bao đời con người đã và đang sống để hoàn thành sứ mệnh cao cả này.
Trước khi được làm cha làm mẹ, ai cũng từng là những người con. Chúng ta biết rằng là con người, ai cũng được cưu mang ngay từ khi khởi đầu cuộc sống. Có nghĩa là, ai cũng đã được thụ thai trong lòng mẹ và phát triển theo ngày tháng để trở thành người. Khi suy về sự sống, chúng ta nhận ra vai trò liên đới quan trọng của mỗi người trong cuộc sống này. Với thời gian và trong không gian, mỗi người phát triển từ trẻ thơ tới tuổi già. Không thể có bước nhảy vọt từ loài này sang loài kia hay đột biến vượt thời gian. Lần lượt từng bước là con thơ, sau trở thành cha mẹ và rồi thành ông bà nội ngoại. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Ý nghĩa cuộc sống gia đình quá linh thiêng và tốt lành. Ấy thế mà giá trị hôn nhân gia đình ngày nay dần dần bị xao lãng. Có nhiều người không còn chấp nhận những giá trị tự nhiên và truyền thống của gia đình nữa.
Thời đại văn minh tiến bộ, từ ngữ ‘gia đình’ đã bị lạm dụng theo những suy tư không thuận với luân lý truyền thống. Tại một số nơi, đời sống gia đình có nhiều khác lạ, bao gồm cả các tín hữu công giáo. Tôi nhận thấy nhiều lối sống gia đình lạ ngay trong cộng đoàn nơi đang sinh sống và phục vụ. Kìa, gia đình một cha hay một mẹ sống chung với con cái. Gia đình gồm có bạn trai và bạn gái sống tạm với nhau không khế ước hôn nhân. Gia đình vợ chồng sống ly thân hoặc ly dị, con cái nheo nhóc. Gia đình một mẹ với ba bốn người con và có khi con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ. Trong khi người nam, người nữ bình thường không còn muốn lập khế ước hôn nhân, thì những cặp đồng tình luyến ái lại muốn lập hôn thú hợp pháp trước tòa án. Vấn đề đời sống chung gia đình rất bén nhậy và đầy thử thách! Cách sống này có thể vì ảnh hưởng lối sống theo văn hóa và quan niệm xã hội riêng. Nhiều người kết hợp lối sống gia đình theo như thế hệ trước, cha mẹ thế nào và con cái thế ấy. Nhiều bạn trẻ bắt đầu vào đời, liên hệ nam nữ trước hôn nhân nên đành bước lỡ này kéo theo cái lỡ khác. Nhiều bạn sợ hãi trước tương lai bất định nên tìm sống hưởng lạc ngay trong hiện tại. Xảy một ly đi một dặm là thế. Như thế, các thế hệ trẻ lớn lên trong bầu khí gia đình bất thường như thế sẽ bị ảnh hưởng không ít bởi cách sống quá ồn ào, tự do và hưởng thụ.
Tự hỏi làm sao chúng ta có thể tìm được sự an lạc, bình an và hạnh phúc trong đời sống gia đình? Hình như càng đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc càng vượt tầm tay. Câu truyện hay: Chó con hỏi chó mẹ: Mẹ ơi hạnh phúc là gì? Chó mẹ bảo: Hạnh phúc là cái đuôi con đấy! Và thế là chó con quay lại tóm cái đuôi của mình, nhưng không tài nào tóm được. Chú ngồi xuống oà khóc và lại hỏi mẹ: Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ? Chó mẹ mỉm cười và nói rằng: Con trai, tại sao con không tiến về phía trước và hạnh phúc sẽ theo sau con. Vậy tại sao chúng ta cứ phải đi tìm hạnh phúc, khi mà hạnh phúc luôn đi theo mình. Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cha mẹ đã tặng ban cho ta. Chúng ta hạnh phúc vì được sống bên những người mà mình yêu thương.
Giáo Hội trung thành với lời Thiên Chúa đã ban truyền trong đời sống gia đình khi một người nam va một người nữ đã kết bạn: Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. ” (Mt 19, 6). Thiên Chúa đã phối hợp con người trong đời sống gia đình để mong tìm hạnh phúc. Vai trò của mỗi thành viên trong gia đình rất quan trọng. Cha mẹ phải là mẫu gương tốt cho con cái noi theo. Thánh Phaolô nhắn nhủ:Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng (Col 3, 21). Còn con cái có những bổn phận quan trọng đối với đấng bậc sinh thành. Đối với cha: Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm (Hc 3, 3) và đối với mẹ: Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu (Hc 3, 4). Tất cả sự hiếu nghĩa là bày tỏ sự tôn kính và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô khuyên dạy vợ chồng phải tương kính lẫn nhau sống cho có đức độ: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3, 13). Cha mẹ có bổn phận và nhiệm vụ nuối nấng, dạy dỗ và nêu gương mẫu mực trong đời sống. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Cha mẹ là mái che và lá chắn che chở đời con. Người ta ví rằng: Con có cha như nhà có nóc hoặc còn cha thì gót đỏ như son, đến khi cha chết, gót mẹ gót con đen xì. Tình cha nghĩa mẹ thật sâu nặng. Sách Đức Huấn Ca đã khuyên dạy con cái rằng: Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3, 6).
Bài phúc âm tường thuật câu truyện Chúa Giêsu ở lại trong đền thờ để gặp gỡ các chức sắc và lo lắng cho sứ mệnh. Nghĩ rằng con bị lạc, Giuse và Maria lo lắng đi tìm:Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “(Lc 2, 48). Cha mẹ đau buồn vì vắng con. Với những lời trách cứ nhẹ nhàng của cha mẹ, Chúa Giêsu hé mở một chút về sứ vụ của ơn cứu độ:Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “(Lc 2, 49). Nhưng rồi Chúa Giêsu cũng đã vâng lời đi theo cha mẹ trở về quê hương tiếp tục sống những tháng ngày âm thầm chờ đợi. Một mẫu gương cao cả, Con Thiên Chúa vâng phục loài người là cha và mẹ. Đây là điều vô cùng đẹp lòng Chúa và làm hài lòng cha mẹ. Thánh Phaolô viết: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa (Col 3, 20).
Chúa Giêsu đã sống an vui trong khung cảnh gia đình. Gia đình là nền tảng và là vườn ươm mầm sống. Mọi sự tốt lành bắt nguồn trong đời sống gia đình. Chúng ta hãy qúy trọng mọi vai trò trong đời sống gia đình. Dù biết rằng đôi khi cha mẹ có thể bị thất học, thấp kém, nghèo nàn, bệnh hoạn tật nguyền nhưng vai trò làm cha làm mẹ không suy giảm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta hãy tôn kính hiếu thảo và yêu thương các ngài. Chúa Giêsu đã trải qua từng ngày sống bên cha cạnh mẹ và Chúa đã trưởng thành: Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (Lc 2, 52).
Lạy Chúa, gia đình là tổ ấm của tình yêu. Chỉ có yêu thương mới khỏa lấp mọi yếu đuối, hờn ghen và giận ghét. Chỉ có tình yêu mới khơi nguồn hạnh phúc đích thực trong đời sống gia đình. Thánh Phaolô khuyên:Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo (Col 3, 14). Xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa đã yêu.
HỌC ĐƯỢC GÌ NƠI THÁNH GIA- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Tôi thấy trong các gia đình Công Giáo rất thường trưng ảnh tượng Thánh Gia trên bàn thờ, và đó là điều đáng mừng. Nhưng nhiều khi tôi tự hỏi, họ học được điều gì nơi cái gia đình ‘siêu phàm’ đó? Đối với nhiều người đó chỉ là một sự tôn thờ, tôn thờ một biểu tượng gần gũi với đời mình để dễ nhận được điều cầu được ước thấy. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi là họ (được dạy) coi Thánh Gia là một mẫu gương để họ noi theo bắt chước. Nhưng bắt chước điều gì mới được chứ? Những ‘công dung ngôn hạnh’, những cần cù đảm đang, những trên thuận dưới hòa… tôi đâu có thấy Phúc Âm ghi nhận chỗ nào đâu. Những điều này trong sách Huấn Ca của Cựu Ước (tư tưởng hao hao như sách Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi… và có lẽ mỗi dân tộc đều có một vài tác phẩm tương tự) đã có dư thừa và còn phong phú hơn cả Phúc âm nữa. Lời Chúa của lễ Thánh Gia hôm nay cũng chỉ trích dẫn trong bài Tin Mừng câu chuyện về ‘trẻ Giêsu vị thành niên bị thất lạc trong đền thờ Giê-ru-sa-lem’, một giai thoại chẳng liên quan gì tới các nội dung luân lý giáo điều về gia đình.
Giai thoại hiếm hoi được ghi nhận trong thời gian thật dài khi trẻ Giêsu còn chung sống trong gia đình mình, giai thoại được Maria ghi vào ký ức để suy đi nhẩm lại, có vẻ gì đó tiêu cực, nếu xét theo các tiêu chí luân lý thông thường: Trẻ Giêsu đã làm phiền lòng chính cha mẹ mình. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Như thế thì trong đời sống của Thánh Gia đâu phải mọi sự đều trôi chảy, đều êm thắm, đều lý tưởng… để có thể trở thành mẫu gương luân lý tiết hạnh của mọi thời đại. Tôi chắc rằng Thánh Gia cũng có những diễn biến cuộc sống (tạo nên những hỷ, nộ, ái, ố) giống như mọi gia đình bình thường khác thôi. Tuy nhiên Thánh Gia đã có một điều gì đó rất khác, rất phi thường: vì đó là gia đình đầu tiên đã học biết (Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói) sống những diễn biến bình thường đó trong một tinh thần Tin Mừng thực sự. Trẻ Giêsu đã đưa ra hướng giải đáp cho vấn nạn chính đáng và thông thường của đời sống gia đình: khi có những mất lòng nhau vì nhiều nguyên nhân, khách quan hay chủ quan: hãy lo ‘bổn phận ở nhà của Cha’. Bổn phận ở nhà của Cha là gì nhỉ? Chẳng lẽ chỉ đơn thuần là ở lại trong đền thờ? Chỉ mình Giêsu đấng từ trời xuống mới biết; và Ngài đã mạc khải qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài về cái bổn phận chưa ai từng biết đó. Thánh Gioan (mà lịch phụng vụ hôm nay 27/12 nói là không cử hành lễ kính) đã dần dần học biết được cái bổn phận căn bản đó. Và một khi đã học được, vì là người môn đệ được tựa đầu vào ngực Chúa, ngài đã mạnh mẽ thốt lên: “Anh em hãy thương yêu nhau vì tinh yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa…Tinh yêu cốt ở điều này… chính Người đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 7-16). Thánh Gia, và mọi gia đình công giáo, đều phải học bài học này. Cả Giuse cũng phải học, cả Maria nữa. Bài học yêu thương tha thứ cho nhau vì biết rằng Thiên Chúa đã tha thứ yêu thương trước thì ai cũng phải học, đơn giản vì ai cũng có thể bực dọc hay phật lòng (cho dầu bực dọc có lý do chính đáng). Và bài học này không dễ hiểu được đâu, chưa nói đến thực hành, vì nó không dựa trên lý luận hay hợp lý, nó không công bằng chút nào. Chỗ dựa duy nhất của nó là niềm tin vào Đức Kitô Giêsu, vào sự điên rồ hay ngu xuẩn của Thập giá. Kể cả Giuse và Maria cũng thấy khó khăn như thế “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói… Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Như vậy Thánh Gia thật gần với đời thường, vì là nơi niềm tin tìm được cách biểu lộ cách chân thực nhất và cũng bị thách thức nhiều nhất. Chính trong các gia đình (kể cả các gia đình tu sĩ), nơi chung sống những con người bất toàn, bất hòa hay bực dọc sẽ vẫn là chuyện cơm bữa, thì tình yêu thương xót và tha thứ (phát xuất từ Thiên Chúa) sẽ có dịp cất lên tiếng nói mãnh liệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Thánh Gia như nơi đã học và đã cố gắng sống bổn phận vĩ đại nhất của Thiên Chúa Tình Yêu. Xin cho con không chỉ biết tôn thờ suy tôn, mà còn biết đồng hành với Thánh Gia trong tiến trình sống niềm tin. Amen.