CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC TRONG LỜI RAO GIẢNG CỦA GIOAN – Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.. 14
HÃY VUI LÊN (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 17
HÃY VUI MỪNG VÌ CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG VÀ NIỀM VUI CỦA CHÚA CHO THA NHÂN (*) – Lm Đan Vinh HHTM 52
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 64
SÁM HỐI LÀ THAY ĐỔI THANG GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG – Lm. Giuse Quang Nguyễn 67
ANH EM HÃY VUI LUÔN TRONG NIỀM VUI CỦA CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên 72
HÃY VUI LÊN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 77
THIÊN ĐÀNG LÀ THẾ ĐÓ- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn.. 82
CÔNG CHÍNH- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 87
CHÚA NHẬT HỒNG GIỮA MÙA TÍM- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB 93
VUI LÊN ANH EM- Lm Fx. Lê văn Nhạc.. 100
TÔI PHẢI LÀM GÌ?- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 106
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúa sẽ hân hoan vì người”.
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả (c. 6).
Xướng: Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.
Xướng: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.
Xướng: Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả.
Bài Ðọc II: Pl 4, 4-7
“Chúa gần đến”.
Trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 1, 18)
Alleluia, alleluia! – Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 3, 10-18
“Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: “Vậy chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” Gioan đáp: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Các quân nhân cũng hỏi: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Ông đáp: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: “Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?” Gioan trả lời cho mọi người rằng: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!” Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
Ðó là lời Chúa.
PHẢI LÀM GÌ? (*)- Chú giải của Noel Quession
Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”
Gioan Tẩy giả “Rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Chúng ta đã đọc như thế trong Chúa nhật trước. Đám đông người Palestine thời Đức Giêsu gồm có những nông dân, đơn giản và thực tế; họ muốn sống phù hợp với phép rửa của họ. “Chúng tôi phải thay đổi những gì trong cuộc sống? Chúng tôi phải làm gì?”.
Chúng ta đã nhận phép rửa để tha tội trong tình trạng vô ý thức của thời thơ trẻ. Nhưng suốt cuộc đời ý thức trưởng thành, chúng ta phải sống lại “dấu chỉ” này, bí tích hoán cải này. Và chúng ta biết rằng, bí tích rửa tội đúng ra không thể tái diễn được nữa, chúng ta có thể sử dụng điều mà thần học truyền thống gọi là “phép rửa thứ hai”; đó là “bí tích sám hối” mà chúng ta chuẩn bị nhận lãnh để chúng ta cũng đón tiếp Đấng sẽ đến.
Cũng như đám đông Palestine, chúng ta không thể thỏa mãn với những lời nói suông với những nghi lễ. Chúng ta cần phải nhiệt tình đặt câu hỏi với Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì để trở thành Kitô hữu?”.
Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”
Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự “hoán cải” qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “métadola” cần được thực hiện.
Để xét xem những cách tuyên xưng đức tin của bạn có đúng hay không, bạn không nên kiểm tra tính xác thực có vẻ lý thuyết của chúng trong sách vở… nhưng tốt hơn hãy nhìn vô tủ áo, tủ chứa đồ ăn, những ngăn kéo và trương mục ngân hàng của bạn. Hãy chia sẻ – Hãy cho một nửa đi- Lạy Chúa, Chúa yêu cầu con những gì?
Chúng con nhận thấy rõ Luca người loan báo Tin Mừng của Chúa sẽ nêu gương cho chúng con qua cử chỉ điên rồ của tên vô lại Da-kêu trưởng ban thu thuế thành Giêrikhô: “Tôi cho người nghèo phân nửa tài sản của tôi” (Lc 19,9). Luca còn kể lại rằng, chính Đức Giêsu đã bảo những người giàu có đương thời sống, chia sẻ, thay vì quá lo lắng đến sự “trong sạch” của họ (Lc 11,41). Luca cũng cống hiến cho chúng ta gương mẫu của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: “Họ để mọi sự làm của chung” (Cv 2,44 – 4,32-35). Còn chúng ta thì sao?
Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”
Từ những đám đông này, Luca rút ra được hai loại người: thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.
Ở đây chúng ta cũng nhận ra rằng Tin Mừng theo Thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu “dùng bữa nơi nhà những người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình Đức Giêsu, “ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những “người đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Người đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).
Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lc 3,6) cả những người thu thuế và những binh lính, cả những người tội lỗi, và cả tôi nữa. Lạy Chúa, Tạ ơn Chúa về lòng từ bi của Chúa.
Đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới, tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời bấy giờ thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình, lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ.
Còn tôi thì sao? Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp, địa vị của tôi?
Tội của linh mục? Của giáo sư? Của nhân viên văn phòng? Của cô y tá? Của y sĩ? Của công chức? Của chủ xí nghiệp? Của người thợ ăn lương? Của người buôn bán? Của con cái? Của cha mẹ? Của nữ tu sĩ? Xã hội đã đổi mới biết bao, nếu tất cả những người được rửa tội đều cử hành một “phụng vụ sám hối” đích thực.
Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Trình thuật của Luca có thể dừng ở đó. Nhu cầu “hoán cải” có thể dừng lại ở phương diện nhân bản, xã hội và luân lý. Thế nhưng, đám đông lại chờ đợi một cái gì khác.
Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!
Ở đây Luca đổi từ ngữ những “đám đông” (tiếng Hy Lạp là ochloi) bây giờ trở thành một “dân tộc” (tiếng Hy Lạp là laos). Khối dân chúng nặc danh đạt được một phẩm giá mới, nhờ tự đặt ra cho mình một câu hỏi: họ không chỉ đợi một cái gì đó nữa, mà là một Đấng nào đó… Khát vọng căn bản của họ, là một ước muốn thầm kín, nằm sâu trong lòng họ, mà họ không biết diễn tả hay không dám diễn tả. Biết bao người ngày nay cũng như thời bấy giờ không biết “gọi tên Đấng – mà họ mong đợi trong lòng”. Có một Đấng Cứu chuộc hay không? Chúng ta có thể trông cậy ở một Đấng Mêsia, một Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát tận căn những khổ đau của chúng ta không?
Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Bề ngoài, người ta không nghe thấy họ đặt câu hỏi cách rõ ràng, nhưng Gioan Tẩy giả, do một thứ ân sủng ngôn sứ, đã đọc thấy trong lòng họ. Tôi có biết lắng nghe những gì thầm kín trong lòng các bạn đồng nghiệp, người lân cận và bạn bè của tôi không? Từ những vấn đề thuộc nhân quyền, tôi có đi đến chỗ nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người đã mời họ mở tủ áo, mở tủ đồ ăn của họ. Bây giờ Người mời họ mở lòng họ ra để tiếp gặp một Đấng đang tiến đến phía họ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe. Những bước chân của Chúa đang đến với bạn đó.
Đối với Gioan, không chỉ có những diễn viên hiện diện trên sân khấu: đám đông, người thu thuế, binh lính, v.v… Nhưng có một diễn viên chính còn đang ẩn nấp. Còn đối với tôi thì sao?
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
Đây chính là trung tâm của trình thuật Tin Mừng: Sự can thiệp cần thiết của Thiên Chúa. Hoán cải có thể là một hành vi không thường dễ dàng. Gioan Tẩy giả chỉ đòi hỏi những việc tầm thường. Các bạn hãy thử đi? Những điều Thiên Chúa đòi hỏi, dù có nhiều dạng thức nhưng đều là những gì khó có thể thực hiện: “Hoán cải”, “trở lại”, đổi đời đều khó thực hiện, nếu con người chỉ dùng sức riêng của mình. Cần phải có một hành vi của Thiên Chúa: Mỗi bí tích là một hành vi của Thiên Chúa, bằng và hơn một hành vi của con người.
Để mô tả tác động của Thiên Chúa, Gioan Tẩy giả dùng ba hình ảnh: Sự dìm xuống nước, gió và lửa. Trong tiếng Aramên cũng như trong tiếng Do Thái, cùng một từ là “ruah” có nghĩa vừa là “gió” vừa là “tinh thần”. Lối chơi chữ này muốn cho ta hiểu rằng, Thần khí của Thiên Chúa sẽ lay chuyển chúng ta như một cơn gió bão, một cơn bão táp mà ta bị “nhận chìm”, bị “dìm sâu” trong đó. Và Thần Khí của Thiên Chúa cũng như một ngọn lửa sẽ đốt cháy và thiêu hủy những nhơ bẩn của ta. Quả nhiên, khi Luca mô tả phép rửa trong Thánh Thần, Đấng “hoán cải” các tông đồ, thì trong ngày lễ Ngũ Tuần, sự kiện đó sẽ diễn ra qua một “tiếng gió mạnh” và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2,2-3).
Để giúp bạn tưởng tượng ra bí tích sám hối ngày Giáng sinh (phép rửa thứ hai), bạn hãy thử coi bạn như đang ở trong sức thiêu đốt của một cơn bão lửa… sẽ đổi mới bạn. Ôi, sự thiêu đốt đầy hạnh phúc của Thần Khí Thiên Chúa! Chúng ta có khuynh hướng biến những “chất nổ” Tin Mừng thành những thứ “kẹo bánh” dịu ngọt, tuy nhiên, đâu có hoàn toàn giống như thế!
Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Ở đây đúng là đang nói về Đức Giêsu: Người đến, tay cầm “nia” như vị thẩm phán ngày cánh chung để thu dọn và quét sạch một lần cuối cùng. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một người rê thóc trên sân phơi của anh ta chưa? Vào một ngày có gió lớn, anh ta đứng thẳng, tay cầm chiếc nia lớn chứa thóc lẫn lộn với trấu và bụi bặm… rồi anh ta đổ xuống. Lúc đó, gió sẽ tách rời hạt nặng hơn khiến chúng rơi thẳng xuống, còn rơm trấu thì gió thổi đi xa. Người ta đem lúa vào vựa người ta đốt rơm trong lửa.
Chúng ta chớ lừa gạt chính mình. Chúng ta cũng không thể lừa gạt được Thiên Chúa. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy những gì có giá trị, có trọng lượng trong cuộc sống của mình, và những gì không có giá trị trong lòng dạ con người: Có bao nhiêu thóc? hay chỉ là rơm rác?
Mong sao cho “gió và lửa” của Thần Khí ngay từ bây giờ hãy làm ra sự thật. Nhờ “phép rửa thứ hai” tôi lãnh nhận, nhờ “hành động của Thiên Chúa”, tôi sẽ cố gắng làm nên sự thật, để chọn lựa trong cuộc sống của tôi, giữa ích kỷ và tình thương, giữa đàn áp và công lý, giữa tính ích kỷ làm nhơ bẩn tình yêu của tôi và tình yêu trong sự trong sạch của nó, giữa thái độ thực sự ngóng đợi Thiên Chúa và thái độ lãnh đạm buồn thảm đầy duy vật.
Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
Sự phán xét này không phải là những điều khủng khiếp đáng sợ, mà là một “Tin Mừng”. Chúa phán: “Không đâu, sự ác sẽ không tồn tại luôn mãi. Ta đã cầm nia rồi đấy”. Tạ ơn Chúa.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC TRONG LỜI RAO GIẢNG CỦA GIOAN – Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Phương diện đạo đức trong lời rao giảng của Gioan (cc. 10-14) được trình bày dưới hình thức đối thoại. Cả ba lần cũng một câu hỏi được lặp lại: “Phải làm gì?”. Đâu là những thay đổi đời sống cụ thể sẽ diễn tả ra bên ngoài sự hối cải sâu xa? Lời đáp của diễn giả đáng lưu ý ở hai điểm. Một đàng nó bao gồm những hành vi xã hội của con người và không đòi hỏi hy lễ đền tội, cũng như thực hành khổ chế; đàng khác, phải giúp đỡ những người túng thiếu, phải trung thực và công bình trong nghề nghiệp của mình. Đó là những đòi hỏi vượt quá luật Môsê và bắt buộc tất cả mọi người, người không cắt bì cũng như người Do Thái. Sự cần thiết phải hoán cải có tính cánh phổ phát, cũng như ơn cứu độ được trao ban (x. 6); điều có ý nghĩa là chính đám đông hiện diện trong hoạt cảnh này.
Cũng cần ghi chú thêm là những đòi hỏi này không được đặc biệt tô điểm lời rao giảng có tính cánh chung ở các câu 7-9. Gioan không loan báo gì về sự đảo lộn các cơ cấu xã hội (so sánh với Chúa Giesu ở Lc 6,20-26); ông không đòi hỏi các người thu thuế đoạn tuyệt với người Rôma xâm lược mà họ đang cộng tác, cũng không bảo các người lính Do Thái phục vụ trong đạo binh của Hêrôđê phải đào ngũ. Ông không kêu mời ai bỏ tất cả mọi sự để theo ông; điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi một bậc vị vọng ở La 18,22 sẽ triệt để hơn! Đối với Luca, việc chia sẻ trở lại điều này. Ở đây chỉ cần để ý là ông Giakêu – người thu thuế (Lc 19,8) hứa với Chúa Giêsu sẽ đền bù những thiệt hại cho người khác – chính là điều Gioan đòi hỏi những người anh em mình – và dâng tặng cho người nghèo khó phân nửa gia tài của mình – đó là lời đáp của Gioan cho đám đông nghĩa là cho tất cả mọi người.
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức…
Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.
Cuối cùng hai động từ tiêu biểu cho diễn từ của vị Tẩy Giả –khuyến dụ– đó sẽ là một hoạt động đặc biệt của các thừa sai Kitô giáo, Cv 2,40; 15,22 – và nhất là loan báo Tin Mừng/Phúc Âm hóa. Như thế, trước cặp mắt của Luca, vị Tiền hô khai mạc việc rao giảng trong thời đại cuối cùng. Nhưng việc Phúc Âm hóa này, về mặt hình thức, không có nội dung, trong khi mà ở thời đại Kitô, Tin Mừng thường quen được xác định rõ: Tin Mừng về Vương Quốc (Lc 4,43; 8,1; 16,16; Cv 8,12) hoặc, sau Phục Sinh, Tin Mừng về Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Đức Chúa (Cv 5,42; 11,20). Khi không nói Tin Mừng về Vương Quốc qua môi miệng của vị Tiền hô, Luca chứng tỏ rằng Gioan rao giảng khác với Chúa Giêsu; ông dẫn vào kỷ nguyên mới, không thuộc về lĩnh vực của Chúa Giêsu. Và nếu không có vấn đề đảo lộn các giá trị trong chương trình của vị Tẩy Giả, chính bởi vì việc đảo lộn này được gắn liền cách nội tại với việc Thiên Chúa đến.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
HÃY VUI LÊN (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi. Quả thật, xưa kia, Chúa Nhật III Mùa Vọng này được gọi Chúa Nhật “hãy vui lên”, nhan đề được mượn từ thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật hôm nay.
Xp 3: 14-18
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi Giê-ru-sa-lem “hãy vui lên”, vì đã được Thiên Chúa sủng ái và sắp được Thiên Chúa viếng thăm.
Pl 4: 4-7
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê “hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, chính Ngài là nguồn bình an.
Lc 3: 10-18
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca thuật lại lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, lời rao giảng này xác định những nét đặc trưng của “Tin Mừng”.
BÀI ĐỌC I (Xp 3: 14-18)
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.
1/. Bối cảnh
Vào lúc đó, vương quốc Giu-đa được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ này được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là Mơ-na-se: phong tục ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, v.v… Vị ngôn sứ lớn tiếng phê phán lối sống vô đạo, thiếu tình người này và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế, vì Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, dân này sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, và ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt. Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hỉ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chủ Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.
2/. Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa
Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự đối xứng giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hỉ vì gặp lại dân Ngài.
Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Thiên Sai. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào Thành Thánh, Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”, vì thế “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.
Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Thiên Sai hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bởi vì Chúa “sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu. Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.
Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hỉ, nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Thiên Chúa liên kết mình vào niềm vui của những người được tuyển chọn: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Niềm vui cứu độ thời Thiên Sai là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà… Thưa bà, xin đừng sợ… Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 4-7)
Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản kêu mời các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyến dụ, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị Tông Đồ, đây là niềm vui tâm linh: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đó là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.
3/. Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa
Tuy nhiên, nhờ bức thư này, chúng ta biết các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-xô. Thánh nhân đã nhận biết những đau khổ của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-xô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.
4/. Sống hiền hòa
“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. “Hiền hòa” là dụng ngữ của khoa khôn ngoan Hy lạp, đức hạnh này đặt nền tảng trên lý trí và mực thước, được thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê: “Không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền” (1Tm 3: 3) và Ti-tô: “Đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3: 2) Nếu dân ngoại tìm kiếm đức hạnh như vậy, huống chi là những người Ki-tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương về một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki-tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của thánh nhân.
5/. Chúa đã gần đến
Những người Ki-tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki-tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hiệp với Đức Ki tô.
6/. Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an
Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, do đó chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn thuộc truyền thống Kinh Thánh. Các tác giả thánh vịnh dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời các ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki-tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết phàm nhân.
Trong các thư của thánh Phao-lô, chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự, nhưng thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.
TIN MỪNG (Lc 3: 10-18)
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống.
Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiễn đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.
1/. Đám đông
Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ, trong đó thánh ký đã mô tả hành động “tương thân tương ái” giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).
2/. Những người thu thuế
Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, nâng cao tiền thuế của dân chúng để làm giàu cho mình. Hơn nữa, dân chúng khinh bỉ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.
Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong Tin Mừng Gioan những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bỉ, ghét bỏ lại là những người khiêm tốn mở lòng mình ra trước ánh sáng.
Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.
3/. Binh lính
Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng, cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ là binh lính, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoác cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế.
Đối với những binh lính này, thánh nhân cũng không đòi hỏi họ từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
4/. Dân chúng
Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến “đám đông”, nhưng đến “dân”: “Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh Gioan kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi. Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Thiên Sai tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Thiên Sai (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).
Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Thiên Sai. Với sự khiêm hạ, thánh nhân gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời, theo đó các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cởi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ. Ngay cả một công việc hèn hạ đến thế, thánh nhân tự nhận mình cũng không xứng đáng đối với Đấng mà ông có nhiệm vụ chuẩn bị con đường cho Ngài đến.
5/. Phép rửa của Đấng Thiên Sai
Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. “Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa theo Kinh Thánh, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Thiên Sai nhưng cũng của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).
6/. Đấng Thiên Sai Thẩm Phán
Khi mô tả chân dung của Đấng Thiên Sai với tư cách là một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ tách biệt những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Thiên Sai và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.
7/. Khởi điểm của Tin Mừng
“Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”. Cũng như Tin Mừng Mác-cô, Tin Mừng Lu-ca đánh dấu khởi điểm Tin Mừng bằng lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki-tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện.
Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của Tin Mừng hôm nay.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HÃY VUI MỪNG VÌ CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chúa nhật thứ III Mùa vọng này thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Chúng ta vui vì Chúa đã đến gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.
II/. Gợi ý sám hối
Mặc dù Chúa đã bảo chúng ta đừng lo, nhưng vì thiếu lòng trông cậy và phó thác nên chúng ta cứ băn khoăn lo lắng về cuộc sống vật chất ở trần gian này.
Chúng ta chưa thực sự thấm nhuần tinh thần lạc quan của Tin Mừng nên chúng ta chưa tỏa chiếu niềm vui ra môi trường chung quanh.
Khi cầu nguyện, thường chúng ta hay trình bày với Chúa những băn khoăn lo lắng phàm tục, rất ít khi chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì tình thương bao la của Ngài dành cho chúng ta.
III/. Lời Chúa
1/. Bài đọc I (Xp 3,14-18)
Ngôn sứ Xôphônia rao giảng trong thế kỷ VII trước công nguyên, vào những năm trước khi vua Giosias thực hiện cuộc cải cách tôn giáo.
Khi đó nước Do thái đang ở trong một tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy dồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình sẵn. Mặc dù vậy, Xôphônia vẫn kêu gọi dân chúng hãy vui lên, lý do là “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa”.
2/. Ðáp ca (Tv Is 12)
Thánh vịnh này triển khai tâm tình lạc quan của bài đọc I: Lý do khiến dân Sion lạc quan là vì Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Ðấng cứu độ họ.
3/. Tin Mừng (Lc 3,10-18)
Khi “dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói “Hãy sám hối”. Người ta hỏi lại “Vậy chúng tôi phải làm gì?”. Và Gioan đã chỉ cho họ những việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ:
Người có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
Người đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
Kẻ đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.
Gioan còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Ðấng Messia, và giới thiệu Ðấng Messia thật cho họ biết.
4/. Bài đọc II (Pl 4,4-7)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc sống: (1) sống hiền hòa rộng rãi với mọi người; (2) Không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa; (3) Lòng trí luôn được bình an.
IV/. Gợi ý giảng
* 1. Bí quyết hạnh phúc
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn. Nhưng làm thế nào để có thể vui luôn? Câu chuyện sau đây có thể cho ta câu trả lời.
Một người chăn cừu sai đứa con trai của mình đến hỏi một nhà hiền triết về bí quyết của hạnh phúc. Nhà hiền triết đưa cho chàng trai một chiếc muỗng đựng đầy dầu và bảo: “Hãy cầm chiếc muỗng đi vòng quanh tòa lâu đài này và cố làm sao đừng cho một giọt dầu nào bị đổ”.
Chàng trai nghe lời, đi vòng quanh tòa lâu đài, đôi mắt chẳng dám nhìn bất cứ thứ gì khác mà chỉ dán chặt vào chiếc muỗng. Khi chàng trở lại, nhà hiền triết hỏi “Có thấy gì không?”. Chàng trai đáp “Dạ chẳng thấy gì cả”. Nhà hiền triết lại bảo “Bây giờ hãy đi một vòng nữa và hãy mở mắt quan sát tòa lâu đài”. Chàng trai lại cầm chiếc muỗng đi một vòng. Lần này chàng chăm chú ngắm nhìn từng chi tiết của tòa lâu đài: những gian phòng rất đẹp, những món trang trí rất mỹ thuật, khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, những vòi nước rất ngoạn mục… Khi trở lại, chàng kể hết cho nhà hiền triết nghe. Ông hỏi: “Thế những giọt dầu ta giao cho ngươi thì sao?” Chàng nhìn xuống chiếc muỗng. Ôi thôi, dầu đã đổ hết chẳng còn giọt nào.
Bấy giờ nhà hiền triết nói: “Ta chỉ có một lời khuyên nhỏ cho ngươi: bí quyết của hạnh phúc là khả năng vừa ngắm được mọi vẻ đẹp của tòa lâu đài, vừa không làm đổ mất một giọt dầu nào trong muỗng”. Chàng trai trẻ chợt hiểu: người chăn cừu có thể du ngoạn để ngắm nhìn những vẻ đẹp khắp nơi, nhưng không bao giờ được quên đàn cừu của mình. Bí quyết hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ được giao cho mình, vừa vui hưởng cuộc sống.
Thật dễ có hạnh phúc khi ta làm điều ta muốn làm. Nhưng để tìm được hạnh phúc không phải trong điều ta muốn làm mà trong điều ta phải làm thì phải có ơn Chúa.
Hạnh phúc thật không do thỏa mãn được những ước muốn ích kỷ của mình. Hạnh phúc thật không thể có khi những điều ta làm lại khác với những điều ta tin. Hạnh phúc thật không thể có khi không có tình yêu. Bởi vậy nỗi buồn sẽ ập xuống trên ta mỗi khi ta trả lời “không” với tình yêu.
Chúng ta cũng không nên đồng hóa vui và sướng. Sướng thuộc về thể xác, còn vui thuộc về tinh thần. Sướng chẳng bao lâu rồi cũng sẽ chán, còn vui thì không bao giờ chán.
Ðiểm cuối cùng: chỉ có Chúa mới đong đầy mọi mơ ước của chúng ta, do đó nguồn phát sinh hạnh phúc chính là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa trong đời ta thì đời ta sẽ vui. Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Hãy vui lên”. Nhưng tại sao vui? Thưa vì “Có Chúa ở giữa chúng ta”. và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê “Tôi muốn anh em hãy vui luôn”. Tại sao? Thưa “Vì Chúa đã đến gần”. Niềm vui mà thế gian này không thể ban cho chúng ta là niềm vui xuất phát từ ý thức về Chúa và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. (FM)
* 2. Sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả
Ngày xưa có một người thắp đèn thường được người ta gọi là Ông T. Ông làm nhiệm vụ thắp đèn hết sức chu đáo và đúng giờ. Mỗi tối khi màn đêm vừa buông xuống thì lập tức ngọn đèn của ông cũng sáng lên. Không ai biết ông làm thế nào để canh đúng giờ mà thắp đèn, bởi vì ông không có đồng hồ. Cuộc sống của ông cũng chẳng khá giả gì, nhưng ông yêu nghề của mình. Mọi người đều thương mến ông, nhất là trẻ con: khi trời tối khiến chúng không chơi đùa được nữa, thì ông đến, mang lại ánh sáng và chúng có thể tiếp tục chơi.
Công việc của Ông T. thật có ý nghĩa. Nhưng điều khiến ông vĩ đại là ông bị mù! Ông mang ánh sáng cho mọi người trong khi bản thân ông thì không nhìn thấy ánh sáng!
Cuối cùng thì điện đã đến với thị trấn này. Dân chúng trước đây quý mến ông thì bây giờ không còn nhớ gì đến ông nữa. Ánh điện sáng hơn ánh đèn nên chẳng ai màng tiếc nuối quá khứ làm chi nữa.
Ông T. nhắc chúng ta nhớ tới thánh Gioan Tẩy giả. Cũng như Ông T. thánh Gioan đã cần mẫn mang ánh sáng đến cho mọi người. Trong một thời gian, Ngài là sự ngưỡng mộ và quý mến của mọi người. Nhưng Ngài luôn ý thức mình chỉ là kẻ dọn đường, một ánh sáng lớn hơn sẽ đến, và Ngài sẽ không được đi trong ánh sáng tuyệt vời ấy. Và khi ánh sáng tuyệt với ấy là Chúa Giêsu đến, Ngài lùi lại phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là vĩ đại.
Không ai thành đạt chỉ nhờ vào bản thân mình, mà luôn có ai đó ở phía sau giúp đỡ mình, hướng dẫn mình, khuyến khích mình, nói tóm lại là chuẩn bị cho mình. Rồi khi mình thành đạt thì người ấy lặng lẽ biến đi vào quên lãng.
Ðể làm một kẻ dọn đường cho người khác thì cần phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại cao cả lớn lao. Thật vậy, vì đó là một hình thức chết đi chính mình. Rút lui khỏi một chức vụ lớn để rồi chết dần mòn trong một cuộc sống âm thầm là điều mà chỉ những người vĩ đại mới làm được. Có nhiều người làm hỏng mọi việc chỉ vì bám giữ quá lâu địa vị và quyền lực của mình.
Những bậc làm cha mẹ đã không ngại bỏ ra quãng thời gian tốt đẹp nhất của đời mình để chuẩn bị tương lai cho con cái. Khi con cái đã lớn, cha mẹ phải rút lui để chúng có thể sống cuộc đời của chúng. Ðó là sự vĩ đại của những người làm cha làm mẹ.
Nhiều người cứ muốn bám vào ánh đèn sân khấu rực rỡ chói chang, cứ muốn cho mình mãi sáng và đẩy người khác lùi vào bóng tối. Chúng ta không được làm thế. Chúng ta phải vận dụng hết mọi khả năng của mình để chiếu sáng tối đa, nhưng đồng thời cũng phải quan tâm đừng cản đường tiến của người khác. Vả lại, chúng ta còn phải nhớ rằng mình còn mang nợ của những kẻ đã dọn đường cho mình. (FM)
* 3. Ðạo thực hành
Kitô giáo là một đạo thực hành và có tính xã hội, nghĩa là không chỉ là tương quan giữa Chúa với tôi, mà là Chúa – tôi – và những người khác.
Có một câu chuyện về một người thợ giày tên là Martin. Ông sống và làm việc ở tầng hầm. Tầng hầm này chỉ có mỗi một cửa sổ, cho nên ông chỉ nhìn thấy những bàn chân của những người qua lại. Chỉ cần thấy đôi giầy của người đi qua là ông biết người ấy là ai.
Ðời ông rất vất vả. Vợ ông đã chết, để lại một đứa con trai. Tuy nhiên khi thằng con vừa đủ lớn để có thể giúp ông thì nó cũng lâm bệnh và chết. Ông Martin rơi vào tuyệt vọng. Chôn cất thằng con xong, ông bỏ đạo và rơi vào thói rượu chè.
Một ngày kia, một người bạn già đến thăm ông. Ông trút hết bầu tâm sự. Người bạn khuyên ông nên đọc Tin Mừng, mỗi ngày một đoạn. Và bảo đảm rằng nhờ đó ông sẽ tìm lại được ánh sáng và niềm vui cho cuộc sống.
Ông Martin làm theo lời bạn. Mỗi ngày làm việc xong tới chiều là ông cầm sách Tin Mừng đọc một đoạn. Ban đầu ông chỉ đọc những đoạn Tin Mừng Chúa nhật. Nhưng sau đó thấy hấp dẫn nên ông đọc luôn những ngày trong tuần. Dần dà đời ông thay đổi, niềm vui đã trở lại với đời ông.
Một đêm, khi ông đang đọc Tin Mừng thì ông nghe có tiếng nói với mình “Martin, ngày mai hãy nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ đến thăm ông”. Vì khi đó chẳng có ai cả nên ông Martin tin rằng đó là tiếng Chúa nói với ông. Bởi đó sáng hôm sau, lòng ông rất phấn khởi. Ông vừa làm vừa nhìn qua cửa sổ. Ông chăm chú để ý mọi đôi giày đi qua đi lại để chờ xem Chúa có đến thăm ông không. Nhưng chẳng có một đôi giày nào lạ cả.
Ðến xế chiều thì ông thấy một đôi giày rất quen, đó là giày của một người lính già tên là Stephen. Mở cửa ra, Ông Martin thấy Stephen đang đứng chắn ngay cửa, hai tay khoanh chặt trước ngực vì trời đang rất lạnh. Ông Martin rất muốn hắn ta đi chỗ khác cho rồi kẻo cứ chắn cửa sổ khiến ông không thấy được Chúa nếu Ngài đi ngang qua. Tuy nhiên Stephen cứ đứng đấy mà run. Cuối cùng Ông Martin nghĩ rằng chắc là hắn đói nên mời hắn vào ngồi cạnh lò sưởi, đưa cho hắn một ly trà và một mẫu bánh mì. Một lát sau Stephan cáo từ. Ông Martin còn đưa thêm cho hắn một chiếc áo khoác để đỡ lạnh. Suốt khoảng thời gian tiếp Stephen, Ông Martin không quên để ý nhìn về cửa sổ. Mỗi lần có một bóng người đi qua là ông chăm chú nhìn. Nhưng chẳng có gì đặc biệt.
Ðêm xuống. Ông Martin thu dọn đồ nghề và miễn cưỡng đóng cánh cửa sổ. Ăn buổi tối xong, ông cầm quyển Tin Mừng và tình cở mở ngay đoạn này: “Bấy giờ dân chúng đến hỏi Gioan ‘Chúng tôi phải làm gì?’ Gioan đáp ‘Ai có hai áo hãy chia cho người không có. Ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Ông Martin bỏ sách xuống và suy nghĩ, rồi ông chợt hiểu rằng quả thực hôm nay Chúa đã đến thăm ông qua anh chàng Stephen ấy. May mà ông đã đón tiếp tử tế. Thế là Ông Martin cảm thấy lòng tràn ngập vui mừng, một niềm vui mà từ trước tới nay ông chưa từng cảm nghiệm.
Ông Martin đã đón rước Chúa vào đời mình bằng việc đọc Tin Mừng. Và bước thứ hai đến một cách tự nhiên: ông đã đón rước Chúa qua việc đón rước người anh em đói khổ.
Chúng ta đang dọn đường cho Chúa đến, và chúng ta tin chắc rằng Ngài sẽ mang quà đến cho chúng ta. Nhung hãy nhớ rằng Chúa không chỉ đến trong lễ Giáng sinh. Ngài luôn đến, mọi lúc, mọi nơi, dưới mọi hình dáng, nhất là dưới hình dáng những người đang cần giúp đỡ. (FM)
* 4. Cho Chúa Một Cơ Hội (Lc 3,10-18)
Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Ðức Ki tô.
– Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
– Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.
– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
– Tôi cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói.
– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?
– Tôi không biết!
– Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!
– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Ðức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi.
Thế mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở.
Những điều này không ai khác hơn, chính là đức Ki tô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả những gì tôi biết về Người.
***
Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc3,10). Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể.
Các Thánh thường nói: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Ðó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Ðức Maria mới thực là cao quí: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).
Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: “Những điều này không ai khác hơn, chính là Ðức Kitô đã làm cho tôi”.
Như vậy:
Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.
Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.
Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng thánh: Chúa Giêsu Ki tô.
Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Ki tô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.
Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Ki tô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người.
Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Ki tô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.
Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.
Mùa Vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.
***
Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân.
Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen (Thiên Phúc, Như thầy đã yêu, năm C)
* 5. “Chúa đã đến gần”
“Chúa đã đến gần”. Câu này nghĩa là gì?
Phải chăng là đã gần đến lễ Giáng sinh? Hôm nay vào tuần thứ ba Mùa Vọng rồi. Chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Hiểu như vậy là hời hợt quá.
Phải chăng là Chúa đã ở ngay cửa lòng chúng ta. Chỉ cần chúng ta mở cửa thì Ngài bước vào? Ðúng vậy. Việc quan trọng nhất phải làm không phải là dọn dẹp bên ngoài mà là mở rộng cửa lòng để đón Chúa.
Và còn một nghĩa rất đặc biệt nữa: “Chúa đã đến gần” nghĩa là Chúa ở ngay trong những người gần cạnh chúng ta, ở ngay trong công việc chúng ta đang làm, ở ngay trong hoàn cảnh chúng ta đang sống. Ăn thua là chúng ta có nhận ra Chúa đang ở rất gần chúng ta hay không?
* 6. Chuyện minh họa
a/ Ông nhà giàu và người thợ giày
Có một người thợ giày suốt ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng xúm quanh nghe ông hát.
Ðối diện nhà anh là một ông nhà giàu suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới đi ngủ nhưng cũng không ngủ được vì tiếng hát của anh thợ giày. Một hôm ông nghĩ ra một cách buộc người thợ giày im tiếng hát.
Ông mời người thợ giày sang nhà ông và tặng anh một túi đầy những đồng tiền vàng. Anh thợ giày trở về nhà ngồi đếm tiền cả ngày. Ðám trẻ con nhìn anh, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi và đóng cửa lại. Ban đêm anh cứ nhớ tới túi tiền nên không ngủ được, anh ngồi dậy đem túi tiền giấu ở một nơi kín đáo. Sau đó anh nghĩ rằng nơi đó cũng chưa đủ an toàn nên lại ngồi dậy đem giấu nơi khác. Ban ngày lòng anh cũng canh cánh lo sợ. Thế là anh không còn hát ca gì nữa, cũng không đóng được đôi giày nào nữa. Tệ hại nhất là trẻ con không còn tới chơi với anh. Một thời gian sau anh chịu không nỗi nửa, đem túi vàng trả lại ông nhà giàu. Thế là từ đó trở đi anh lại vui vẻ, hát ca và trẻ con trở lại chơi với anh. (Willi Hoffsemmer).
b/ Tiếng cười – tặng phẩm
Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thỏa chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói:
– Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.
Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.
Ðâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui? Vì một đàng là biểu hiện của sức khỏe tâm linh, một đàng là của sức khỏe thể xác.
7/. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Phép rửa của Chúa Giêsu là rửa “bằng Thánh Thần và lửa” (Lc 3,17). Nếu bạn thánh thiện, bạn sẽ được rửa bằng Thánh Thần; nếu bạn tội lỗi, bạn sẽ bị rửa bằng lửa. Cùng một phép rửa sẽ thành án phạt và lửa cho những người tội lỗi bất xứng; nhưng các thánh, tức những người trở lại cùng Chúa với một niềm tin tưởng trọn vẹn, thì họ sẽ nhận được ơn sủng của Chúa Thánh Thần và ơn cứu độ.
Vậy, Ðấng được nói là “rửa bằng Thánh Thần và lửa” ấy, “tay Ngài cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẫy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3,17-18). Tôi muốn tìm hiểu xem vì sao Chúa cầm nia trong tay, và bởi luồng gió nào mà thóc lép bị thổi bay đi trong khi lúa mẫy, nặng hơn, thì gom lại một chỗ. Vì, nếu gió không thổi thì người ta không thể tách thóc mẫy ra khỏi thóc lép được.
Tôi tin rằng phải hiểu gió là những cơn cám dỗ khiến cho trong đám đông các tín hữu lẫn lộn lộ ra những người thuộc hạng thóc mẫy và những người thuộc hạng thóc lép. Vì chưng, khi tâm hồn bạn bị cám dỗ khống chế thì không phải cơn cám dỗ ấy biến bạn thành thóc lép, mà vì chính bạn thuộc về hạng thóc lép, tức là hạng người nhẹ dạ và không có đức tin. Cám dỗ chỉ vạch trần bản chất ẩn dấu của bạn mà thôi. Ngược lại, khi bạn can đảm chống lại cám dỗ thì cũng không phải cám dỗ làm cho bạn trở nên trung thành và kiên trì. Cám dỗ chỉ giúp làm hiện rõ những nhân đức kiên trì và can đảm có sẵn trong bản chất bạn trước đây còn ẩn kín mà thôi. Chúa đã nói: “Ngươi tưởng rằng Ta còn có mục đích nào khác hơn là làm tỏ lộ sự công chính của ngươi chăng?” (G 40,3 theo bản LXX). Chỗ khác Ngài còn nói: “Ta đã hạ ngươi xuống và cho ngươi chịu đói hầu bày tỏ ra điều gì đang có trong lòng ngươi” (Ðnl 8,3-5)
Cũng một cách ấy, bão táp không làm vững chắc cho “ngôi nhà xây trên cát” (Mt 7,24-25). Nhưng nếu bạn muốn xây nhà thì hãy “xây trên đá”. Khi ấy dù bão tố có nổi lên cũng không đánh đổ được ngôi nhà được xây trên đá, mà chỉ làm sập ngôi nhà xây trên cát thôi. Cũng vậy, trước khi nổi lên bão tố, gió thổi, sóng ùa, khi mọi sự còn yên tĩnh, chúng ta phải chú ý đến cái nền nhà, chúng ta phải xây ngôi nhà chúng ta bằng những viên đá vững chắc là các giới răn của Chúa; khi cơn bắt bớ bùng nổ làm cho các kitô hữu phải hoang mang lo lắng thì chúng ta chứng tỏ rằng ngôi nhà chúng ta đã được xây trên đá tảng là Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng nếu ai đó chối bỏ Ngài – nguyện cho chúng ta thoát khỏi điều khốn nạn này – thì người ấy phải biết rằng không phải lúc việc nó chối Chúa được tỏ lộ rõ ràng thì nó mới chối Ngài đâu; nó đã mang sẵn trong mình nó những gốc rễ xa xưa của việc chối Chúa rồi; chỉ sau này khi người ta khám phá điều nó mang sẵn trong lòng thì điều ấy mới được công khai ra.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta là ngôi nhà vững chắc không cơn bão nào đánh đổ được vì đã được xây trên nền đá, trên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Kính dâng Ngài vinh quang và quyền lực đến muôn thuở muôn đời, Amen.
V/. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, và giãi bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Trong niềm hân hoan trông chờ Con Chúa ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1/. Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình / cố gắng sống bác ái yêu thương với tất cả mọi người / tôn trọng công bằng trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết quan tâm đến lời khuyên tha thiết của Hội thánh / và cố gắng thực hiện trong đời sống đức tin thường ngày.
2/. Trên thế giới ngày nay / vẫn còn biết bao người đang đói khổ vì thiên tai / vì thiếu lương thực thực phẩm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó / được cứu trợ đầy đủ và kịp thời.
3/. Trong cuộc sống thường ngày / có một số người chỉ lo cho bản thân mình / mà ít khi quan tâm đến người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / họ cần phải sống theo lời thánh Phaolô dạy: / là vui với người vui và khóc cùng người khóc.
4/. Chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng / cũng như tôn trọng tài sản và danh dự của mọi người / là bổn phận của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng chu toàn các bổn phận quan trọng này.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang hết lòng trông đợi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa giáng trần để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy tâm hồn chúng con sạch mọi vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin.
VI/. Trong Thánh Lễ
– Chúc bình an: Có lẽ từ trước tới nay chúng ta chúc bình an cho nhau chỉ bằng một cử chỉ cúi chào, hờ hững, theo thói quen. Hôm nay, ý thức lời Chúa kêu gọi “Hãy vui lên”, chúng ta hãy chúc bình an cho nhau với một tâm hồn vui vẻ và một ước muốn làm một điều gì đó cho mọi người được vui.
VII/. Giải tán
Lời tung hô trước Tin Mừng trong Thánh lễ hôm nay là “Allêluia. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Anh chị em ra về và hãy luôn nhớ thực hành lời đó.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG VÀ NIỀM VUI CỦA CHÚA CHO THA NHÂN (*) – Lm Đan Vinh HHTM
Ý CHÍNH: Chúng tôi phải làm gì?
Bài Tin mừng hôm nay gồm có 3 câu trả lời cho ba hạng người về những việc họ phải làm để sám hối: dân chúng phải chia sẻ cơm áo cho người nghèo, người thu thuế phải ăn ở công bình và binh lính phải biết tôn trọng tha nhân. Gio-an cho biết phép rửa bằng nước của ông chỉ là một phương thế chuẩn bị lòng trí dân chúng để họ được lãnh phép rửa mới trong Thánh Thần và Lửa, do Đấng Thiên Sai sắp đến thực hiện, mà ông không đáng làm nô lệ cho Người. Người sẽ xét xử để thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ vào ngày tận thế.
CHÚ THÍCH:
– C 10-11: + “Ai có hai áo thì chia cho người không có”…: Chia sẻ cơm áo vật chất cụ thể là một yêu cầu tối thiểu mà dân chúng phải làm để biểu lộ lòng sám hối.
– C 12-14: + Những người thu thế: Bọn người này thường bị dân chúng khinh thường thù ghét, vì họ đã cộng tác thu thuế cho người Rô-ma. Rồi khi làm việc này, họ còn sách nhiễu dân chúng. Họ bị dân chúng liệt vào loại người tội lỗi công khai (x. Lc 5,30). Gio-an khuyên họ phải tránh bóc lột kẻ khác bất công và không được tham lam thu quá mức thuế quy định. + Binh lính: Đây chắc không phải là binh lính Rô-ma vốn chỉ ở trong đồn binh, chứ không đi trà trộn với đám đông dân chúng. Đây cũng không phải lính Do thái, vì ngừơi Rô-ma cấm nước bị chiếm đóng tổ chức quân đội. Có lẽ đây là dân quân tự vệ thường đi theo bảo vệ người thu thuế. Họ là những người vừa có sức mạnh lại vừa có khí giới, nên thường hiếp đáp kẻ yếu, nên bị dân chúng căm ghét giống như bọn thu thuế tội lỗi. Khi gọi bọn người này là binh lính, có lẽ Lu-ca muốn nói lên tính phổ quát của lời rao giảng của Gioan Tiền Sứ. Tuy không buộc họ phải đổi nghề, nhưng ông khuyên họ phải giữ công bình, tránh cáo gian bách hại người vô tội và hãy bằng lòng với đồng lương của mình.
– C 15-16: + Đấng Mê-si-a: Chữ Hy lạp Chris-tos có nghĩa là “Người được xức dầu”, tương đương với chữ Mê-si-a trong tiếng Do thái (nghĩa là Đấng Thiên Sai). Ở đây tác giả Tin mừng dùng từ Mê-si-a vì ông viết Tin Mừng cho người Do thái theo đạo Công giáo. Tuy nhiên dân Do thái khi ấy lại hiểu từ Mê-si-a theo nghĩa ái quốc cực đoan. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai đến lãnh đạo dân chống lại ách thống trị của ngoại bang (x Lc 23,2). + Cởi quai dép: Đây là hành vi phục vụ dành cho nô lệ ngoại quốc. Người Do thái không có quyền đòi người giúp việc Do thái làm điều này, vì họ là“dòng dõi tổ phụ Áp-ra-ham”, và thuộc dân được Chúa chọn (x. Ga 8,33).
– C 17-18: + Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Gio-an mô tả Đấng Mê-si-a như một vị Thẩm Phán của ngày tận thế: Đấng Thẩm Phán sẽ đến tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như chủ ruộng tách lúa thóc khỏi rơm rạ. + Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm…: Sau khi đập lúa trước gió, hạt thóc nặng hơn sẽ rơi xuống thúng và được cất vào kho, còn rơm rạ nhẹ hơn sẽ bay ra ngòai thúng và sẽ bị thu gom thiêu đốt trong lửa (x Gr 15,7). Cũng vậy, trong ngày thẩm phán, kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa, còn kẻ ác làm tay sai cho ma quỷ sẽ bị phạt trong lửa không hề tắt là hỏa ngục muôn đời (x. Is 66,24; Mc 9,43.48).
CÂU HỎI: 1) Tại sao người thu thuế và binh lính lại bị dân chúng khinh khi thù ghét? 2) Dân Do thái thời Đức Giê-su trông mong Đấng Mê-si-a đến để làm gì? 3) Gio-an đã khuyên đám đông dân chúng, những người thu thuế và binh lính phải sám hối cụ thể thế nào để chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a sắp đến? 4) Gio-an cho biết sứ mệnh của Đấng Mê-si-a ra sao?
II/. SỐNG LỜI CHÚA
1/. LỜI CHÚA: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11).
2/. CÂU CHUYỆN:
*1) Ông già Noel có thật không?
Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel như sau: Ông già Noel có thật không?
Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”.
Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Anh gọi ngài là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm trước lễ Giáng Sinh. Còn người Pháp lại gọi ngài cách thân mật là Cha Noel, vì ngài có liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ đến thăm chui vào nhà qua lò sưởi, vào phòng ngủ của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày của chúng để bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…
Ông già Noel sẽ tiếp tục công việc làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc trong Mùa Giáng Sinh. Lời Chúa Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay cũng mời gọi chúng ta “Hãy vui lên”. Không phải vui vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì ánh đèn ngôi sao lấp lánh, vì những máng cỏ với Chúa Hài đồng xinh xinh… Những niềm vui vẻ bên ngoài ấy sẽ qua mau sau ngày lễ, còn niềm vui đích thực trong tâm hồn chúng ta sẽ còn mãi, ngay cả những lúc ta cảm thấy lo âu chán chường hay những khi gặp thất bại rủi ro. Niềm vui Giáng Sinh sẽ bén rễ sâu trong lòng chúng ta nhờ trung thành đọc Lời Chúa và cầu nguyện với Lời Chúa trong giờ kinh tối mỗi ngày.
*2) Hãy luôn nghĩ đến những người bất hạnh:
Một hôm có một thương gia vào một quán ăn bên đường để dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn trống thì phát hiện một bé gái độ 12 tuổi, áo quần cũ rách đang đứng ngoài cửa sổ nhìn vào bàn ăn và ngửa tay ra xin bố thí. Thấy mặt cô bé tái xanh và tay chân run rẩy vì đói, ông thương gia động lòng thương. Ông tiến lại gần bên cầm lấy tay cô bé, rồi mời cô cùng vào ngồi ăn chung bàn với mình. Nhưng thật bất ngờ: cô bé cương quyết từ chối. Gặng hỏi mãi em mới nói lí nhí như sau: “Thưa ông, cháu cám ơn ông đã tôn trọng cho cháu được ngồi ăn chung bàn với ông. Nhưng làm sao cháu có thể ăn được đang khi thằng em của cháu cũng đang đói và đang đứng kia!” Nhìn theo tay em chỉ, ông thương gia thấy một bé trai thân hình gầy gò ốm yếu, quần áo lôi thôi nhơ bẩn, đang đứng bên cửa sổ đối diện và cặp mắt đang nhìn cách thèm thuồng vào bàn đầy thức ăn ngon lành trong quán. Chung quanh bàn ăn là năm thanh niên nam nữ đang ngồi ăn uống thoải mái nói cười vui vẻ, không ai thèm để ý đến cậu bé đói khát đang đứng ngay bên.
Câu nói của cô bé nghèo trong câu chuyện trên: “Làm sao cháu có thể ngồi ăn chung với ông được, đang khi còn thằng em của cháu cũng đang bị đói và đang đứng đàng kia!”, là lời nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta hãy suy nghĩ dưới góc độ Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót và thành tâm sám hối bằng cách quảng đại chia sẻ cụ thể trong những ngày mừng Giáng Sinh sắp tới.
3/. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết trong hai nhân đức công bình và bác ái thì nhân đức nào quan trọng hơn và phải được ưu tiên thực hiện? 2) Để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến, trong những ngày mùa Vọng này, mỗi người chúng ta sẽ chứng tỏ là ngôn sứ của lòng Chúa Thương Xót như thế nào đối với cha mẹ, thày dạy, anh chị em, bạn bè hay người nghèo khó chung quanh?
4/. SUY NIỆM:
Tin mừng CN III Mùa Vọng hôm nay ghi lại việc Gioan Tẩy Giả loan báo tin vui về Đấng Cứu thế sắp xuất hiện, Đấng mà ông không đáng cởi quai dép cho Người (x. Lc 3, 15-18). Trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, noi gương ngôn sứ Gioan, chúng ta sẽ làm gì cụ thể để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến?
*1) Sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai của Gioan Tẩy Giả:
Dân chúng nghĩ Gio-an là Đấng Thiên Sai Mê-si-a, nhưng chính ông lại phủ nhận và khẳng định mình không phải Đấng Mê-si-a nhưng chỉ là kẻ đi trước dọn đường cho Người. Ông tiên báo về Người đến sau nhưng lại có trước ông, cao cả hơn ông và ông không đáng hầu hạ Người. Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa. Người sẽ xét xử mọi người, giống như người nông dân sàng sảy sân lúa sau mùa gặt: Lúa tốt thì chất vào kho, còn trấu rơm thì thiêu cháy trong lò lửa không hề tắt (x Mt 3,11-12). Khi Đức Giê-su xuất hiện, Gio-an đã làm phép rửa cho Người và nhận biết Người chính là Đấng Thiên Sai. Sau đó ông đã giới thiệu Người cho các đồ đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian… Tôi đã thấy, nên xin chứng nhận rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29.34). Ông cũng tỏ ra khiêm tốn khi đề cao Đức Giê-su với các môn đệ: “Người cần phải lớn lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
*2) Anh em hãy vui luôn trong Chúa và chia sẻ niềm vui cho tha nhân (X. Pl 4,4):
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete – “Hãy vui lên”. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui và thể hiện qua phẩm phục chủ tế mặc trong thánh lễ hôm nay là mầu hồng thay vì mầu tím. Hai ngàn năm trước, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để công bố cho nhân loại một tin mừng, đó là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem qua lời thiên thần báo tin cho các mục đồng: “Đây ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11). Tin mừng ấy sẽ đạt đến đỉnh điểm khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá và được Thiên Chúa siêu tôn bằng việc cho Người sống lại và đặt Người làm Chúa Tể muôn loài (x.Pl 2,8-11). Niềm vui này phải được chứa đầy trong tâm hồn mỗi người chúng ta và phải được biểu lộ không những bằng các việc đạo đức ở nhà thờ mà chủ yếu qua thái độ ứng xử vui tươi khoan dung và sẵn sàng chia sẻ niềm vui cho mọi người như lời thánh Phanxicô Salêsiô: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng buồn! ”. Ước chi mỗi người chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện của Chúa trong Chúa Nhật hôm nay và làm nhiều việc bác ái cụ thể để chia sẻ niềm vui cho tha nhân trong mùa Giáng Sinh sắp tới.
*3) Chúng ta sẽ làm gì để dọn đường đón Chúa đến hôm nay?
Trong những ngày Mùa Vọng này Hội Thánh cũng mời gọi chúng ta hãy hồi tâm sám hối. Sám hối không những bằng việc tham dự các buổi tĩnh tâm và dọn mình xưng tôi, mà quan trọng hơn là sự quyết tâm thay đổi đời sống bằng việc lắng nghe Lời Chúa với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tránh làm theo ý riêng do ma quỷ cám dỗ hoặc theo thói thế gian, nhưng biết noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su tóm lại như sau:
+ “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”: Áo mặc và của ăn ở đây có thể là một số tiền ủng hộ cho việc “Làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”, là tổ chức quyên góp để thăm viếng chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo khó, săn sóc những ai đau liệt, là lắng nghe và đồng cảm, ủi an những người gặp thất bại đau khổ trong cuộc sống. Câu nói của cô bé nghèo trong câu chuyện trên: “Làm sao cháu có thể ngồi ăn chung với ông được, đang khi thằng em của cháu cũng đang bị đói đang đứng đàng kia!”. Đây cũng là lời nhắc nhở mõi chúng ta hãy xét lại mình và thành tâm sám hối bằng cách quan tâm chia sẻ cụ thể, để mang lại niềm vui cho những người bất hạnh bên cạnh chúng ta.
+ “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”: Đức bác ái cần phải đi đôi với đức công bình bằng những hành động cụ thể như: Không dối trá lường gạt người khác, không làm hàng gian hàng giả, nhưng phải luôn buôn ngay bán thật. Tránh nói thêm nói bớt nhưng luôn trung thực trong quan hệ giao tiếp hằng ngày và trong việc làm ăn kinh tế với tha nhân.
+ “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”: Cần tránh thái độ “lấy thịt đè người” hoặc “Cả vú lấp miệng em” thể hiện qua thái độ quan liêu hách dịch, hà hiếp bóc lột những người “thân yếu thế cô”. Cũng cần sử dụng chức vụ quyền bính để phục vụ tha nhân thay vì lạm dụng quyền hạn để trục lợi cho mình và phe nhóm cục bộ. Tránh hẹn hết lần này đến lần khác hoặc bắt người xin phải chờ đợi hàng giờ trong khi công việc phục vụ thực sự chỉ cần giải quyết trong giây lát.
5/. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh bằng việc quảng đại chia sẻ cơm áo vật chất, cảm thông với những người đau khổ bất hạnh như lời thánh Gioan hôm nay: “Ai có hai áo, hãy nhường cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Xin cho chúng con luôn ý thức giữ đức công bình khi giao tiếp làm ăn buôn bán, như thánh Gioan đã khuyên những người thu thuế: “Các người đừng đòi gì quá mức đã ấn định”. Cho chúng con biết tôn trọng tha nhân qua cách ứng xử vui vẻ lễ độ, để thực hành lời thánh Gio-an khuyên các binh lính: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai và hãy bằng lòng với số lương của mình”. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ đón nhận được niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng sinh và cho chúng con chu toàn sứ vụ làm chứng nhân của tình thương trong Năm Thánh kính lòng Chúa thương xót này.
*X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:
Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.
Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.
Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.
Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẽ hay bố thí?
- Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
- Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
SÁM HỐI LÀ THAY ĐỔI THANG GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG – Lm. Giuse Quang Nguyễn
Nhạc sĩ Trần Tiến với bài hát “Lời nói cuối” đã đoạt giải nhất trong cuộc thi phong trào phòng chống Siđa. Nội dung bài hát ông lấy cảm hứng từ một lá thư của một cậu bé bán bánh mì mắc bệnh Siđa. Cậu ta tâm sự rằng cậu chỉ bán bánh mì vào ban đêm vì khuôn mặt của cậu đã lỡ nhiều quá. Cậu bơ vơ và khát khao một cuộc sống. Cậu nhờ nhạc sĩ viết cho bài hát “lời nói cuối” như một lời trần tình cho mọi người về khát vọng sống. Nội dung bài hát: “Một buổi sớm, nhìn gương lại thấy buồn vết bầm tím lang rộng trên môi, mỗi một sớm thời gian, dục vó ngựa mang đời tôi đi vào đem đen. Mỗi ngày trôi, đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu, vó ngựa ơi chậm thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi, cho tôi nói lời nói lần cuối: đừng ai, đừng ai chết trẻ như tôi. Tôi là đứa trẻ con còn non dại. Sao tuổi xuân sớm bỏ tôi đi. Tôi là đứa trẻ con còn mơ mộng. Sao tình yêu sớm bỏ tôi đi… Mỗi ngày trôi đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu. Vó ngựa ơi chậm thêm một chút. Một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối. Đừng ai đừng ai chết thảm như tôi”. Vâng, có lẽ giây phút gần cái chết, niềm khát vọng sống trở thành mãnh liệt hơn bao giờ hết vì thế nó thúc đẩy em bé thốt lên một lời nài van: “Hãy cho tôi thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối đừng ai, đừng ai chết trẻ và chết thảm như tôi”. Vâng, cũng vậy, niềm khát vọng sống, không để chết thảm là sa hỏa ngục đời đời nhưng được sống vĩnh hằng trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta qua việc Ngôi Hai Thiên Chúa sắp Giáng sinh làm người để cứu độ chúng ta: cho chúng ta làm con cái Chúa, cho chúng ta giao hòa với Chúa và với nhau, đặc biệt cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết, để được như vậy thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy thay đổi thang giá trị cuộc sống này. Và đó cũng chính là tâm tình Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Trong Tin Mừng, Thánh Gioan tẩy giả loan báo niềm hy vọng cho Dân Israel, đó không phải là niềm hy vọng trừu tượng mà là niềm hy vọng được tập trung vào Đấng mà người Do thái mong đợi Đấng Mesia, Ngôi Hai Thiên Chúa làm ngươi. Vì thế, mở đầu Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha vì chưng, trong Chúa Giê-su Kitô, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động, rõ ràng và thấy tột đỉnh điểm của nó. Vì vậy ai thấy Ngài là thấy Cha (x. Ga 14,9) mà Chúa Cha là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa, thành tín” (Xh 34,6) và “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4) (số 1). Vâng, Lòng Thương Xót Chúa mạnh hơn tội lỗi, Ngài không bao giờ mõi mệt để tha thứ cho con người, làm cho con người được sống dồi dào và không bao giờ phải chết. Để được như thế, Thánh Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ kêu gọi chúng ta hãy sám hối mà sám hối không phải thứ sám hối chung chung mà phải sám hối cụ thể hoá trong cuộc sống bằng hành động.
Chúng ta thường đặt thang giá trị vào vô vàn khía cạnh của cuộc sống: đối với người làm lớn coi thang giá trị đó là quyền lực. Người kinh doanh đặt thang giá trị nơi tiền, lợi nhuận. Giới trẻ đặt thang giá trị cuộc sống nơi hưởng thụ, “văn hóa vứt bỏ” nói như Đức Thánh Cha Phanxicô. Giới thiếu nhi đặt thang giá trị nơi trò chơi điện tử, ăn chơi leo lỏng… Vì thế, Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy thay đổi những thang giá trị đó: Nếu người làm lớn, hãy sống công bằng, không được ức hiếp người yếu thế. Nếu là công nhân đừng đòi hỏi quá mức lương ấn định. Nếu là chồng, hãy sống chung thuỷ với vợ và hy sinh lo cho con cái. Nếu là vợ, hãy là người vợ đạo đức và người mẹ hiền gương mẫu. Nếu là con cái, hãy chịu khó học hành và vâng lời Cha mẹ. Nếu là giới trẻ, hãy sống có đạo đức và tác phong là người trẻ. Chớ ăn chơi leo lỏng, chớ dùng bạo lực mà đối xử nhau. Nếu là sinh viên, hãy sống trung thực và hòa thuận với nhau, chớ gian dối, bạo lực hay nghiện ngập! Còn các gia đình thân mến, chúng ta hãy năng đọc kinh chung trong gia đình, năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích để Chúa và hãy để Lời của Ngài luôn cư ngụ trong tâm hồn anh chị em, làm cho mỗi người trong gia đình gạt đi những ảo tưởng để đón nhận nhau, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; biết kiên nhẫn, hy sinh và quảng đại với nhau hơn”. Thánh Gioan tẩy giả nói: “Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn cũng làm như vậy”, có nghĩa rằng Các thành viên trong gia đình hãy chia sẻ một chút vật chất, một chút thì giờ, một chút quan tâm cho nhau và cho những người khác. Các bậc làm cha làm mẹ đừng có lạm dụng quyền hành mà lỗi đức công bình, bác ái với nhau và với con cái”. Thánh Gioan tẩy giả nói tiếp: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền ai, có nghĩa rằng các con cái phải cư xử thảo hiếu và vâng lời cha mẹ, anh chị em và hàng xóm láng giềng với nhau. Và cứ như thế, tất cả mọi người sẽ nhìn thấy Ơn Cứu Độ.
Chính vì thế mà Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói rằng: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến”. Vì vậy, Chúa Nhật III mùa vọng hay còn gọi Chúa Nhật Gaudete: “Mừng Vui lên”, vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời, không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính… Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo cho người đói khổ, sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người đồng thời khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta lấy tình thương, công bằng, bác ái và thứ tha làm thang giá trị trong cuộc sống hầu làm Danh Chúa cả sáng và Nước Chúa đến với mọi người trong ngày Giáng sinh sắp đến cũng như mọi ngày. Amen.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
ANH EM HÃY VUI LUÔN TRONG NIỀM VUI CỦA CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Linh mục Antony de Mello đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi còn trẻ, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này”. Nhưng rồi khi tôi sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi”. Nhưng giờ đây đến lúc già, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi chỉ còn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”. Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình”.
Lời tự thú trên đây của nhà tu hành người Ấn Độ nhắc chúng ta một điều căn bản là, hãy thay đổi chính bản thân của mình trước để có thể giúp anh chị em mình, xã hội mình thay đổi sau đó. Truyền thống đạo đức từ ngàn xưa còn nhắc mỗi người chúng ta hãy “tu thân, tề gia” rồi mới mong “trị quốc, bình thiên hạ”. Bởi vì, mọi con đường đi xa đều bắt đầu từ những chỗ gần. Mọi ngọn núi cao đều khởi đầu từ nơi đất thấp.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật “màu hồng” hay Chúa Nhật của niềm vui. Bài đọc I được trích trong sách ngôn sứ Xôphônia. Ông sống vào khoảng thế kỷ VII TCN, vào những năm trước khi vua Giosia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo. Khi đó, nước Do thái đang ở trong một tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy dồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình sẵn. Mặc dù vậy, Xôphônia vẫn kêu gọi dân chúng hãy vui lên, lý do là vì: “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa”. Giữa cảnh ngặt nghèo như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ đoái thương nhìn đến và tha thứ mọi lỗi lầm cho toàn dân.
Cũng trong tâm tình đó, trong bài đọc thứ II, Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê:“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, tôi nhắc lại, vui lên anh em!”. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc sống, bằng cách sống hiền hòa và rộng rãi với mọi người.
Nhưng niềm vui đó chỉ trọn vẹn khi chúng ta biết hoán cải cuộc sống của mình. Quả vậy, việc chuẩn bị hang đá có ích gì, khi lòng chúng ta vẫn còn đó những hận thù, bất công, chia rẽ… Vậy chúng ta phải làm gì ? Đó cũng là câu hỏi của những người đến với Gioan Tẩy Giả mà bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Theo lời của vị Tiền Hô: Trước tiên, hãy trở về bằng việc thực hành bác ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo”.
Trở về còn là sống công bình và chu toàn công việc bổn phận hằng ngày của mình. Đối với những người thu thuế, thì thánh nhân khuyên: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Đối với binh lính thì “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Thánh Gioan đã không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ.
“Đời thay đổi khi chúng ta thay đổi” là tựa đề một cuốn sách của nhà văn Andrew Matthews được bán khá chạy trong mấy năm vừa qua. Nội dung cuốn sách nói về một người đàn ông đang thất vọng cùng cực nói với một học giả. Ông đến và nói với vị học giả này rằng: “Thưa ngài, đời tôi thế là hết Tôi chẳng còn gì cả. Tất cả tiền đã hết ! Tôi đã mất tất cả!”. Vị học giả hỏi lại: “Thế anh còn nhìn thấy, nghe thấy, đi lại … được đấy chứ ?”. Người đàn ông đáp : “Thưa ngài vâng!?”. Nhà học giả nói: “Vậy thì tôi cho rằng cái gì anh cũng còn, chỉ có tiền là mất!”.
Chỉ với một cách nhìn nhận khác mà cuộc đời một người thay đổi: từ chỗ bi quan, tưởng chừng mọi thứ đã kết thúc, sang chỗ lạc quan, có thể sẵn sàng bắt tay vào làm lại từ đầu… Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta cũng như vậy. Sự việc thì vẫn thế, chỉ cách nhìn của chúng ta thay đổi, thế là cuộc đời cũng thay đổi …
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật thứ III của Mùa Vọng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta sám hối để có thể trở về với Chúa. Nhưng sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn. Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động. Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng thánh: Chúa Giêsu Kitô.
Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Ki tô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.
Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Kitô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người. Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người. Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.
Mùa Vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người. Trước khi cố gắng thay đổi môi trường chúng ta đang sống, chúng ta hãy thay đổi chính con người của mình trước.
Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân. Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
HÃY VUI LÊN- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”. Tôi phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn đón Thiên Chúa đến? Tôi phải làm gì để có thể sống vui?
I/.Vì Thiên Chúa ở giữa ngươi
Tiên tri Sôphônia cho rằng phải ca hát vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người, vì Thiên Chúa đã đẩy lui quân thù cho dân, vì Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh cho dân Người, vì Thiên Chúa yêu thương dân Người, Ngài quy tụ cả những kẻ đã bỏ lề luật của Ngài.
Thiên Chúa ở với ai, thì người đó sẽ được Thiên Chúa bảo vệ. Thiên Chúa đã ở với Abraham khi ông đi vào Aicập, Ngài đã bảo vệ ông khỏi bao tai họa và bênh vực quyền lợi của ông. Khi Sara, vợ của Abraham, được thương yêu và bị bắt làm vợ vua Pharaô, thì Thiên Chúa đã đổ tai họa xuống người Aicập và buộc Pharaô phải trả Sara về cho Abraham. Thiên Chúa đã ở với Yacóp, đã đi với Yacóp và dẫn ông trở về quê cha đất tổ khi ông chạy trốn Esau. Thiên Chúa đã ở với Môsê, để ông có thể đứng vững trước vua Pharaô, để ông có thể đem dân Do Thái ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri, để làm cho các tiên tri dám nói những điều mà những người có quyền thế và dân chúng không muốn nghe.
Hôm nay người ta biết rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn luôn hiện diện với tất cả mọi người và với dân Người. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Ngài luôn trợ giúp con người vì tất cả đều là con dân của Ngài. Không nhờ Ngài, không gì có thể hiện hữu và thành sự. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Con người cần Thiên Chúa để sống hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng cần con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa đang ở với con người, đó là lý do mọi người cần biết để có thể vui lên.
II/.Vì Chúa đã gần đến
Thánh Phaolô kêu gọi dân thành Philip hãy vui lên, vì “Chúa đã gần đến”. Với thánh Phaolô, Đức Giêsu là Đấng có thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hủy khi mang thân phận con người, Thiên Chúa đã đến và ở giữa con người, hiện Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến hiện diện giữa trần gian trong thân phận con người, và Ngài sẽ lại đến. Ngài đang đến, nên các Kitô hữu hãy vui mừng.
Tại sao vui khi Chúa đến gần? Trong quan niệm của thánh Phaolô, Đức Giêsu là niềm vui, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Chúa tới, là để cứu độ con người, để giải phóng toàn diện con người, đưa con người vào hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì vậy, Kitô hữu vui biết bao khi biết Chúa đang tới gần. “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi… Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại đón anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng được ở đó với Thầy”.
Trong khi chờ đợi Chúa, Kitô hữu hãy sống ôn hòa. Niềm vui phải tỏa rạng trên gương mặt của các Kitô hữu, vì đây là niềm vui lớn vô cùng. Trên đời này, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui này: Chúa đến để cứu độ con người, để đưa con người tới hạnh phúc viên mãn. Dân ngoại không biết, nên không có niềm vui này được; còn Kitô hữu biết điều này, nên họ vui. Nếu Kitô hữu không biết điều này, thì thánh Phaolô đã nhắc nhở các con cái của Ngài: “hãy vui lên, tôi nhắc lại lần nữa: anh em hãy vui lên trong Chúa”.
III/. Đức Giêsu- niềm vui của con người
Đức Giêsu quả thực là niềm vui của con người! Khi được sinh ra tại chuồng chiên cừu nơi làng Bêlem, không ai biết Ngài là nhân vật đặc biệt. Khi sống thời thơ ấu tại Nazarét, cũng chẳng ai biết nguồn gốc thần linh của Ngài ngoại trừ Đức Mẹ và thánh Yuse. Khi Ngài đi rao giảng, Ngài được coi là một tiên tri, là người qua đó Thiên Chúa hiện diện và yêu thương dân Người. Với tư cách là một tiên tri, người của Thiên Chúa, Ngài cũng đã làm cho dân chúng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, làm cho dân chúng vui vì họ cảm nhận Thiên Chúa quan tâm và an ủi dân Người.
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu hoàn toàn lấy ý Thiên Chúa làm ý mình, Ngài chấp nhận vâng phục cho đến chết, Ngài hoàn toàn phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, Ngài thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu có nguồn gốc thần linh; điều này là nguyên nhân khách quan làm Kitô hữu vui mừng.
Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa đã yêu thương con người đến cùng cực nên mới cho Con của Ngài nhập thể làm người! Con người thật hạnh phúc dường bao khi nghe Tin Mừng này. Niềm tin này ảnh hưởng trên con người toàn diện, làm con người vui mừng hân hoan. Đâu còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui này! Niềm vui này phải lan tỏa và chi phối toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước gì mỗi Kitô hữu tin tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô, để cuộc đời của mỗi người là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1/.Xin chia sẻ niềm vui lớn nhất trong đời bạn.
2/.Bạn có kinh nghiệm về nỗi buồn không? Nó là gì? Nó có đáng cho bạn buồn không?
3/.Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin chia sẻ!
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
THIÊN ĐÀNG LÀ THẾ ĐÓ- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Mừng vui lên Sion, này đây Chúa ngươi đến rồi.
Mừng vui lên Sion, Ngài khấng nghe lời ngươi đó.
Ngài dẫn đưa ngươi, qua những hố sâu, qua núi đồi,
Về nơi an vui, nơi suối mát trong đẹp tươi.”
Đó là lời reo ca thoát thai từ niềm tin son sắt của tiên tri Sôphônia trong cảnh tang tóc khổ đau của kiếp lưu đày biệt xứ.
Số là vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, vùng đất Do thái bị áp lực và sâu xé bởi đoàn quân viễn chinh Assyria hùng mạnh ở phía Bắc và vương quốc Aicập rộng lớn ở phía Nam. Ngoài ra còn phải đương đầu với tệ nạn cướp bóc, sách nhiễu của các nước lân bang. Triều đình Do thái bị phân năm xẻ bảy. Người thì muốn cấu kết với Assyria để tránh tai hoạ, kẻ thì đòi liên minh với người Assur để chống giặc phương Bắc. Tình trạng rối rắm, bất ổn, chia rẽ, lo sợ đã làm đất nước nhỏ bé Giuđa rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, kiệt quệ chưa từng thấy. Rốt cuộc Giêrusalem bị dày xéo, đền thờ rơi vào tay giặc, và dân cư phải đi lưu đày. Kiếp nô lệ cho đế quốc Assur bắt đầu.
Vào khoảng năm 609 trước Thiên Chúa giáng sinh, đế quốc Assur bắt đầu suy yếu. Tin tưởng ngày Giavê ra tay cứu thoát, thấy trước thời kỳ khôi phục quốc gia Giuđa, Sôphônia đã phấn chấn tâm hồn người dân lưu đày bằng lời reo vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi nhà Israel hãy vui mừng! Vì Chúa đã cất án phạt trên ngươi. Địch thù của ngươi, Ngài bắt phải tháo lui. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn phải sợ khổ cực nữa” (Xp 3:14-15).
Đây là niềm vui lớn lao cho toàn dân. Vui vì được Giavê giải thoát. Vui vì Chúa đến ở với dân Người. Chính Thánh Phaolô cũng đã nhắc đến niềm vui cứu độ này cho cộng đoàn tiên khởi Philip: “Anh em hãy vui mừng lên… vì Chúa đã gần bên” (Phi 4:4-5). Đây chính là chủ đề của Chúa nhật thứ 3 mùa vọng. Màu tím trong phụng vụ được thay bằng màu hồng. Qua đó, Giáo hội kêu mời dân Chúa hãy đổi mới thái độ sống, hãy hân hoan vui mừng, hãy hát lên, vì khổ đau kinh hoàng sẽ qua đi và bình an của trời cao đang ngự đến.
Hãy đổi mới thái độ sống cũng chính là câu trả lời của Thánh Gioan Tiền hô khi dân chúng đến hỏi “Chúng tôi phải làm gì?”
Theo Thánh Gioan, để đón chào Sứ giả Bình an, để tiếp nhận Hạnh phúc của trời cao, thì “ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy… Đừng đòi gì quá mức ấn định… Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai.” Phải chăng vị ngôn sứ đã muốn làm nổi bật chân lý: Hãy thương người để gặp được Chúa.
Khi hết lòng tu chỉnh thái độ sống của mình đối với anh chị em chung quanh, khi cố gắng thực thi công bình, bác ái, yêu thương và san sẻ, khi quyết tâm thay đổi tính khí xung giận hận thù, là tôi đang chân thành mở ngỏ đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến, là khơi dòng cho nguồn bình an tuôn tràn đến người thiện tâm, và làm cho thiên đàng thật sự chớm nở nơi trần thế.
Người Nhật thường kể cho nhau nghe câu chuyện về một hiệp sĩ Samurai hung bạo, cộc cằn không ai bằng. Một hôm chàng ta đến gặp một vị thiền sư và nói:
– Xin hãy chỉ cho tôi biết thiên đàng là gì và hoả ngục là gì?
Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ đầu đến chân rồi thất vọng trả lời:
– Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng và thế nào là hoả ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Vì ngươi là một kẻ hung bạo, thô lỗ. Ngươi là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta. Ta không chịu được ngươi nữa.
Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ nổi nóng, liền rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị này giơ tay ngăn lại và nói:
– Hỏa ngục là thế đó!
Chợt nhận ra đây là bài học thực tiễn của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ vội dừng tay. Sự hối hận bỗng đâu dâng tràn tâm hồn, chàng ta hiểu rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống để dạy cho mình bài học về hoả ngục. Thế rồi chàng từ từ hạ gươm xuống, cho vào bao, đoạn đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả sự thành tâm sám hối. Vừa nâng chàng dậy, vị thiền sư vừa nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói:
– Thiên đàng là thế đó!
Thiên đàng đã hiện hữu nơi cõi thế. Đấng Cứu Thế đã đến trần gian. Một Hài Nhi đã sinh ra đời. Nhưng, nếu không biết thành tâm sám hối, đổi mới thái độ, làm sao người ta có thể cảm thấu được hạnh phúc thiên đàng là gì, Chúa Hài đồng là ai, hay niềm vui cứu độ là chi. Phải chăng vì bao lâu nay tính nóng nảy, giận hờn, ích kỷ, và nhất là vì thiếu hành vi sám hối mà người ta đã gây ra không biết bao nhiêu quang cảnh tan nát, lưu đày, hoả ngục cho chính mình và cho tha nhân?
Nhưng nếu biết sống an hoà với mọi người, biết chia sẻ cứu giúp những ai bần cùng khốn khó, biết chế ngự thói xấu tật hư, biết hướng lòng lên với trời cao bằng kinh nguyện và lời tri ân, thì như lời Thánh Phaolô đoan quyết, “bình an của Thiên Chúa sẽ gìn giữ lòng trí của anh em trong Đức Giêsu Kitô” (P1 4:7)
Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
CÔNG CHÍNH- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chương trình cứu độ của Thiên Chúa ban cho loài người được hình thành qua rất nhiều thời kỳ. Thiên Chúa đã mặc khải ý định qua từng biến cố vui buồn của một dân tộc. Người đi vào thời gian để thực hiện ý định của Người. Đọc lịch sử dân Do-thái, chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Người qua từng giai đọan. Thiên Chúa không rút bớt thời gian và không dùng sự lạ để đạt tới mục đích ngay, nhưng chờ đợi chuẩn bị của từng thế hệ con người. Mỗi thế hệ, Chúa lại chọn gọi một số những ngôn sứ và chứng nhân. Người mong muốn cải đổi từng tâm hồn để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa sai các tiên tri để loan báo tin vui ngày xum họp trở về. Mỗi biến cố xảy đến cho dân là một dấu chỉ lòng thương xót. Tiên tri Sophonia đã cất tiếng: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi(Soph 3, 14).
Dân Chúa đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Chúa ban cho Dân thật nhiều hồng phúc, nhưng họ cũng phải đối diện với nhiều thách đố thường ngày. Chúa để mắt đoái nhìn và dẫn dắt Dân trong nẻo chính đường ngay, nhưng rất nhiều lần họ đã đi lạc xa và rời bỏ Chúa. Chúa phạt họ lưu đầy, nhưng rồi Chúa lại qui tụ họ về. Tiên tri Sophonia diễn tả: Như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa (Soph 3, 18).Ơn cứu độ được cưu mang qua nhiều dòng dõi nối tiếp sứ mệnh chuẩn bị. Chúng ta không thể tách rời các biến cố nhỏ to trong chương trình cứu độ. Thời gian là trường huấn luyện và là thuốc chữa lành tâm linh. Biết bao nhiêu kinh nghiệm xương máu để gìn giữ kho tàng châu báu niềm tin của cha ông. Đó là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Bài phúc âm của Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa đám đông mở đường hoán cải. Gioan bắt đầu sứ mệnh rao giảng sám hối ngay giữa nơi quần chúng. Mọi cấp bậc và mọi giới đã chạy đến ngài và xin ý kiến làm sao có thể đổi đời. Cả các binh lính cũng đến hỏi:“Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 14).Lời kêu gọi của ông Gioan vẫn vang vọng qua mọi thời. Hôm nay đây mỗi người chúng ta cũng hỏi: Tôi phải làm gì để nên trọn lành? Cũng chính những việc cần thi hành mà Gioan đã nói về lòng bác ái, sự công bằng, sống ngay chính và thái độ chấp nhận. Niềm vui trong tâm hồn sẽ dâng trào khi sự ích kỷ, gian tham và kiêu căng bị xóa nhòa.
Cuộc sống xã hội tạo nên hình dạng nếp sống con người. Người ta nói gần mực thì đen, gần đền thì rạng. Cách sống và suy tư hành xử của chúng ta cũng bị ảnh hưởng khi sống trong xã hội một xô bồ, gian dối và lừa đảo. Những sai lạc và lầm lỗi nho nhỏ trở thành thói quen hằng ngày, chúng ta không còn nhận diện sự chính thật. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khơi dậy và nhắc nhở mọi người sống tinh thần mới lấy đức ái làm cột trụ dẫn đường. Việc làm cấp bách là hãy chia sẻ áo quần, cơm bánh cho những người nghèo khó đói ăn, thiếu mặc. Niềm an vui của ơn cứu độ không cao siêu xa vời, nhưng hòa nhập ngay trong cuộc sống đời thường. Chúng ta sẽ nhận được niềm vui hoan lạc khi biết chia sẻ, cho đi và hiến thân.
Mùa Vọng mang ý nghĩa gì cho mỗi người chúng ta trong giai đoạn này. Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui trào dâng khi đón nhận lời mời gọi của thánh Gioan không? Chúng ta có thật sự muốn canh tân đời sống và dọn đường đón nhận Chúa vào tâm hồn không? Chúng ta cần tu thân, phải tích đức và đổi mới cách suy tư sống đạo. Biết bao nhiêu cơ hội đã đi qua trong cuộc đời bị bỏ lỡ. Những ràng buộc của bản ngã và của tham sân si cuốn quyện trong cách sống. Chúng ta khó vượt ra khỏi vòng bao quanh ứng xử thường tình của người đời. Đôi khi chúng ta cũng đua đòi và hãnh diện về những thói hư tật xấu của mình. Nghĩ rằng mình hiểu đời, điệu đời, chịu chơi và thích ứng được với những đua chen xã hội. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn cuộc sống và dần rời xa những ràng buộc luân lý đạo đức.
Không phải ngày một, ngày hai là chúng ta thoát được khỏi vòng cuốn hút đam mê cuộc đời. Người ta thường nói rằng con người thì chứng nào tật ấy. Đúng thật, một tật xấu đã nhiễm, không dễ gì thay đổi. Việc xấu đã thành thói, khó bề sửa chữa. Có người khoe rằng tính tôi là vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi. Đây chỉ là cách cãi chầy và nói cối. Cần khiêm hạ trong ý thức với cả ý chí quyết tâm để có thể tránh xa và loại trừ những thói xấu. Thuốc nhẫn nhục chữa bệnh tham sân si. Ai cũng cần phải tu thân và tu tâm để nên người hoàn thiện. Nếu chúng ta tu được trong nghịch cảnh mới gọi là chân tu. Khi gặp những sự trái tai, gai mắt và thị phi, mà chúng ta cầm lòng được mới gọi là tu. Nếu không đối diện với nghịch cảnh thì khó biết sức tu của mình. Khi đụng truyện, chúng ta mới biết kẻ dữ, người hiền. Nếu chúng ta không tu tập sửa đổi thì ngày qua tháng lại, tuổi đời chồng chất và tóc bạc răng long, các thói hư tật xấu vẫn còn đó.
Hãy vui lên vì ơn cứu độ đã gần kề. Hãy vui với những giây phút hiện tại, chúng ta không phải đợi đến ngày mai. Chúng ta hãy bắt đầu ngay ngày hôm nay những gì có thể làm. Chân thành nhận diện những gốc rễ của sự sai xót, yếu đuối và lầm lạc để hồi đầu. Chúng ta chấp nhận sự thật về mình và đứng trên đôi chân của mình. Bỏ đi được một thói hư hay một tật xấu là chúng ta đã bước lên một nấc thang của sự hoàn thiện. Như ông Gioan, tuy dù mọi người kính phục Gioan, nhưng không màng dư luận thị phi. Ông trả lời thẳng thắn: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Gioan khiêm hạ trong lòng để chu toàn sứ vụ được trao. Nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Chúa. Là những thừa tác viên của lời Chúa, chúng ta hoàn tất mọi công việc như người đầy tớ phục vụ.
Niềm vui của ngày trở về quê hương xứ sở là biến cố hân hoan. Thánh Phaolô viết thơ cho tín hữu thành Philipphê cũng loan báo tin vui: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!(Phil 4, 7).Phaolô đã đón nhận niềm vui ngập tràn bởi chính nguồn ơn cứu độ là Chúa Kitô phục sinh. Ngài không quản ngại gian khó trên bước đường truyền giáo. Phaolô đã chịu trăm ngàn đắng cay để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Ngài khuyên lơn các tín hữu khởi đầu là hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa: Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4, 7).Tin vui cần được loan truyền. Phaolô đã lãnh nhận nhưng không, nên ngài cũng đem tin mừng biếu không bằng mọi giá.
Lạy Chúa, nếu không có ơn Chúa, chúng con chẳng làm được gì. Hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu là nguồn cội để lãnh nhận sự sống. Chúa phán: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15, 5). Xin cho chúng con biết tận dụng mọi thời gian để tu tâm và luyện tính để nên hoàn thiện hơn. Không tu luyện, kiềm chế và tiết độ thì không thể thay đổi tính tình. Cuối cuộc đời nhìn lại đời mình, có khác gì như con dã tràng xe cát biển đông.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
CHÚA NHẬT HỒNG GIỮA MÙA TÍM- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô, và không có gì là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải sao chép lại cuộc sống của Thầy mình. Ngài đã đến trần gian chung hòa kiếp sống đi sâu vào phận người, vui với người vui, khóc với người khóc và tiến nhận cái chết trên Thập giá để khai mở cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu chính là căn nguyên của niềm vui, biến ưu sầu thành hoan lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc cho con người chúng ta.
Nói tóm lại, đạo Công giáo không phải là một tôn giáo nhuốm vẻ bi thương và sầu khổ, cho dù khi nhìn lên Thánh giá, chúng ta dễ rơi vào tình cảm đạo đức mang dáng dấp khổ đau. Đạo hay con đường mà Chúa Giêsu mở toang ra cho chúng ta chính là con đường của niềm vui và hy vọng.
Đây cũng chính là chủ đề của phụng vụ Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật Gaudete. Các bài đọc đều vang vọng lời hiệu triệu: “ Hãy vui lên vì Chúa đã gần đến, Đấng thánh Israel đang ở giữa ngươi”. Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là ‘Chúa Nhật hồng giữa mùa tím’ với tâm tình hoan vui này.
Vui mừng và hy vọng
Các bài đọc Lời Chúa Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay đều mang âm hưởng của một niềm vui sâu xa. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Sôphônia nhắc đi nhắc lại: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, con cái Israel hãy nức lòng phấn khởi” (Sop 3, 14). Có một nét đặc thù nơi sứ điệp của Sophonia khi ông mời gọi nhà Israel cũng như thiếu nữ Sion hãy reo vui, vì Thiên Chúa sẽ thực hiện ơn cứu độ, đồng thời chính Ngài cũng sẽ vui mừng khi ở giữa dân và thể hiện lòng thương xót cho dân. “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ.” (Sop 3, 17). Đức Chúa là căn nguyên của niềm vui và Ngài cũng cảm nhận niềm vui thực sự nơi chính Ngài.
Cùng với lời hiệu triệu hãy vui lên, vị tiên tri còn nhắn nhủ dân chúng “ Hỡi Sion đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”(c 38).
Trong Tin mừng, Đức Giêsu cũng nhiều lần nhắc đi nhắc lại khẩu lệnh đó, mời gọi các học trò tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Ngài để có được bình an và thoát vượt mọi sợ hãi.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cũng đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của mình với thông điệp ‘Đừng sợ’. Đây không phải là lời trấn an mang tính tâm lý nhưng là lời mời gọi chúng ta hãy đi sâu vào cảm thức đức tin để luôn bám chặt vào Thiên Chúa, Đấng mang lại niềm vui và sự an bình. Vì thế bắt đầu mùa vọng để khai mở năm thánh 2000, Ngài đã gửi đi bức thông điệp để nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ: “ Đừng sợ, hãy mở cửa đón Đức Kitô” (Don’t be afraid, open the door to Christ).
Kinh thánh Cựu ước kể lại câu chuyện về bà Sara vợ ông Abraham. Bà Sara đã già nua, đến tuổi gần đất xa trời, nhưng Đức Chúa lại nói cho bà biết bà sẽ sinh con trai. Có lẽ bà nghĩ Thiên Chúa cũng có đầu óc khôi hài, nên bà đã phì cười. Thần sứ hỏi tại sao bà cười, hay bà nghi ngờ và không tin lời Chúa nói. Bà chối phắt vì sợ (St 18, 16). Sự sợ hãi đã làm lịm tắt nụ cười trên đôi môi của bà. Nhưng khi bà sinh con, niềm vui đã trở lại, vì bà đã hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa. Abraham được mệnh danh là cha của những kẻ tin. Còn bà Sara, (theo nguyên ngữ tiếng Aram, có nghĩa là ‘người đàn bà cười’), đã tìm lại niềm vui và thoát khỏi sợ hãi, vì cuối cùng bà cũng tin vào lời của Đức Chúa.
Vì vậy, để có được niềm vui, chúng ta phải quy hướng trọn vẹn về Chúa. Niềm vui và sự bình an chân thật không đến từ những ồn ào náo nhiệt bên ngoài của ngày lễ Giáng sinh, nhưng niềm vui phát xuất từ sâu tận bên trong tâm hồn. Chúng ta nhìn vào mẫu gương Mẹ Maria. Sau khi thưa lời xin vâng và đón nhận Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng mình, Mẹ liền vội vã lên đường với niềm vui tròn đầy. Vừa đến nhà bà chị họ Isave, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 39). Đó là niềm vui sâu xa trong tâm hồn của những ai luôn sống kết hợp với Chúa là Chúa của niềm vui.
Thưa ông chúng tôi phải làm gì?
Để có được niềm vui thực sự, chúng ta cũng phải đặt ra câu hỏi giống dân Do thái ngày xưa khi nghe Gioan rao giảng: “ Thưa ông, chúng tôi phải làm gì?”. Câu trả lời của Gioan trong Tin mừng hôm nay cũng là sứ điệp Giáo hội muốn nhắn gửi đến chúng ta :“ Ai có hai áo hãy chia cho người không có…. Đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định … Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người khác, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 10-14). Điều mà Thánh Gioan tiền hô khuyên nhủ dân chúng là hãy thành tâm chỉnh sửa lối sống, thực thi công bằng và sống bác ái đối với nhau. Con đường đến với Chúa và con đường đến với tha nhân cũng chỉ là một, bởi vì tha nhân chính là bí tích hiển thị dung mạo của Đức Kitô, như Ngài đã nói: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta trần trụi các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu hay ở tù các ngươi đã thăm nom” (Mt 25, 40).
Triết gia Nietzche đã có lần tuyên bố: “ Tha nhân là hỏa ngục”. Ông là một người vô thần, không tin Thiên Chúa nên không thể nào khám phá ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những con người mà ông gặp gỡ hằng ngày. Ngược lại như Thánh Giacôbê đã viết: “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là kẻ nói dối”. Thánh Gioan tiền hô là người dọn đường để chúng ta đến với Chúa, và con đường để đến được với Chúa phải đi ngang qua tha nhân.
Trước lễ Giáng sinh, chúng ta vẫn thường gửi những cánh thiệp để chúc nhau một lễ Noel vui tươi và an bình. Niềm vui và sự bình an đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta biết giao hòa thực sự với Chúa và với nhau, gạt bỏ hết những thù hận và chia cách.
Có một vị linh mục đã có sáng kiến trang trí cho ngày lễ Giáng sinh bằng cách dựng một máng cỏ với cây Thánh giá bên cạnh thay cho cây Noel. Sáng kiến này khá độc đáo, bởi vì theo Ngài, Chúa Giêsu đến trần gian để bắt đầu cuộc hành trình yêu thương nơi chuồng bò Belem và kết thúc cuộc hành trình ấy nơi đỉnh cao Calvê. Máng cỏ Belem và Thập giá núi Sọ là hai thông số của một thực tại duy nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Vì thế muốn hưởng nhận niềm vui Giáng sinh cách thật sự, chúng ta cũng phải cảm thấu và hiển thị tình yêu một cách rõ nét, không phải chỉ qua những buổi tham dự phụng vụ để đến với Chúa, mà còn trong trọn cuộc sống để đến với nhau, nhất là phải cải thiện mối tương quan với mọi người như lời nhắn nhủ của thánh Gioan tiền hô ngày hôm nay.
Kết luận
Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật của niềm vui và cũng là Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui, đạo của mầu hồng tươi sáng. Chúa đến trần gian không phải để thiết lập một tôn giáo như người ta vẫn hay nghĩ tưởng. Hai ngàn năm trước, Ngài đi sâu vào phận người để công bố cho chúng ta một tin vui, đó là tin Thiên Chúa yêu thương con người. Tin vui hay Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem và đạt đến đỉnh điểm khi Ngài bị treo thân trên Thập giá. Chúa Giêsu đến trần gian và mời gọi chúng ta nên thánh, nhưng như DonBosco đã nói cho các học sinh: “Bí quyết nên thánh là luôn sống vui tươi và chu toàn bổn phận của mình”. Cũng tương tự, Thánh Phanxicô Salê cũng dí dỏm nói rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh thật đáng buồn”. Chớ gì chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới cũng như trong suốt cả ‘mùa vọng lớn’ là chính cuộc lữ hành đức tin chúng ta ngày hôm nay.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG-C
VUI LÊN ANH EM- Lm Fx. Lê văn Nhạc
Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh Ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết Ông già Noel là ai? Và có thật không?
Tháng 9 năm 1987, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho một tờ báo công giáo Hoa Kỳ để hỏi về Ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.
Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có Ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”
Được biết Ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi Ngài là Cha Noel, vì Ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến Ngài như một Ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, Ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…
Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có Ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ v.v…Đó là niềm vui hời hợt ở bên ngoài sẽ qua mau. Niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người kitô hữu.
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”
Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai họa nữa”. Thưa anh chị em, lời đó có an ủi được chúng ta không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe rang rảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhãn những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn thấy bao nhiêu bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…
Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hòa bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe dọa chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ. Và chẳng những tai ương khốn khó bên ngoài làm chúng ta đau khổ, mà chính những cơn bảo táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân Ngài và đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự dữ không muốn thì tôi lại làm”.
Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mĩm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi”? Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đã đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hòa, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.
Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!” Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang qui tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ nhỏ nhen, bất chính. Bằng cách sống chia cơm sẻ áo, liên đới yêu thương; bằng cách sống công bình, chính trực và an hòa với mọi người.
Anh chị em thân mến,
Có phải là điều viễn vong không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!” Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.
Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc đấu tranh của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin vào Thiên Chúa vẫn không thất vọng, chán nản, vì họ biết rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.
Muốn hòa mình vào niềm vui của Phụng vụ, người kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hòa bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hòa giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.
Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- C
TÔI PHẢI LÀM GÌ?- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trước những biến cố quan trọng, trước những nguy khốn cấp bách, người ta thốt lên: Tôi phải làm gì? Gioan tiền hô xuất hiện, kêu gọi mọi người dọn đường đón Đấng Cứu thế. Dân Do thái hàng ngàn năm đã được nghe về Đấng Cứu thế. Bao nhiêu thế hệ đã khao khát mong chờ Đấng Cứu thế.
*I/ Dân chúng mong đợi Đấng Cứu thế vì nhiều lý do:
1/. Kẻ buồn vì đất nước bị gót giày ngoại bang chà đạp, mất tự do tín ngưỡng, mất tự do nhân phẩm, khổ vì bị bóc lột, đau vì bị áp bức. Người có chức quyền địa vị chỉ lo vơ vét ăn chơi tửu sắc, còn dân chúng sống chết mặc bay.
2/. Kẻ học biết Kinh thánh và nhữnh kinh sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là “Vua được xức dầu, Ngài đến trong dòng dõi Giuda, Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua quan ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy”. Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến. Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế?”. Gioan không bắt họ phải bỏ nghề nghiệp, địa vị, việc làm, không bắt họ lên rừng ẩn tu khắc khổ, cũng không phải ăn chay, khóc lóc, mặc áo nhặm, rắc tro lên đầu như tiên tri Giona đã bảo dân Ninivê. Gioan chỉ kêu gọi họ phải hối cải, phải kiểm tra lối sống của mình, từ bỏ bất chính, cải thiện đời sống, quyết tâm thực thi công bằng, bác ái trong chính nhiệm vụ, nghề nghiệp, chức năng riêng của mình.
II/ Vậy công bằng, bác ái là gì?
1/. Công bằng là gì? Qua hai lời chỉ dẫn của Gioan cho hai hạng người lính và thu thuế.
Đối với lính thì Ngài khuyên: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Lính tiêu biểu cho hạng người có sức mạnh, có quyền lực vũ khí trong tay, muốn hoành hành thế nào tùy thích, dễ ỷ mạnh hiếp yếu, đe dọa, áp bức bóc lột bất công, khó có thể sống ngay chính, vì thế Thánh Gioan đã khuyên họ: Hãy bằng lòng với số lương của mình hay số tiền do công lao chính đáng của mình làm ra, chứ đừng bóc lột, vơ vét, trộm cắp của người khác, sống công bằng như thế họ sẽ xứng đáng đón rước Đấng Cứu thế.
Lỗi đức công bằng này thì dễ biết vì nó trực tiếp làm hại người ta. Nhưng công bằng trong nhiệm vụ thì khó biết.
Công bằng trong nhiệm vụ được thực hiện trong việc thâu thuế, nên đối với người thâu thuế Gioan khuyên: “Đừng đòi gì quá mức ấn định”
Thứ nhất, mức ấn định là mức do luật pháp đã ban hành cách hợp lý, thuế quá mức là bất công.
Thứ hai, dân có mức nào thì xác định mức đó, không vì lập công mà khai thêm đánh quá.
Thứ ba, đồ tốt xấu thế nào, đánh giá đúng như thế, đừng gian dối tráo trở, tăng giảm sai sự thật là bất công.
Thứ bốn, giữ nhiệm vụ nào phải lo chu toàn nhiệm vụ ấy, lười biếng bê trễ, phung phí là bất công; làm Linh mục bê trễ là bất công; làm cha mẹ, thầy cô không lo dạy dỗ con trẻ là bất công; làm cán bộ, công chức không lo giúp đỡ dân là bất công; con cái không giúp đỡ, nghe lời cha mẹ, thầy cô là bất công. Sống công bằng thôi chưa đủ vì chỉ là mức đạo đức tối thiểu theo luật: “mắt đền mắt, răng đền răng, ác giả ác báo”. Nếu cứ ăn miếng trả miếng như thế, thì đời sống sẽ chất đầy hận thù. Sống bác ái mới đạt giá trị đạo đức đích thực. Để đáng được vui luôn trong niềm vui đón mừng Đấng Cứu thế đến, Gioan khuyên mọi người phải thực thi bác ái: “Ai có hai áo thì chia cho người không áo, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Thánh Luca đã diễn tả đúng đời sống bác ái của cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ.
2/. Bác ái là gì? Theo Thánh Phaolô: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ, anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành” (Rm. 12, 9). Gớm ghét điều dữ là cố gắng thanh tẩy những tâm tình bất chính, hung dữ, độc ác. Đó là vấn đề tu thân. Tha thiết với điều lành là thực hiện những điều thiện hảo, chân chính, tốt lành ơn ích cho người. Đó là vấn đề dấn thân, có tu thân mới dấn thân được, đây là hai chặng đường trên cùng một đường đức ái.
Tu thân: Đức ái đòi buộc phải tu sửa, thanh tẩy mình khỏi mắc vào thói ghen tuông, tự đắc, khoe khoang, làm điều bất chính, bất nhân, nóng giận hận thù, tư lợi, không mừng khi thấy sự ác. Đức ái cũng đòi buộc phải tu luyện, học tập những đức tính nhẫn nhục, khiêm tốn, hiền hậu, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả, vui khi thấy điều chân thật (1Cp. 13, 4-7). Đạo Nho cũng chủ trương muốn thực hiện đức nhân thì tiên vàn phải tu thân. Thân gồm tâm, ý, trí nên tu thân là chính tâm, thánh ý, trí tri. Rồi mới có thể thực hiện nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đạo Phật cũng chủ trương muốn có tâm từ ái, từ bi, hỉ xả, cứu độ chúng sinh, tiên vàn phải diệt tham, sân, si, rồi tu tập bát chánh đạo.
Dấn thân: Sau khi đã tu thân luyên tập tâm trí nên trong sạch thì mới thấy được mặt Thiên Chúa, mới dấn thân, xả thân, hiến thân phụng sự Người. Mặt Thiên Chúa đây là tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, những người Thiên Chúa yêu thương chúc phúc. Lúc đó ta mới có thể chia áo cho người không áo, sẻ cơm cho người đói ăn… và còn sẵn sàng hiến mạng sống cho người Chúa thương. Chỉ khi đó ta mới vui với người vui, khóc với người khóc,và mùa vọng mới là mùa reo vui, mới vui luôn trong niềm vui của Chúa, vì chính Chúa đang ngự giữa ta và bình an của Thiên Chúa mới giữ lòng trí ta được kết hợp với Đức Kitô Giêsu. Amen (Bài I, II).