CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC KINH SƯ – Chú giải của Jacques Hervieux 13
TẤM LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHÈO (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 16
TẤM GƯƠNG BÀ GÓA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 28
THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI THỰC (*) – Suy niệm chú giải của Giáo hoàng Học Viện Đà Lạt. 47
ÁNH MẶT THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 49
LÒNG QUẢNG ĐẠI- Lm. Gioan M. Nguyễn THiên Khải CMC.. 53
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CHÚA VÀ GIÁO HỘI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý 58
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 65
HAI HÌNH ẢNH TRÁI NGƯỢC NHAU- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng 69
LÀM VIỆC NHỎ VỚI TÌNH YÊU LỚN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 74
ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 78
TÌNH YÊU LỚN LAO- Lm Gioan M. Nguyễn Đức Hùng CRM.. 82
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 90
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Bà goá lấy bột làm một cái bánh nhỏ, rồi mang đên cho ông Êlia”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, tiên tri Êlia chỗi dậy lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống”. Đương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: “Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh”.
Bà thưa: “Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi”.
Êlia trả lời bà rằng: “Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: ‘Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất’.”
Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó hũ bột không cạn và bình dầu không vơi như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Đáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 1).
1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Đáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Đức Thiên Chúa của người sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 9, 24-28
“Đức Kitô chỉ tế lễ chính mình một lần để huỷ diệt nhiều tội lỗi”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Đức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần; nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Đức Kitô cũng hiến tế một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 24, 42a và 44
Alleluia, alleluia! – Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng: vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 12, 41-44 {hoặc 38-44}
“Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, {Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: “Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn”.}
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
NHIỀU HƠN AI HẾT (*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư
“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.
Ngay từ đầu, các “Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.
Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: “Khốn cho các Kinh sư” (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh… và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.
Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.
Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những “vẻ bề ngoài sang trọng” những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.
Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những “dấu hiệu bề ngoài” để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ “thông thạo thời sự”, “giữ đúng thời trang” bằng cách theo nhưng “quan điểm tiến bộ nhất”, dù là những quan điểm rỗng tuếch.
Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ
Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ “khoa trương”, lòng “tham lam”, nếp sống “giả hình” của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban “công lý” cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).
Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.
Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn
Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao
Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?
Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.
Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch… Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn” tại Giêrusalem.
Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết “một số” người giàu… nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.
Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:
Cũng có một bà góa nghèo đến.
Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:
Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.
Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.
Thật là trái ngược với “số tiền lớn” của những kẻ khác!
Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.
Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.
Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho “nhiều hơn” tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để “thăng tiến”. Ở bậc thang xã hội “cao”, thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?
Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?
Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?
Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản
Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho “nhiều hơn”, vì bà đã cho “tất cả”. Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.
Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.
Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: “Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?”. “Sự dư thừa” bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?
Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.
Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.
Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có “cho đi” không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến” thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.
Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là “hình tượng” của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! “Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta”. Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã “cho đi tất cả”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC KINH SƯ – Chú giải của Jacques Hervieux
Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).
Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)
Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.
Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
TẤM LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHÈO (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII năm B mời gọi chúng ta suy gẫm về tấm lòng quảng đại của những người nghèo.
1V 17: 10-16
Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.
Dt 9: 24-28
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất cả để vĩnh viễn tiêu diệt tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.
Mc 12: 38-44
Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu dâng cúng của bà thật là khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng nầy chất chứa trọn đức tin, đức cậy và đức mến của bà đối với Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)
Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn những giai thoại ngoạn mục; tập truyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa minh họa rõ nét nhất điều nầy. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích nầy được thêu dệt thành những chuyện sử thi.
Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rếp-ta minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.
1/.Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a:
Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc miền Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 tCn). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan. Vua A-kháp cưới công chúa I-da-ven ngoại giáo. Bà hoàng hậu nầy rất sùng kính thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en. Trái lại, ngôn sứ Ê-li-a ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Ngôn sứ Ê-li-a báo trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống toàn xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán nầy sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối nầy cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.
2/.Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta:
Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, vì thế bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.
Được định vị vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết này mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến. Nhưng ngoài ra, tình tiết nầy nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ, với cách hành xử của một người phụ nữ ngoại giáo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà nầy dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như báo trước cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).
Mặt khác, được định vị vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rếp-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không phải thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian. Chính Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki-tô cao trọng hơn bội phần chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước. Tác giả định vị viễn cảnh trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki-tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha, và bình diện “dưới thế”: chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki-tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn. Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên: nghi lễ Đền Tội theo đó vị thượng tế Cựu Ước dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en vì đã trót phạm trong năm qua.
1/.Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước:
Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”; trong khi Đức Ki-tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa ngự, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Bia Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki-tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.
2/.Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước:
Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình, trong khi Đức Ki-tô dâng máu của chính mình. Thế mà người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả vĩnh viễn. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi, trong khi hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.
3/.Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi:
Việc Đức Ki-tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12). Việc Đức Ki-tô xuất hiện vào Ngày Quang Lâm sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki-tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi. Ngài sẽ cứu độ những ai trông cậy vào Ngài.
TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)
Mới đây, những người Biệt Phái đã ca ngợi nhân cách của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca nầy để gày bẫy Đức Giê-su, nhưng lời ca ngợi này càng minh chứng nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.
Khi đặt hai lời dạy của Chúa Giê-su bên cạnh nhau: tránh xa thói giả hình của các kinh sư (12: 38-40) và noi gương tấm lòng chân thành của một bà góa (12: 41-44), thánh Mác-cô muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu cho thành phần trí thức có quyền thế và địa vị, với thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện cho thành phần nghèo hèn.
1/.Tránh xa thói giả hình của những kinh sư (12: 38-40):
Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và về truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ tự hình thành nên một giai cấp tách biệt quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.
Nhưng lời tố cáo nghiêm khắc nhất mà Ngài gởi đến các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cơn thịnh nộ của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ nầy rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).
Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương nếp sống đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách để ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).
Đức Giê-su kết thúc những lời lên án thói giả hình của kinh sư như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khác hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Người đầy tớ trung thành đợi chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều… Hể ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).
Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đủa cả nắm, bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34). Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng nầy, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những giai cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng nầy khó thoát khỏi ảnh hưởng của những cuộc tranh cãi giữa Giáo Hội tiên khởi và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.
Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư nầy, tự hào tự phụ vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được thẩm quyền giảng dạy giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư nầy bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi… Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.
2/.Noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44):
Xét về hình thức, thánh Mác-cô đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy thứ nhất về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn; trái lại cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.
Khi cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Đức Giê-su quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều nầy: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa nầy, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào ơn quan phòng của Chúa.
Dung mạo của bà góa nầy là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và kết thúc với lời ca ngợi một người nghèo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cho cuộc đời mình.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
TẤM GƯƠNG BÀ GÓA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (1 V 17,10-16) : Bà góa nghèo xứ Sarépta ân cần tiếp rước ngôn sứ Êlia.
– Tin Mừng (Mc 12,38-44) : Một bà góa nghèo lấy hết những gì bà có để bỏ vào thùng tiền quyên góp của Đền thờ.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Người đời thường đánh giá theo bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ này. Chúa không để ý tới quần áo, vẻ mặt hay phong cách bề ngoài của chúng ta, nhưng Ngài nhìn thấu tấm lòng của chúng ta. Vậy chúng ta hãy rất chân thành với Chúa, bày tỏ hết những gì nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi của chúng ta để được Ngài thứ tha, nâng đỡ và bồi dưỡng thêm cho chúng ta.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta thường sống giả hình
– Chúng ta thường ích kỷ, không sẵn sàng chia xẻ với người khác.
– Chúng ta ham nhận hơn là cho.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (1 V 17,10-16)
Câu chuyện bà goá xứ Sarépta giúp đỡ ngôn sứ Êlia có nhiều điểm rất đáng suy gẫm : (1) Bà là người ngoại nhưng tấm lòng lại quảng đại hơn rất nhiều tín hữu do thái ; (2) Bà đã cho ngôn sứ Êlia không phải những cái bà dư thừa, mà chính chiếc bánh cuối cùng của mẹ con bà ; (3) Sở dĩ bà dám cho đi như thế là vì bà có lòng tin tưởng phó thác vào lời hứa của Thiên Chúa.
2/. Đáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này triển khai một nét cao quý của bà goá xứ Sarepta, đó là niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, Đấng yêu chuộng người công chính và phù trì nâng đỡ những kẻ yếu đuối nghèo nàn.
3/. Tin Mừng (Mc 12,38-44)
Có hai hình ảnh rất đối chọi nhau trong đoạn Tin Mừng này :
– Hình ảnh của các luật sĩ : rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.
– Hình ảnh một bà góa : nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên “gọi các môn đệ đến” chỉ cho họ thấy và bảo họ noi gương.
4/. Bài đọc II (Dt 9,24-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái nhắc tới việc vị Thượng Tế do thái mỗi năm vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem một lần, và so sánh với Đức Giêsu Thượng Tế : (1) Vị thượng tế do thái vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem ; còn Đức Giêsu thì vào chính cõi trời ; (2) Vị thượng tế do thái vào đó để dâng của lễ ; còn Đức Giêsu Thượng tế thì dâng chính bản thân mình ; (3) Mỗi năm vị thượng tế do thái phải vào lại gian cực thánh ấy ; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ hiến tế một lần là đủ.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Hình thức và tâm tình
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 2 mẫu người :
. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ : bề ngoài họ rất đạo đức : họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế họ được người ta kính trọng : ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào : họ chỉ làm ra bộ đạo đức như thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.
. Mẫu người thứ hai là người đàn bà goá : bề ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quý : mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.
Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề Hình thức và Tâm Tình. Đó là 2 mặt của 1 thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn ? Theo cách đánh giá của CG thì mặt Tâm tình trọng hơn mặt Hình Thức : Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà goá, và nhận xét : “Thầy nói thật với các con : trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.
Cách đánh giá của CG thật là đúng : bởi vì nếu có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.
. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp, ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người… thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.
. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện, giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ, biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.
Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong thì quan trọng và quý giá hơn cái Hình Thức, cái dáng vẻ bề ngoài,. Trong việc sống đạo cũng vậy : đọc kinh, dự lễ… không quý giá, không quan trọng bằng tâm tình mến Chúa yêu người.
Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên, có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng : “Đạo Tại Tâm” : sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tôi gì hết.
. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Ông bảo “Tôi thờ Chúa trong lòng”.
. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “Chẳng cần đến hình thức bên ngoài”.
Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự. Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao :
. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện : quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc…. đó là chưa kể đến son phấn, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng ta bất cần hình thức bên ngoài không ?
. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu : Nếu thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì phải âu yếm nhau ?
2 trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính Hình Thức biểu lộ Tâm Tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu giữa 2 người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, CG mặc dù coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần Hình Thức. Vì thế, bà goá trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.
Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo Tại Tâm” và coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện dự lễ, dự các Bí tích… Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ là một thứ ngụy biện : ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo ; ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức. Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo đức của chúng ta.
* 2. Hai bà goá – Thương là cho
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá : Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Thánh, một bà Đức Giêsu gặp trong sân Đền Thờ Giêrusalem một bà tiên tri Êlia gặp ở xứ Serepta, một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ một đồng xu và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Do đâu mà 2 bà goá này được đề cao ? Có phải vì cái mà 2 bà đã cho không ? Hiển nhiên là không, một đồng xu thì có đáng là bao, cũng như một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì ! Nhưng đề cao là vì cái của cho ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghép cả tấm lòng người cho : đồng xu của Bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà ; còn chiếc bánh nhỏ mà bà goá xứ Sarepte cho tiên tri Êlia, là cả một cuộc sống – đúng hơn là cả hai cuộc sống – của 2 mẹ con trong lúc chết đói đến nơi.
Đúng vậy, của cho không bằng tấm lòng người cho, bởi vậy tục ngữ ta có câu “của ít lòng nhiều”. Và nếu chúng ta xem kỹ lại bài Sách Thánh thì chúng ta còn thấy tấm lòng của bà goá xứ Sarepta là một tấm lòng dằn co ray rứt vì tiếc rẻ : khi ấy cả xứ đang bị hạn hán, đồ ăn trở thành khan hiếm. Trong hoàn cảnh đó người giàu còn khổ nữa huống chi là người nghèo như bà goá này. Bà chỉ còn có một nhúm bột và chút dầu. Bà đi kiếm một mớ củi định về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho 2 mẹ con bà ăn lần chót rồi sao đó là nằm chờ thần chết dần dần tiến tới. Khi đó tiên tri Êlia đến và xin bà chiếc bánh ấy. Bà thành thật nói : “Đây là chiếc bán cuối cùng”. Nhưng sau đó vì biết Êlia là tiên tri của Chúa nên dù rất tiếc Bà cũng đem chiếc bánh cuối cùng ấy ra cho. Thật là một tấm lòng ray rứt dằn co vì tiếc rẻ. Sự tiếc rẻ ấy có làm giảm giá trị của tấm lòng không ? Nếu tiếc mà không cho thì chẳng còn giá trị gì. Nhưng đàng này dù tiếc mà vẫn cho, cho nên sự tiếc rẻ ấy chẳng những không làm giảm giá trị mà còn tăng thêm giá trị của một tấm lòng quảng đại. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì ; cho cái mình đang cần mới là quý ; và cho cái mình vừa cần vừa tiếc thì là quý nhất.
Chúng ta có thể coi những bài đọc trong Chúa nhật hôm nay là nối tiếp bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Tin Mừng Chúa nhật vừa qua dạy rằng Đạo Chúa là đạo yêu thương : thương Chúa trên hết mọi sự và thương người như chính mình. Còn Lời Chúa hôm nay giải thích rõ thêm Thương thì phải làm sao ?
. Thương thì phải cho. Thương ít thì cho ít, thương nhiều thì cho nhiều. Nhưng nhất thiết thương là phải cho, nếu không cho là dấu không thương. 2 bà goá này đã thương nên đã cho, đã cho vì đã thương.
. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Chính vì thế mà tuy
. Bà goá ở Giêrusalem dù chỉ cho có một xu nhưng được Đức Giêsu coi là cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó.
Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.
. Và của cho quý nhất là cho chính cái mình đang tha thiết, tiếc rẻ. Như bà goá xứ Sarepta rất tiếc chiếc bánh, vì đó là chiếc bánh cuối cùng của 2 mẹ con bà, nhưng dù vậy bà cũng đem cho.
Đó là nội dung giáo huấn của những bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay. Có cần phải nhắc lại không ? Giáo huấn gồm 3 điểm chính :
. Thương thì phải cho.
. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho.
. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.
Chúng ta nói rằng mình thương Chúa. Nhưng có thương thật hay không ? Hãy xét mình xem ta có cho Chúa gì không ? Mỗi ngày vài phút buổi tối trước khi đi ngủ mà có khi ta cũng không cho. Mỗi tuần chừng một tiếng đồng hồ ngày Chúa Nhật mà có k hi ta cũng không cho hay có cho thì cũng cắt đầu cắt giữa cắt đuôi, nghĩa là đi lễ trễ, chia trí lo ra, về sớm. Thỉnh thoảng Chúa xin ta một chút hay sinh, một chút cố gắng, chúng ta có cho Chúa hay không ? Hay là chúng ta cho Chúa thì ít nhưng xin Chúa thì nhiều, cầu nguyện thì chỉ toàn là xin, xin cho con… xin cho con… Có người xin ơn mà không được Chúa ban thì giận, họ kể lể nào là đã đọc kinh cầu nguyện, nào là đã hy sinh hãm mình thế này thế nọ, vậy mà Chúa không nhậm lời họ cầu xin. Như thế là dựa vào một ít việc lành mình đã cho Chúa để làm áp lực với Chúa, bắt Chúa phải ban ơn trả lại cho mình. Như vậy cũng chưa phải là thương Chúa thật.
Chúng ta nghĩ rằng mình thương người. Nhưng có thương thật hay không ? Thì cũng hãy xét mình xem ta có cho người cái gì không ? Đừng vội tự biện minh rằng tại vì tôi không có nhiều tiền. Một khi đã thương ai thật thì người ta không thiếu gì cái để cho và cũng không thiếu gì cách để cho. Đâu nhất thiết là phải cho tiền mới là thương. Thí dụ như cho cảm nghĩ tốt (thương ai ta sẽ không nghĩ xấu về người đó), thí dụ như cho sự quan tâm (thương ai ta không thể nào lơ là dửng dưng với người đó được), thí dụ như cho sự chăm sóc, giúp đỡ, cho những lời an ủi khuyến khích chân thành, cho lời cầu nguyện v.v.
Người không thương thì chỉ biết nhận mà không biết cho.
Còn người thương thật thì vừa nhận mà cũng vừa cho, và coi cho là quý hơn nhận.
Chúa dạy chúng ta yêu thương : thương Chúa và thương người, thương bằng cách cho.
* 3. Giá trị của của cho
Giá trị của của cho không phải ở nơi số lượng được cho mà là sự mất mát mà người cho phải chịu.
Chúng ta phải cho cái mà chúng ta quý chuộng. Vì thế không phải chỉ cho cái mà chúng ta có thể sống mà không có nó, mà là cho cái mà chúng ta không thể sống nếu thiếu nó. Cách cho như thế này đòi phải hy sinh, nhưng đó mới thật là cho với cả tấm lòng.
Mẹ Têrexa kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói : “Thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho mẹ hết”. Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc : “Nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa”.
Và Mẹ Têrêxa kể tiếp : “Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì cho đáng. Nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành hàng ngàn bởi vì nó được cho với biết bao tình. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó.”
Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty : Biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói : “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.
*
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền đền thờ “tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc.12,44). “Của ít lòng nhiều”. Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng “tất cả những gì mình có để nuôi sống”. Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng quà nữa.
Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy : “Thầy nói thật với các con : Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00 đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.
Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của đại học Harvard.
Văn hào John Powell viết : “Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng”.
*
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ : Lạm dụng việc đạo đức để khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy : “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (Mt.6,3-4).
Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark Link viết : “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi”. Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.
*
Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có.
Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Cho mà không mất
Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể rút ra được ý tưởng này : có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược lại còn được thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm.
Dĩ nhiên đó không phải là những thứ vật chất.
Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học trò được giàu thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.
Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.
Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác cũng thế.
Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là những thứ có cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều được giàu hơn.
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, Người không bị lừa gạt bởi những vẻ bề ngoài. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện của chúng ta :
1/. Hội thánh phải nêu gương về lòng mến Chúa yêu người chân thật / Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tránh xa những thói quen giả hình và máy móc / đối với Chúa cũng như đối với mọi người.
2/. Trên thế giới còn nhiều nơi không có công lý / hoặc chỉ có công lý giả hiệu bề ngoài / Xin cho các nhà cầm quyền biết tôn trọng sự thật và công lý / để dân chúng được sống an ninh và hòa bình.
3/. Chung quanh chúng ta còn nhiều người giàu cũng như người nghèo, đang làm nô lệ tiền bạc, danh vọng và quyền thế / Xin cho họ được ơn khôn ngoan của Chúa để biết sống quảng đại và chia sẻ / theo gương bà góa trong Tin mừng hôm nay.
4/. Bà góa trong Tin mừng hôm nay đã nêu gương quảng đại với Chúa / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / dù túng thiếu cũng vẫn rộng rãi với Chúa và với mọi người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đánh giá mọi người theo sự thật trong lòng họ chứ không theo hình thức bề ngoài, xin giúp chúng con biết sống thành thật và quảng đại với Chúa cũng như với mọi người, để luôn xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa là đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, chúng ta hãy nhớ đến gương của hai bà goá đã dám cho đi chiếc bánh và những đồng xu cuối cùng của mình. Xin Chúa cũng dạy chúng ta biết phó thác vào Chúa như vậy.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mội sự dữ, đặc biệt xin Chúa cứu chúng con khỏi sự dữ này là coi tiền bạc của cải như chúa tể đời mình…“
VII/. GIẢI TÁN
Lời Chúa hôm nay nêu gương chia xẻ của hai bà góa nghèo. Khi trở về với cuộc sống bình thường, anh chị em sẽ gặp biết bao người túng thiếu cần được chia xẻ. Anh chị em hãy cố gắng noi gương hai bà góa ấy.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN -B
THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI THỰC (*) – Suy niệm chú giải của Giáo hoàng Học Viện Đà Lạt
* Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên sẵn sàng đối với Vương Quốc Thiên Chúa, thì cũng không nên quả quyết rằng bao người giàu có là bấy nhiêu công dân của vương quốc ma quy. Có những kẻ nghèo nàn nhưng lòng đầy ham hố, tham lam keo kiệt, cũng như có lắm kẻ giàu sang nhưng rộng rãi, biết thi ân và lòng chẳng dính bén. Sự “nghèo khó Tin mừng” không tất nhiên nằm nơi chỗ thiếu thốn của cải, nhưng nằm nơi thái độ từ bỏ, không xem của cải làm cùng đích để lao lực lao tâm, nhưng coi như là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và kẻ khác, và sẵn sàng chịu mất khi cần. Tuy nhiên, sự từ bỏ nơi kẻ giàu vẫn khó hơn nơi người ít của. Hãy cám ơn Chúa vì đã cho xảy đến bao nhiêu hoàn cảnh khiến của cải chúng ta ít đi để ta dễ hướng tâm về của đích thật, sự bảo đảm đích thật là Người.
*Đoạn Tin Mừng nói về việc bà góa dâng hiến tất cả tài sản của bà tuy ngắn gọn nhưng rất thâm thúy, thật đáng chúng ta lưu tâm. Qua cử chỉ này, như người ta thường nói, bà đã đặt mình vào tình trạng hoàn toàn khó nghèo trước mặt Thiên Chúa. Bà hết mình phó thác cho Thiên Chúa. Những người giàu có cho một phần gia sản của họ; còn bà góa này, bà cho tất cả gia sản của bà và từ đó bà đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Điều đó có nghĩa là bà đặt tất cả trong niềm hy vọng vào Chúa, cơm ăn cũng như cuộc sống của bà.
*Thâm sâu hơn nữa, cử chỉ của bà nói rằng bà đi tới Thiên Chúa như tới một kẻ mà bà hết lòng yêu mến và bà tin chắc Ngài có dư khả năng lo lắng cho bà. Bà không chỉ đi thi hành bổn phận tầm thường là đóng góp vào quỹ Đền thờ. Bà không chỉ muốn thi hành một nhiệm vụ. Bà đi quá cả phạm vi bổn phận, phạm vi chu toàn Lề luật. Bà không nghĩ tới vấn đề chu toàn Lề luật, nhưng nghĩ rằng Thiên Chúa rất xứng để bà dâng cho Ngài tất cả và đồng thời chờ đợi nơi Ngài tất cả.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
ÁNH MẶT THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra trong ánh mắt thế ấy. Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Người đã thấy. Và đã phán đoán. Qua cách quan sát và phán đoán ta có thể thấy được tâm hồn của Người.
Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ. Hàng hàng lớp lớp người tiến đến dâng cúng. Tin Mừng thuật lại: “Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma”. Thật lạ lùng. Biết bao nhiêu người Chúa chẳng quan tâm, chỉ quan tâm tới một người bé nhỏ nhất. Chúa chỉ quan tâm tới một người nghèo nhất. Một bà góa. Bà góa này chắc chắn phải gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nhưng Chúa đã chú ý đến bà. Người ta bảo tìm gì gặp nấy. Chúa yêu thương những người bé nhỏ, nên quan tâm tới người bé nhỏ và chỉ nhìn thấy những người bé nhỏ. Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ, dù người đó bé nhỏ, lạc giữa đám đông. Ánh mắt yêu thương nên thấy người đó thật đẹp dù ăn mặc rất đơn sơ, hình dáng rất tiều tụy. Quả thật trái tim Chúa nhân hiền như người mục tử tốt lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc còm cõi. Như người phụ nữ đốt đèn tìm một đồng tiền nhỏ bé rơi trong góc nhà.
Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền hai đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác. Thì ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi vừa dạy dỗ tôi về cách sống đạo và về cách nhìn người.
Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giàu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.
Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa. Đừng khoe khoang kiêu ngạo vì Chúa chỉ yêu thích tâm hồn bé nhỏ khiêm nhường. Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội, trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong Phúc Âm ta thấy Chúa quan tâm tới những người nào?
2- Chúa đánh giá người ta theo hình dáng bên ngoài hay tâm tình bên trong?
3- Vì sao Chúa khen bà goá dù bà bỏ rất ít tiền vào nhà thờ?
4- Bản thân tôi rút được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay?
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN-B
LÒNG QUẢNG ĐẠI- Lm. Gioan M. Nguyễn THiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến hai phụ nữ nghèo. Một bà ở thành Sarepta thời ngôn sứ Elia, một bà ở đền thờ Giêrusalem, thời Chúa Giêsu.
Thế thì, do đâu mà hai bà goá này được đề cao trong Thánh kinh? Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì đâu! Một đồng xu nhỏ chẳng có giá trị là mấy! Thế nhưng, hai bà được đề cao là do lòng quảng đại biết cho đi.
Bài đọc I ghi lại: Khi ấy, cả xứ Sarephta gặp nạn đói lớn, do hạn hán mất mùa, nên lương thực cạn kiệt. Bà goá nghèo đến mức chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu ăn. Bà đi kiếm củi về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho hai mẹ con ăn lần cuối rồi nằm chờ chết.
Thế mà, khi tiên tri Êlia ngỏ lời xin bà chiếc bánh ấy, chiếc bánh trong hoàn cảnh lúc này thật cần thiết cho sự sống biết bao, vậy mà bà sẵn sàng nhường phần cho vị tiên tri. Chính việc chia sẻ tấm bánh trong lúc đói kém như vậy, đã làm nổi bậc lên tấm lòng quảng đại biết cho đi, nhưng rồi Chúa không thua lòng quảng đại, đã thưởng công ngay lập tức. Từ đó, hũ bột sẽ không vơi và bình dầu sẽ không cạn cho đến khi mưa xuống trên xứ sở. Đây là sự thưởng công “nhãn tiền” do lòng rộng rãi của bà đối vị ngôn sứ.
Người phụ nữ thứ hai được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, cũng là bà goá nghèo. Bà dâng vào Đền thờ chỉ vỏn vẹn hai đồng tiền kẽm, là số tiền rất nhỏ so với giá trị đồng tiền thời đó.
Chúng ta thấy có sự tương phản những người cùng bước vào Đền thờ hôm ấy: trước hết là những kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, để phô trương công đức trước mặt người ta. Rồi đến những người giàu có vênh vang khoe sự giàu sang. Bên cạnh họ, là một bà goá nghèo khiêm hạ, chỉ dâng cúng hai đồng xu nhỏ. Thế nhưng, tấm lòng của bà đã được Chúa ghi nhận, vì của cho không bằng cách cho.
Từ việc Đức Giêsu quan sát những người dâng cúng tiền trong đền thờ, cho chúng ta thấy Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ, nghèo hèn.
Thật vậy, có lắm người giầu có dâng cúng nhiều tiền trong đền thờ, vậy mà Chúa chẳng để ý, mà chỉ quan tâm đến một người nghèo hèn nhất.
Biết bao người giầu sang Chúa không nhìn, mà chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy còm rách rưới.
Biết bao người dâng cúng những đồng tiền lớn trong đền thờ mà Chúa chẳng khen, mà chỉ khen một phụ nữ nghèo, dù chỉ dâng hai đồng xu nhỏ.
Lời khen ấy Chúa nói rõ với các môn đệ: “Trong những người bỏ tiền vào hòm, chỉ có bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết, vì bà đã dâng hiết những gì mình có”.
Thì ra, Chúa đánh giá không dựa theo số lượng nhưng theo chất lượng. Thông thường, chúng ta hay quan sát và đánh giá theo dáng vẻ bên ngoài, nhưng Chúa không nhìn bề ngoài mà nhìn vào tấm lòng. Một tấm lòng quảng đại biết cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.
Như vậy, của cho không bằng cách cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Và của cho quý nhất chính cái mình đang cần thiết. Như bà goá xứ Sarephta, chỉ còn chiếc bánh cuối cùng dành cho hai mẹ con bà, nhưng vì yêu thương bà sẵn sàng cho đi hết. Và bà goá ở Giêrusalem cũng vậy, dù chỉ dâng trong đền thờ hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là cả gia tài của bà.
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ, là chúng ta dâng của lễ cho Chúa. Bởi vì, vị linh mục chủ tế mời gọi “Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi và của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”. Như vậy, anh chị em dâng lễ vật gì cho Chúa?
Các tín hữu thời sơ khai mỗi lần đi dâng lễ họ đều mang của lễ dâng cho Chúa. Ai có thứ gì thì mang dâng cho Chúa thứ đó. Chắc chắn, Chúa không đòi chúng ta nhiều, nhưng đòi hết những gì chúng ta có để dâng cho Ngài.
Mỗi ngày có 24 giờ. Mỗi tuần có 168 giờ, nhưng thử hỏi chúng ta dành cho Chúa, dành cho việc sống đạo được bao nhiêu giờ?
Trong khi đó điều răn thứ Ba và Hội thánh dạy: Thánh hóa ngày Chúa Nhật, ấy thế mà, có những người làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật.
Thậm chí, dành cho Chúa một giờ đi tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật, nhưng có người lại đi trễ về sớm, chưa kể lo ra chia trí khi ít khi nhiều, khi nào cũng có. Lẽ ra, tất cả những gì chúng ta có đều là của Chúa, thì xin dâng lại cho Chúa, để tùy Chúa sử dụng theo thánh ý Ngài. Thế nhưng, thực tế đôi khi chúng ta còn tính toán với Chúa nhiều lắm.
Ước gì mỗi lần chúng ta đi tham dự Thánh lễ, với tất cả ý thức, chúng ta dâng của lễ tấm lòng lên cho Chúa. Dâng bánh rượu là hoa màu ruộng đất và công lao khó nhọc, để Chúa biến thành Mình và Máu thánh Chúa cho chúng ta.
Dâng những vui buồn, những thành công thất bại, dâng cả những tội lỗi, dâng những người đau khổ, bệnh tật, dâng cả thế giới và các linh hồn trong luyện ngục, để rồi Chúa sẽ ban lại ơn bình an theo như lòng chúng ta ước nguyện.
Noi gương hai bà góa nghèo được đề cao trong Thánh kinh. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết sống quảng đại với Chúa, và quảng đại với nhau, như Chúa đã không ngừng quảng đại với chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI CHÚA VÀ GIÁO HỘI- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có hai hình ảnh cực kỳ đối chọi với nhau.
– Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh về những người luật sĩ: Họ rất cao sang, vinh dự với áo thụng, với chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Cứ bề ngoài mà xét thì xem ra họ là những người rất đạo đức, rất tốt. Có lẽ có nhiều người cũng mong có được cuộc sống như vậy.
– Hình ảnh thứ hai là hình ảnh một bà góa: Bà rất nghèo. Vì nghèo cho nên chẳng được ai để ý tới. Bà cũng chẳng có áo thụng, thứ áo dài quét đất, có tua, mặc vào để nhắc nhớ mình là tuyển dân của Thiên Chúa. Vì nghèo cho nên cũng chẳng có bao giờ bà có được một chỗ tốt nơi công cộng, chẳng được ai để ý đến mà chào hỏi. Thông thường thì có lẽ chẳng mấy ai mong muốn phải sống nghèo như thế.
– Bây giờ chúng ta xem cách nhìn của Chúa. Chúa thấy gì qua những hình ảnh đó. Rõ ràng là cái nhìn của Chúa không giống với cái nhìn thông thường của con người. Những người luật sĩ rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất…người ta thì thấy như thế là sang, là đẹp….còn Chúa thì Chúa lại thấy đó chỉ là cái vỏ bên ngoài, nhưng ẩn sâu dưới cái vỏ đó là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối. Có lần Chúa bảo “họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát rất đẹp nhưng bên trong toàn là mùi xú uế bẩn thỉu”
Ngược lại người đàn bà góa bụa nghèo khó…bên ngoài chẳng bằng ai, không có gì để lôi cuốn, để hấp dẫn. Và thông thường thì có lẽ cũng chẳng có mấy ai ưa chuộng cuộc sống như thế. Thế nhưng đối với Chúa thì lại khác. Bà góa ấy tuy nghèo tiền nhưng lại rất giàu lòng. Bà dám làm những việc mà ít ai dám làm: dâng cho Chúa cả sự sống của bà. Chúa Giêsu khen ngợi cuộc sống đó. Đối với Chúa đó là cuộc sống rất đẹp. Chính vì nó đẹp cho nên Chúa mới gọi các môn đệ lại và bảo họ phải noi gương.
B…BÀI HỌC
Qua câu chuyện của bà góa nghèo Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Có rất nhiều bài học chúng ta có thể rút ra từ câu chuyện đầy ấn tượng này, nhưng ở đây tôi chỉ xin gợi lên mấy điều tôi tưởng là rất cần cho chúng ta..
Trước hết câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với Chúa và Giáo Hội. Bà góa rất nghèo nhưng bà đã ý thức được bổn phận của mình đối với Chúa, với cộng đoàn. Bà đã sãn sàng hy sinh, hy sinh cả sự sống của mình để giúp Giáo Hội.
Ông Sam Jones một nhà truyền giáo rất nổi tiếng, một lần kia gặp một tín hữu lúc nào cũng than van về những khoản ông phải đóng góp.
– Thưa ngài, tôi phải đóng góp cho Hội Thánh nhiều quá.
– Bao nhiêu?
– 5 USD một năm.
– Thế ông theo Chúa bao lâu rồi?
– Đã 4 năm.
– Trước khi theo Chúa ông làm gì?
– Tôi nghiện rượu.
– Mỗi năm ông uống hết bao nhiêu tiền?
– Chừng 250USD
– Khi ấy ông có ruộng đất gì không?
– Tôi mướn đất cày bừa với một con bò
– Bây giờ ông có gì không?
– Tôi có một khu ruộng và một đôi ngựa cày.
– Trước kia ông cho ma quỉ mỗi năm 250USD để được cày trên một thửa ruộng đi thuê mướn với một con bò. Nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, ông chỉ dâng cho Ngài 5USD một năm để được cày ruộng của mình với một đôi ngựa. Vậy mà ông còn kêu là nặng nề ư? Ông là người bội bạc từ đỉnh đầu cho đến bàn chân!
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng như vậy. Chúng ta nhận được từ Chúa và Giáo Hội quá nhiều nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta nghĩ tới bổn phận chúng ta phải xây dựng Giáo Hội bằng những hy sinh của chúng ta không?
Cách dâng cúng đẹp lòng Chúa.
Thứ đến: Chuyện bà góa làm tôi phải giật mình. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, có khi ít mà là nhiều. Nhiều người dâng những số tiền rất lớn. Xem ra là rất nhiều nhưng Chúa lại bảo là ít vì họ dâng những cái dư thừa. Ngược lại một bà góa, bà chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là lepton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng tiền có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói phần đóng góp đó là nhiều hơn tất cả mọi người khác, và Chúa cắt nghĩa: vì những người khác bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi bà góa nghèo này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Nhiều đối với Chúa không phải ở số lượng bỏ ra mà là ở tấm lòng và sự hy sinh của người dâng hiến.
Ngày xưa, lâu lắm rồi, một ông vua ở Ấn Độ, mời Đức Phật vào cung làm lễ. Hôm ấy vua cho đốt rất nhiều đèn dầu trong cung nhất là dọc theo hành lang từ cung vua đến cung Phật ở. Lúc đó có một bà góa nghèo khó cũng muốn dâng lên Đức Phật ngọn một ngọn đèn dầu, nhưng không làm sao có tiền để mua. Bí quá Bà phải đi ăn xin suốt một ngày ròng, khắp kinh đô…mãi đến tối mới được hai đồng. Bà dùng hai đồng đó…. tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên Phật. Bà khấn: “Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này được sáng suốt đêm mà không tắt”.
Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật đi tắt đèn thì thấy mọi ngọn đèn của vua đã tắt tự bao giờ, riêng dĩa đèn của bà ăn xin vẫn tỏa sáng ngời ngợi, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy sự lạ, lên thưa với Đức Phật. Người bảo: “Bà cụ tâm thành tu thân tích đức, về kiếp sau sẽ trở thành Phật Như Lai”.
Vua nghe chuyện, hỏi một vị quan trong triều, tại sao vua cúng đèn nhiều như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão chỉ dâng có một ngọn đèn? Quan đáp: “Bởi vì bà của ít lòng nhiều, bà dâng có một dĩa đèn, nhưng tấm lòng bà thành kính thiết tha”.
Câu chuyện tình tiết xem ra có hơi khác nhưng nội dung sao mà giống với truyện của bà góa quá. Xem ra đạo nào cũng thế. Chân lý chỉ có một.
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN-B
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Nước Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ. Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần Tổng Thống, nhưng không hiểu làm thế nào mà hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống.
Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình.
Cậu bé kia buồn thiu, vì em không có gì để dâng tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả sự trân trọng.
Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.
Tin Mừng hôm nay nhắc đến “Đồng Xu của Bà Góa”, trong khi có nhiều người bỏ tiền vào thùng, nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiện đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiến đến và bỏ vào đó hai đồng xu.” Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt của nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy thánh Marcô mới nói: “người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu, một món tiền chẳng có nghĩa lý gì cả. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội để qua cử chỉ khiêm tốn này, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng. Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược là kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho đi chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Nghĩa là bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền Thờ. Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng. Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Chính vì vậy mà Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà quí giá”.
Mẹ Têrexa còn kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố thì gặp một người ăn xin. Người này nói: “thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho Mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30 xu. Tôi muốn cho Mẹ hết”. Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “nếu tôi lấy 30 xu này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa”. Và Mẹ Têrêxa kể tiếp: “Thật là một hy sinh lớn đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30 xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì, nhưng khi ông đưa cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành cả hàng ngàn xu bởi vì nó được cho với biết bao tình người. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn tấm lòng của ta khi làm việc đó.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giầu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giầu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
HAI HÌNH ẢNH TRÁI NGƯỢC NHAU- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phái trách xa thói giả hình của các Kinh sư và học lối sống khiêm hạ, quảng đại của người đàn bà goá. Người môn đệ phải là người có tâm trong sáng, có đời sống bên ngoài xuất phát từ chính tâm trong sáng ấy. Sống trung thực và quảng đại hy sinh là hình ảnh chân thực người môn đệ Chúa Giêsu của mọi thời đại.
I/ Tìm hiểu Lời Chúa Tin Mừng: Mc 12, 38-44
Bản văn được chia làm hai phần:
1/.Lối sống đạo đức giả của các Kinh Sư (12, 38-40: Giáo huấn của Chúa Giêsu được chia thành lời khuyến cáo mở đầu (c. 38), một lời mô tả các Kinh sư(c. 38-40), và một lời kết đe doạ phán xét (c. 40). Các kinh sư là những người chuyên về diễn giải mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Israel cho dân chúng hiểu và thực hành (Er 7,11). Họ là những người có tư cách giải thích luật và phê phán những ai không giữ luật. Chúa Giêsu lên án sự khoe khoang, tham vọng và thói ham chức quyền của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng những hình thức lố bịch bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn họ thì sống một lối sống giả dối, tham lam, bóc lột người nghèo khổ. Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày xét xử cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời.(x. Mc 10, 30). Noi chung, Chúa Giêsu kết án thói đóng kịch của họ: họ cho rằng họ là những người đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng tin rằng Thiên Chúa ở về phía họ. Nếu phê phán họ, phản đối họ, từ chối vinh dự phải dành cho họ là sỉ nhục chính Thiên Chúa.
2/.Câu chuyện Bà Góa nghèo (12, 41-44): Khung cảnh đến thờ, phòng lưu trữ củ cái, hòm tiền cùng với những người giáu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nội bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà goá, một người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Chúa Giêsu thấy đựơc tấm lòng của bà. Phải chăng bà ấy khiêm nhường? Đúng là như thế, nhưng bà do một lý do khác bà đã trở thành tấm gương, thành hình ảnh của người môn đệ Chúa “bà đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có.” Bà đã chu toàn một điều kiện thiết yếu để trở thành một môn đệ đích thực đó là người biết chia sẻ quang đại cho những khác tất cả những gì mình có.
3/.Lời giáo huấn của Chúa Giêsu cho thấy cách nhìn của Thiên Chúa khác hẳn và vượt trên cái nhìn của con người. Thiên Chúa nhìn thấu dạ lòng người và dựa vào đó để đánh gía một con người. Thiên Chúa không nhìn nhận và đánh giá một ai qua dáng vẻ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa mời gọi các môn đệ một mặt phải sống trung thực, quang đại, hãy tránh xa lối sống đạo đcứ giả của các Knh sư, mặt khác phải biết khôn ngoan nhìn nhận đánh giá đúng bản chất của anh chị em chung quanh, đừng để bị lừa dối bởi lối sống, bởi dáng vẻ hào nhoáng bên ngoài.
II/.Gợi Ý Suy Niệm:
Lời Chúa Giêsu phê phán các Kinh sư có thể hới quá đáng. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân chúa ở mọi cấp vẫn cảm thấy đựơc mời gọi đánh giá lại cung cách sống của mình, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng phục vụ của mình. Lừa dối đã là hành vi đáng bị lên án, nhưng đáng bị hơn nữa nếu lợi dụng những sự thánh thiện, những việc đạo đạo đức tôn giáo để che giấu thực trạng tội lỗi, xấu xa của mình.
Tám gương bà Goá mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng ” Của cho khong bằng cách cho”. Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa yêu mến, tôn trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương bà goá, âm thầm kín đáo làm các việc đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang gặp khó khăc cách quảng đại.
Người giàu có cho một phần gia sản của họ, có lẽ sẽ không mất mát thiệt thòi la bao. Còn bà goá đã cho hết những gì bà có, dù nó chẳng là bao, qua nhỏ bé so với của dâng cung của người giàu có. Điều này không phải ngầm ý so sánh trước mặt Chúa người nghèo khó thế giá hơn, người giàu bị Chúa ghét hay loại bỏ nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng quảng đại của bà, đế sự hy sinh và nhất là tấm lòng phó thách của bà vào Thiên Chúa. Bà đã đặt tất cả cơm ăn, sự sống của bà vào Thiên Chúa, bà hy vọng tất cả nơi Thiên Chúa.
III/ Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Thiên Chúa luôn quảng đại yêu thương con người chúng ta và cần tấm lòng trung thực con người. Vậy với tất cả tầm lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1-Chúa Giêsu lên án lối sống đạo đức giả của các Kinh sư và giáo huấn các Môn đệ sống trung thực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các bậc chủ chăn luôn biết chân thành sống đúng giao huấn của Chúa và can đảm lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý.
2-Qua lời dạy của Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ đừng bắt chước các kinh sư có lối sống giả hình, chuộng hình thức bên ngoài, chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia thực sự có tấm lòng vì dân, vì nước. Xin cho các vị ấy có được cái tâm trong sáng, trung thực trong hành xử công việc, nhờ đó đất nước và người dân đựơc sống hạnh phúc.
3-Bà goá đã cho tất cả những gì bà có. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa biết quảng đại hy sinh và luôn tin thưởng phó thác cuộc sống vào bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
* Lời Kết: Lạy Thiên Chúa, đấng giàu lòng quảng đại và luôn thành tín yêu thương. Chúng con xin phó dâng tất cả cuộc sống chúng con trong Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn tràn đầy ơn Thánh Chúa để tất cả chúng con biết sống trung thực với Chúa và với nhau, đồng thời biết thành tâm chia sẻ cuộc sống với mọi người chung quan. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN-B
LÀM VIỆC NHỎ VỚI TÌNH YÊU LỚN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho đền thờ. Ngài thấy có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân.
Lễ vật của bà tuy bé mọn nhưng gói ghém rất nhiều tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giê-su cho rằng bà goá nầy đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn tất cả những người khác, vì tuy họ bỏ nhiều tiền nhưng không nhiều tình yêu.
Giá trị của một món quà
Đối với Chúa Giê-su, giá trị của món quà không tuỳ vào giá mua của món quà đó nhưng tuỳ vào mức độ yêu thương mà người cho đặt vào trong món quà. Giá trị của một món quà có thể tăng lên nhiều lần nếu món quà đó được trao ban với tấm lòng yêu thương và trân trọng.
Nếu có ai đó nài xin ta một số tiền mà ta chẳng muốn cho, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ mãi khiến ta bực mình nên cuối cùng, để tống cổ người đó đi, ta đem cả cọc tiền lớn, bực bội ném cho người ấy và nói: “Tiền đây! Lải nhải hoài!” Chắc chắn người kia, dù nghèo thiếu đến mức nào đi nữa, sẽ quay mặt bỏ đi, mang theo một mối căm hờn.
Trái lại, khi đứa con nhỏ trong nhà muốn mừng kỷ niệm hôn phối ba mẹ mà chẳng có gì để dâng, em lặn lội vào rừng ngắt một bông hoa dại nhỏ bé, đem về dâng lên ba mẹ với tất cả tình yêu thương. Chắc chắn ba mẹ em rất cảm động vì cảm nhận được nhiều yêu thương chứa đựng trong món quà bé nhỏ nầy.
Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa không phải là dâng cho Ngài nhiều món quà lớn nhưng là dâng tình yêu lớn. Dâng cho Thiên Chúa những món quà lớn hay những thành quả lớn lao vĩ đại mà thiếu vắng tình yêu, thì lễ vật đó sẽ trở thành trống rỗng và chẳng có giá trị gì.
Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, từng khẳng định cách mạnh mẽ điều nầy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (I Cr 13, 1-3).
Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cảm nhận sâu sắc bài học trên đây của Thánh Phao-lô nên mẹ không chủ trương làm những công việc to lớn, nhưng thường xuyên làm những việc nhỏ với tình yêu lớn. Mẹ còn nói: “Chúng ta không thể làm những việc lớn lao, nhưng chúng ta có thể làm những việc nhỏ với tình yêu lớn lao.”
Trong bức thư gửi cho đấng đáng kính là cố Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận, mẹ Tê-rê-xa viết: “Điều đáng kể không phải là số lượng công việc ta làm, nhưng là mức độ yêu thương mà ta đặt vào trong mỗi công việc.”
Thế nên, khi tiếp xúc với bất cứ ai, mẹ Tê-rê-xa đem hết lòng yêu thương người ấy như thể đó là người mà mẹ yêu thương nhất đời.
Cảm hứng từ bức thư trên đây của mẹ Tê-rê-xa Calcutta, đấng đáng kính Fx Nguyễn Văn Thuận quyết tâm “thực hiện từng công việc nhỏ bé hằng ngày, từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với tình yêu lớn” và biến những phút sống hiện tại thành những giây phút đẹp nhất cuộc đời, như ngài viết: “Tôi quyết sống từng giây phút hiện tại và đong đầy tình thương vào đó” và ngài quyết định: “Tôi sẽ nắm lấy những cơ hội đến với tôi mỗi ngày, để làm những việc bình thường một cách phi thường” (Trích: “Năm chiếc bánh và hai con cá”).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con tài hèn sức yếu nên không thể làm được những việc lớn lao phi thường, tuy nhiên chúng con có thể làm cho Chúa vui lòng nếu chúng con biết làm những việc nhỏ với tình yêu lớn.
Xin giúp chúng con chú tâm thực hành những việc nhỏ như chăm sóc, thăm hỏi nhau và làm những việc bổn phận hằng ngày… với một tình yêu lớn; nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ trở thành của lễ thánh thiện tỏa ngát hương thơm dâng lên ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Trong những ngày cuối niên lịch phụng vụ, khi mà Hội Thánh muốn mọi Kitô hữu suy niệm nhiều về các chân lý thời sau hết (tứ chung), chúng ta được mời gọi hướng tư tưởng về ngày ‘phán xét’, khi mỗi người đều phải ‘đứng trước mặt vị thẩm phán chí công’. Để chuẩn bị cho ngày đó, vấn nạn sẽ là: vị Thẩm Phán sẽ dùng tiêu chuẩn nào để phán xét tôi, cái ‘chí công’ của Ngài sẽ ra sao? Trình thuật Mác-cô hôm nay về ‘đồng xu đồng kẽm của bà góa’ được đặt ngay trước bài giảng dài về cánh chung trong chương 13, chắc hẳn phải soi chiếu một điều gì đó vào các vấn nạn trên. Mong rằng nó sẽ mang lại một giải đáp đầy an ủi mang tính Tin Mừng thật sự cho cái viễn tượng phán xét, thường vẫn tạo nên bao hãi hùng kinh khiếp.
Thẩm Phán chí công sẽ xét xử theo tiêu chuẩn nào? Người ta vẫn thường dạy rằng Thiên Chúa phán xét mỗi người theo công tội họ đã làm trong cuộc sống: nếu là người lương thiện ngay lành, tôi sẽ được thưởng, còn nếu làm điều dữ điều trái, tôi sẽ bị luận phạt muôn đời muôn kiếp. Căn cứ theo tiêu chuẩn này, tôi sẽ là người hoàn toàn trách nhiệm và chủ động về thưởng phạt; ơn thánh Chúa nếu có, cũng chỉ đóng vai trò trợ giúp. Tuy nhiên Giáo lý Công giáo lại dạy rằng, ơn cứu độ của Đức Kitô là cần thiết (essential) cho hết thảy mọi người, vì mọi người đều phạm tội. Nếu quả thật như thế, thì quan niệm phán xét trên có cái gì đó không ổn! Không một ai, cho dầu có cố gắng tu luyện tới đâu đi nữa, có thể ra trước tòa phán xét ‘xúng xính trong bộ áo thụng… đáng chiếm ghế danh dự’ vì đinh ninh rằng khi còn sống mình đã thu tích đủ ‘công nghiệp’ để đáng được thưởng công. Trước mặt vị Thẩm phán chí thánh chí công đó, mọi người đều chỉ là: ‘đầy tớ vô dụng’ (Lc 17:10). Thế nhưng may mắn thay trong ngày phán xét, vị Thẩm Phán lại cũng chính là Giêsu đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Người sẽ không khen thưởng những kẻ bỏ thật nhiều tiền vào thùng, nhưng lại đề cao‘một bà góa nghèo’, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ ‘hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu’ mà bà đã ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’. Như thế để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra trước vị Thẩm Phán chí công, tôi rất cần biết cái ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’ đó có nghĩa là gì? Làm thế nào để Ngài cũng sẽ gọi các thần thánh lại, chỉ vào tôi và nói: “tên nghèo nàn đốn mạt này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”!
‘Đồng tiền kẽm… rút ra từ cái túng thiếu’ chắc chắn không phải là: các việc lành phúc đức tôi đã làm được trong đời, các thành công hoành tráng để có thể xứng đáng được ‘người ta chào hỏi’ tung hô trên thiên quốc; đó phải mãi mãi vẫn là những gì vô giá trị như đồng kẽm, đồng xu trước mặt người đời, nhưng lại vô cùng quí hóa trước mặt Thiên Chúa từ nhân. Phải chăng đó là: những cố gắng, những nỗ lực vươn lên khỏi sự thấp hèn yếu đuối tột cùng của mình… nhưng đã thất bại, vẫn hoàn toàn sụp đổ chẳng đi tới đâu. Sẽ chẳng bao giờ có ai trong đời, ngay cả chính tôi, đánh giá cao những điều đó, nếu không có cặp mắt ‘quan sát’ vô cùng chí công nhưng rất mực nhân hậu của Đức Kitô từ nhân. Có thể như phần đa mọi người, tôi phải thừa nhận: bất chấp những nỗ lực cố gắng, đời mình thành đạt không nhiều, nhưng thất bại thì lắm; “Điều tôi muốn thì tôi không làm, còn điều tôi ghét thì tôi cứ làm’ (Rm 7:15). Rất nhiều khi tôi thấy mạc cảm và thất vọng vô cùng về các yếu đuối, sa ngã mình vướng mắc. May mắn thay, trong niềm tin vào Thiên Chúa từ nhân, suy đi nghĩ lại, tôi còn thấy: đời mình – và rất có thể nhiều mảnh đời khác cũng thế – không thiếu những đồng kẽm đồng xu của các nỗ lực vô vọng này; vì tuy được tạo dựng ‘nhân chi sơ tính bản thiện’, và mang trong người ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, kiếp sống ô trọc nào mà không tránh khỏi các bất toàn yếu đuối? Do đó điều quan trọng nhất trong đời chưa hẳn là tránh được tội lỗi, nhưng là làm sao tranh thủ được cặp mắt ‘quan sát’ đầy từ tâm ấy, cặp mắt từng nhận ra giá trị của ‘đồng kẽm’ nơi bà góa, đồng xu nơi Phê-rô, nhưng lại không tìm thấy nơi các Biệt phái, thượng tế. Chỉ có thế thôi, và ngày phán xét sẽ đâu còn gì đáng sợ nữa!
Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta hay lặp lại câu nói sau đây: “Chúa không muốn nhìn thấy bao nhiêu việc bác ái tôi đã làm, nhưng ngài muốn nhìn thấy bao nhiêu bác ái tôi đã nỗ lực đem vào các công việc của tôi”. Hình như Lời Chúa hôm nay cũng nhắc lại cùng một chân lý đó: Chúa không phán xét tôi căn cứ vào những gì tôi đạt được, nhưng cặp mắt nhân ái của Người muốn tìm thấy nơi tôi những đồng kẽm nhỏ nhoi của nỗ lực vươn lên thầm kín trong mọi tình huống cuộc đời. “Còn bà này thì rút ra từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản” hẳn mang nội dung rất an ủi đó chăng?
Nếu quả là như thế thì, cho những người yếu đuối và tội lỗi như tôi, Tin Mừng đích thực là đây: Tim Mừng có khả năng làm cho đứa con hoang đàng hay tên cướp bị tử hình trên thập giá thay vì hãi sợ, sẽ ra trước vị Thẩm Phán ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi’ (Lc 21:28).
“Hãy tạ ơn Chúa vì ngài nhân lành, vì tình thương của ngài bền vững muôn năm!” Lạy Chúa, con muốn cất lời ca ngợi lòng thương xót hải hà của Chúa, khi sống và nhất là trong giờ chết. Lòng thương xót đó cho phép con không mạc cảm trước những yếu đuối thiếu xót của mình, hơn nữa còn có khả năng biến chúng thành nguồn an ủi và hy vọng cho đến muôn đời. Xin cho con đừng bao giờ xa rời cặp mắt yêu thương đó, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
TÌNH YÊU LỚN LAO- Lm Gioan M. Nguyễn Đức Hùng CRM
Bạn thân mến!
Có bao giờ bạn dám nghĩ là bạn có thể góp phần rất tích cực vào việc làm cho thế giới này trở nên tươi đẹp, dễ thương và hấp dẫn hơn không?- Nếu bạn đã từng nghĩ và đang thực hiện như thế, thì xin bạn cứ hân hoan tiếp tục mỗi ngày một ngoạn mục hơn, bạn nhé! – Còn nếu vì một sự khiêm tốn tế nhị nào đó mà bạn chưa dám nghĩ tới, thì ngay hôm nay, tôi xin mạo muội đề nghị với bạn là bạn hãy can đảm bắt tay ngay vào việc đại nghĩa này, đừng chần chừ mà lại bỏ mất cơ hội, uổng phí thời gian, lấy lý do là từ từ để dịp khác, vì tất cả, từ Thiên Chúa đổ xuống cho tới người rốt bét trên trần gian này đang tha thiết mong đợi bạn ra tay đấy!
Vâng, đơn giản lắm bạn ạ! Nó nằm ngay trong tầm tay, trong khả năng của bạn và của tôi. Nhiều khi chỉ một nụ cười thân thiện, bạn cũng đã có thể làm được bao điều tốt lành cho thế giới.
Tôi nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Một hôm có người thanh niên đến thăm, và tận mắt chứng kiến các việc Mẹ cùng với các nữ tu của Mẹ làm tốt đẹp quá, anh tự cảm thấy dấy lên trong lòng mình một nhiệt huyết xây đắp cho thế giới này thêm những điều tốt lành, anh mạnh dạn hỏi Mẹ:
– Thưa Mẹ, xin Mẹ vui lòng cho con biết con có thể cộng tác vào công trình của Mẹ, để làm cho thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách nào?
Mẹ Têrêsa nở nụ cười sung sướng và trả lời:
– Con hãy cố gắng mỉm cười với người khác, có thế thôi con ạ!
Thưa bạn,
Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện có thật, Chúa Giêsu ngồi quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào Đền Thờ, và Chúa đã bật mí cho các môn đệ một sự thật mà người ta không biết, một sự thật khiến các môn đệ cũng phải ngạc nhiên. Hóa ra các môn đệ từ trước đến giờ cũng chỉ đánh giá người ta theo những dáng vẻ bề ngoài nhiều khi rất dễ sai lầm; còn Chúa Giêsu đánh giá theo tận đáy lòng của con người, điều đó nhắc nhở và dậy chúng ta đừng bao giờ dựa hoàn toàn vào những cái bề ngoài để mà đánh giá một con người mang hình ảnh Thiên Chúa, dù họ là ai và ở tình trạng nào đi nữa.
Hiểu và nhận ra Thiên Chúa là Đấng luôn để ý đến tận thâm sâu cõi lòng ta, Ngài chỉ quan tâm tới tất cả những gì mang tính chân thành tấm lòng của chúng ta, và Ngài đánh giá hay hoặc không hay, lớn hay nhỏ tất cả những gì chúng ta dâng cho Ngài trực tiếp, hay dâng cho Ngài qua tha nhân mà Chúa luôn nhận là ta dâng cho chính Ngài, tùy theo mức độ tấm lòng to hay nhỏ, nhiều hay ít ta đặt để vào của ta dâng đó. Như vậy thì có dễ không thưa các bạn, trong việc làm tôi thờ phượng Thiên Chúa? Chính Chị Thánh Têrêsa là một sao sáng gần gũi và là gương mẫu cho ta trong lãnh vực này đấy, bởi vì ngài đã chẳng nói với chúng ta về chủ trương nên thánh của ngài là ‘làm việc thường, nhưng tình yêu phi thường’ đó sao!
Quả thế, vì tình yêu đối với Chúa Kitô mà mỗi khi chúng ta trao tặng người khác một nụ cười với một sự quí mến họ, thì chúng ta không những đã làm cho cuộc đời họ tươi thắm hơn, vui vẻ hơn, lạc quan hơn, đỡ bị stress hơn, mà đồng thời, bạn cũng đang làm cho đời bạn thêm tươi hơn, hấp dẫn hơn, đáng sống hơn, khỏe hơn, và còn hơn thế nữa, bạn đang góp phần tích cực vào việc làm cho thế giới nhân sinh này trở nên đẹp hơn,dễ thương hơn, và nhân bản hơn, như Mẹ Têrêra đã đề nghị anh thanh niên thiện chí trên đây muốn làm một gì đó để gọi là đóng góp vào việc phát triển thế giới. Và nếu nụ cười này lại được trải dài tới cả những người chúng ta không ưa không thích, thậm chí tới cả những người thù của chúng ta nữa, thì bạn ơi, đó thật là tuyệt vời, thật vĩ đại trước ánh nhìn quan sát của Thiên Chúa, và phải chăng, đó cũng chính là lúc Chúa đánh giá, Chúa tuyên bố là ta đã bỏ tiền vào hòm dâng cúng Đền Thờ nhiều hơn cả?
Vâng, thưa bạn! Hẳn bạn và tôi còn nhớ câu chuyện thật hay, thật đẹp, thật cảm động, câu chuyện mang tính giáo dục cao của em bé người Nhật 9 tuổi, em là một trong những nạn nhân trận động đất ngày 11.3.2011.
Như bạn đã biết, trận động đất cường độ 9,0 và sóng thần cao 9 thước thuộc miền Đông Bắc nước Nhật Bản, đã giết chết khoảng 8.133 người, làm mất tích 12.272 người, và đưa đến khủng hoảng phóng xạ nguyên tử từ các lò nguyên tử trong ảnh hưởng của thảm hoạ. Tuy nhiên, trước thảm hoạ khốc liệt đó, tinh thần người Nhật là một tấm gương sáng ngời cho thế giới…Không than khóc, và không thừa cơ cướp giật. Thí dụ ở vùng cách tỉnh Fukushima khoảng 25 cây số, dân chúng địa phương tự động thành lập các đội tự quản, tương trợ lẫn nhau khiến việc an ninh không là một vấn đề. Bên ngoài một ngôi nhà bị sập, tiền giấy trôi ra từ ngôi nhà nằm tứ tán có đến hàng triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt. Đây là một đoạn trích từ thư của Tiến Sĩ Hà Minh Thành viết từ Nhật:
“Tối hôm kia, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến phiên của em thì chắc chẳng còn thức ăn, nên mới lại hỏi thăm. Em kể là: con đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần ập đến, cha của con làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường, con nhìn thấy chiếc xe và cha con bị nước cuốn trôi, 100% khả năng là cha con đã chết rồi. Tôi hỏi thêm: còn mẹ con đâu? Em nói: nhà con nằm ngay bờ biển, mẹ và em của con chắc cũng không chạy kịp. Em nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe tôi hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy em lạnh run lập cập tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát, trùm lên người em. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói”.
Em bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi nghĩ bình thường, tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời:
“Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ.”
Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để em và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy. Thật cảm động! Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới học lớp 3 đã có thể dạy một thằng có ăn học, từng có bằng tiến sĩ như tôi một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.”
Hay không, thưa bạn?
Qua câu chuyện cảm động trên, chúng ta thấy cái quí nhất, đó là thấy cả một tấm lòng. Vì cái quí nhất đối với họ không phải là ở chỗ hàng triệu Yen trôi ra biển uổng phí, mà là cả một tấm lòng giữa những con người với nhau, những người đó đã đánh giá và coi trọng người khác còn hơn cả tiền bạc… Cũng như em bé 9 tuổi, cái quí không phải là bao lương khô em cho vào làm của chung, mà là tấm lòng của em biết nghĩ đến người khác, biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác, mặc dầu em cũng đang đau khổ cùng cực, mặc dầu với hoàn cảnh và nỗi đau của một em bé mất cha, mất mẹ cùng một lúc, em có quyền được hưởng sự ưu tiên chính đáng; nhưng trái lại, em biết coi cái khổ của người khác hơn cái khổ của mình, sẵn sàng nhường quyền lợi của mình cho người khác. Cái vĩ đại, cái đáng nể, đáng cảm phục nhất, và Chúa bảo là dâng cúng bỏ tiền vào Đền Thờ nhiều hơn cả có lẽ không sai đâu, là ở chỗ đó đấy, các bạn ạ!
Câu chuyện bà góa thành Sarepta mà chúng ta vừa nghe, bà đã quảng đại dâng cho vị tiên tri Elia của Chúa chiếc bánh cuối cùng, và chúng ta thấy Thiên Chúa đã đánh giá rất cao; đồng thời đáp trả lại tấm lòng tin, lòng bác ái lớn lao của bà bằng phép lạ hũ bột không vơi cho đến khi hạn hán chấm dứt.
Bạn ơi, nếu tất cả chúng ta đều có những nghĩa cử đẹp với nhau như thế, mà nhất là những nghĩa cử đó lại được thực hiện vì lòng kính mến Chúa và thương yêu anh chị em mình vì lòng yêu Chúa, thì thật đáng quí vô cùng, và thế giới này chắc chắn sẽ được Thiên Chúa chúc phúc, phủ phê ngập tràn các ân huệ, và thế giới chúng ta đang sống đây, sẽ trở nên tốt đẹp, hạnh phúc, ấm cúng biết bao!
Xin các bạn cùng tôi, ngay bây giờ dâng một lời cầu xin Ơn Trên cho mọi người luôn đối xử tử tế với nhau như những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời, các bạn nhé!
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN- B
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1/.Đức Giêsu đưa ra ba hạng người tiêu biểu trong đời sống đạo đức, giúp ta nhận ra đâu là giá trị đạo đức thật, đâu là giả.
Ba hạng người đó giống như một ông đi họp từ thiện ăn mặc sang trọng. Trước khi đi, ông quyết định giúp 20.000$, đến nơi, thấy nhiều người giúp 20.000$, ông muốn hơn người ta, nên góp 50.000$ nhưng ông lại rút lộn bao thư 100.000$ trao cho hội từ thiện. Vậy đâu là giá trị việc bác ái của ông?
Giá trị việc bác ái của ông xét theo đạo đức học là ở ý hướng, ở lòng tốt, thiện tâm, thiện chí. Lòng tốt của ông ở quyết định giúp 20.000$. Đến nơi, ông muốn góp 50.000$ để hơn người ta, nổi tiếng hơn người ta, đó là do tính ham danh vọng, ham địa vị của ông, nên ông không được phúc lại mắc thêm tội kiêu ngạo. Còn việc ông rút lầm bao thơ 100.000$ là ngoài ý hướng tốt của ông. Đây là việc đóng góp vô ý thức, nó vô thưởng vô phạt, nó vô ích đối với ông. Xét về đạo đức, nó không có giá trị gì với ông.
2/.Ba hạng người trong Tin mừng hôm nay cũng có những hành vi đạo đức tương tự như ông đi họp từ thiện trên.
– Hạng kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu ngạo. Xét theo giá trị đạo đức, hạng này rất xấu: “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
– Hạng thứ hai là những người giàu có, làm việc đạo đức bằng dâng cúng những của dư thừa, hoặc vì gò bó theo tục lệ phải dâng cúng, hoặc vì sợ chê cười, hoặc làm cho qua đi, cho xong chuyện, khỏi bị quấy rầy. Họ làm việc bác ái từ thiện sống đạo đức theo thói quen, sợ dư luận hay sợ tội, sợ phạt. Họ thiếu lòng thành tâm, thiện chí. Họ không có ý tốt, lòng tốt. Xét theo giá trị đạo đức, việc từ thiện, dâng cúng, đọc kinh của họ là vô ích. Họ không được công phúc gì.
– Hạng thứ ba là những người sống đạo đức, làm việc từ thiện, bác ái cách thành tâm, thiện chí, cố gắng hy sinh làm việc thiện, việc tốt, việc thiêng liêng sốt sắng như bà góa nghèo, dù chỉ có một phần tư xu để nuôi mình, bà cũng dâng cúng hết. Bà cũng không sợ chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận cảnh thấp hèn thua kém người khác. Bà thật là người thành tâm, thiện chí, rất khiêm tốn. Đức Giêsu đã đánh giá bà có lòng đạo đức rất cao đáng làm gương cho các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết, tuy rất túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống bà”.
Bà góa này cũng giống bà góa thành Sarépta: “Chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò, đang đi tìm mấy thanh củi rồi về nướng cho con trai và mình ăn, rồi chết”. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho Êlia ăn, dù chẳng biết Êlia là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.
3/.Người Việt Nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp, duyên dáng bên ngoài là tùy phụ, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng. Vì thế, giá trị đạo đức bị suy đồi, những sản phẩm, hàng hóa giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa. Phân, thuốc, giống cây dổm làm mất mùa, đói kém, nghèo khổ khắp nơi. Vật liệu xây cất dổm làm bao nhiêu công sở, nhà cửa mới xây đã đổ nát, bỏ hoang không ai dám ở. Máy móc, nhiên liệu dổm, sản phẩm kém phẩm chất, xuất khẩu bị trả lại làm kinh tế xuống dốc. Miệng hô hào: “Người tốt việc tốt” nhưng làm láo, báo cáo rất hay, tệ đoan tham nhũng, ô dù, thành tật vô phương cứu chữa, tương lai đất nước thật đen tối!
Mỗi người chúng ta phải tự xét mình: mọi việc chúng ta làm giả dối hay chân chính, nhất là những việc bác ái và đạo đức thiêng liêng, chúng ta có thành tâm, thiện chí cố gắng thực hiện không. Những dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng cúng giúp đỡ làm vì mến Chúa yêu người hay vì bó buộc, vì thói quen, vì sợ dư luận, tệ hơn nữa làm vì cầu danh, khoe khoang?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối, và đã tán thưởng bà góa nghèo túng biết hết lòng hy sinh dâng cúng tất cả những gì bà có đến cạn kiệt, không còn chút gì để nuôi sống. Còn Chúa, chính Chúa đã hy sinh dâng tất cả những gì Chúa có và cả mạng sống cho chúng con hơn gấp trăm ngàn lần bà góa kia. Xin cho chúng con biết chân thành hiến dâng đời sống mình để phục vụ mọi người vì hết lòng mến Chúa. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxxiithuongnienb