CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC- Chú giải của Fiches Dominicales. 13
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 21
CHÚA CỮU CHỮA NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 32
CHỮA LÀNH NGƯỜI CÂM ĐIẾC (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 48
HÃY MỞ RA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 51
ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ THẦN LINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 56
NGƯỜI CHỮA KẺ ĐIẾC NGƯỜI CÂM– Lm. Micae Võ Thành Nhân 61
XIN MỞ TAI, MIỆNG VÀ LÒNG TRÍ CON- Lm. Đan Vinh HHTM.. 64
CÂM ĐIẾC- Lm. Jac. Phạm Văn Phượng OP.. 79
CHO NGƯỜI ĐIẾC ĐƯỢC NGHE- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 84
HÃY MỞ RA- Lm. Phêrô Nguyễn Hương.. 88
GIẢI THOÁT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 92
HÃY MỞ RA- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 98
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 2a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Ðáp.
Xướng: Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Ðáp.
Xướng: Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. – Ðáp.
Bài Ðọc II: Gc 2, 1-5
“Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?”
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”. Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 31-37
“Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
EPHATA:HÃY MỞ RA (*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về “Bánh hằng sống” (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra “nước ngoài” nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền “Thập Tỉnh”, bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.
Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại “điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?
Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ’ dân ngoại quốc thuộc HyLạp – La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề “Sạch và Nhơ”, chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là “đa dạng” “mở rộng” “phổ quát”. Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?
Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một “Thiên Chúa ẩn kín” lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin “người ta giữ bí mật”.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: “Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài”.
Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ “thuộc thân xác”. Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta “từ xa” một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định “tiếp xúc” với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra “đụng chạm” đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của “Thân xác”, là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l’incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường “cụ thể” là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận “lấy” và “ăn” theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một “nỗ lực”, một “nhiệm vụ khó khăn”, một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang “làm lại” công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!
Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ “Effata”!
Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: “Hãy mở ra” hay đúng hơn “hãy mở trở lại”.
Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? “Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”. Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).
Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn “đóng kín”, mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?
Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”
Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp” (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo… một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC- Chú giải của Fiches Dominicales
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/. Tại vùng đất dân ngoại
Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về “sạch, và “ô uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7, 24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh”.
2/. Người câm điếc được chữa lành cách lạ lùng
Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.
j. Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Đức Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?
– Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.
– Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.
Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’, nghĩa là ‘hãy mở ra’.
Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
3/. Dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai
Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.
4/. Loan báo sự chữa lành thiêng liêng
Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm: “Hãy mở ra” nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (3,29).
Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)
BÀI ĐỌC THÊM
1/. “ Hãy mở ra!”
“Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?
Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai.
Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được”. Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ… và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo” bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng” trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.
Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mùng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.
2/. Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
“Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng” toàn bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng “rất người”. Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về sự biến đổi của những người được cứu độ.
Is 35: 4-7
Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của Ngài, đó là giải thoát con người khỏi những quyền lực sự dữ.
Gc 2: 1-5
Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Thánh Mác-cô tường thuật Đức Giê-su chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng ở miền Thập Tỉnh, miền đất dân ngoại. Đây là dấu chỉ thời Thiên Sai, thời Thiên Chúa cứu độ muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)
Bản văn nầy được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất (ch. 1-39), vị ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ VIII tCn. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
1/.Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi:
Vị ngôn sứ loan báo tin vui cho những người lưu đày tại Ba-by-lon là Thiên Chúa sắp cứu thoát dân Ngài:
“Hãy nói với những kẻ nhát gan: ‘Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em” (35: 4).
Vị ngôn sứ trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu thoát này: những tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền đất nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước tuôn trào” (35: 5-7a).
Chắc chắn những hình ảnh nầy là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh nầy diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.
2/.Cứu thoát khỏi những quyền lực sự dữ:
Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy ý nghĩa sâu xa của biến cố, những người điếc sẽ được mở đôi tai để nghe những tin vui và những người què sẽ nhảy nhót vì vui mừng hớn hỡ. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy:
“Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách,
mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm
và sẽ được nhìn thấy.
Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi,
và vì Đức Thánh của Ít-ra-en,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19).
Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời của các ngôn sứ, cũng như vào thời của Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất, nghĩa là những tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Thiên Sai: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là, Thiên Chúa bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những tật nguyền thể lý tiên báo việc chữa lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Thiên Sai mà vị ngôn sứ đã báo trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo nầy được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay là kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một vị thế ưu tiên.
1/.Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng:
Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng. Cách tiếp đón ân cần vồn vã và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
2/.Tình huynh đệ Ki-tô hữu:
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị trong xã hội. Thư nhắc cho những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca ngợi người nghèo “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)
Hiện nay Đức Giê-su đang rảo khắp miền đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành con gái của một người phụ nữ dân ngoại (7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, vừa điếc vừa ngọng. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho lương dân.
1/.Tác nhân chính của việc chữa lành:
Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành nầy khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều nầy (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức nầy trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những người đương thời với họ.
Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi bận lòng về tính xác thực: chính những lời nầy của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.
Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng nầy có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy tác động của lời cầu nguyện. Sau nầy, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám bằng cầu nguyện, mà trước đó các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc 9: 28-29).
2/.Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su:
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ nầy của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 trong Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Mác-cô nêu bật tâm trí quá chậm hiểu của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách nầy được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng ở đây với việc chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa nầy được thuật lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, thánh Mác-cô đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.
Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ nầy là một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như các hành động biểu tượng của các ngôn sứ có kèm theo những lời cảnh báo: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã làm những dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình về số phận lưu đày đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, khi mà Ngài đã đổ hết công sức để họ có thể hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Ép-pha-ta” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa câm vừa điếc.
3/.Không được tiết lộ cho ai biết:
Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Thiên Sai đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mạng Thiên Sai trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Thiên Sai” của Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).
4/.Phản ứng của dân chúng:
“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy, ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng của Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra khắp các miền dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.
Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy, sấm ngôn này đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc tụng Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả thánh Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của Ngài cho thế giới.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA CỮU CHỮA NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Is 35,4-7a) : Ngôn sứ Isaia tiên báo rằng Đấng Messia sẽ làm cho người điếc được nghe, người quẻ được đi và người câm nói được.
– Tin Mừng (Mc 7,31-37) : Đức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng điếc và ngọng, vì tai chúng ta chưa biết lắng nghe Lời Chúa cho đủ và miệng lưỡi chúng ta chưa biết ca tụng Chúa cho xứng. Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa cứu chữa chúng ta.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Người công giáo Việt Nam chúng ta quen đọc kinh nhưng chưa quen đọc và suy gẫm Lời Chúa.
– Trong khi cầu nguyện, chúng ta thường xin Chúa ban ơn, nhưng ít khi biết ca tụng Chúa.
– Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Giacôbê chỉ trích những kitô hữu coi trọng người giàu và khinh rẽ người nghèo. Phải chăng lời công kích ấy cũng đúng cho chúng ta ?
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Is 35,4-7a)
Chương 35 sách Isaia là những lời an ủi dân do thái đang sống kiếp lưu đày khổ sở. Bằng những hình ảnh rất cụ thể, Isaia mô tả ơn giải thoát Chúa sẽ ban cho họ : người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được. Dĩ nhiên đây chỉ là những hình ảnh được mượn để nói đến những ơn cao trọng hơn : điếc, què và câm là tình trạng khốn khổ của con người bị tước mất những khả năng tự nhiên ; nghe, đi và nói là tình trạng được ơn Chúa phục hồi.
Điều Isaia tiên báo sẽ được Đức Giêsu thực hiện.
2/. Đáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này mang cùng nội dung với bài đọc I, nghĩa là nói về ơn giải thoát của Thiên Chúa. Nhưng tác giả Thánh vịnh xử dụng những hình ảnh khác hơn : xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng người tù tội, mở mắt kẻ mù lòa v.v.
3/. Tin Mừng (Mc 7,31-37)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng :
– Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
– Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác : người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
– Lúc chữa bệnh, Đức Giêsu nói Epphata (Hãy mở ra), tiếng này ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
4/. Bài đọc II (Gc 2,1-5) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu đừng đối xử thiên vị coi trọng người giàu và coi khinh người nghèo. Ngài còn lưu ý rằng Thiên Chúa ưu ái người nghèo.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ơn ban nghe được và nói được
Nghe và nói là khả năng rất quan trọng của con người.
– Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý người nói cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Bởi vậy những người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
– Nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ.
Cho nên nghe được và nói được là hai ơn rất lớn Chúa ban cho con người.
Việc Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc hôm nay không chỉ có ý nghĩa với người đó, mà cũng có ý nghĩa đối với chúng ta. Có ý nghĩa không phải vì chúng ta câm điếc, mà vì chúng ta được Chúa ban cho hai khả năng quý báu đó. Tuy nhiên nhận được hai ơn ban ấy không hẳn là chúng ta biết xử dụng đúng hai ơn ban ấy. Trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta ta nữa cũng cần được Đức Giêsu chữa trị.
Nghe được mọi chuyện nhưng lại không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc. Nói đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa thì cũng kể như câm.
- Mê tín trong đạo
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là :
. Khi chữa trị cho người này, CG đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.
. Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, CG còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao CG cư xử như vậy ? Thưa vì CG không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.
Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy ? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh… Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Đó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào ? Thường là :
. Khi có người thân bị bệnh nặng : chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
. Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
. Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cần cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các Cha. Các Cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các Cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v… Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bả ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tin dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào !
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm :
. Thứ nhất : hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân này đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỷ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao ? Đương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin chỉ cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Đừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói : “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.
. Điểm thứ hai : chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở thế gian có những thứ ấy. Để làm chi ? Để nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn ; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương… Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một Linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau : “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một Thánh Giá ta đang gánh vác. thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ấy là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
Xin Chúa cho chúng con theo Chúa vì thực sự tin Chúa. Xin cho đức tin chúng con được vững mạnh, nhất là trong những lúc đau khổ, gian nan.
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau :
Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau :
– Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề ! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông : “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư ! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào :
– Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải !
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói :
– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em ?
*
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán : “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra ” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc (x. Mc.6,34-35).
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu : “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng ; không gây phương hại, vẫn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết : “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
*
Lạy Chúa, xin phá đổ bức tường thành kiến trong tâm trí chúng con, để chúng con lắng nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em, và tiếng thúc giục của Lời Chúa.
Xin cho chúng con đừng câm điếc trước lời mời gọi của Chúa và tha nhân. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
4/. Đừng đánh giá con người theo vẻ bề ngoài
Những chuyện dưới đây có thể dùng để minh họa lời khuyên của Thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay :
a/ Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy, người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn chỉ dạy : “Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo đẹp chứ đâu phải khen con đẹp”.
b/ Một ông nhà giàu mở tiệc khoản đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói : “Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hô mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao”.
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thời Đức Giêsu người ta đem các thứ bệnh nhân đến để xin Chúa chữa lành, chúng ta cũng hãy đến với Chúa với tất cả mọi lo âu và bệnh tật hồn xác, và dâng lên Chúa lời nguyện sau đây :
1./ Hội thánh ngày nay đang sống giữa đa số những người nghèo khổ bệnh tật cả xác hồn / Xin cho mọi người trong Hội thánh trở nên bạn của những người nghèo khổ bệnh tật / và sẵn sàng chia vui sẻ buồn với họ.
2/. Đa số các nước trên thế giới còn sống trong tình trạng kém phát triển, chậm tiến, đói khổ và bệnh tật / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước kém phát triển biết thật tình quan tâm hơn đến đa số dân còn nghèo đói và chậm tiến.
3/. Chung quanh chúng ta còn nhiều người bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / mà không có ai đem họ đến với Chúa / Xin cho họ sớm gặp được người an ủi giúp đỡ và dẫn họ đến với Chúa.
4/. Trong họ đạo chúng ta còn nhiều người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng sợ hôn câm điếc thể xác / Xin cho họ được chữa lành để nghe tin Chúa và ca tụng cảm tạ.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn quan tâm sẵn sàng giúp đỡ mọi người đang gặp cảnh khốn khó, xin Chúa chấp nhận những y nguyện chúng con vừa dâng lên, để mọi người nhận biết quyền năng Chúa, và dâng lời cảm tạ tôn vinh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, chúng ta hãy xin Chúa thương đến những người nghèo nàn, bệnh hoạn, tật nguyền…
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là những chứng mù, què, câm, điếc về mặt thiêng liêng, khiến chúng con không nhìn thấy Chúa, không hăng hái đi theo Chúa, không ca tụng Chúa và không lắng nghe tiếng Chúa…“
VII/. GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ một câu Tin Mừng hôm nay : khi Đức Giêsu chữa cho người vừa điếc vừa ngọng, Ngài nói : “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Sống trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng mở lòng, mở tai và mở rộng bàn tay để vừa đón nhận tình yêu của Chúa vừa đón tiếp anh chị em chúng ta.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN -B
CHỮA LÀNH NGƯỜI CÂM ĐIẾC (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1/.Điểm cần lưu ý trước tiên, đó là Chúa Giêsu đang ở trên đất lương dân, và đang chữa lành cho một người không phải là Do thái. Người không phân biệt đối xử. Điều quan trọng đối với Người là niềm tin. Và bước đầu của niềm tin là nhận biết mình bất lực, mình đang đau yếu, cần sự giúp đỡ của một đấng cao siêu hơn, quyền năng hơn.
2/.“Người làm mọi sự cách hoàn hảo” (Mc 7,37). Hình như dân chúng đã khám phá ra sự liên hệ giữa phép lạ và tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, bởi vì việc cho kẻ câm được nói, kẻ điếc được nghe đúng là những công việc của Đấng Messia mà Isaia đã tiên báo (bài đọc 1). Một điều đáng ngạc nhiên: dân chúng ít học thì trực giác bén nhạy, trái lại các thượng tế, các thầy thông luật lại không nhận ra, dù họ nghiền ngẫm Thánh Kinh mỗi ngày (x. Ga 5,39). Chỉ có những tâm hồn cởi mở, đơn sơ, khiêm tốn như Maria mới có thể thốt lên: “Chúa đã làm cho tôi những việc kỳ diệu” (Lc 1,49). Tham dự Thánh lễ là cất tiếng ca tụng và tri ân Thiên Chúa.
3/.“Epphata”: Ngay từ khi lãnh bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được mở tai để nghe Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng đức tin và cất lời ca tụng ngợi khen Chúa. Tuy nhiên căn bệnh câm điếc thiêng liêng luôn rình rập, đe dọa mọi người, như Chúa Giêsu đã từng khiển trách các sứ đồ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (Mc 8,18; x. Ed 12,2) Cũng như đã trách cứ Biệt phái. Bởi đó cần tránh mọi thái độ kiêu căng tự phụ, mọi thiên kiến lệch lạc, mọi tham lam dục vọng v.v.. là những nhân tố biến ta thành những kẻ “điếc lác, trước tiếng lương tâm và che mắt tâm hồn ta không nhìn thấy được Chúa.
4/.Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến mối liên lạc cá nhân mà Chúa Giêsu tạo ra giữa Người với các bệnh nhân Người chữa trị. Lối Người hành động không có tính cách xa xôi, vô danh, tổng quát. Đối với Người, con người là một nhân vị đặc biệt, độc nhất không thể thay thế. Một trong những yếu tố căn bản của mầu nhiệm Tin Mừng là sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho con người và mầu nhiệm ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Một đàng, Thiên Chúa làm việc để cả nhân loại trở nên một dân tộc, dân của Ngài, một đàng, Ngài biết tên của mọi người trong dân ấy. Trong Tin Mừng, người Mục tử biết tên mỗi con trong đoàn chiên mình. Chúa Giêsu, đối với mỗi một người, có một cái nhìn độc nhất, một lời nói riêng biệt. Một tình yêu cá nhân. Mọi người trên đời này đều đã, đang hoặc phải khám phá ra rằng Chúa Giêsu xem mình như một con người và cư xử với mình như một nhân vị Thiên Chúa nâng con người tầm thường lên một ngôi vị.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
HÃY MỞ RA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Đức Giê-su cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó.
2) Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
3) Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4) Lắng nghe có dễ không? Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
5) Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ THẦN LINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Ơn cứu độ là gì? Thiên Chúa cứu độ như thế nào? Làm sao để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa? Người tín hữu nghe nói nhiều về ơn cứu độ và giải thoát, thế nhưng để hiểu, cần lắng nghe những tường thuật của Cựu ước và Tin mừng để chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Trong lịch sử, có thể có những cách hiểu về ơn cứu độ được xem là ảo tưởng và huyền hoặc, như quan niệm có chiều hướng duy linh, cứu độ là được trở về với bản chất thần linh của mình nhờ vào việc tinh thần con người thoát ra khỏi vật chất và thân xác. Nhiều người cho rằng tinh thần con người vốn có bản chất thần linh, bị giam cầm trong thân xác, nên nhờ một sự giác ngộ tinh thần, con người thoát ra khỏi thân xác để trở về với bản chất thần linh vốn có của mình. Hoặc một quan niệm duy vật hơn, cho rằng cứu độ chính là tạo được một cuộc sống ấm no hạnh phúc ở trần gian. Con người, nhờ cố gắng của trí tuệ tìm tòi và phát minh khoa học của mình, chiến thắng mọi trở ngại trong thiên nhiên như bệnh tật, và tạo ra nhiều của cải để con người sống hạnh phúc ở trần gian.
Bản văn sách tiên tri Isaia cho thấy quan niệm ơn cứu độ là việc Thiên Chúa hành động và đến cứu giúp con người. Đó là lúc mà Thiên Chúa quyết định hành động một cách quyết liệt để chữa lành thân phận bệnh tật của con người: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng, tai người điếc sẽ mở ra. Người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy nơi hoang địa và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng”. Và hành động cứu độ của Thiên Chúa là giải thoát họ khỏi những bệnh tật đang giam cầm và ràng buộc con người. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Bởi vì bệnh tật như đui mù, què quặt, câm điếc làm cho thân phận con người trở nên bi đát và bất hạnh, giới hạn những khả năng của con người. Chữa lành những bệnh tật thể lý của thân phận con người là dấu chỉ của ơn cứu độ do Thiên Chúa ban tặng, giải thoát con người khỏi những giới hạn này, để làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Và câu chuyện Tin mừng tường thuật cụ thể việc Chúa Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người đưa anh ta riêng ra, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời thở dài và nói “êphata” tức là hãy mở ra. Cách làm của Chúa Giêsu có phần nào giống với thực hành y khoa thời bấy giờ tức là có những tiếp xúc thể lý với bệnh nhân và dùng nước miếng, được cho là nguồn sự sống, để xức cho bệnh nhân. Ngoài ra việc người cầu nguyện, thở dài, nói êphata đều là những chỉ dẫn quí báu về sử tính của hành động chữa lành cũng là hành động cứu độ của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện một cách cụ thể bằng việc chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người, ở với con người, đến tiếp xúc với mỗi người chúng ta để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng cứu thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Đức Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của người. Đấng cứu thế biểu lộ quyền năng cứu độ của người, nhưng người không muốn người ta tỏ dấu biết ơn bằng cách loan truyền phép lạ trước thời hạn làm cho những người khác có thể hiểu lầm về tư cách Đấng cứu thế. Người sẽ mạc khải tư cách Đấng cứu thế của mình cách trọn vẹn hơn nhất là qua cuộc thương khó và phục sinh của người, lúc bấy giờ người không còn sợ hiểu lầm, và mọi người có thể công bố rõ người là Đấng cứu thế chịu đóng đinh và chịu chết, và đã Phục sinh vinh quang.
Phép lạ chữa lành cho người bị bệnh câm điếc chứng tỏ quyền năng thần linh của Chúa Giêsu, lòng thương xót của người đứng trước thân phận bệnh hoạn tật nguyền của con người. Đức Giêsu đến để chăm sóc và chữa lành cho mỗi người. Và bài tin mừng tường thuật rằng mọi người đều đầy lòng thán phục mà nói rằng người làm được mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được. Và điều cần được công bố không chỉ là phép lạ, nhưng là chính việc Thiên Chúa hiện diện và cứu độ con người. Đứng trước hành động mạnh mẽ này của Chúa Giêsu, không ai được phép nhắm mắt làm ngơ, mà phải cố gắng hết sức mình để hiểu biết và tuyên xưng Đấng Cứu Thế, người đang ban ơn cứu độ là sự giải thoát cho con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Giữa Chúa Giêsu và người bệnh câm điếc được chữa lành có một sự gặp gỡ thực sự và bệnh nhân đã được Chúa Giêsu đụng chạm tới, người chăm sóc cho anh, chữa lành anh bằng sức mạnh thần linh phát xuất ra từ chính người: Người đưa riêng anh ta ra một nơi, người đặt tay vào tai anh, nhổ nước miếng vào lưỡi anh, cầu nguyện và nói êphata. Những tiếp xúc này thực sự tác động dấu ấn lên con người của bệnh nhân cách sâu xa. Quả thật, việc gặp gỡ với Đấng cứu thế đã thay đổi con người của anh cách trọn vẹn, làm cho anh được giải thoát và tham dự trọn vẹn vào sự sống. Dân chúng đều nhìn nhận quả thật Đức Giêsu đã làm mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, tức là Đức Giêsu đã hoàn tất những lời tiên tri của Isaia. Những phép lạ Đức Giêsu thực hiện không chỉ dừng lại ở việc người là Đấng làm phép lạ mà còn hướng đến ý nghĩa trọn vẹn hơn Người là Đấng cứu độ, đến để giải thoát con người khỏi thân phận tật nguyền. Những phép lạ người làm là dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng, đó chính là đời sống thần linh ban tặng cho con người để thay đổi thân phận con người, đưa con người đến chỗ hiệp thông sự sống thần linh của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa là Đấng ban ơn cứu độ, và ơn cứu độ không là gì khác hơn là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ chính người con một Thiên Chúa đến tìm kiếm và lôi kéo con người ra khỏi thân phận thấp hèn của mình. Và muốn gặp gỡ ơn cứu độ, con người cần đến với Đức Giêsu là người con một Thiên Chúa, để người chữa những yếu đuối bệnh tật của chúng ta, và ban tặng sức mạnh thần linh từ chính người.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
NGƯỜI CHỮA KẺ ĐIẾC NGƯỜI CÂM– Lm. Micae Võ Thành Nhân
Chúa làm việc gì Chúa cũng báo trước cho chúng ta để chúng ta chuẩn bị. Chuẩn bị thì phải có thời gian, mà thời gian lâu hay mau là tùy ở Chúa. Đối với Chúa, không có chuyện thời gian lâu hay mau mà là khi đến thời đến buổi, lúc nào Chúa thấy thuận tiện là Chúa sẽ thực hiện. Chúa làm như vậy là vì Chúa muốn cho chúng ta chuẩn bị con người chúng ta một cách chu đáo, để khi ơn Chúa ban xuống, chúng ta sẽ cộng tác với Chúa, ơn Chúa mới sinh hiệu quả tốt nhất cho chúng ta. Nhưng điều quan trọng là qua thời gian chuẩn bị, đức tin của chúng ta vào Chúa sẽ mạnh mẽ, kiên vững hơn và rồi nếu có thử thách xẩy đến, chúng ta dễ dàng vượt qua và trung thành với Chúa.
Hôm nay, Chúa chữa một người câm điếc, người ta đem anh ta đến cùng Chúa và xin Chúa đặt tay trên anh để cứu chữa anh. Việc Chúa cứu chữa cho anh vừa câm vừa điếc đây đã được tiên tri Isaia báo trước hàng bao thế kỷ mà như trong bài đọc một diễn tả: “ Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bây giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước “.
Chúa chữa anh bằng cách Chúa đem anh ta ra khỏi đám đông, Chúa đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Đoạn Chúa ngước mắt lên trời, Chúa thở dài và bảo: Ephpheta, nghĩa là “ hãy mở ra “, tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ và anh nói được rõ ràng.
Ngón tay Chúa biểu hiện uy quyền của Chúa, gợi nhớ lại công trình tạo dựng của Chúa “ Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng, xin mở trí cho con học biết mệnh lệnh Ngài “ ( Tv 118, 73 ), và sau đó Chúa bôi nước miếng vào lưỡi anh, ‘ nước ‘ là biểu hiện cho sự sống, có nước là có sự sống, do đó Chúa là nguồn sống của mọi loài “ Đất khô cạn sẽ trở thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước “, tiếp đến Chúa nói Ephphata “ Hãy mở ra “ tức thì anh nghe và nói được. Đây là một cuộc tái tạo mà Chúa dành cho anh bằng hành động và lời nói của Chúa.
Anh chàng câm điếc này đây được ơn chữa lành là do lòng thương xót của Chúa. Chúa thương anh và tiếp đến Chúa thương tất cả chúng ta. Chúa ban ơn cho tất cả chúng ta, cách riêng là những người bệnh tật, nghèo đói, bị bỏ rơi… để rồi Chúa dạy chúng ta biết yêu thương tôn trọng, giúp đỡ đặc biệt cho những anh chị em này, vì như lời thánh Giacôbê trong bài đọc hai “ Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao “.
Lạy Chúa, trước muôn vàn ơn lành Chúa ban cho chúng con trong cuộc sống, xin cho chúng con luôn biết dùng miệng lưỡi của chúng con mà dâng lời ngợi khen, chúc tụng, tôn vinh Chúa và rao truyền danh Chúa cho mọi người “ Chúa làm mọi sự tốt đẹp, Chúa làm cho kẻ điếc nghe được, và người câm nói được “, và xin Chúa cho đôi tai chúng con mở ra để chúng con nghe rõ tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà, họ khổ đau, họ kêu gào than thở, xin đừng để chúng con cứ giả điếc làm ngơ mà biết giúp đỡ một cách cụ thể thiết thực cho anh chị em chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN-B
XIN MỞ TAI, MIỆNG VÀ LÒNG TRÍ CON- Lm. Đan Vinh HHTM
1) Ý chính: “Ep-pha-tha: hãy mở ra” (Mc 7,34).
Duy chỉ có Tin Mừng Máccô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người thực hiện phép lạ chữa bệnh này tại miền Thập Tỉnh, là nơi hầu hết cư dân là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc này bằng các cữ chỉ như sau: đặt ngón tay vào tay anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói: “Ep-pha-ta!: “Hãy mở ra!”. Lập tức bệnh nhân được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.
2) Chú thích:
– Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh (Mc 7,31-32):
– Bỏ vùng Tia: Tia là một thành thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do thái, đã có bang giao với nước Do thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x. 1 V 9,11-12). Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, một số người từ vùng Tia cũng đã tìm đến gặp Người (x. Mc 3,8).
– Qua ngả Xi-đon: Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân Ước, Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt 11,21-22).
– Đến biển hồ Galilê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có nhiều sóng to gió lớn, và có khá nhiều cá.
– Vào miền Thập Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Galilê, gồm mười thành chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Đó là các thành; Sy-thô-pô-li, Pen-la, Ga-da-ra, Đi-on, Híp-pô, Phi-la-đen-phi-a, Ghê-ra-sa, Ka-na-tha, Đa-mát và A-bi-la. Tin mừng Nhất Lãm thường hay nhắc tới miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25; Mc 1,28; 5,20).
– Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc thường đi đôi với nhau. Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không thể nói được, chỉ phát ra một thứ âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân.
– Xin Người đặt tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do thái (x. St 48,14-15). Đây cũng là cử chỉ Đức Giêsu thường làm như: đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5; 8,25).
– Người kéo riêng anh ta ra giữa đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “ Ep-pha-ta”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7, 33-35):
– Kéo riêng ra khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,37), hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây, Người tách riêng kẻ bị căm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị và cảm thông đối với sự ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng trước đám đông đang muốn nhìn xem Đức Giêsu chữa bệnh. Đàng khác, việc can thiệp của Thiên Chúa được thực hiện cách kín đáo như Samuen được Đức Chúa sai đến nhà ông Gie-sê ở Bêlem để bí mật xức dầu phong một người con ông này làm vua, thay thế vua Sa-un (x. 1 Sm 16,1-13); Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong vương cách kín đáo như vậy (x.2 v 9,2-6).
– Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh… Đức Giêsu làm hai động tác để chữa bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33); Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói; “Ep-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c.34). Hai động tác này lập tức phát sinh công hiệu là làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc, cũng như chữa người mù (x. Mc 8,22-26), Máccô muốn chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai. Vì Người đã thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được I-sai-a tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).
– Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7,36-37):
– Không được kể chuyện đó với ai cả…: Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,43), chữa lành người mù thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)…Đức Giêsu đều truyền cho họ phải giữ im lặng. Sở dĩ thế là vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do thái khỏi hiểu lầm về sứ mệnh Thiên sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là lập một Nước Trời thiêng liêng và vĩnh cửu, đang khi dân chúng lại khao khát mong chờ một Đấng Thiên Sai theo kiểu trần tục, để lãnh đạo dân nổi loạn chống lại đế quốc La-mã, đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên sai về thiêng liêng đúng theo Thánh ý Thiên Chúa, Đức Giêsu cần phải có thời gian để rao giảng cho dân Do thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh của Người. Do đó, khi làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn có sự ồn ào dễ trở thành động cơ ảnh hưởng trên phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rôma kéo đến đàn áp giết hại, như đã từng xảy ra trước đó.
– Nhưng họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”: Những người được Đức Giêsu chữa lành đã không giữ kín về những ơn mà họ đã nhận được. Họ thật sự thán phục trước những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã làm. Việc chữa bệnh này giống như sự tái tạo một con người mới, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi … tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật như sau: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).
II/.HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14):
Câu chuyện: Phá đổ bức tường Bá-linh
Ngày 13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây số đã được cấp tốc xây dựng để làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc gia đối nghịch với nhau là Đông Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức tường Bá-linh (Berlin). Từ đây, nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang tính thù hận và chia rẽ ngăn cách nhau.
Mãi đến ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28 năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại tái thống nhất. Thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và Tây Đức đang thù nghịch nhau lại trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước này ngày một thăng tiến về mọi mặt
Suy niệm:
+ Phá đổ bức tường câm điếc: Bệnh câm điếc cũng chính là bức tường vô hình ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Vì điếc nên không thể nghe, không thể hiểu và không thể cảm thông với tha nhân. Vì câm nên không thể nói, không thể diễn tả tâm tư nguyện vọng của mình cho người khác hiểu. Vì không hiểu người khác và không được người khác hiểu, thông cảm nên dễ sinh ra hiểu lầm và ngày càng xa cách người khác. Đức Giêsu đã tỏ ra cảm thông với hoàn cảnh của người câm điếc. Người ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách là bệnh câm điếc này cho bệnh nhân, khiến anh ta lại có thể nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe và hiểu biết thông cảm với anh.
+ Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và chư dân: Các đầu mục Do Thái đã xây dựng một bức tường lề luật phức tạp về sự tinh sạch và nhơ uế. Bao nhiêu thứ lề luật nhỏ mọn về việc rửa tay, tắm rửa, những quy định bề ngoài về đồ ăn thức uống làm người ăn trở nên nhơ uế … làm cho người Do Thái không còn dễ dàng tiếp xúc với chư dân. Những tập tục, quy định này là bức tường ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa, làm cho ơn ấy không thể đến được với dân lâng bang. Đức Giêsu đã trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số, băng qua các thành phố làng mạc của chư dân, để rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, đế phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và dân ngoại, để Tin Mừng nước Thiên Chúa được đến với muôn dân
+ Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa: Trong vườn địa đàng xưa, ma quỷ đã cám dỗ nguyên tổ Ađam Eva phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, và loài người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, phải vào trần gian là nơi đầy đau khổ chia rẽ thù hận, và đầy gai chông nước mắt. Chính ma quỷ đã xây dựng bức tường tội lỗi chia lìa loài người với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để phá bỏ bức tường ngăn cách bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Người đã chiến thắng ma quỷ và thần chết nhờ quyền năng Thánh Thần. Người đã chịu chết vì loài người chúng ta và ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Danh Người. Ai tin thì sẽ được cứu độ, nghĩa là được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, và được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Quyết tâm: Hiện giờ tôi có bị ngăn cách với ai bằng bức tường thù hận, thiếu sự cảm thông hay không? Tôi quyết tâm sẽ làm gì để phá bỏ bức tường ngăn cách ấy, để có thể sống vui tươi, cảm thông và hoà hợp với mọi người?
2) Epphatha: “Hãy mở ra” (Mc 7,34):
Câu chuyện: Ông già uyên bác:
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hoá của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa triết lý và thần học … Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng này ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để hỏi ý kiến của ông về các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Họ đã được ông cụ tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học đã đến thăm ông. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ nguyên nhân nào khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời xin ông giới thiệu một cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi không có thời giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa trong Thánh kinh, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế hôm ấy.”
Suy niệm:
+ Đúng như ông cụ trong câu chuyện trên đã nói: Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những việc kỳ diệu ấy. Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do chúng ta đã không chịu mở mắt để nhìn xem, không chịu mở tai ra để lắng nghe, không chịu mở lòng để đón nhận, không chịu mở trí ra để suy nghĩ tìm hiểu Thánh Ý Thiên Chúa…
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng (câm) vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Nhiều người đã mất đi sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay bị câm nín, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác châm chọc, khinh thường và từ chốu giúp đỡ…cũng có những sự đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói lên sự thật theo đúng suy nghĩ trung thực của mình. “Ep-pha-ta”, xin Chúa mở miệng chúng ta ra, để ta có thể làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ vì tai nạn rủi ro, bị ngược đãi cách bất công, và đang gặp những điều trái ý cực lòng…
+ Người điếc hoặc bị lãng tai là người mất khả năng nghe được lời nói của kẻ khác. Lắng nghe lời người khác là một điều quan trọng trong quan hệ giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hoặc nghe người khác nói nhưng lại hiểu theo ý mình, thay vì phải hiểu theo ý của người nói. Chính vì thế mà có những sự hiểu lầm và tranh cãi mất đoàn kết. Nghe bằng tai chưa đủ, mà còn phải nghe bằng trái tim nữa. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng bên trong lớp vỏ ngôn từ. “Ep-pha-tha”, xin Chúa hãy mở đôi tai chúng ta, để có thể lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những đau khổ của tha nhân và kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ.
+ Thế giới hôm nay đang thiếu sự cảm thông và đối thoại, vì có quá nhiều người bị câm và điếc tinh thần. Bệnh này biến người ta trở thành những hòn đảo cô độc giữa lòng đại dương bao la. Bệnh này cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, khép kín và sơ cứng…:Chẳng có gì để cho ai và cũng không nhận của ai cái gì. Cuối cùng người ta sẽ chết trong sự nghèo nàn tình thương của mình. “Ep-pha-tha”, xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng chúng ta, để ta có thể giao lưu với Thiên Chúa và với tha nhân; để chúng ta được ơn Chúa biến đổi trở nên con người mới đầy ấp tình người. Nhờ đó chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội ta đang sống, trở nên Thiên Đàng chan hòa tình thương, đúng như lòng Chúa mong muốn.
Quyết tâm: Trong những ngày này, tôi quyết tâm sẽ “đi bước trước” đến với tha nhân, nhất là đến với những người cô độc bất hạnh, bằng việc nở một nụ cười thân thiện với họ, bằng những cái bắt tay thân ái. Tôi sẽ năng cầu xin Chúa “Ep-pha-tha”, để xin Chúa mở rộng trái tim, mở rộng lòng trí để nghe những Lời Chúa phán dạy, để lắng nghe những tâm sự của tha nhân đang gặp khó khăn đau khổ, và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng của mình.
III/. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. “Ep-pha-tha!”, Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở nên tay chân của những kẻ tàn tật, trở thành đôi mắt cho những kẻ đui mù. Để con nên tai nghe cho những ai bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con trở nên tiếng kêu cho những người bị áp bức. Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái trong đời sống thường ngày: Sẳn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho những người đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương khoan dung tha thứ của Chúa, để làm hòa với những kẻ đang thù ghét làm hại con.
Lạy Chúa Giêsu. Ep-pha-tha! Xin giúp con biết mở rộng trái tim, để thực thi giới răn yêu thương của Chúa: Để con chiếu sáng dẫn đường cho những kẻ đang lạc lối lầm đường, để đốt lửa tin yêu nơi những tâm hồn băng giá, để cảm thông với nỗi khổ đau của những người bất hạnh, để bảo vệ phẩm giá cho những ai đang bị khinh dể chà đạp; để đem lại niềm vui và hy vọng cho những người đang buồn bã thất vọng.
*X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng: người bệnh câm điếc chắc chắn sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với tha nhân: Họ chỉ có thể nói và nghe được bằng các dấu hiệu của bàn tay. Đang khi chúng con, tuy vẫn có khả năng nghe và nói, nhưng lại mắc bệnh câm điếc tinh thần: Đối với Chúa, con chán ngại và không muốn nghe những Lời Chúa nói, và cũng chẳng biết thưa chuyện thế nào với Chúa. Con luôn bị tiền bạc, danh vọng, đam mê và các thú vui khác cám dỗ và chi phối, nên con chẳng dành riêng ra thì giờ để tiếp xúc, chẳng mấy khi con nghĩ đến Chúa. Con chẳng tỏ ra thiết tha với bổn phận phải cầu nguyện và dự lễ đọc kinh. Còn đối với tha nhân, nhiều khi con hóa thành người câm điếc khi con quá ích kỷ, bịt tai ngậm miệng và khép kín cửa lòng, trong khi biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười cảm thông chia sẻ, cần một lời động viên an ủi chân tình, cần một sự trợ giúp cấp thời để giúp họ vượt qua khó khăn trở ngại trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa giúp con được khỏi bệnh câm điếc tinh thần. Xin hãy mở tai con để nghe những Lời dạy của Chúa và lắng nghe những tiếng kêu cứu, những lời tâm sự của anh chị em con. Xin cho con biết noi gương Đức Giêsu người con yêu của Mẹ: Luôn chạnh lòng xót thương, biết quảng đại để chia sẻ cả về tinh thần cũng như vật chất cho những ai đang gặp đau khổ bất hạnh. Xin Mẹ giúp con biết “lặng thinh trước những điều không nên nói, và mạnh dạn lên tiếng trước những điều không được im lặng!”
*X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
CÂM ĐIẾC- Lm. Jac. Phạm Văn Phượng OP
Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cử lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết… thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.
Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.
Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.
Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.
Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói “Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng: “Phi-át: xin vâng” đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng “Ep-pha-tha” này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.
Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói, không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động: hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cũng cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.
Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm: tai trâu, tai cối, lơ đễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.
Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng v.v… Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình… Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- B
CHO NGƯỜI ĐIẾC ĐƯỢC NGHE- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
“Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây,
Chẳng ai ngờ: sáng tai họ, điếc tai cày…”
(trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)
Sáng tai họ, điếc tai cày
Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu kéo cày tiến lên thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.
Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời xem ra có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.
Có nhiều học sinh điếc đặc trước những lời giáo huấn của Thầy Cô nhưng rất sáng tai trước những quyến rũ của bạn bè hư hỏng.
Có người chồng rất sáng tai trước những rủ rê của bạn nhậu mà điếc đặc trước những lời can gián của vợ con.
Có người điếc đặc trước tiếng nói lương tâm mà rất sáng tai trước lời gọi mời của dục vọng đê hèn.
Có người điếc lác đối với những Lời ban sự sống của Thiên Chúa mà sáng tai trước những lời đưa đến hư vong do Sa-tan mời gọi…
Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị tận căn là điều không dễ.
Điếc tâm linh
Trong tác phẩm “Tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của ngài đã điếc đặc trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài. Ngài viết: “Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con…”
Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh mới được khai mở để đón nghe Lời dạy của Chúa.
Chúa Giê-su cho người điếc được nghe
Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ I-sai-a đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giê-su đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc:
“Bấy giờ, mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (I-sai-a 35, 5-6).
Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su qua trình thuật của thánh sử Mác-cô:
“Hôm ấy, Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mác-cô 7, 31-35)
Hôm nay, nếu không được Chúa Giê-su mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những Lời ban sự sống của Thiên Chúa; mà một khi đã điếc, thì như người đời thường nói: “điếc không sợ súng”; bấy giờ chúng ta không sợ hãi bất cứ nguy cơ nào làm hại cho đời sống thiêng liêng. Như thế thì thật đáng sợ và đáng tiếc!
Lạy Chúa Giê-su,
Nhiều lần trong đời, đôi tai chúng con đã đóng lại trước những lời hay lẽ phải và những lời khuyên răn. Nhiều lần tai chúng con giả điếc trước những giáo huấn của Hội Thánh và những sứ điệp Tin Mừng.
Hôm xưa Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe; Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những Lời thần thiêng của Chúa;
Nay xin Chúa đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại hạnh phúc cho chúng con đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
HÃY MỞ RA- Lm. Phêrô Nguyễn Hương
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm “như câm như điếc” khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”. Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác…
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”.
Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- B
GIẢI THOÁT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.
Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.
Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.
Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.
Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.
Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- B
HÃY MỞ RA- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình. Sống giữa người khác như bị nhốt tù trong bức tường câm lặng. Kẻ câm điếc dễ bị khùng khùng mát mát là thế. Không hiểu người khác, dễ hiểu lầm ra thù ghét người khác. Đức Giêsu đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh. Khiến anh có thể nghe được, nói được, thông cảm, hiểu biết được mọi người và mọi người cũng nghe và hiểu anh được. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã chữa anh câm điếc một cách đặc biệt. Bao nhiêu bệnh nhân khác, Người chỉ nói mấy lời. Còn đối với anh, Người đã đặt tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời và thở dài kêu lên: “Hãy mở ra”.
Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân. Một bức tường ngăn cách vô hình thật đáng sợ! Nó đã biến Do thái và dân ngoại thành thù hận, Do thái cấm dân không được liên đới, đi lại với dân ngoại. Ai cố tình vi phạm là mắc tội ô uế. Về nhà phải tắm rửa nhiều lần mới được khỏi. Đức Giêsu phải trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số. Người bỏ miền Ty và Sidon là hai tỉnh nước Lyban bây giờ, tới phía đông biển hồ Galilê, vượt qua cao nguyên Gô lăng của nước Syrie và miền Thập tỉnh của sông Gióc đăng, qua Irăng, Irắc tới vịnh Ba tư, miền mỏ dầu bây giờ thuộc các nước chư dân ngoài Do thái. Cuộc hành trình đó đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại, phá đổ bức tường ngăn cách tôn giáo, để nước Thiên Chúa đến với muôn dân.
Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan. Chúa Giêsu đã lấy thánh giá phá đổ bức tường tội lỗi này. Người còn phá đổ bức tường cuối cùng mà thánh Phaolô nói là kẻ thù cuối cùng là sự chết. Người đã phá tung nấm mồ đè bẹp loài người để cho loài người sống lại với Người. Ai tin Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết, sẽ được thập giá như chìa khóa mở cửa nước Trời cho họ vào nhà Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin “hãy mở ra”, mở mọi trói buộc thân xác chúng con, mở mọi trói buộc tâm hồn chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi xiềng xích bất công, bất hòa, hận thù, tội lỗi. Xin hãy mở cho chúng con được thấy ơn cứu độ muôn dân, thấy nước hằng sống vinh phúc của Cha chúng con trên trời.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxiiithuongnienb