CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Fiches Dominicales 13
DIỄN TỪ VỀ HẰNG SỐNG (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
BÀN TIỆC CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
CHÚA KI-TÔ, LƯƠNG THỰC NUÔI SỐNG (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 48
THỊT TA LÀ CỦA ĂN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 59
THÁNH THỂ LÀ MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA NHẬP THỂ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 63
BÍ TÍCH THÁNH THỂ– Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 69
ĐÓN NHẬN THÁNH THỂ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA- Lm. Đan Vinh HHTM 75
TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 89
HỒNG ÂN THÁNH THỂ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 94
AI ĂN BÁNH NÀY SẼ SỐNG ĐỜI ĐỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 98
MẦU NHIỆM ĐỨC TIN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 103
TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 108
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Các ngươi hãy ăn bánh của ta, và hãy uống rượu ta đã pha cho các ngươi”.
Trích sách Châm Ngôn.
Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: “Ai ngây thơ, hãy đến cùng ta”. Và bảo những kẻ mê muội rằng: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan”.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 10-11. 12-13. 14-15
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao. (c. 9a).
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
4) Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an.
BÀI ĐỌC II: Ep 5, 15-20
“Anh em hãy ăn ở khôn ngoan theo thánh ý Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 6, 51-59
“Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Ðó là lời Chúa.
BÁNH HẰNG SỐNG (*)- Chú giải của Noel Quession
Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự trong chỉ một “Lời” lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau, khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách giai thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6 Tin Mừng Thểo thánh Gioan có thể được hiệu bằng 4 cách:
- Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến ý nghĩa thuần túy thiêng liêng “Bánh sự sống ” đó là con người và sứ điệp của Đức Giêsu, mà ta “đồng hóa” nhờ đức tin.
- Một số lớn những nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh Thể: “Bánh sự sống”, chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò của nó.
- Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin… làm cho chúng ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người. Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong một “dấu chỉ hữu hiệu”.
- Cuối cùng, đối với một số tác giả hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh Thể là “mầu nhiệm đức tin” tuyệt vời.
Suy niệm về Lời và Con Người của Đức Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau. Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận “Mình Thánh” Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu” của Người chỉ thực sự nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.
Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu: “thịt và máu” “ăn và uống”. Chứng từ này rất hiện thực chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất, và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng, thì họ đã không bất bình.
Đức Giêsu nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình”.
Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi, Người còn thêm 2 từ “thịt” và “máu”… Và vấn đề không chỉ nguyên là “ăn” mà còn là “uống” nữa. Việc rước Chúa dưới “hai hình” nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần. phải bao lâu nữa người Kitô hữu mới muốn lăp lại truyền thống này.
Sự liên kết hai chữ “thịt” và “máu” có thể được hiểu bằng nhiều cách.
Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người phương Đông, “máu” thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi thường của “sự sống”, đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia (“nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống của Người trong mình”).
Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách “tách rời máu Người ra khỏi thân mình Người”. Đức Giêsu vừa nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”: Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy sinh Thập giá Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu chuộc thế gian. Người biết Người phải “hiến dâng” mạng sống của Người để cho thế gian được sống.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.
Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà họ đã “ăn và uống” thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều 11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác… Và ở đây, trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.
Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.
Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm. Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu, Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ “đích thực”. Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa “coi thường”. Đó là “của ăn đích thực” một của ăn không giống như những thức ăn khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật hẹp thuần túy.
Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3 hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.
1) Sự sống đời đời và sự sống lại
Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.
Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên “mầm mống” sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm, vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về “bữa tiệc trên trời”, nơi đó Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. “Thầy sẽ không uống rượu nho nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha Thầy”. Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.
2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô và người Kitô hữu.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.
Đây cũng là một từ quen thuộc đối với Thánh Gioan “ở cùng”. Ơn gọi của mỗi người là “ở cùng Chúa, ở trong Chúa”. Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong Thánh kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và thân mật:
“Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 6,7).- “Người yêu tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- “Các con hãy ở trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56 – 15,4).
3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.
Giới từ được dịch ở đây là “nhờ Chúa Cha” có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là chỉ “địa”, có nghĩa là “qua”, “vì”, “nhờ”. Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1). Một lời huyền nhiệm mới:
Chúa nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất “diễn từ bánh trường sinh”; theo thánh Gioan, Chúa nói những lời này ở hội đường Capharnaum, tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều. Lúc ấy, Đức Giêsu tự giới thiệu Ngài là “Bánh từ trời xuống”, cao trọng vô cùng so với manna của cuộc Vượt Qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối nơi người Do thái: “Người này không phải là Giêsu, con của ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết rõ, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống”. Trước sự chống đối này, Đức Giêsu cho họ biết một mạc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. “
Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sụ chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc âm chúa nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”
Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là “bánh trường sinh” mà còn là “bánh trường sinh từ trời xuống”.
Động từ “ban” (“Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”) chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.
Bánh này đồng nhất với “thịt ” của Đức Giêsu. Từ này không chỉ bản chất của cơ thể con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng thích dùng từ này hơn từ ‘thân mình’ mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly? Cha X. Léon-dufour trả lời: “Có thể do từ “thịt” đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi Lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của Phúc Âm thánh Gioan (1,14: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt). Như vậy, ở đây, tác giả Phúc âm muốn giữ lại ý tưởng về mầu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống.” (Lecture de l’Evangile selon Jean’, tập 2, Seuil, tr. 160). Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).
Còn công thức: “Ban để cho thế gian được sống” nói rõ mục đích của việc Đức Giêsu dâng hiến mạng sống mình làm quà tặng. (Sách đã dẫn, tr.161)
*2) Một phản đối mới
Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống cho thế gian đã gây ra một phản đối mới: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết: ” Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống. “Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và bảo đảm cho Ngài chiến thắng?” LM. Chauvet cảnh báo: “Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi: vì như vậy, Thiên Chúa có lẽ sẽ không còn là Thiên Chúa nữa”. (“Symbole ét sacrement”, Cerf, tr.229-230).
Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho “diễn từ về bánh trường sinh”, chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được gọi là sự ‘biến đổi bản thể’. Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. Như thế, chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 (Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ người sai đi phải chết?” (LM. Chauvet, Sđd, tr.230).
*3) Mạc khải mới của Đức Giêsu về chính mình:
Thay vì hạ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.”
Không chỉ có vấn đề “thịt “, mà còn phải “ăn” (nghĩa đen là nhai, như chúng ta “nhai” bữa ăn phục sinh; chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này); và phải uống máu Ngài. Để “ở” với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.
Khi đọc bản vằn này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu không thể không nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể quốc tế tại Lộ đức viết rằng: “Khi ăn Mình mầu nhiệm Chúa, các Kitô hữu nghiền ngẫm” (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng Thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Ga 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người” (Jésus Christ, painrompu our un monde nouveau, Centurion, 1980, tr. 64)
BÀI ĐỌC THÊM
*1) “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh” (A. Marchadour, trong “Les dossiers de la Bible”, số 41, 1992, tr.13-14):
Khi giảng dạy tại Capharnaum. Đức Giêsu không thể tuyên bố trực tiếp về Thánh Thể vì trước bữa tiệc ly, cũng như trước khi Ngài chết và sống lại, điều đó còn rất khó hiểu. Trước hết, thành ngữ “Bánh trường sinh” là cách để chỉ Đức Giêsu là Đấng mạc khải từ trời đến, và lời Ngài là của ăn và của uống giống như sự khôn ngoan của Thiên Chúa được trình bày cụ thể bằng bánh và rượu (Hãy đến, hãy ăn bánh và hãy uống rượu ta đã dọn cho các ngươi, Prov. 9,5). Toàn bộ diễn từ nhằm gợi lên niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng mạc khải; ngoài ra, việc cử hành bí tích Thánh Thể cũng được biểu lộ rõ ràng trong những kiểu nói: “An, uống, có sự sống”. Hơn nữa, phần cuối (câu 51-58) của diễn từ còn trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta hãy xem xét phần này.
Quả thật, từ câu 51, Đức Giêsu nói đến cái chết của Ngài như nguồn mạch sự sống: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”. Từ thịt làm chúng ta nghĩ đến Lời Tựa: “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14). Ở đây, rõ ràng, mầu nhiệm nhập thể được diễn tả ở điểm chót là cái chết của Đức Giêsu. Ngôi Lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh. Có sự liên tục giữa nhập thể, cái chết trên thập giá và Thánh Thể. Ngày nay, Đức Giêsu vắng mặt về thể xác, nhưng điều Ngài mạc khải còn đó và Thánh Thể vẫn và điểm hẹn để con người có thể gặp gỡ hoặc từ chối Người như những người đương thời với Đức Giêsu vậy: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (6,60).
Trong các câu 53-56, thay vì động từ “ăn”, Gioan dùng một động từ có nghĩa mạnh hơn: “nhai”, “nhai rau ráu”. Điều này có thể nhằm nhấn mạnh đến thực tại của Thánh Thể vì có một số Kitô hữu theo thuyết ngộ đạo bác bỏ sự trung gian của vật chất trong việc kết hợp với Đức Giêsu qua các bí tích, và không nhận Ngài cũng là người như chúng ta: đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Tuy nhiên, sử dụng vật chất làm trung gian trong các bí tích không có nghĩa là chúng ta sử dụng ma thuật: Chính Thần Khí mới làm cho sống, còn xác thịt chẳng ích chi (6,63). Thánh Thể, xác và máu, thông truyền cho tín hữu hai quà tặng mà những người thời Đức Giêsu tìm kiếm: đời sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ và sự luôn “ở” với Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, Kitô hữu nào thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin thì ở trong Ngài và được sự sống đời đời.
*2) “Hai bàn tiệc”
“Thánh lễ gồm hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể; cả hai liên kết chặt chẽ để làm nên một hành động phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Thân Thể Chúa nhờ đó các tín hữu được giáo huấn và được bồi dưỡng” (PGMPL 8) Bản văn này sáng sủa rõ ràng nên không cần phải giải thích thêm. Nó nói đến tính cách đặc biệt của mỗi phần trong thánh lễ: có hai bàn tiệc nên có hai của ăn, nhưng cũng nói đến sự duy nhất làm cho hai bàn nên một hành động phượng tự duy nhất. Chúng ta đi từ Lời đến Thánh Thể, hay, dựa trên câu nổi tiếng của Phúc Âm thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14), để nói rằng chúng ta không thể đi tới xác thịt (thân thể) mà không qua Ngôi Lời (lời), và cả hai đều chỉ là duy nhất một Chúa có nghĩa là để gặp Chúa, đến với Chúa, phải nhờ Lời của Người.
Chúng ta cũng biết rằng từ thế kỷ XVI, anh em Tin Lành nhấn mạnh hơn đến tầm quan trọng của bàn tiệc thứ nhất và người công giáo chú trọng đến bàn tiệc thứ hai, nhưng từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ có được sự cân đối hài hòa giữa hai bàn tiệc này. Đàng khác, Công đồng không canh tân mà chỉ trở về nguồn là nền thần học của các Giáo phụ nổi tiếng như Origênê, Ambrôsiô, Hiêrônimô, Gioan Kim Khẩu và Xê-da thành Ac”.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
DIỄN TỪ VỀ HẰNG SỐNG (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm B chứa đựng đề tài khôn ngoan, đề tài này ngự trị trong Bài Đọc I và Bài Đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa đối với sự khôn ngoan của phàm nhân.
Cn 9: 1-6
Trong Bài Đọc I trích từ sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan loan báo bàn tiệc Thiên Sai.
Ep 5: 15-20
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Ki-tô giáo.
Ga 6: 51-58
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, trong đó bằng những ngôn từ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: thịt và máu của Ngài. Đây là thần lương mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân trong sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Ngài, nhưng được cho là điên rồ dưới con mắt phàm nhân.
BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)
Sách Châm Ngôn là một trong những sách minh triết Cựu Ước, cũng được gọi là các sách Huấn Giáo (những lời khuyên bảo của các tiền nhân). Trường phái văn chương này xuất xứ từ nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.
Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả thường nghiệm được tích lũy qua bao nhiêu đời, nó diễn tả bằng những câu châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta thấy trào lưu này khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.
Về nguồn gốc bác học, sự khôn ngoan là những suy tư sâu sắc về cuộc sống của các bậc hiền triết, thậm chí của vua chúa nữa, như ở Ít-ra-en vua Sa-lô-môn là một bằng chứng điển hình: nhiều câu châm ngôn được gán cho vị vua này được cho là khôn ngoan bậc nhất (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua Sa-lô-môn). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương này.
1/.Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn:
Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn này. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn đó là, ở giữa những câu châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn đề tặng Đức Khôn Ngoan. Ở đây, Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một Bà Chúa hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa này mang tính chất thi ca. Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân với Thiên Chúa. Theo Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en, “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”. Trong Cựu Ước, sự Khôn Ngoan của Đức Chúa cũng như Thần Khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân với Thiên Chúa.
2/.Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi:
Trong đoạn văn được trích dẫn hôm nay, giáo huấn mà Đức Khôn Ngoan ban được sánh ví với một bàn tiệc khoản đãi cho tất cả nhưng ai muốn làm môn đệ của mình.
“Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột”: Điều này muốn nói rằng một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật; “bảy cây cột”: con số bảy là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân “hạ thú vật”, tự mình “chế rượu” và “dọn bàn”, nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.
Đức Khôn Ngoan “sai các nữ tỳ ra đi”. Câu này xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh, việc sai phái các tôi tớ của mình đi thi hành sứ vụ quan trọng là hành vi của Thiên Chúa. Truyền thống sẽ xem hành vi này thậm chí là hành vi của Đấng Thiên Sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh hành vi này được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Người sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.
3/.Lời mời được gởi đến hết mọi người:
“Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố” để lời mời gọi của mình được vang lên khắp hang cùng ngỏ hẽm ngõ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời này mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi. Ở bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su cất tiếng mời gọi: “Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.
Tuy nhiên, lời mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây thơ khờ dại”. Đó là những người khao khát hiểu biết và muốn mỗi ngày được sống trong sự hiểu biết, chứ không phải là những bậc thông thái tự mãn, khép kín mình trong sự hiểu biết của riêng mình. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo rằng rồi sẽ đến ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)
Đoạn thư gởi tín hữu Ê-phê-xô được trích dẫn hôm nay thuộc chương 5, trong đó thánh Phao-lô trình bày cách sống mới mẻ mà người Ki-tô hữu đem lại. Những lời khuyên ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.
1/.Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình:
Đây cốt là lời kêu mời khái quát và có tính cách khuyên bảo. Cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki-tô giáo mà thánh Phao-lô chú ý mời gọi. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, sự khôn ngoan Hy-lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki-tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết của Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.
2/.Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại:
Chúng ta đừng quên rằng thánh Phao-lô viết thư này đang khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và bị quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau: “Anh em được dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là cơ hội thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki-tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội này”.
3/.Chớ say sưa rượu chè:
Thánh nhân đưa ra một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra trong những bữa ăn huynh đệ của cộng đồng Ki-tô hữu. Quả thật, thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp ngay sau khi thánh nhân mong ước rằng những buổi nhóm họp phải tập trung vào việc cầu nguyện. Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần Khí với việc rượu chè say sưa.
4/.Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh:
Chúng ta biết rằng những người Ki-tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập quán hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện… Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy. Nhưng các cộng đồng Ki-tô hữu đã sáng tác rất sớm các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và những lời ngợi khen chúc tụng Chúa tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Với đoạn trích Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn tất bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
1/.“Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”:
Đức Giê-su công bố một lời gây sửng sốt: “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố khó lọt tai này gây phản ứng ngay tức khắc từ phía người Do thái, vốn trước đây đã nghi ngờ, nay tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Này là Mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”, được thuật lại trong các sách Tin Mừng nhất lãm. Tuy nhiên, ở đây thánh Gioan không dùng từ “sô-ma” như các sách Tin Mừng nhất lãm, mà là từ “sarsh”. Từ “sarsh” này, theo tiếng A-ram cũng như Hy-ngữ, chỉ toàn bộ con người đang sống, trong khi từ “sô-ma” chỉ một thân xác đối lập với linh hồn theo thuyết nhị nguyên của người Hy-lạp. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng từ “thịt tôi” chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Với từ “thịt tôi”, thánh Gioan thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa “Nhập Thể” và “Thánh Thể” để có thể nói “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”.
2/.“Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”:
Đức Giê-su nhận ra thái độ kinh ngạc của thính giả. Ấy vậy, nếu như câu nói này chỉ là biểu tượng, chắc chắn Ngài sẽ đính chính, nhưng không, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”. Lời khẳng định này lại còn gây sửng sốt hơn nữa: Đức Giê-su không chỉ nói đến “thịt của Ngài”, nhưng còn “máu của Ngài” nữa. Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được, nhưng còn gây kỳ chướng hơn nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống. Trong các hy lễ, máu được hoàn toàn dâng tiến cho Thiên Chúa.
Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông dụng “thịt và máu” chỉ toàn thể con người, một phàm nhân, như Đức Giê-su nói với thánh Phê-rô sau khi thánh nhân tuyên xưng đức tin: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát cặp “thịt và máu” này theo văn mạch, chúng ta nhận ra rằng khi gợi lên máu sẽ đổ ra để chúng ta uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để chúng ta ăn, Đức Giê-su loan báo rằng bàn tiệc Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Sọ.
Ngoài ra để tránh việc hiểu lầm bàn tiệc Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng kiểu nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật có nguồn gốc thần linh đến trên mây trời trong sách Đa-ni-en. Như vậy, thịt và máu mà Ngài ban tặng để chúng ta ăn và uống ngõ hầu có sự sống đời đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước thính giả, mà là thịt và máu của Đấng đã chết, sống lại và nay đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chính vì thế thịt và máu mà Người ban tặng sẽ là nguồn sống đời đời cho nhân loại.
3/.“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”:
Toàn bộ phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa này được lập đi lập lại hầu như ở mỗi câu. Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha Hằng Sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài chuyển thông cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là một sự hiệp thông mật thiết đến mức không gì có thể sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ tròn đầy của Ngài với Chúa Cha: “Như Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”, và mời gọi các môn đệ đi vào trong mối hiệp thông tròn đầy này: “Anh em hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”. Thế nên, động từ “ở trong” là một trong những động từ thánh Gioan rất tâm đắc, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của Vương Quốc Thiên Chúa.
Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban, một lần nữa Ngài củng cố lời hứa ban sự sống phục sinh của Người. Như vậy, Đức Giê-su mạnh mẻ khẳng định ý nghĩa cuối cùng của “Bánh Hằng Sống”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật sự kiện Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, nhưng trong chương 6 này, thánh ký muốn chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm vĩ đại này, còn hơn cả các tác giả Tin Mừng nhất lãm có thể làm trong những bài trình thuật “Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể” của các ngài. (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
BÀN TIỆC CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Hai ý tưởng lớn của các bài đọc hôm nay là Bàn tiệc Mình Chúa và Bàn tiệc Khôn ngoan của Lời Chúa.
– Bài đọc I (Cn 9,1-6) : Đức Khôn Ngoan mời người ta đến dự tiệc
– Đáp ca (Tv 33) : Kêu mời học sự Khôn ngoan
– Tin Mừng (Ga 6,51-58) : Mình thánh Đức Kitô là lương thực
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đói khát nhiều thứ, và chỉ có Chúa mới thỏa mãn được tất cả cho chúng ta. Thánh lễ chính là một bữa tiệc. Trong Thánh lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa, chúng ta được ăn Mình Thánh Chúa.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng tham dự Bàn tiệc Chúa.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta chưa thực sự tin rằng Mình Thánh Chúa là lương thực rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta.
– Chúng ta chưa thiết tha học hỏi sự khôn ngoan trong Lời Chúa.
– Chúng ta không siêng năng dự tiệc Thánh Lễ.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Cn 9,1-6)
Cựu Ước rất quý chuộng sự Khôn ngoan, đến nỗi đã nhân hình hóa sự Khôn ngoan như một Mệnh phụ hào phóng dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự, tức là đế học hỏi sự khôn ngoan của mình.
Hình tượng về sự Khôn ngoan này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
2/. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này quảng diễn tiếp bài đọc I về sự khôn ngoan : khôn ngoan thật là biết kính sợ Chúa.
3/. Tin Mừng (Ga 6,51-58)
Tiếp tục bài giảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể : Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
– Ở cuối đoạn tuần trước, Đức Giêsu đã nói rõ : “Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta đây” (câu 51).
– Câu đó đã khiến những người do thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Đức Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
– Phần Đức Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào ? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Đức Giêsu dùng những động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ “ăn” nguyên gốc là Trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ trôgô này được lặp đi lặp lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống”.
– Như thế là Đức Giêsu nói tới bí tích Thánh thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
– Hiệu quả của việc rước lễ : “Ai ăn thịt Ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời… thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy“.
4/. Bài đọc II (Êp 5,15-20)
Đoạn thư này cũng trùng hợp với hai bài đọc Cựu Ước và Tin Mừng vì cũng đề cập đến sự khôn ngoan. Thánh Phaolô khuyên tín hữu đừng sống như kẻ khờ dại, mà hãy sống như người khôn ngoan. Theo ngài, khôn ngoan là
– biết tận dụng thời buổi hiện tại
– biết tìm hiểu đâu là thánh ý Chúa
IV/. GỢI Ý GIẢNG
Theo tạp chí Times, gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng : “Thất nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có một cái gì khác hơn việc làm”.
*
Trong cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc nhở : “Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại : “Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả quyết : “Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội” (Pv.7). Đức Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời Chúa : “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số 21 viết : “Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu”.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ có nói : “Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật”.
*
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi lời Chúa ; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài ; không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 2. Chỗ trong bàn tiệc
Một thương gia giàu có kia sống chung với con trai và con dâu mình. Người con trai rất thương người nghèo, hay làm việc thiện nguyện trong những tổ chức giúp đỡ người nghèo, và cũng thường bố thí cho người nghèo. Ít lâu sau vợ chồng người con trai sinh được đứa con đầu lòng. Ông thương gia rất mừng và định tổ chức một bữa tiệc mừng rất lớn.
Người con hỏi người cha : “Cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách thế nào ? Có phải là để những người giàu ngồi những bàn trên còn những người nghèo ngồi những bàn gần cửa không ?” Người Cha xác nhận đúng như thế. Người con mới xin : “Vì đây là bữa tiệc mừng đứa con của con, nên xin Cha hãy chìu ý con mà đảo ngược lại, nghĩa là hãy đề những người nghèo ngồi bàn trên và những người giàu ngồi bàn dưới”. Người Cha đáp : “Con ơi, khó mà thay đổi thế giới được. Này nhé con hãy suy nghĩ thử xem : Những người nghèo đến dự tiệc là để ăn, còn những người giàu đến đây không phải để ăn mà để được vinh dự. Vậy nếu ta xếp những người nghèo ở bàn trên thì họ phải cố gắng giữ tư thế cho đàng hoàng, không dám ăn uống tự nhiên, cho nên dù có ăn họ cũng ăn không ngon. Thà để họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ thoải mái hơn và muốn ăn uống thế nào và bao nhiêu tuỳ thích. Còn những người giàu đến đây thực ra không cần ăn, vì họ đã ăn uống đầy đủ ở nhà rồi. Xếp họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ buồn ; cho nên xếp họ ngồi bàn trên thì hợp ý họ hơn”.
Nghe người cha giải thích như vậy, người con thấy hợp lý và không nài nỉ nữa.
Câu chuyện trên không có ý dạy ta coi trọng người giàu và coi nhẹ người nghèo, nhưng muốn giúp ta so sánh với Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc. Nhưng bàn tiệc này khác với những bàn tiệc của loài người ở chỗ là mọi người đều được mời, bất kể họ giàu hay nghèo. Những chỗ ngồi trong bàn tiệc Thánh Thể cũng bình đẳng như nhau, không ai cao mà cũng không ai thấp. Tất cả chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể đều là những người nghèo về mặt thiêng liêng, cho nên đến đây tất cả chúng ta đều được ăn uống no nê. Chẳng những thế tất cả chúng ta còn được vinh dự vì được tham dự bàn tiệc của Thiên Chúa. Và hơn nữa những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia xẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. (Viết theo Flor McCarthy)
- Chuyện minh họa
Mẹ Têrêxa Calcutta có một quy luật là khi một thiếu nữ nào đến xin nhập Dòng thì ngay ngày hôm sau sẽ được gửi tới Nhà Lâm Chung (nơi chăm sóc những người sắp chết).
Một hôm, có một thiếu nữ đến xin nhập Dòng. Theo thông lệ, Mẹ Têrêxa gửi chị này đến Nhà Lâm Chung. Mẹ căn dặn : “Con đã thấy các Linh mục chạm đến Mình Thánh Chúa một cách cung kính và trìu mến thế nào. Bây giờ con hãy đến Nhà Lâm Chung và cũng hãy làm như thế, bởi vì Đức Giêsu trong Mình Thánh Chúa cũng là một với Đức Giêsu đang ở trong những người khốn khổ ấy”.
Ba giờ sau, thiếu nữ trở về với một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Cô trình với Mẹ Têrêxa : “Thưa Mẹ, con đã được chạm đến Mình Thánh Chúa suốt 3 giờ đồng hồ”. “Sao ? Con đã làm gì ?” Mẹ Têrêxa hỏi. Cô đáp : “Khi con đến đấy thì người ta cũng vừa mang đến một ông bị rơi vào một cái cống và phải nằm trong đó một thời gian. Mình mẩy ông rất dơ bẩn và rất nhiều thương tích. Con đã rửa cho ông và lau các vết thương của ông. Đang lúc con làm thế, con biết là con đang chạm chính Mình Thánh Đức Kitô”.
* 4. Lương thực thần linh
“Có thực mới vực được đạo.” Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là Têrêxa Niu Man, là người đã trải qua 36 năm trời không ăn uống gì mà vẫn sống và giữ đạo sốt sắng. Têrêxa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của nước Đức. Người dân trong làng Cổ Môn Trường gồm gần 1,000 người, hầu hết sống bằng nghề nông. Gia đình của Têrêxa rất nghèo như phần đông các gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêxa 14 tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những điền chủ ở các làng lân cận để có tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc nặng nhọc nhưng Têrêxa không ngại vì bản tính vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc súc vật. Giống như mấy em gái của nàng, Têrêxa cũng có những chàng trai để ý ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước riêng. Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều lần liên lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển Đức. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng truyền giáo khác cho Têrêxa.
Ngày 13 tháng 11, 1925, Têrêxa bị đau ruột dư dữ dội, cơn sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm sóc cho nàng đề nghị một cuộc giải phẫu tức khắc tại một bệnh viện gần đó. Mẹ nàng khóc hết nước mắt. Cha sở Ngô Biên (Nobert) có mặt. Têrêxa xin cha Biên đặt thánh tích của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên chỗ đau và chính nàng cầu xin : “Lạy thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều lần rồi. Con không xin Ngài vì con nhưng vì mẹ con.”
Đáp lại thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã cho nàng lập tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt. Nhưng trước đó thánh nhân đã nói cho Têrêxa Niu Man biết rằng : Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau khổ của con làm ta rất hài lòng. Để mọi người nhận thức đây là một biến cố phi thường, con sẽ không cần phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau tạ ơn Chúa. Con sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ điều gì, cả những đau khổ trong nội tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Quả thật, không đầy bốn tháng sau, Têrêxa cảm thấy mệt mỏi phải nằm giường cả hơn tháng trời cho tới lễ Phục Sinh. Đêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi nằm nghỉ trên giường, nàng chợt thấy trong một thị kiến, Đức Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô biên đối với Đấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Đức Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng. Nàng cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh lại, Têrêxa thấy ở cạnh sườn bên trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương lại để mọi người không thấy và nói với em gái ở chung phòng với nàng là nàng bị phỏng.
Một tuần lễ sau cũng vào giờ đó Têrêxa lại thấy Đức Giêsu trong vườn cây dầu, và sau đó cảnh Ngài bị đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa, nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Têrêxa thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi tỉnh lại nàng thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của nàng, không cách chi che giấu được. Khi mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như thế, Têrêxa trả lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Têrêxa được mục kích trọn đường thánh giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha sở Ngô Biên được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong nhật ký của cha : ” Têrêxa nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt nàng đầy máu và hai giọt máu chảy xuống má nàng. Gương mặt nàng nhợt nhạt như một người chết. Đến 3 giờ chiều, giờ chết của Đấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu những cơn đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, nàng trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Têrêxa sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Têrêxa được thấy Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy khoẻ khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Ban đầu gia đình Têrêxa nghi ngờ về những dấu lạ này nên cố gắng chữa trị cho Têrêxa. Nhưng càng chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những vết thương ấy càng lở loét và gây thêm đau nhức. Têrêxa lấy làm lạ về hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên chữa trị những vết thương đó. Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm đó, giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và thứ sáu, trong khi Têrêxa nhận được thị kiến về Đức Giêsu chịu đội mão gai, người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu. Khi cất khăn đi người ta thấy đầu nàng ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên đầu nàng. Những vết ấy sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng Sinh 1926, Têrêxa kinh nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng ngày sau khi rước lễ nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36 năm liền, Têrêxa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn duy nhất của nàng. Cha Ngô Biên, người đã cho Têrêxa rước lễ mỗi ngày cho đến khi nàng chết, đã ghi trong nhật ký của ngài rằng Têrêxa thường nói với mọi người là nàng sống nhờ vào Đấng Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêxa thực đã ứng nghiệm lời tuyên bố của Đức Giêsu khi nói : “Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là của uống.”
Câu chuyện vừa kể minh họa lời Đức Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56). Câu chuyện cho thấy Chúa ở lại một cách lạ lùng : (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền năng của Người nơi một giáo dân chỉ cần chịu lễ mà thôi… không cần ăn uống gì khác trong suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh khỏe ! (2) Chúa còn ở lại và cho người ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là : “Con đừng sợ đau khổ, kể cả đau khổ nội tâm. Chỉ có cách đó, con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, phải luôn sống trong sạch và đơn sơ như hiện nay” – mục tiêu ấy được tiết lộ qua trung gian thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong một thị kiến.
Nhân vật trong câu chuyện có thực, vì ta biết rõ lý lịch. Sự kiện mà người đó chịu lễ và không ăn uống gì khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về năm dấu thánh nơi thân xác người đó với những đau đớn người đó phải chịu các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó đã được kiểm chứng đầy đủ do các bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo phận Ratisbon của Đức Quốc. Đồng thời, vụ án phong chân phước cho bà Têrêxa Niu Man đang được xúc tiến.
Chẳng ai buộc người Kitô phải tin vào ơn mạc khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén nhạy đối với những việc Chúa làm nơi thọ tạo. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nói : “Tôi là bánh từ Trời xuống, bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt và máu Tôi. Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho các giáo sĩ, tu sĩ các giáo dân trong Hội thánh / biết sốt sắng tham dự thánh lễ và siêng năng Rửa tội / để luôn sống hiệp thông với Đức Giêsu và với nhau.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các dân tộc / được ơn khôn ngoan sáng suốt để chọn đường lối tốt đẹp nhất mà phục vụ cho đồng bào mình.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa biết Đức Giêsu Kitô / được sớm nhận ra Người chính là Đường, là sự Thật và là Sự Sống của mọi người.
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / ngày càng hiểu biết hơn tầm quan trọng của bí tích thánh thể trong cuộc sống hằng ngày của mỗi Kitô hữu.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu biết rằng, chỉ nhờ sức sống của Chúa ban cho trong bí tích Thánh Thể, chúng con mới có thể sống yêu thương và phục vụ tốt cho gia đình và xã hội. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng : “Đây là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”
VII/. GIẢI TÁN
Chúng ta tạ ơn Chúa đã cho chúng ta tham dự Thánh lễ này, vì nhờ đó chúng ta được nghe những Lời khôn ngoan của Chúa và được rước lấy Mình Thánh Ngài. Ước gì Lời Chúa và Mình Chúa giúp chúng ta sống thật tốt suốt tuần này.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN -B
CHÚA KI-TÔ, LƯƠNG THỰC NUÔI SỐNG (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1/. Từ câu 51, chúng ta có thể suy diễn được gì từ quan niệm của Chúa Giêsu về sự sống và sự chết?
2/. Nơi câu 53-55, Chúa Giêsu có hé cho thấy là những lời của Người phải được giải thích theo một nghĩa biểu tượng không?
GIẢI THÍCH
*1) “Chính Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống? Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (c.51). Chúa Giêsu là “bánh sự sống” nghĩa là ban sự sống thần linh (c.48), vì Người là “bánh hằng sống” (c.51), là Đấng có sự sống thần linh trong mình, hay nói đúng hơn, Người chính là sự sống. Những lời quả quyết của Chúa Giêsu càng lúc càng rõ rệt và táo bạo.
“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” một sự sống đích thực, sung mãn. Chỉ có thể quán triệt được lời quả quyết trên đây của Chúa Kitô nếu chúng ta đặt mình trên quan điểm đức tin, một đức tin cao sâu và liều lĩnh, đức tin mà trước đây Chúa Giêsu đã nhấn nạnh đến tầm quan trọng quá sức. Đức tin này làm cho ta thấy được “sự sống” (và sự chết) một cách hoàn toàn khác hẳn quan niệm thông thường của ta. Vì xét cho cùng, cái mà chúng ta thường gọi là “sự sống” trong lãnh vực tự nhiên, đáng được gọi là “chết” hơn là “sống”. Trong Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Kitô, Đấng chính là sự sống. Điều chỉnh quan niệm của ta bằng cách nói cho ta hay Thiên Chúa nghĩ gì về sự sống. Khi Chúa Kitô của Gioan nói về sự sống cụt lủn, là Người cố ý nói về sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã thông ban cho tổ tông nhân loại và sau lúc Ađam sa ngã thì Chúa Kitô đã đến trả lại cho ta. Từ khởi nguyên, Thiên Chúa đã chỉ muốn ban sự sống siêu nhiên ấy cho con cái Ngài; Ngài đã chẳng muốn tạo dựng một sự sống thuần túy tự nhiên không có sự sống siêu nhiên. Nhìn sự vật với con mắt của Thiên Chúa, thì sự sống thuần túy tự nhiên thiếu mất cái đặc tính riêng của sự sống, thành thử nó không có quyền được gọi là “sự sống” theo nghĩa đen và sâu xa.
Cũng thế, cái chết thể lý chỉ đáng gọi là “chết” khi nó, xét như là hình phạt của tội lỗi, làm nên khởi điểm của sự chết đời đời. Nơi đâu mà cái chết thân xác không còn có đặc tính trên, nghĩa là nơi những con người đã được cứu chuộc đang mang sự sống đích thực trong Chúa Kitô, thì chúng ta không thể gọi như thế được.
Vì vậy, khi Chúa Giêsu tự xưng là “bánh hằng sống”, và khi bảo bánh ấy ban sự sống cho ai ăn nó vào, là Người nói về “sự sống” theo nghĩa đầy đủ nhất, sự sống thần linh mà cái chết thân xác sẽ không thể nào hủy diệt được. “Lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi” (Kinh Tiền Tụng lễ An táng) .
Đối với chúng ta, sự sống thể lý mà chúng ta có kinh nghiệm nhiều hơn, chiếm chỗ quan trọng nhất; sự sống siêu nhiên xem ra thường ít quan trọng và mơ hồ. Phải sửa sai quan niệm chúng ta lại theo quan niệm Chúa Kitô. Khi Chúa Kitô dựng trước một kẻ nào chỉ chết cách thể lý, như trước đứa con gái Giairô hay trước mồ Ladarô, thì người gọi cái chết là một giấc ngủ (Mt 9,24; Ga 11,11); thánh Phaolô cũng vậy (1Cr 7,39; 11,30; 15,6.18.20.51…). Từ đó, danh từ đạo gọi chỗ chôn người chết là “cimetière”: koimotôrion, coemeterium, dortoir: Phòng ngủ. Trong các hang toại đạo, người ta thường thấy hàng chữ khắc sau đây: “Vivas in Deo: hãy sống trong Thiên Chúa”. Ngang phần lễ qui thánh lễ, linh mục cầu nguyện cho tất cả những ai “đang ngủ giấc bình an”. Sau hết, tinh thần duy thực siêu nhiên của Giáo hội còn biểu lộ ra qua việc Giáo Hội gọi ngày qua đời của các thánh là diosnatalis: “ngày sinh ra” trong sự sống đích thực và sung mãn.
*2) “Vậy Chúa Giêsu nói với họ: Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ chẳng có sự sống nơi mình các ngươi” (c.53). Không tìm cách làm dịu kiểu nói, không dùng lối phát biểu ám dụ, Chúa Giêsu tiếp tục quả quyết một cách long trọng và mạnh hơn, trước tiên dưới hình thức tiêu cực (c 53), sau đó dưới hình thức tích cực (c.54). Vẫn biết Chúa Kitô, nhất là Chúa Kitô của Gioan, thường hay dùng những lời bóng bẩy; Nhưng nơi đây, Người đang ở trong những hoàn cảnh đặc biệt đến nỗi không thể để cho thính giả của Người (và độc giả của Tin mừng thứ 4) phải bị lầm về ý nghĩa đích thực của các lời Người nói. Thay vì loại bỏ một sự mập mờ. Nguyên nhân gây công phẫn, người còn thêu dệt thêm điều vừa phán bằng cách dùng động từ trôgô: nhai, nghiền nát với răng (còn mạnh hơn dộng từ esthiô dùng trong các câu trước) và bằng cách đề cập đến máu phải uống nữa: chi tiết này chắc hẳn đã làm cho người Do thái chói tai lắm, vì lề luật cấm uống máu loài vật: “Bất cứ ai thuộc nhà Israel hoặc ngụ cư giữa các ngươi mà ăn huyết bất kỳ thứ nào, thì Ta sẽ quay lại chống kẻ đã ăn huyết ấy, và Ta sẽ khai trừ nó khỏi dân nó” (Lv17,10). Một trong những điều khoản mà thánh Giacôbê cho ghi vào sắc lệnh của cộng đồng Giêrusalem (Cv 15,20) là yêu cầu của các người ngoại giáo trở lại không được dâng “thịt ngọi và máu huyết”.
Vì lời có vẻ tuyệt đối nên Giáo hội Hy lạp đã kết luận rằng phải cho trẻ em đã chịu phép rửa được rước Mình Thánh Chúa trước lúc đến tuổi khôn. Còn Giáo Hội Latinh đòi đến tuổi khôn, vì để lãnh nhận Mình Thánh Chúa, phải có lòng kính trọng và tôn sùng; mà muốn thế, phải phần nào hiểu biết của ăn thiêng liêng ấy đã.
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết” (c.54). Điều đã nói một cách tiêu cực nơi c.53, bây giờ được lặp lại một cách tích cực, và còn rõ ràng hơn nữa: để chân đứng mọi lối thoát muốn giải thích theo nghĩa tượng trưng, Chúa Giêsu dùng động từ trôgô: nhai một lần nữa; động từ này không bao hàm một nghĩa xấu, song cốt nói lên tính cách tả thực.
Chúa Giêsu gán cho việc ăn thân xác Thánh Thể Người cùng những hiệu quả mà Người đã chỉ định cho đức tin vào Người (6,40): sự sống đời đời được chiếm hữu ngay lúc này đây và sự tôn vinh thân xác sau này; nói thế, Chúa Giêsu muốn ngụ ý ai từ chối ăn Người trong bí tích Thánh Thể, kẻ đó không có đức tin đích thực. Với nhà thần học trung cổ Rupert de Deutz, ta co thể thiết lập sự song đối lý thú sau đây: tổ tông chúng ta đã đánh mất sự sống siêu nhiên vì đã phạm tội, trước hết một cách vô hình qua việc nghi ngờ không tin và sau đó bằng cách ăn trái cấm hữu hình; tội nghịch cùng đức tin đã mở màn cho việc mất sự sống, và tôi ăn trái cấm đã hoàn tất việc đánh mất sự sống . Cũng vậy, để phục hồi sự sống thần linh ấy trước hết chúng ta phải tin vào Chúa Kitô, và đức tin này không thấy được, rồi tiếp đến phải ăn lương thực hữu hình là Người, như thế chúng ta mới hoàn tất việc công chính hóa của chúng ta.
“Vì thịt Ta là của ăn thật, và máu Ta là của uống thật” (c. 55). Một lần nữa, Chúa Giêsu rõ ràng muốn loại bỏ một cách giải thích ám dụ về diều Người đã phán về việc ăn mình Người: đừng tưởng rằng Ta nói một cách bóng gió: Thịt Ta là của ăn thật và máu Ta là của uống thật. Một lần nữa, Rupert de Deutz đối chiếu cách gọi “của ăn thật” này với của ăn giả trá mà tên cám dỗ dã dâng cho tổ tông chúng ta: “Tên điêu ngoa và cha sự láo khoét” (Ga 8,44) đã giới thiệu cho Eva trái cấm và hứa với bà điều mà thức ăn đó không thể ban được, trái lại Chúa Kitô, quả phúc của lòng Maria và là chính chân lý ban cho ta của ăn đích thật, lương thực thông ban sự sống trường sinh. “Ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa” (St 3,5): con rắn đã bảo vậy. Ai ăn Chúa Kitô, sẽ có trong mình thần tính, sẽ trở nên “Thiên Chúa” nhờ sự tham dự, thông phần” (Pl 169,485CD)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các người Do thái xô xát tranh luận với nhau”: Việc mặc khải Chúa Giêsu tiến triển chừng nào, thì sự chống đối lớn dần chừng ấy. Các người kêu ca lẩm bẩm mới đây giờ biến thành cuộc tranh luận sôi nổi. Một số người có lẽ hiểu xác quyết sau cùng của Chúa Giêsu theo nghĩa ẩn dụ ít nhiều, vì kể ra việc ăn và uống cũng có thể áp dụng đối việc nghiên cứu lề luật (Strack- Billerbeck, t.II, tr.485). Song những kẻ khác, căn cứ vào giọng nói của Chúa Giêsu, cách thế Người phát biểu và những chữ Người chọn, thấy rằng tất cả phải hiểu theo nghĩa đen; cho nên họ phê phán lời Người là phi lý.
“Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người”. Đối với một số đông các nhà chú giải, động từ này làm nên một chứng cớ quyết định bênh vực cho việc đồng hóa Chúa Giêsu với Con Người. Trong những đoạn khác, khi Chúa Giêsu nói về Con Người, thì không luôn luôn rõ ràng là Người nói về bản thân. Nhưng ở đây, không thể nghi ngờ gì được.
“Lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy”. Cụ thể mà nói, hình dung trước tiên sự hiện diện của Chúa Giêsu trong kẻ đón nhận Người thì tự nhiên hơn. Song cách nói “lưu lại trong Ta và Ta trong nó” (x.14,10-20; 15,4-5; 1Ga 3,24; 4,15-16) chỉ một sự kết hiệp vừa thân mật vừa tương hỗ. Đó chính là hiệu quả riêng của Bí tích. Người rước lễ ở lại trong sự sung mãn của Chúa Kitô, đón nhận sự sống Người tuôn chảy vào họ. Và về phần Người, Chúa Kitô ở lại trong kẻ rước lễ như một người bạn thân tình và được yêu mến.
KẾT LUẬN
Thánh Thể là bữa ăn của Thiên Chúa. Bàn thờ dâng hy lễ cũng chính là bàn ăn nơi đó thịt và máu Chúa Kitô được trao ban như của ăn và thức uống cho các người dự tiệc.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
1/. Trong bản văn hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không nói là “thân thể” Người như trong những lời thiết lập Bí tích ở nhà Tiệc ly, nhưng nói “thịt” của Người”. Và vì thế, diễn từ này của thánh Gioan cũng đưa ta về một câu trong Bài tựa của Tin Mừng ông, câu bảo rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã hóa thành “nhục thể” (xác thịt). Nói “thịt”, trước tiên Gioan muốn quả quyết những gì Kinh Thánh luôn luôn hiểu qua danh từ đó. Trong cách nói của người Sêmita, tiếng “xác thịt” luôn luôn chỉ con người toàn diện, chứ không phải một phần con người hay chỉ cái mà ngày nay – hầu như theo một nghĩa y học chúng ta gọi là thân xác để đối lại với linh hồn thiêng liêng. Thịt và máu có nghĩa là cả con người, đúng hơn là con người cụ thể, đang chiếm một chỗ trong khung cảnh sống của trái đất này, con người mà ta có thể sờ mó và biết có giá trị ra sao đối với ta. Vì thế khi Gioan tuyên bố: “Ngôi lời đã hóa thành xác thịt” là ông muốn nói: Ngôi Lời thật sự ở nơi chúng ta đang ở, Người ở giữa chúng ta, Người chia sẻ sự sống chúng ta, Người chia sẻ thời gian và không gian của chúng ta, Người chia sẻ cuộc hiện hữu của chúng ta: chúng ta có thể và phải tìm Thiên Chúa vĩnh cửu ở đây, trong trần gian này. Nếu điều đó đúng với Chúa Kitô lịch sử, thì cũng đúng với Chúa Giêsu Thánh Thể. Vì trong Thánh Thể, Người hiến thân cho chúng ta hoàn toàn, thực sự, dù dưới một phương thức hiện diện khác với phương thức hiện diện ở Palestin. Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã sống lại vinh hiển và biến hình vinh quang. Và vì Người mang trong mình sự sống muôn đời, nên Người cũng có thể làm cho chúng ta được hằng sống.
2/. Nếu chúng ta thường mang tâm trạng, hầu như nặng nề, là mình quá xa Chúa, là tâm hồn mình quá trống vắng Thiên Chúa, nếu chúng ta tưởng rằng mình không thể tìm Ngài với những ý nghĩ và tâm tình của con tim, nếu chúng ta có cảm tưởng mình ở đây, trong lúc Thiên Chúa đích thực, ánh sáng bất khả đạt thấu, thật quá xa vời, thì ít nữa chúng ta hãy ao ước tiếp nhận thân xác của Chúa. Dĩ nhiên, nếu không tiếp nhận với đức tin và lòng mến, thì Thịt và máu Người sẽ chẳng có ích lợi gì, chỉ đem lại án phạt. Nhưng nếu chúng ta, vốn là những kẻ khó nghèo và đói khát, hành khất và què quặt, mù lòa và đau yếu, là những kẻ được mời gọi từ khắp mọi lối của trần gian và mọi chuồng, nếu chúng ta biết tiến lại với ý thức rõ ràng về thân phận nghèo đói, khốn khổ và lang thang của chúng ta, biết bước lại với lòng tin tưởng mà nói: “Chúng con ao ước được ăn Mình Chúa ít nữa là một lần thì lúc đó Thiên Chúa sẽ làm những gì còn lại. Lúc đó Ngài sẽ đổ xuống trên chúng ta ân sủng với sức mạnh, ánh sáng và sự sống của Ngài, ngay chính khi chúng ta tưởng mình còn là hư không và tối tăm, còn là những kẻ đã chết và tội lỗi khốn nạn. “Hãy nhận lãnh mà ăn, này là Mình Ta”. Và Chúa còn nói: “Ai ăn thịt Ta thì sống đời đời”. Người đã đến với chúng ta trong xác thịt chúng ta và chính thịt này Người ban cho chúng ta, vì chúng ta không biết làm sao để đến với Người. Vì thế, chúng ta ta có thể luôn tin tưởng vào người, dù chúng ta có cảm thấy gì đi nữa cũng không sao, và có thể đến gần bàn tiệc sự sống vĩnh cửu vì Người ở nơi chúng ta ở, và bởi thế chúng ta không nên sợ người xa chúng ta vì Người cho chúng ta Mình và Máu Người cùng sự sống vĩnh cửu.
3/. Ăn thịt Chúa Kitô hay ăn Chúa Kitô trong Thánh Thể và phương thế duy nhất giúp ta tránh được lâu dài bệnh thiếu máu thiêng liêng và cái chết. Ăn Chúa Kitô là sống bằng Chúa Kitô. Việc rước lễ đều đặn tự nhiên đặt chúng ta. Ngay từ bây giờ và một cách vững chắc, vào giai đoạn đầu của sự sống vĩnh cửu; giai đoạn này được gọi là ân sủng và sẽ triển nở về sau trong vinh quang của thị kiến hồng phúc, rồi trong sự sống lại của thân xác vinh hiển vào ngày cánh chung.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
THỊT TA LÀ CỦA ĂN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu:. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
THÁNH THỂ LÀ MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA NHẬP THỂ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Liên tiếp những Chúa nhật vừa qua, các bài Tin mừng nói nhiều về Bánh hằng sống từ trời là chính Chúa Giêsu, và ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Sự sống đời đời, cũng chính là sự sống thần linh, là mục tiêu mà Chúa Giêsu mời gọi và nhắc nhở, thúc đẩy nhiều. Một mạc khải quan trọng mà những người do thái không thể chấp nhận vì họ không muốn tin vào Chúa Giêsu, ngay cả các môn đệ cũng không thể chấp nhận, và nhiều người trong nhóm các môn đệ đã bỏ người. Mọi chuyện đã diễn ra càng lúc càng xấu đi, và Chúa Giêsu cũng đành phải nhìn nhiều người đã bỏ người ra đi, ngay cả một số đông trong các môn đệ. Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu thì luôn muốn thôi thúc vì nghĩ đến người mình yêu. Tình yêu thúc đẩy Thiên Chúa mời gọi, nhắc nhở thúc đẩy con người đón nhận sự sống đời đời để hợp nhất họ vào sự sống thần linh. Ngay từ sách Châm ngôn của Cựu ước, chúng ta đã nghe vang vọng những lời mời gọi của khôn ngoan thúc đẩy mọi người đến tham dự bàn tiệc để ăn bánh và uống rượu đã được dọn sẵn và học sống theo đường lối khôn ngoan để được sống. Cựu ước đã có những mạc khải về Khôn ngoan như một chủ vị thần linh mời gọi thôi thúc mọi người: “Khôn ngoan đã xây nhà và dựng bảy cột, đã sai các nữ tỳ của mình lên nơi cao để công bố: các ngươi hãy đến cùng ta, hãy ăn bánh và uống rượu ta đã pha sẵn”. Khôn ngoan mời gọi mọi người đến với mình, và tham dự vào bàn tiệc của Khôn ngoan để thưởng thức bánh và rượu và học sống theo đường lối khôn ngoan để được sống.
Khi Chúa Giêsu thực hiện phép lạ hóa bánh, Phúc âm Gioan đã nhìn phép lạ này như là dấu chỉ Chúa Giêsu đã muốn biểu lộ chính người. Như khi hai người yêu nhau, người ta tập trung mọi tâm tình về người yêu của mình và làm những dấu chỉ cho nhau để thông đạt tình yêu và hạnh phúc và rất dễ dàng và tự nhiên, họ hiểu ý nghĩa của những dấu chỉ trao đổi cho nhau, đó luôn là lời nhắn của tình yêu trao đổi cho nhau để hiệp thông vào hạnh phúc và sự sống. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh, người cũng làm phép lạ này với tất cả tình yêu của mình và mong muốn những người do thái nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tình yêu và sự sống của phép lạ của mình. Phép lạ không chỉ dừng lại ở vật chất cụ thể, mà qua đó hướng đến một ý nghĩa lớn hơn. Đối với người do thái, Manna, bánh và nước trong sa mạc trên hành trình về đất hứa là những dấu chỉ nền tảng của cuộc Xuất hành mà họ không thể quên. Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều là dấu chỉ rõ rệt để nhắc nhở họ người là vị Môisen mới thực hiện một cuộc xuất hành mới và quyết định vì đây là lương thực từ trời ban tặng sự sống thần linh vĩnh cửu. Thế nhưng, những người do thái chỉ dừng lại ở việc ăn bánh no, họ không thấy được ý nghĩa Bánh ban sự sống đời đời mà Chúa Giêsu muốn hướng đến. Họ không ở trong vận hành của tình yêu của Thiên Chúa, nên không rung cảm được những gì mà Chúa Giêsu muốn trao ban cho họ, ngay cả các môn đệ cũng bị vấp phạm vì mạc khải Bánh hằng sống của Chúa Giêsu. Trong bài Tin mừng, khi Chúa Giêsu mạc khải người là bánh từ trời xuống và ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời, người còn nhấn mạnh, bánh chính là thịt của người để cho thế gian được sống. Nhưng những người do thái đã xì xầm với nhau làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được. Và Chúa Giêsu càng khẳng định rõ hơn nữa về thịt và máu người là lương thực trao tặng sự sống cho mọi người: “Thật, ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt con người và không uống máu con người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống”. Để theo Đức Giêsu, cần phải ở trong tình yêu của người để có thể nhận ra ý nghĩa của sự trao tặng này, và cũng cần bỏ đi những quan niệm cũ của mình để dấn thân vào một đời sống mới, một sự sống mới và một tin tưởng mới. Những người do thái không thể chấp nhận được Chúa Giêsu từ trời mà đến, họ không thể chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người cũng như không thể chấp nhận mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Họ vốn có một quan niệm Thiên Chúa toàn năng cao cả, nhưng lại khó chấp nhận Thiên Chúa tự hạ để nhập thể làm người như Chúa Giêsu. Vì không có được quan niệm Thiên Chúa nhập thể nên họ không thể chấp nhận việc ăn và uống máu của Chúa Giêsu nên không thể hiểu rằng đây là phương thế để đón nhận đời sống thần linh.
Con người của Đức Giêsu là mầu nhiệm, người khẳng định mình là Bánh trường sinh bởi trời, và người có sự sống thần linh của Chúa Cha. Người là con một của Cha giờ đây nhập thể và mang lấy thân xác nhân loại, nên khi ai ăn thịt và uống máu này thì được tham dự vào đời sống thần linh của Chúa Cha. Mầu nhiệm sự sống thần linh của Thiên Chúa, được ban tặng cho con người nhờ Chúa Giêsu, người con Thiên Chúa nhập thể làm người là trọng tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu, và mỗi người luôn phải đối diện với mầu nhiệm này, mầu nhiệm của sự sống và sự chết. Mầu nhiệm chết và phục sinh cũng là mầu nhiệm Thánh Thể, được công bố trên hiến tế của bàn thờ, hiện tại hóa hiến tế đổ máu của thập giá xưa và được chia sẻ cho mọi người để được hiệp thông vào hiến tế cứu độ cũng là hiến lễ mà mọi người được mời gọi kết hợp bằng chính đời sống của mình với những hy sinh trong công việc hằng ngày. Vì thế lời mời gọi của Chúa Giêsu đón nhận thịt máu của người cũng là lời mời gọi tha thiết và thúc bách mọi người kết hợp với chính mầu nhiệm chết và sống lại của người. Thánh thể chính là hiến tế đổ máu của thập giá. Mỗi khi chúng ta đón nhận quà tặng thần linh này, chúng ta càng được kết hợp mật thiết vào hiến tế cũng là thân mình của người nhiều, nhờ đó chúng ta được biến đổi càng lúc càng hoàn hảo hơn. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Êphêsô, đã đưa ra những lời dạy thúc đẩy các tín hữu càng lúc càng phải lo sống hoàn thiện hơn. Các tín hữu là những người phải biết sống khôn ngoan và thận trong, họ không thể sống thiếu hiểu biết và dại dột như những người khác. Điều quan trọng hơn hết, là họ phải lo sống theo thánh ý Thiên Chúa chứ không được sống bê bối hay bất cẩn. Vì biết sống theo thánh ý Chúa, họ phải cẩn thận xa tránh rượu chè say sưa, vì say sưa rượu chè sẽ làm người ta mê tham dâm dục. Trái lại, người tín hữu khôn ngoan thận trọng sẽ sống theo Thánh Thần của Thiên Chúa, và họ sẽ thực hành cụ thể đời sống này bằng cách chuyên cần cầu nguyện, hát thánh ca và thánh vịnh với những bài ca đạo đức để ca tụng Thiên Chúa, và đời sống của họ không ngừng cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Thánh Thể cũng chính là hiến tế cứu độ, người tín hữu được mời gọi đón nhận Thánh thể là thông hiệp vào hiến tế của Chúa Giêsu qua những hy sinh trong đời sống hằng ngày. Họ được biến đổi lần hồi để thực sự tham dự vào chính Thân mình của Chúa Giêsu.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
BÍ TÍCH THÁNH THỂ– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.”(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN-B
ĐÓN NHẬN THÁNH THỂ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA- Lm. Đan Vinh HHTM
1/. TIN MỪNG : Ga 6, 51-58
(51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?” (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.
2/. Ý CHÍNH: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, tại hội đường thành Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đã giảng về Bánh Hằng Sống là bí tích Thánh Thể. Nội dung bài giảng được tóm lược như sau: Ai ăn Thịt và uống Máu Người, tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được tham phần vào sự sống thần linh của Người, và đến ngày tận thế sẽ được sống lại để hưởng hạnh phúc muôn đời với Người.
3/. CHÚ THÍCH :
– C 51 : + Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…: Đức Giê-su tự xưng là tấm Bánh với hai đặc tính thần linh là “hằng sống” và “từ trời xuống”. + Bánh Tôi sẽ ban tặng: Sẽ ban là chưa ban ngay lúc này, nhưng sẽ ban khi lập bí tích Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly sau này (x. Mt 26, 26-28). + Chính là Thịt Tôi đây : Thịt (Sarx) trong ngôn ngữ Hy Lạp ám chỉ con người toàn diện gồm cả xác lẫn hồn. Thịt ở đây cũng chính là Thịt (Sarx) trong câu: “Ngôi Lời đã hóa thành “nhục thể” – hay là “Thịt” (Sarx) hoặc “người phàm” (Sarx) – và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1, 14). Ở đây, “Bánh” được liên kết với “Thịt” và với “Sự Sống”, là hai đặc tính của bí tích Thánh Thể. + Cho thế gian được sống : Thịt của Đức Giê-su tức là bánh Thánh Thể, là lương thực thần linh, sẽ đem lại hiệu quả là ban sự sống cho người lãnh nhận.
– C 52-53 : + Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ? : Dân chúng Do Thái nghe Đức Giê-su giảng và đã hiểu đúng ý của Người. Đó là Người cho người ta ăn chính Thịt của Người. Họ thắc mắc và phản đối Đức Giê-su vì nghĩ rằng Người đã hóa điên khùng nên mới ăn nói bừa bãi như vậy. + Thật, Tôi bảo thật các ông: Trước sự thắc mắc về việc cho người ta ăn Thịt của mình, Đức Giê-su đã không làm dịu kiểu nói này lại và cũng không cải chính để tránh cho họ hiểu sai ý mình, nhưng Người lại tiếp tục xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình : Đây là cách diễn tả khác nhằm nhấn mạnh sự thật này: người ta chỉ có sự sống của Chúa nơi bản thân khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, tức là ăn Thịt và uống Máu của Người.
– C 54-56 : + Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết : Kẻ lãnh nhận Thịt Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể sẽ được tham phần vào sự sống đời đời và được Đức Giê-su cho sống lại vào ngày tận thế. + Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống : Trong bốn câu liền (c. 53.54.55.56), Tin Mừng Gio-an dùng cặp từ: Thịt (Sarx) và Máu (Haima) để chỉ con người toàn diện của Đức Giê-su. + Thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy : Hiệu quả của việc lãnh bí tích Thánh Thể là người ta được kết hiệp thân mật với Chúa Giê-su. Nghĩa là được “ở lại” trong Người, đón nhận sự sống dồi dào của Người và trở thành bạn tâm giao của Người, như thánh Phao-lô đã viết : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
– C 57-59 : + Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy : Đức Giê-su nói đến sự sống siêu nhiên nhờ bí tích Thánh Thể. Ai ăn Bánh Thánh Thể thì sẽ được tham phần vào sự sống siêu nhiên phát xuất từ nơi Chúa Cha thông qua Chúa Giê-su. + Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời : Sự sống siêu nhiên mà Bánh Thánh Thể ban cho người lãnh nhận, khác với sự sống tự nhiên thể xác do bánh Man-na mang lại. Vì thế mà dân Ít-ra-en xưa, dù đã ăn Man-na trong sa mạc nhưng vẫn bị chết do tội đã phạm. Còn ai ăn Bánh do Chúa Giê-su ban trong bí tích Thánh Thể thì sẽ được sống đời đời, nhờ đón nhận được sự sống siêu nhiên của Người.
4/. CÂU HỎI : 1) Bánh Thánh do Đức Giê-su hứa ban có hai đặc tính thần thiêng nào ? 2) Bánh đó sẽ được ban khi nào và là Bánh gì ? 3) Từ Thịt (Sarx) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gì ? 4) Khi Đức Giê-su hứa sẽ ban Bánh Hằng Sống là Thịt của Người trong bí tích Thánh Thể, người Do Thái đã hiểu ra sao ? Có hiểu đúng với ý Người muốn nói không ? Tại sao ? 5) Khi thấy họ phản đối, Đức Giê-su không những không thay đổi điều vừa nói hay nói nhẹ đi, mà Người càng nhấn mạnh hơn qua câu nào ? 6) Ai ăn Thịt uống Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể sẽ nhận được hiệu quả nào ? 7) Trong 4 câu liền (câu 53.54.55.56), Đức Giê-su dùng hai từ Thịt và Máu ám chỉ điều gì ? 8) Câu nào cho thấy hiệu quả của việc ăn Thịt uống Máu Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể ? Thánh Phao-lô viết về sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su qua câu nào ? 9) Sự sống siêu nhiên nhận được do bí tích Thánh Thể là sự sống nào ? 10) Sự sống siêu nhiên nhận được từ Bánh Thánh Thể thời Tân ước với sự sống tự nhiên từ Manna thời Cựu ước khác nhau thế nào ?
II/. SỐNG LỜI CHÚA
1/. LỜI CHÚA : “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51).
2/. CÂU CHUYỆN :
*1) MẸ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG:
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh quốc có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc Châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ góa chồng, mang theo một đứa con thơ còn bú sữa mẹ. Sau khi thuyền khởi hành được mấy ngày, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm đã bị gãy. Từ đó, con thuyền lênh đênh trôi trên mặt biển nhiều ngày. Lương thực trên thuyền đã dần dần cạn kiệt. Nhiều người bắt đầu bị chết đói và sau đó bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ trẻ kia cũng đã bị chết đói, trong khi đứa con nằm bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cứa đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu của mình thay cho sữa mẹ đã hết. Bà đã hy sinh chịu chết để cho đứa con của bà được sống ! Về sau đứa trẻ kia lớn lên đã trở thành một vị dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ đến công ơn trời biển của người mẹ đã hy sinh lấy máu mình để làm lương thực nuôi ông khỏi bị chết. Rồi một hôm, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội kể lại câu chuyện thời thơ ấu của mình, và đề nghị quốc hội chọn một ngày trong năm để tôn vinh các bà mẹ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với mẹ của mình. Đó là nguồn gốc ngày Quốc Tế Các Bà Mẹ hiện nay.
*2) CƠM BÁNH ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐANG ĐÓI CÓ GIÁ TRỊ NGÀN LẦN HƠN KIM CƯƠNG:
Đây là câu chuyện có thực của một nhà thám hiểm. Sau mười ngày một mình băng qua sa mạc Phi châu, một nhà thám hiểm nọ sắp kiệt sức vì bị lạc đường và đã ăn hết số lương thực mang theo. Ông ta đi theo hướng mặt trời mọc, nhưng rồi đi đến chỗ nào cũng chỉ thấy cát và cát. Cuối cùng, ông cũng đến được một ốc đảo có hồ nước và cây cỏ xanh tươi. Sau khi uống nước no nê, ông lại lại bị cơn đói hành hạ. Đột nhiên ông thấy một chiếc bị bằng da nằm lăn lóc ở gần chỗ đang ngồi. Hy vọng tìm được một chút lương thực trong chiếc bị da kia để tiếp tục lên đường, nhưng thay vì thấy lương thực ông lại chỉ thấy nhiều viên kim cương óng ánh rất đẹp. Ông cay đắng thốt lên với nỗi thất vọng : “Những viên kim cương này đâu có giá trị gì khi ta sắp chết đói ?” Nói rồi ông ôm chiếc bị da chứa kim cương thiếp ngủ vào cõi chết.
Ít lâu sau, một đoàn thám hiểm cũng băng qua sa mạc, họ đã thấy một bộ xương người đang ngồi dựa vào tảng đá, hai tay ôm chặt chiếc bị da, trong có nhiều viên kim cương quý giá, nhưng lại trở thành vô ích đối với người bị đói đang cần được ăn.
*3) CỬ HÀNH THÁNH LỄ TRONG NHÀ TÙ:
Đức Hồng y PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê NGUYỄN VĂN THUẬN đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rô-ma trong dịp tĩnh tâm mùa chay thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giê-su đã cử hành năm xưa trên thập giá.
*4) VIỆC BÁC ÁI TỪ THIỆN BẮT NGUỒN TỪ LÒNG MẾN BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Kitô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
*3. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta cần làm gì để được biến đổi nên tốt hơn sau mỗi lần rước lễ ?
4/. SUY NIỆM :
Câu chuyện bà mẹ nuôi con bằng dòng máu của mình, là hình ảnh tuyệt hảo nói lên tình thương của Chúa Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể. Người đã tự hiến mình trở thành Bánh thiêng nuôi dưỡng và ban sự sống đời đời cho chúng ta. Vậy Bánh Thánh Thể là bánh gì?
*1) Sứ mệnh của bánh :
Bánh là lương thực có thể ăn được và giúp người ta duy trì sự sống (Ga 6,51). Bánh không sống cho mình, mà luôn sống “vì và cho” con người. Chúa Giê-su tự xưng mình là Bánh, vì Người đã tự hủy bản thân, hy sinh chính mình để cho loài người chúng ta được sống. Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân cho tha nhân được sống, thì bấy giờ ta mới trở thành tấm bánh giống như Bánh Thánh Thể của Chúa Giê-su.
*2) Chúa Giê-su là tấm Bánh Thánh Thể để người ta ăn :
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã chủ trương chiêm ngưỡng và thờ lạy Bánh Thánh Thể hơn là hãy cầm lấy mà ăn như lệnh truyền của Chúa Giê-su. Động từ ăn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng hôm nay, như một lời mời gọi tha thiết của Chúa Giê-su là: hãy siêng năng tham dự bữa tiệc Thánh Thể do Người khoản đãi, với hai của ăn cao quý trên bàn thờ là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
*3) Chúa Giê-su cho biết ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể như sau:
– Một là họ sẽ được sống lại trong ngày tận thế và được sống muôn đời: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,54-55).
– Hai là sẽ phát sinh mối giây thân tình giữa Chúa và kẻ ăn tiệc Thánh Thể: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).
– Ba là sẽ được sống nhờ Người: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
*4) Phải ăn Bánh Thánh Thể thế nào để phát sinh công hiệu? :
Ngày nay tuy các tín hữu đã lên rước lễ nhiều hơn, nhưng phần đông lại rước lễ cách hờ hững : Quả thật, ít có vị khách quí nào lại bị chủ nhà tiếp đón lạnh nhạt như Chúa Giê-su Thánh Thể ! Do đó, dù có năng tham dự thánh lễ và lên rước lễ hằng ngày, nhưng nhiều tín hữu vẫn không gặp được Chúa Giê-su, không nhận được biến đổi giống Chúa, nên họ vẫn sống vô cảm, ích kỷ, tự mãn, lười biếng và vô trách nhiệm… như bao năm qua ! Cần đổi mới cách rước lễ để có thể gặp gỡ Chúa, sống kết hiệp với Người và ngày một được ơn biến đổi nên giống Người hơn.
*5) Diễn tiến một buổi cho bệnh nhân rước lễ tại gia:
Một nữ tu được cha sở nhờ mỗi sáng Chúa Nhật mang Mình Thánh Chúa đến thăm viếng và cho bệnh nhân rước lễ. Chị đã kể lại diễn tiến của một buổi cho rước lễ như sau:
– Khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, làm dấu Thánh giá và đọc một đoạn trong bài Tin Mừng Chúa nhật, rồi nói lên bài học Chúa muốn dạy qua bài Tin Mừng.
– Tiếp đến tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha như Chúa dạy.
– Rồi tôi giơ Mình Thánh lên và nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Và cụ đáp lại: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
– Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ và cho cụ uống chút nước suối để rước hết mụn bánh thánh.
– Sau một lát thinh lặng, tôi giúp cụ dâng lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Ước gì Mình Thánh Chúa con vừa lãnh nhận, gia tăng sức khoẻ hồn xác cho con. Xin thương chữa con mau lành bệnh. Xin ban ơn nâng đỡ con và giúp con được sống mãi mãi với Chúa trên thiên đàng. Từ nay con xin hứa sẽ luôn nở nụ cười với người chung quanh, sẵn sàng đón nhận mọi đau khổ trái ý gặp phải để đền tội con và cầu xin cho một tội nhân được ơn trở về với Chúa, cho một người lương quen biết được sớm nhận biết tin yêu Chúa để cũng được hưởng niềm vui ơn cứu độ với con.- Amen”.
– Cuối cùng nói chuyện thân tình, hứa luôn cầu nguyện và hẹn gặp lại vào tuần sau.
5/. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con cảm thấy có sự giống nhau giữa thân phận làm Bánh của Chúa với thân phận làm người của con. Nhờ ăn Bánh Thánh Thể của Chúa, con sẽ được biến hóa nên tấm bánh thơm ngon, được bẻ ra để phục vụ tha nhân. Ước gì con dám đón Chúa vào vùng mờ tối của lòng con, để sự hiện diện của Chúa làm cho con được bừng sáng lửa tin yêu. Ước gì sau khi được đón Chúa vào lòng, con sẽ trở thành một Nhà Tạm di động, luôn có Chúa là Tình Yêu, để chia sẻ tình yêu ấy cho tha nhân, hầu sau này họ cũng được hưởng hạnh phúc đời đời với con.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói về thân phận phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương”, người ta thường nhớ đến câu thơ bất hủ của Tú Xương đã nói về vợ mình như sau:
“Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Và những ai thích ca cổ cải lương, sẽ nhớ mãi câu chuyện huyền thoại thật cảm động về Thoại Khanh – Châu Tuấn. Chuyện kể về một người vợ chung thủy, một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lấy chồng nhưng không phải để được sống sung sướng hạnh phúc. Nàng lấy chồng không phải để có chỗ nương tựa như bao người phụ nữ khác. Nàng lấy chồng để được “nâng khăn sửa túi” cho chồng, và nhất là thay chồng để gánh lấy “giang sơn nhà chồng”. Nàng cặm cụi dệt cửi thêu thùa để lo cho chồng ăn học. Và rồi tai hoạ đã đổ ập xuống trên cuộc đời nàng, khi chồng đang mãi ứng thí trên kinh thành, thiên tai lũ lụt đã tàn phá quê nhà đến nỗi nhiều gia đình phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói khổ bần cùng. Nàng cùng mẹ chồng sống lây lất qua ngày. Lương thực thiếu thốn. Mẹ chồng già yếu, lại thêm mù loà. Nàng đã hằng ngày róc thịt mình cho mẹ ăn. Nàng đã chấp nhận róc từng thớ thịt của mình để nuôi mẹ già sống cho tới ngày chồng trở về để “vinh quy bái tổ”.
Xem tuồng cải lương về Thoại Khanh – Châu Tuấn, nhiều người đã rơi nước mắt. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của nàng dâu lấy thịt nuôi mẹ chồng. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình cho mẹ già được sống trong an vui hạnh phúc.
Chuyện kể về Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay không phải là huyền thoại, mà là sự thật. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Người mẹ chồng đã từng sống nhờ từng thớ thịt nàng dâu nhưng rồi cũng từ giã cõi trần. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được lớn lên trong tình yêu. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự đổi trác qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Ngay lúc này tại vùng trung đông luôn có biết bao sự xung đột bom đạn và hoả tiễn giết chết hàng vạn người. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng. Ngay lúc này có hàng ngàn thai nhi bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ và có hàng triệu người chết vì đói khổ và thiên tai lũ lụt.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường, chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình, nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi, nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Con người sẽ hạnh phúc và lạc quan hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin đừng bao giờ biến mình thành ác qủy luôn đe doạ sự sống tha nhân và trở thành mối lo của xã hội. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN-B
HỒNG ÂN THÁNH THỂ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Đúng là “Mạng sống quý hơn đống vàng.”
Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giê-su xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giê-su không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.
Thế nên, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Ngài, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Ngài thì được nên một với Ngài, được ở lại trong Ngài:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giê-su và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giê-su thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Ngài, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giê-su khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giê-su và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời.
Biến đổi con người thành Chúa Giê-su
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giê-su khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Ki-tô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Ki-tô, bạn nên một với Ngài, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Ki-tô, có Mình Máu Ngài thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giê-su,
Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
AI ĂN BÁNH NÀY SẼ SỐNG ĐỜI ĐỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em…. Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
*Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
*Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
MẦU NHIỆM ĐỨC TIN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó mới ra lò: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng thịt mỗi ngày thứ sáu. Vì thế, hôm nay ngày thứ sáu, con không dám rước Chúa vì rước Chúa là ăn thịt, uống máu Chúa Giêsu. Mà ăn thịt là lỗi luật Hội Thánh dạy.” Chắc hẳn ông cha phó dù mới ra lò cũng có đủ cách, đủ kiểu để thoát cạm bẩy của mấy tay giáo lý viên ngỗ nghịch ấy. Tuy nhiên, qua câu chuyện vui này, chúng ta có lẽ dễ thông cảm với người Do Thái xưa thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Tin mừng tường thuật rằng họ đã tranh luận sôi nổi với nhau rằng: “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Kho tàng các chuyện dân gian về tình mẫu tử hay tình hiếu thảo vẫn có đó nhiều mẫu gương các bà mẹ cho con “uống máu”mình hay những người con hiếu thảo cắt thịt để nuôi mẹ già. Dù vậy, khi nghe đến các từ ăn thịt và uống máu người, thì chúng ta vẫn thấy gai gai, rờn rợn chút nào đó. Thế nhưng, có thể nói rằng tất cả mọi người đều đã từng ăn uống thịt máu người để được sống. Cứ vào mỗi dịp chuẩn bị cho các em xưng tội rước lễ lần đầu, tôi thường nói lên sự thật này đó là con người chúng ta thoặt sinh ra hầu hết đều nhờ chính thịt máu của mẹ qua dòng sữa để sống và lớn lên. Đã từng một thời, nhiều bà mẹ không ý thức tầm quan trọng của dòng sữa mình trong việc nuôi con thưở con mới lọt lòng và khi con còn thơ bé. Nhờ khoa học tiến bộ và cũng nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay người ta biết khôn ngoan hơn khi nhìn nhận: sữa mẹ là sữa tốt nhất cho trẻ sơ sinh và các trẻ nhỏ” Qua hình ảnh dòng sữa mẹ, xin được chia sẻ đôi điều về chính Thịt Máu Chúa Kitô là quà tặng nhưng không, là phương dược kháng bệnh tuyệt vời và là nguồn ban sự sống đời đời.
Thánh Thể: Quà tặng nhưng không. Nói rằng nhưng không thì có thể là thừa, vì đã nói là quà tặng thì không đòi hỏi phải trả tiền hay công sức. Tuy nhiên, không nói thì cũng có thể thiếu vì trong thực tế đằng sau nhiều quà tặng vẫn có đó hậu ý “bánh ít trao đi, bánh nhì trả lại” hay chuyện trả nợ đời của những bữa tiệc cưới hỏi, đám đình. Dòng sữa mẹ trao ban cho con thơ thì như là tuyệt đối nhưng không, nghĩa là tất cả chỉ vì con và cho con, ngay cả khi con chưa cất tiếng khóc vì khát sữa. Thiên Chúa được nhân cách hóa bằng Đức Khôn ngoan đã bảo “ Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa…” (Cn 9,5). Ngôn sứ Isaia cũng đã từng khẳng định: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon…”(Is 25,6) và ngài đã nói thay Thiên Chúa rằng: “Đến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mà mua mà dùng; đến mua rượu, mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1). Thánh Thể là quà tặng miễn phí, nhưng không. “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không” (Mt 10,8).
Thánh Thể: Phương dược kháng khuẩn, phòng bệnh tuyệt vời. Khôn ngoan hơn người xưa, các bà trẻ ngày nay ý thức tầm quan trọng của những “giọt sữa trong” của mình khi đứa con vừa chào đời, là một linh dược giúp đứa trẻ kháng bệnh tật cách tuyệt vời. Chúa Kitô minh nhiên phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Mẹ Hội Thánh còn dạy chúng ta: “ Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta rước lấy Mình Chúa Kitô, ‘đã phó nộp vì chúng ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế, bí tích Thánh Thể không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi” (GLCG chung số 1393).
Thánh Thể: Nguồn ban sự sống thần thiêng, nhờ được kết hiệp nên một với Chúa Kitô. Qua dòng sữa, đứa trẻ ngày càng khắng khít với người sinh ra nó. Nhờ dòng sữa, cái tình giữa người mẹ và đứa con thêm đậm đà. Chúa Kitô đã từng khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi, và Tôi luôn kết hiệp với người ấy”. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể: Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) (GLCG chung số 1391).
Không ai tự nhận là người khờ dại. Chúng ta đều muốn là những người khôn ngoan, nhưng có thể là “khôn ngoan của con cái thế gian”. Người khôn ngoan kiểu này thì tìm mọi cách thế để có được những thiện hảo đời này kể cả những cách thế phi nghĩa (x.Mt 16,1-8). Không chối cãi rằng vẫn có đó những bậc hiền triết và khôn ngoan đáng trân trọng. Tuy nhiên khôn ngoan theo kiểu này vẫn chưa đủ bảo đảm cho sự sống đời đời vì người ta có thể ỷ lại vào luận lý nhân loại để khước từ Đấng là bánh hằng sống từ trời xuống (x.Mt 11,25-56; Lc 10,21). Ngoài sự khôn ngoan chính đáng thì cần phải có lòng tin. Dù luận suy thế nào đi nữa thì Bánh hằng sống là nguồn ban sự sống đời đời, là phương dược xóa tội và giúp chống lại chước cám dỗ, là quà tặng nhưng không, mãi luôn là mầu nhiệm của đức tin.
Nói đến đức tin thì chúng ta nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban và cũng là sự dấn thân đáp trả của chúng ta. Sự đáp trả này đòi hỏi nhiều sự từ bỏ. Một trong những sự từ bỏ phải có, đó là chấp nhận sự hạn chế của lý trí trước các thực tại siêu nhiên, vì đối tượng của đức tin không minh nhiên rõ ràng theo sự luận lý của trí khôn nhân loại. Vì Chúa Kitô là Đấng có lời quyền năng trên bệnh tật, trên sự chết, trên cả thiên nhiên và Người là Đấng từ bi, nhân hậu, đầy lòng xót thương, nên chúng ta tin nhận những gì Người mạc khải.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin củng cố đức tin cho chúng con (x. Mc 9,24).
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- B
TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói: “Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi: “Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì?”. Gióng dõng dạc nói: “Về bảo Vua đúc một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một áo giáp sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân”. Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã đem gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, cầm gươm, hét lớn tiếng: “Ta là tướng nhà trời”. Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc, Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ kỷ niệm ở làng quê. Câu truyện có vẻ thần thoại, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Thứ nhất, gặp nguy khốn, thấy mình bất lực, phải lo tìm hiền tài cứu nước, chớ đừng kiêu ngạo cậy mình tự ái kẻo nguy khốn. Đức Giêsu thấy con người nguy khốn phải chết đời đời, nên đã bảo Ta phải tìm bánh hằng sống, đừng cậy dựa vào thức ăn hư nát.
Thứ hai, đừng khinh chê những kẻ bé nhỏ yếu đuối, nhiều khi đó là thứ bé bé hạt tiêu. Dân Do thái khinh chê Đức Giêsu là con bác thợ mộc, đâu có ngờ rằng chính Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế họ hằng trông mong.
Thứ ba, sức con người dù là vua, quan, quân tướng, cơm gạo chẳng đáng là gì, nếu không nhờ trời cứu giúp thì sẽ bị diệt vong.
Đức Giêsu báo động cho dân chúng biết cơm bánh trần gian đâu có cứu được họ khỏi chết, nếu không nhờ bánh từ trời. Bánh hằng sống thì họ sẽ bị diệt vong đời đời.
Thứ bốn, nhân dân muốn được cứu khỏi tay quân giặc tàn bạo, thì phải biết tham gia vào công việc cứu mình, cứu quốc bằng góp gạo, góp sức đúc ngựa sắt, áo, mũ, gươm sắt để tỏ lòng thành khẩn cầu cứu. Thực ra, tướng nhà trời đâu cần những thứ đó.
Đức Giêsu cũng đòi người ta phải ra công làm những việc Thiên Chúa dạy dỗ, để chứng tỏ lòng mình thành tâm tin thờ Ngài. Chứ những việc làm của con người đâu có thêm gì cho Thiên Chúa, mà chỉ mang lại sự sống đời đời cho con người.
Nếu sứ giả cũng như nhà vua cùng bà mẹ và dân làng, khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công, góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà trời đến cứu dân, cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe theo lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống. Đúng như câu tục ngữ: Hãy giúp mình thì trời sẽ giúp anh (Aides-toi, le ciel t’aidera).
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê lời Đức Giêsu. Họ quá quen ăn thịt chiên, cừu, gà, vịt, mỗi khi nghe nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời”. Họ lấy làm chướng tai, phản đối và bỏ đi. Cố chấp, dầu Đức Giêsu đã giải thích rõ lời của Người là lời hằng sống, Thịt của Người là bánh trường sinh từ trời xuống, để cho thế gian được sống, họ vẫn không tin. Họ không nhận ra lòng yêu thương vô cùng của Người đã cứu chữa bao nhiêu kẻ tàn tật phong cùi, và mới cứu họ khỏi đói khát, đã cho họ ăn bánh lạ no nê. Bây giờ Người cho họ biết: Người sẽ hy sinh lấy Thịt Máu Mình nuôi sống họ muôn đời. Họ lại càng thấy chướng tai.
Cảnh tượng đó thật đau lòng. Cảnh tượng đau lòng này cũng đang diễn ra nơi chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa thì ít, học lời Chúa càng ít hơn, còn tin lời Chúa, suy niệm lời Chúa và sống lời Chúa thì không biết được mấy ai? Nhưng chúng ta nghe nói hành, nói xấu thì tham gia thêm thắt rất hăng hái. Nghe chuyện bù cú thì rất thích chí, cười khềnh khệch. Nghe nói dóc, tán tỉnh rất mùi mẫm, nghe chuyện tào lao phim ảnh như chuyện Ngộ Không, Trư bát Giới thì nhớ rất kỹ và kể lại thao thao bất tuyệt.
Chúa hết lòng dạy dỗ và đã phải kêu gọi: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” thì chẳng ai nghe. Nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống rơi trên vệ đường đá sỏi, bụi gai, chẳng gặp được đất tốt.
Chúa bảo: “Ai ăn Thịt Ta thì được sống đời đời”, thế mà chỉ được một số, còn rất nhiều người bỏ đi uống cà phê, hút thuốc, say rượu, dung dưỡng xác thịt hơn là lãnh của ăn hằng sống bổ dưỡng cho linh hồn. Biết bao nhiêu người được mời dự tiệc con chiên nước Trời, nhưng họ đã tìm hết cách từ chối: “Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời mời của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt” (Mt. 22, 5-7 Lc. 14, 18-20).
Lạy Chúa, ai đã thương lấy thịt mình nuôi con. Ai đã thương cứu con khỏi cảnh hư đốn. Ai đã thương cho con được sống muôn đời. Ai đã thương cho con được sống vinh phúc với Ngài. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mà thôi. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxthuongnienb