CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
AI ĐƯỢC CHA GIÁO HUẤN THÌ ĐẾN VỚI TA (*)- Chú giải của Noel Quession 6
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales 13
TỪ LỜI HẰNG SỐNG ĐẾN THÁNH THỂ(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
BÁNH BỞI TRỜI (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 51
BÁNH BỞI TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 57
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH BỞI TRỜI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 61
BÁNH TRƯỜNG SINH– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 66
THÁNH THỂ, MANNA MỚI TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ TRỜI- Lm. Đan Vinh HHTM 70
TA LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Lm. Micae Võ Thành Nhân 85
BÁNH BỞI TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 88
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 93
BÁNH TỪ TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 97
TÔI LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 101
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nhờ sức của nuôi ấy, ông mới đi tới núi của Thiên Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia đi một ngày đàng vào trong hoang địa. Khi đến nơi kia, và ngồi dưới gốc cây tùng, ông xin được chết mà rằng: “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con”. Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng. Và đây Thiên Thần Chúa đánh thức ông và bảo rằng: “Hãy chỗi dậy mà ăn”. Ông nhìn thấy gần đầu ông có chiếc bánh lùi và một bình nước: ông ăn uống, rồi ngủ lại. Thiên Thần Chúa trở lại đánh thức ông lần thứ hai và bảo: “Hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông liền chỗi dậy ăn uống, và nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.
Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
Xướng: Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.
Bài Ðọc II: Ep 4, 30 – 5, 2
“Anh em hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã sống”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em chớ làm phiền hà Thánh Thần của Thiên Chúa, vì trong Người, anh em được ghi ấn tín để chờ đợi ngày cứu chuộc đến. Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 41-52
“Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống’”.
Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
“Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
AI ĐƯỢC CHA GIÁO HUẤN THÌ ĐẾN VỚI TA (*)- Chú giải của Noel Quession
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Họ nói: “ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những “thính giả đầu tiên” của Đức Giêsu đã “phản đối” khi họ nghe nói về “Thánh Lễ” chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời”?
Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”.
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “ân sủng” hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu ‘hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ “chẳng có gì hấp dẫn”, bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của “sự hiện diện”, tiếng Hêbrơ gọi là “Shekinnar” có nghĩa là “sự cư ngụ thực sự” của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc “bình ca” hay nhạc “tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một “hồng phúc của Thiên Chúa”. Một thứ ân sủng: “Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa”.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
– Vai trò ưu tiên của “ân sủng”, một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha “lôi kéo”, “dạy bảo” và “đề nghị”. Nhưng con người có thể “lắng nghe” và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận “lắng nghe lời dạy của Chúa Cha” mới có thể bước vào mầu nhiệm “Bánh hằng sống”. Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: “Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: “Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ”. Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp” (Ga 1,11).
Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng…
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. “Ngôi vị Thiên Chúa” đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là “Đấng duy nhất” biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một “lỗ hổng”… một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc “sáng tạo đầu tiên từ hư không”.
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: “Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: “Tôi sẽ cho người ấy sống lại”.
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là “Đấng hiện hữu YAHVEH”. Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: “Tôi hiện hữu”, “Tôi là Bánh hằng sống”.
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề “sự sống”. Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống” (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về “Bánh hằng sống” (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do “cây hằng sống” mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. “Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa”. Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử”, sự sống không chết “này nhờ đức tin” đã được ban cho những người, không còn phải ăn “cây hằng sống”, nữa mà là “bánh hằng sống”: Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình”: Không ai đã thấy cái “vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một “sự sống” vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực “lý trí”. Nhưng tại sao chúng ta không để cho “Chúa Cha dạy bảo”? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự “dâng hiến” siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt” (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để “ban cho” chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?
Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên “cảm thấy được”; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: “Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn.
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
*1).Bỏ qua “những lời sầm xì phản đối”
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài ‘diễn từ về Bánh hằng sống” đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là “Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: “Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.
Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:
– Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ “đám đông” hoặc “dân chúng” để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ “xầm xì phăn đối” để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X. Léon-dufour giải thích: “Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: “họ xì xầm, phản đối”, những khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (…) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy”. Có thể là Gioan thích dùng động từ “xì xầm phản đối” hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người” (“Lecture de l’evangile selon Jean”; cuốn 11, trang 152).
Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ nghĩ bụng: “Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”
*2).Tiếp đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.
Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.
Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.
Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc Đức Giêsu khẳng định – lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là “con ông Giuse” chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước.
Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.
Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của “Diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới.
A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: “Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
BÀI ĐỌC THÊM
*1).“Sâu thẳm lòng tin” (Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).
Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng.
Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải “đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: “Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người
*2). “Chúng ta có tránh khỏi sầm xì không”. (H.Vulliez, trong “Dieu si proche, Năm B”, Desclée de Brouwer, tr. 137).
Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc “những củ hành và miếng thịt” của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.
Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ “xầm xì phản đối” đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ “bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy.
Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
TỪ LỜI HẰNG SỐNG ĐẾN THÁNH THỂ(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.
1V 19: 4-8
Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc miền Bắc, đơn độc và chán nản trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.
Ep 4: 30-5: 2
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện theo Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Chúa Cha, thực hành đức ái như Đức Giê-su.
Ga 6: 41-51
Tin Mừng tiếp tục giới thiệu diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)
Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).
*1.Bối cảnh lịch sử:
Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven ngoại giáo, lại còn khuyến khích phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc tôn thờ thần Ba-an trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở thành đô Sa-ma-ri.
Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống lại việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, hy lễ và khẩn nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần Ba-an để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán, chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, hy lễ và khẩn nguyện mà ngôn sứ Ê-li-a dâng lên Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an. Khi nghe biết, hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ ra lệnh giết ngôn sứ Ê-li-a, vì thế ông phải trốn chạy để bảo vệ mạng sống mình.
*2.Cuộc hành trình lên núi thánh.
Ngôn sứ Ê-li-a lên đường hướng về sa mạc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra. Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nản muốn bỏ cuộc, vì vậy ông cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19: 4). Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.
Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nản ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn!” (19: 5). Ông đưa mắt nhìn thấy một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống này thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.
Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình (Mt 17: 3).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).
Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Chúa Cha và thực hành đức ái như Đức Ki tô.
*1.Sống theo Thần Khí (4: 30-31):
Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày chịu phép Rửa Tội, “để chờ ngày cứu chuộc” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô không ngại gợi lên những cách sống làm phiền lòng Thánh Thần. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy, như Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).
*2.Bắt chước Chúa Cha (4: 32-5: 1):
Thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Chúa Cha, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ cho nhau: “Biết tha thứ cho nhau” (4: 32), điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
*3.Thực hành đức ái như Đức Ki-tô (5: 2):
Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta” (5: 2). Lời mời gọi “tha thứ cho nhau” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, thì lời mời gọi “yêu thương nhau” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy. Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ tuyệt mức qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.
TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)
Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Trong đoạn trích hôm nay, hướng nhắm của bản văn vẫn là Bánh Hằng Sống, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người nghe Ngài hãy tin vào Ngài, Đấng ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.
Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Danh xưng: “người Do thái”, mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư, danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin; trong khi danh xưng “người Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (x. Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra được định vị theo cùng một tuyến phát triển như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).
*1.Vấn đề đức tin:
“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (6: 42). Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.
Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi” (6: 44a). Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi mỗi người phải mở rộng lòng ra mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách những người nghe Ngài không có được một tâm thế sẵn sàng như thế. Có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc ra, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ tính hiếu kỳ: “Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (6: 44b), để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những mặc khải mà Ngài sắp ban.
Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người từ chối thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc… Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người”. Ở nơi các sấm ngôn, lời loan báo bàn tiệc cánh chung nhiều lần liên kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.
*2.“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:
Khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị vào thời thiên sai, “hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54: 13), Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm ở nơi sự hiện diện cùa Ngài. Khi công bố: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến. chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (6: 46), Đức Giê-su khẳng định nguồn gốc thần linh và giáo huấn siêu việt của Ngài. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).
Đức Giê-su có chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở nơi bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện của con người.
*3.Từ Lời Hằng Sống đến Thánh Thể:
Những người nghe Ngài là những người Do thái thông thạo Kinh Thánh. Bánh man-na tiên báo bánh hằng sống mà Đức Giê-su ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống đời đời. Đức Giê-su tác động vào tâm trí của họ để họ có thể mở lòng ra mà đón nhận mạc khải của Ngài.
Để làm rõ ra lời khẳng định của Ngài, Đức Giê-su so sánh tính hiệu quả của bánh man-na mà tổ tiên của họ đã ăn với bánh mà Ngài ban khi tuyên bố: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết” (6: 48-50). Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (6: 51). Thánh Thể được khai mở một cách minh nhiên ngay từ thời điểm này với điểm nhấn trên hy tế.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
BÁNH TRƯỜNG SINH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (1 V 19,4-8) : Thiên Chúa sai thiên thần mang cho ngôn sứ Êlia bánh và nước, nhờ đó Êlia đã có đủ sức để hoàn thành cuộc hành trình lên núi Horép gặp Chúa.
– Đáp ca (Tv 33) : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”.
– Tin Mừng (Ga 6,41-51) : Đức Giêsu tiếp tục bài giảng về bánh trường sinh, dẫn đến ý tưởng “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (1 V 19,4-8)
Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.
*2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia : “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”.
*3. Tin Mừng (Ga 6,41-51)
Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là “đến với” và “tin vào” Chúa :
Việc “tin vào” Đức Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía :
– Phía Thiên Chúa : Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài : “Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn “lôi kéo” con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người do thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
– Phía con người : phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa. : “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta” (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người : “Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày : họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyện con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, “nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại, việc “tin vào” Đức Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
*4. Bài đọc II (Êp 4,30-32–5,2) (Chủ đề phụ)
Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới : tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bánh hằng sống
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia : Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.
Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.
Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ MTC thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.
Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của MTC. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế : chúng ta có thể rước MTC hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của MTC.
*MTC là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng : nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được MTC đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.
*MTC còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương : Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta : Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.
*MTC còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông ? Thưa chính là Phép Thánh Thể MTC. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong MTC, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích MTC, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. MTC quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép TC và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.
Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn MTC sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay : Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.
* 2. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện “Thoại Khanh Châu Tuấn”. Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ : Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta : “Ta là bánh hằng sống”.
Nhưng phải thú nhận ngay rằng : Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu “Ta là bánh hằng sống” chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật : Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu :
1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào !
2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.
3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu “Trời đánh tránh bữa ăn” : khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.
Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng MTC thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.
Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy : Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa : Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.
Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu : như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại MTC mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm :
1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh : Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành MTC. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh rượu. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi “Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào”.
2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá… và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau : “Bình an”, amor “tình yêu thương”, Christus vincit “Đức Kitô chiến thắng”…
Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.
Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
*
Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.
Nhưng mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn : cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.
Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải : “Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.
Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người : “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).
Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.
Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích : “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).
Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể : “Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).
Như vậy, “Sự sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.
*
Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Mất tinh thần
Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi : “Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con”.
Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.
Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.
Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói : “Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt”.
Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ ?
Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần : Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.
Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, “lương thực đi đường”. (Viết theo Flor McCarthy).
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng : “Tôi là bánh từ trời xuống… không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người :
1/. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
2/. Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
3/. Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
4/. Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”, chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
– Trước lúc rước lễ : Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.
*VII. GIẢI TÁN
Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN -B
BÁNH BỞI TRỜI (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Làm sao bấy giờ ông ấy dám bảo: Ta đã từ trời mà xuống?”
Điều Chúa Giêsu vừa nói về nguồn gốc thiên giới của Người xem ra quá phóng đại. Làm sao một kẻ mà thiên hạ biết rõ họ hàng lại dám gán cho mình một nguồn gốc thiên giới. Những ý nghĩ này giúp chúng ta biết các dư luận phổ biến lúc ấy về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây không phải là quan niệm của thánh sử và người ta cũng chẳng lấy được gì từ đó để chống lại tín điều về sự sinh hạ đồng trinh của Chúa Giêsu. Và cũng không có gì cho phép giả thiết là thánh Giuse lúc đó còn sống. Gioan chẳng nói đến điều đó bao giờ. Có lẽ là thánh Giuse đã chết trước khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai.
“Các ngươi đừng kêu ca với nhau tranh luận chỉ tổ vô ích; chỉ có hoạt động của Chúa Cha mới hướng dẫn những kẻ tin Ngài đến với Đấng có mặc khải viên mãn (3,21). “Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (xem 1,18).
Với câu này, Gioan loại trừ mọi lối giải thích sai lạc có thể có về câu trích dẫn (16,45 chết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa), chính nhờ Chúa Giêsu, Đấng duy nhất biết Chúa Cha cách trực tiếp và hoàn toàn, mà lời hứa trên sẽ được thực hiện.
KẾT LUẬN
Khi nói về thịt (sarx) Người sẽ bị nộp để ban sự sống cho thế gian, rồi xa hơn về máu Người, Chúa Giêsu mặc nhiên loan báo Người sắp bị sát tế thành hy lễ, và các tín hữu của Người sẽ có thể tham dự vào hy tế ấy bằng cách ăn thịt của Tế vật, hầu nhờ đó lãnh nhận sự sống thần linh. Việc thịt Người sẽ trở nên phong phú sự sống và việc Chúa Giêsu sẽ đích thân trao ban nó, rõ rệt bao hàm điều này là: qua cái chết hy tế, Người sẽ tìm lại sự sống bằng sự Phục sinh. Khi để thịt Người, thân xác Người (và đồng thời cả bản thân vinh hiển Người) dưới hình thức bánh để các kẻ tin Người ăn uống, Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ cho thấy rõ ràng Người thật là bánh bởi trời, của ăn thiêng liêng cho nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhiều lần nói “Ta là”: “Ta là” ánh sáng, mục tử tốt lành, cửa chiên, sự sống lại và sự sống, đường, sự thật và sự sống, cây nho thật. Dưới mắt người Do thái, các danh xưng này có giá trị như những hồng ân của Thiên Chúa. Chúa Giêsu quả quyết Người chính là ân huệ thực sự và chung quyết của Thiên Chúa hôm nay.
*Khi phán bảo: “Bánh sự sống chính là Ta”, Chúa Giêsu biết rằng Người sẽ gây ra thắc mắc, sự cứng tin và cả thái độ công phẫn. Thật vậy, cách nói “Ta là” lúc bàn về sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng của các thính giả Người một ý niệm về tuyệt đối. Thiên Chúa mới có quyền bảo “Ta là”. Con người chỉ có thể nói: Tôi là kẻ này người nọ, nhưng không được bảo: Ta là bánh, là ánh sáng, là chân lý, là sự sống. Thế mà Chúa Giêsu đã làm vậy. Một xác quyết ntlư thế gây nên sự công phẫn hay đức tin. Chúng ta may mắn thuộc về những kẻ đáp lại bằng đức tin.
*Diễn từ bánh sự sống thu hút chúng ta nhờ những lời quả quyết mạnh mẽ và đồng thời để chúng ta phân vân trước nỗi cô đơn mà Chúa Giêsu tạo ra quanh người qua những xác quyết đó. Ta tự hỏi tính cách đích thực của cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người Do thái đã là gì. Một điều chắc chắn là người Do thái không thể nâng mình lên bình diện mà Chúa Giêsu đang ở và từ đó Người đang nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Người Do thái lưu ý tới Người lập tức, nhưng không phải để theo vị sứ giả của Thiên Chúa, mà là để hắt lây Người hầu thỏa mãn những khát vọng trần tục của họ. Khuynh hướng sâu xa của họ ngược lại với khuynh hướng Chúa Giêsu. Họ muốn kéo Chúa Giêsu vào trong lãnh vực thế trần với họ; còn Chúa Giêsu. Người cố gắng đỡ nâng họ lên bình diện của Thiên Chúa. Trong vấn đề này, Chúa Kitô không có ngoại giao. Người xác quyết mình là ai, cho dù người Do thái chỉ muốn thấy trong người kẻ mà họ biết rõ cả cha lẫn mẹ.
*Như tổ tiên của họ ngày xưa trong sa mạc, người Do thái kêu ca phàn nàn. Đây là một thái độ phức tạp, nhưng chủ yếu phát xuất từ một sự từ chối không tin, một sự bất lực đương đầu với số mệnh, và từ một nhu cầu muốn an thân này đó. Đấy là phản ứng hết sức nhân loại. Chúng ta chấp nhận đi theo Thiên Chúa bao lâu Ngài còn phục vụ hạnh phúc chúng ta, còn phục vụ quan niệm hạnh phúc của chúng ta; nhưng khi Ngài hay Giêsu, Đấng Ngài sai đến, muốn cắt đứt chúng ta khỏi những cái hiển nhiên thường nhật, khỏi lòng ham muốn tiện nghi và thỏa mãn của chúng ta, thì chúng ta chống chọi, phản kháng. Bấy giờ các “dấu chỉ” Thiên Chúa đã thực hiện trong đời chúng ta không còn giá trị gì nữa; chúng ta làm như chẳng có gì đã xảy ra; chúng ta dấy nẩy và trở lại dùng ân huệ của Thiên Chúa để chống lại Ngài (x. Ds 11,4-6), chúng ta gây gổ với Ngài và bịa ra nhiều cớ để khỏi tin; chúng ta quả là những người có tà ý.
*“Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó”. Phải hiểu cho đúng lời này của Chúa Giêsu. Nó chẳng có nghĩa là Thiên Chúa chỉ lôi kéo một số người và bỏ rơi những kẻ khác. Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Ngài không chọn lựa cách tiên thiên, ngay từ đầu, một phần nhân loại để cứu rỗi và bỏ rơi phần khác. Ngài đặt trong lòng mỗi con người một bản năng quy hướng họ về định mệnh hạnh phúc mà vì đó họ được tạo ra. Bản năng thiêng liêng này có nhiều hình thái và chỉ mình Thiên Chúa biết lúc nào nó thức dậy trong tâm thức mỗi người. Hãy nhớ rằng mỗi một con người, cho dù chỉ hiện hữu trong chốc lát thôi, cũng được kêu gọi để trở thành con Thiên Chúa.
*“Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta”. Hãy lưu ý: Chúa Giêsu không nói ở thì quá khứ mà là hiện tại. Không phải đã nghe lời giáo huấn của Cha, đã được Ngài giảng dạy và đã đến với Chúa Giêsu, thì sau đó đạt mục đích. Đây là một thực tại hiện tại mà ta phải củng cố gia tăng thêm không ngừng. Mỗi ngày cần phải đặt mình vào tình trạng lắng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Ngài và đến với Chúa Giêsu. việc Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta là một thực tại luôn luôn tác động bên trong chúng ta không ngừng không dứt. Cũng vậy, việc chúng ta tiến về Chúa Giêsu việc chúng ta tin vào Người và gắn bó với Người, cũng là một sự tiến triển sống động ngày càng hơn. Tìm đâu năng lực nội tại để luôn tiến về Chúa Giêsu Kitô như thế? Tìm trong bánh sự sống, Thánh Thể.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH BỞI TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.
Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.
Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.
Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN-B
CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH BỞI TRỜI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Cuộc đời là một hành trình dài, có một định hướng, mục tiêu và ý nghĩa là để đi về nhà Cha, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống vô tận. Cuộc đời không phải chỉ là một nơi dừng chân hay bến nghỉ để chúng ta ở lại mãi để tận hưởng mọi hạnh phúc sung sướng của nó. Trong câu chuyện của bài đọc trích sách các Vua quyển thứ nhất tường thuật cuộc hành trình của tiên tri Êlia lên núi Horép. Trên đường lên núi Hôrép là núi của Thiên Chúa, tiên tri Êlia cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi tất cả, muốn chết vì đoạn đường dài quá và sức của ông thì có hạn. Thiên Chúa đã sai thiên thần hiện ra an ủi và ban cho ông bánh và nước. Ông đã ăn bánh và uống nước và ngủ một giấc thật sâu, bồi dưỡng lại sức khoẻ rồi hăng hái lên đường đi đến núi của Thiên Chúa. Ông đã đi bốn mươi đêm ngày để đến núi Thiên Chúa.
Trái với thái độ của tiên tri Êlia trong Cựu ước, trong câu chuyện Phúc âm, những người do thái thì thầm và nghi ngờ nói với nhau khi Chúa Giêsu mạc khải người là Bánh hằng sống từ trời. Họ không thể tin và chấp nhận Đức Giêsu là bánh bởi trời cũng như không thể chấp nhận người từ trời như người đã mạc khải. Điều khiến họ nghi ngờ đó là họ tự cho mình biết rõ về nguồn gốc gia cảnh của Đức Giêsu, biết rõ người là Giêsu, con của Giuse thợ mộc mà người ta quá biết rõ, biết rõ về cha mẹ của người. Chúa Giêsu phải nhấn mạnh và giải thích cho họ rõ chính Chúa Cha là Đấng đã sai người và cũng chính Chúa Cha lôi kéo mọi người đến với người và người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Để đón nhận được Đức Giêsu, mọi người cần phải có lòng tin chân thực để được Thiên Chúa cũng là Cha của người đón nhận và lôi kéo họ đến với Chúa Con; và đến với người Con này thì không phải thất vọng vì người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giêsu đã qui cho Chúa Cha là nguồn gốc của mọi thẩm quyền và quyền năng mà Chúa Giêsu đang thi hành và muốn mọi người đón nhận. Những người do thái chỉ có cái nhìn thiển cận nên không thể nhận ra nguồn gốc quyền năng chân thật của Chúa Giêsu. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải khẳng định cho họ rõ thẩm quyền của người là do bởi chính Chúa Cha là Đấng quyết định và hành động mọi sự nơi người: chính Chúa Cha là Đấng đã sai người, cũng như chính Chúa Cha là Đấng lôi kéo mọi người đến với người. Những người do thái nghi ngờ vì họ không thể vượt qua đường nhận thức giới hạn của mình cũng như không thể đạt thấu mầu nhiệm cao cả của Chúa Giêsu: “Tôi là bánh sự sống, ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”. Chúa Giêsu nhấn mạnh và thúc đẩy mọi người đến với người để đón nhận sự sống đời đời. Hay nói cách khác, “mọi người được Thiên Chúa giáo huấn sẽ đến với người, bởi vì chỉ có người là Đấng đã thấy Chúa Cha”. Thiên Chúa là nguồn sự sống đích thực, và chỉ có đến với Thiên Chúa mới có được sự sống đời đời. Thế nhưng không ai đã thấy hay đến được với Thiên Chúa Cha, chỉ trừ Đức Giêsu người con một Thiên Chúa đã thấy và biết Cha nên người tự nhận có sự sống đời đời của Thiên Chúa và ban tặng sự sống đời đời bởi vì chỉ có người là Đấng đã biết Cha và đã thấy Cha và đã ở với Cha. Chúa Giêsu đã vận dụng lời Chúa để trả lời và giải thích cho những người do thái nghi ngờ. Người nói hết những người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn và những ai lắng nghe Chúa Cha thì sẽ đến với người. Có một sự thống nhất nơi Thiên Chúa cũng như nơi mọi người trung thực. Sự thống nhất nơi Thiên Chúa chính là sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha là nguồn mọi sự sống chân thực, nhưng Chúa Cha chỉ ban sự sống chân thực này qua Chúa Con, và chính Chúa Con là Đấng ban tặng sự sống chân thật của Chúa Cha cho mọi người, cũng như mọi người muốn có sự sống chân thật của Cha phải đến và đón nhận sự sống đời đời này bởi Chúa Con. Người ta không thể đón nhận được sự sống đời đời nếu phủ nhận Chúa Con. Để giải thích rõ hơn nữa, Chúa Giêsu đã nhắc lại sự kiện manna và cha ông của những người do thái. Cha ông những người do thái đã ăn manna, tức là bánh Thiên Chúa ban. Nhưng rồi họ cũng đã chết, manna mặc dù là bánh Thiên Chúa ban, nhưng chưa phải là bánh bởi trời ban tặng sự sống đích thực, manna chỉ phục vụ mục đích giới hạn là giúp cho người do thái trong hành trình vượt qua sa mạc để đi về đất hứa. Trái lại, Chúa Giêsu mới là bánh đích thực từ trời để những ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời.
Hành động quyết định của Thiên Chúa ban tặng sự sống cho con người là gửi người Con một của người để những ai đón nhận người con này sẽ có sự sống đời đời. Và đây là mạc khải mới, bánh bởi trời này để ban tặng sự sống cho con người không phải là không có cái giá phải trả, bởi vì bánh bởi trời là thịt máu Chúa Giêsu, thịt máu mà người sẽ phải đổ ra trong cái chết thập giá để ban tặng sự sống cho những ai đón nhận. Bánh bởi trời, cũng là bánh sự sống là bánh tự hiến thân mình chết cho mọi người. Tin và đón nhận Đức Giêsu cũng là đón nhận con người và con đường thập giá mà người khai mở cho nhân loại. Đó cũng chính là lý do tại sao Tin mừng là lời mời gọi đi vào con đường hẹp, con đường dẫn tới sự sống ngang qua cái chết thập giá. Con người chúng ta rất yếu hèn, chán nản thất vọng là những cám dỗ luôn làm cho mỗi người dễ buông xuôi và mất đi định hướng của cuộc đời. Lời mời gọi của Chúa Giêsu thúc đẩy mỗi người hãy có can đảm như tiên tri Êlia, đón nhận bánh Thiên Chúa ban tặng để bồi dưỡng sức khoẻ của mình để rồi tiếp tục cuộc hành trình đi lên núi Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đi trước chúng ta trên con đường này, con đường Vượt qua từ sự chết đến sự sống và người mời gọi mỗi người cũng phải biết đón nhận mầu nhiệm thập giá, dám chết đi để đạt đến sứ sống muôn đời. Bánh mà người ban tặng để ban sự sống đời đời là chính thịt máu người, thịt máu đã đổ ra trên thập giá để nên giá cứu chuộc nhiều người: “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi để ban tặng sự sống cho trần gian”. Để trở nên bánh nuôi sống muôn người, người đã chấp nhận chịu chết trên thập giá và thôi thúc chúng ta bước vào con đường Vượt qua này. Chỉ có người mới ban tặng sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH TRƯỜNG SINH– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Con người có 2 phần: phần xác và phần hồn”. Hằng ngày, chúng ta cộng tác với ơn Chúa lao động để kiếm của ăn nuôi dưỡng thân xác, thì phần hồn cũng cần có lương thực dưỡng nuôi như vậy. Nhưng điều đáng lưu tâm là, của ăn nuôi thân xác thì chóng qua tạm bợ, còn của ăn nuôi linh hồn thì trường tồn vĩnh cửu, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, và bánh Ta sẽ ban chính là cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
Dân Do thái thời Chúa Giêsu, họ mơ ước được trường sinh bất tử, không bao giờ chết. Cho nên, khi thấy một người thân ra đi, thì niềm mơ ước ấy này càng tác động mãnh liệt hơn. Vì thế, khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống, thì dân chúng kéo nhau tìm đến học hỏi.
Bài đọc I kể lại, sau những tháng ngày kiên trì đi theo Chúa, chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ Chúa trao. Cuối cùng, Êlia đã bị kẻ thù tìm cách thủ tiêu. Quá chán nản, ông xin cho mình chết trong hoang địa, khỏi rơi vào tay kẻ thù. Ông cầu xin rằng: Lạy Chúa đã đủ rồi, xin cất mạng tôi đi, vì tôi chẳng hơn gì các tổ phụ. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi người tôi tớ trung thành, Ngài sai thiên thần mang bánh và nước cho ông ăn, để lấy sức đi tiếp tục đi hết chặng đường về núi Horep, núi Thánh của Thiên Chúa, nơi dành cho những người Chúa chọn.
Nếu như ngày xưa Chúa sai thiên thần đem lương thực cho Êlia ăn để ông đủ sức đi về Núi Thánh thế nào, thì ngày nay Thiên Chúa cũng ban bằng Bánh hằng sống là Bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng linh hồn đủ sức tiến về quê trời cũng như vậy.
Hơn nữa, Giáo lý Hội thánh dạy: chúng ta đang sống trên đường lữ hành đức tin, và chết không phải là hết, vì linh hồn bất tử, sẽ tiếp diễn sự sống mai sau. Nhưng để đạt được cuộc sống mai sau ấy, thì ngay ở đời này, linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng, đó chính là Mình và Máu thánh Chúa Kitô ban tặng.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: những ai được liên kết với Đức Kitô, với Bánh Trường Sinh, thì cần phải sống yêu thương, hi sinh cho người khác, như chính Đức Kitô đã vì yêu thương, trở nên của lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa Cha, và trở nên của ăn Thần Linh nuôi sống linh hồn nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Vì cơn đại dịch vẫn còn đang diễn ra hết sức phức tạp, chúng ta không được đến nhà thờ dâng thánh lễ, để tham dự bàn tiệc thánh. Lời Chúa hôm nay dạy về cuộc sống vĩnh cửu, về thần dược trường sinh, vậy tâm tình chúng ta thế nào khi lắng nghe lời mời gọi của Chúa.
Tần Thuỷ Hoàng tốn đã tốn bao nhiêu tiền của, mong tìm được bí quyết trường sinh. Biết bao người trên trần gian này cũng đã tốn bao nhiêu công sức, tiền của, để mong có cuộc sống sung túc, đầy đủ và kéo dài cuộc sống trên dương gian này, nhưng không thể nào có được. Vì sinh lão bệnh tử là kiếp nhân sinh.
Trong khi đó hôm nay vị lương y mang tên Giêsu đầy quyền năng và giàu lòng thương xót giới thiệu và rộng ban cho chúng ta thần dược trường sinh, là chính Thịt Máu của Ngài. Vậy chúng ta có ao ước đón nhận thần dược trường sinh Chúa ban không, mặc dù trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta rước lễ cách thiêng liêng thôi.
Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo. Êlia về được đến Núi Thánh là nhờ bánh Thiên Thần. Chúng ta chỉ có thể đến được Núi Thánh của Thiên Chúa là hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta biết sống theo giáo huấn của Chúa, và siêng năng lãnh nhận Bánh hằng sống mà thôi.
Đón nhận bánh hằng sống là chính Đức Kitô, sẽ làm cho linh hồn chúng ta được lớn lên trong dòng máu thánh của Ngài. Lúc ấy, chúng ta cần loại trừ khỏi bản thân những tính hư tật xấu như: sự biếng nhác trong việc đọc kinh dự lễ; sự giận hờn chia rẽ…. thay vào đó là sống hiền hoà, bao dung, sống yêu thương chia sẻ cho nhau những gì mình có nhất là trong mùa đại dịch này.
Xin Chúa cho chúng ta thấy được tầm quan trọng bánh hằng sống, là Thịt Máu của Chúa, để rồi chúng ta cố gắng sống sao cho đẹp lòng Chúa và dọn mình xứng đáng để được Đấng hằng sống đến với tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN-B
THÁNH THỂ, MANNA MỚI TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ TRỜI- Lm. Đan Vinh HHTM
1/. TIN MỪNG: Ga 6, 41-51.
(41) Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”. (42) Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (43) Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy. Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thậ̣t, tôi bảo thật các ông: Ai tin thì được sự sống đời đời. (48) Tôi là Bánh Trường Sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
2/. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ nghĩ rằng họ đã biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức Giê-su vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt Máu mình làm lương thực đi dường, để ai lãnh nhận bí tích này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ về Nước Trời với Người sau này.
3/. CHÚ THÍCH:
– C 41-42: + Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giê-su từ hoang địa về thành Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán khi nghe Người tuyên bố Người là Bánh từ trời mà đến. + Ông này chẳng phải là Giê-su, con của ông Giu-se đó sao?….: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã biết rõ về thân thế và cha mẹ của Người.
– C 43-44: + Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức Giê-su biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì họ chỉ nghĩ về phạm vi nhân tính của Người. + Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo…: Người cho họ biết đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. + Và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống mãi mãi.
– C 45-46: + “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54, 13), và lời sấm của Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31, 33-34). +Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng vô cùng (x. Ga 4, 24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Thời Xuất hành, dù được thường xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng ông Mô-sê cũng chỉ thấy được phía sau lưng của Đức Chúa chứ không được nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33, 23). Nhưng Đức Giê-su, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy Chúa Cha và có thể mặc khải về Ngài cho chúng ta.
– C 47-51: + “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giê-su), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5, 18). + “Tôi là Bánh Trường Sinh”: Đức Giê-su tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay “Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16, 16), và của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6, 9). + Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị hư nát (x. Xh 16, 19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải chết do tội lỗi đã phạm (x. Tv 78, 29-31) và không được sống đời đời (x. Ga 6, 58). + Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết: Đức Giê-su mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6, 50), nhưng “được sống muôn đời” (x Ga 6, 51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6, 56), “được sống nhờ Chúa Cha” (x. Ga 6, 57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10, 10). + “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”: Nói câu này, Đức Giê-su đã liên kết 5 chiếc bánh trong phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích Thánh thể (x. Mt 26, 26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức Giê-su biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6, 48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của Người (x. Ga 6, 51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin (x. Ga 6, 51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống muôn đời (x. Ga 6, 58).
HỎI: 1) Dân Do thái xầm xì phản đối Đức Giê-su về câu nói nào của Người ? Tại sao ? 2) Đức Giê-su dạy đức tin có được là do đâu ? 3) Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ nhận được gì? 4) Câu “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tóm lược lời tuyên sấm của hai vị ngôn sứ nào và 2 lời đó thế nào ? 5)Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh danh là gì ? Ai mới nhìn thấy Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho chúng ta ? 6) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ được hưởng ơn gì ? Thánh Phao-lô đã so sánh giữa A-đam cũ với Đức Giê-su thế nào ? 7) Khi ví mình là Bánh Trường Sinh, Đức Giê-su muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ thiết lập sau này ? 8) Man-na là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en khi nào và có đem lại sự sống đời đời không ? 9) Đức Giê-su là Bánh Hằng Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ được ơn ích gì ? 10) Đức Giê-su hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể thế nào và để làm gì ?
II/.SỐNG LỜI CHÚA:
1/. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”(Ga 6, 51).
2/.CÂU CHUYỆN:
*1) GIẤC MỘNG TRƯỜNG SINH BẤT TỬ CỦA TẦN THỦY HOÀNG:
Tần Thủy Hoàng là hoàng đế Trung Hoa, sống khoảng 200 năm trước Công Nguyên. Ông chính là người đã xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm, là một kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể quan sát được từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên đã tìm đủ cách để có thể cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia đã kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết sống trường sinh bất lão, nên ai cũng sống lâu. Tần thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy ngọc ngà châu báu lên đường, hy vọng có thể đổi những đồ quý giá lấy bí quyết trường sinh mang về. Nhưng dân chúng tại đây đã nhất quyết không chịu đổi bí quyết trường sinh của họ lấy bất cứ thứ gì.
Không lấy được thuốc trường sinh, nên khi già yếu, Tần thủy Hoàng đã ra lệnh cấp tốc xây một nhà mồ cho mình như một cung điện nguy nga tráng lệ, rồi ông cho trang trí nhà mồ bằng các đồ trân châu quý giá, lát tường nhà bằng vàng bạc và truyền sẽ chôn sống hàng trăm cung nữ với ông sau khi ông chết, hy vọng kiếp sau sẽ được sống thanh thoát như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham hưởng thụ ấy đã chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết.
Bí quyết để sống vĩnh hằng ấy, Đức Giê-su đã mặc khải trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga.6,47). Ngày nay thánh lễ chính là bàn tiệc cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể ban sự sống đời đời. Vậy chúng ta cần làm gì ngay từ hôm nay ?
*2) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một viên thuốc bất tử. Người ấy bưng thuốc vào triều, Viên quan canh cửa liền hỏi:
– Đây là cái gì ?
– Là viên thuốc trường sinh bất tử tôi đem đến dâng tiến cho đức vua.
– Thế viên thuốc này có ăn được không ?
Người ấy đáp :
– Ăn được.
Lập tức, viên quan liền cầm lấy viên thuốc mà ăn. Câu chuyện đến tai nhà vua. Vua liền truyền bắt viên quan đến định xử tội khi quân và sẽ bị chém đầu. Viên quan nghe án liền kêu oan như sau:
– Thần đã hỏi người dâng thuốc và được ông ta nói đó là viên thuốc trường sinh bất tử, nghĩa là ai ăn sẽ không bị chết nữa. Thần có hỏi người ấy “ăn được không”, và người ấy đáp: ”Ăn được”, nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi tại người dâng thuốc. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là viên thuốc “trường sinh bất tử”, nghĩa là ai ăn vào sẽ không bị chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy đó là “thuốc tử”, chớ sao gọi là “thuốc bất tử” được ? Nếu bệ hạ giết thần, là bệ hạ đã kết án oan cho người vô tội, và chứng tỏ bệ hạ là người dễ bị kẻ khác mê hoặc lừa gạt.
Vua nghe viên quan đó nói có lý, nên đã tha không giết nữa. (Nguồn: Cổ học tinh hoa)
Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua đó, Đức Giê-su đã mặc khải : ngoài cuộc sống đời này, còn có một cuộc sống vĩnh hằng đời sau nữa, dành cho những ai tin vào Đức Giê-su, thể hiện qua việc lắng nghe Lời Người và năng ăn Bánh Thánh Thể của Người ban cho.
*3) QUYẾT TÂM CẢI GIÁO NHỜ TIN LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Hồng y NIU-MÂN (Newman) trước kia đã từng giữ chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù thuộc tầng lớp quí tộc và là chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy, nhưng ngài luôn bị lương tâm dày vò về các mầu nhiệm đức tin trong Tin Mừng không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ kỹ về sự khác biệt đức tin giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài đã đi tới quyết định từ bỏ các chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi đang thụ hưởng của Anh giáo, để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến can ngăn để yêu cầu ngài nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm cũng không được hưởng nữa !” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời: “Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì so với những điều tôi nhận được khi trở nên thành viên của Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ lãnh nhận được ơn Thánh Thần và được chịu các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là Bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Niu-mân có được suy nghĩ và quyết định sáng suốt như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần ban, thì người ta sẽ khó lòng hiểu được Lời Chúa Giê-su và sẽ không tin vào bí tích Thánh Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ đã không tin. Họ đã chán nản bỏ đi không muốn đi theo Đức Giê-su, vì họ không thể chấp nhận được mầu nhiệm của bí tích Thánh Thể này. Chỉ có Nhóm Mười Hai là vẫn trung thành đi theo Thầy, vì dù họ không hiểu Lời Thầy bằng lý trí, nhưng vẫn sẵn sàng tin vào Thầy, như ông Phê-rô đã đại diện anh em thưa: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
*4) CON LỪA QUÌ LẠY THÁNH THỂ CHÚA:
Thánh AN-TÔN PA-DO-VA (1195-1231) tên thật là Fernando, là tu sĩ dòng Phan-xi-cô khó nghèo. Ngài sinh tại Bồ-đào-nha nhưng sau này lại sống tại nước Ý. Ngài có tài hùng biện với một lòng đạo đức sâu xa, nên luôn được mời đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Linh Mục Antôn có biệt tài chống lại lý luân của các lạc giáo, nhất là nhóm An-bi-gien-sê tại vùng Tây Nam nước Pháp. Ngài rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể. Một ngày nọ, An-tôn có mặt tại Tu-lu để bác bỏ lạc thuyết của nhóm An-bi-gien-sê về bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi rất sôi nổi. Với lý luận sắc bén, An-tôn đã làm cho nhóm lạc giáo cứng miệng. Tuy thua về lý thuyết nhưng họ vẫn không đầu hàng. Ông trưởng lạc giáo nói: “Bây giờ chúng ta hãy dẹp bỏ mớ lý luận kia để đi vào thực tế. Nếu ông có thể chứng minh có Chúa Giê-su hiện diện thực sự trong Bánh Thánh Thể, trước sự chứng kiến của mọi người, thì tôi sẽ xin từ bỏ lạc giáo để trở về với Đức Tin Công Giáo. Đầy tin tưởng vào quyền năng của Chúa Thánh Thể, linh mục An-tôn trả lời: “Tôi chấp thuận đề nghị của anh”.
Ông trưởng lạc giáo An-bi-gien-sê nói tiếp: “Ở nhà tôi có một con lừa cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bắt nó nhịn đói 3 ngày. Đến ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi người, và dọn ra cho nó một thùng lúa mạch thơm ngon. Còn ông, ông cũng đưa ra trước mặt con vật ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Chúa. Nếu con lừa đang đói mà không ăn thóc lúa, nhưng lại quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin vào giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.
Đúng ngày hẹn, toàn dân thành Tu-lu đứng chen chúc nhau tại quảng trường chính, nơi sắp diễn ra cuộc thách thức, đang lúc linh mục An-tôn sốt sắng dâng lễ trong một nhà nguyện gần đó.
Đến giờ hẹn, ông trưởng phe lạc giáo liền dắt con lừa cái nhà ông đến quảng trường và không quên mang theo thùng thức ăn thích hợp với nó. Nhóm lạc giáo hiện diện rất đông cùng nét mặt hân hoan như cầm chắc phần thắng trong tay. Bấy giờ Linh mục An-tôn từ trong thánh đường gần đó bước ra, tay giơ cao Bánh Thánh Thể mới được truyền phép trong thánh lễ. Bấy giờ linh mục An-tôn lớn tiếng nói với con lừa rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, là Đấng đã dựng nên ngươi. Tuy ta bất xứng, nhưng ta đang giữ Người trên tay, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau đến quỳ gối thờ lạy Người. Cùng lúc ấy, người ta cũng đưa thùng lúa kiều mạch đến trước mặt con vật. Lạ lùng thay, con lừa đã không đoái hoài đến thức ăn hợp khẩu vị, mà đã vâng lời linh mục An-tôn, nó chạy đến gập hai chân trước quì xuống cúi đầu thờ lạy Mình Thánh Chúa Giê-su.
Trước cảnh tượng ấy, các tín hữu Công Giáo vui mừng vỗ tay reo hò để tạ ơn Chúa, đang khi nhóm lạc giáo kia ngơ ngác không biết phải ứng phó thế nào. Cuối cùng ông trưởng nhóm lạc giáo đã chịu thua. Ông đã giữ lời hứa là từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn quay về tin theo giáo huấn chân thật của Hội Thánh Công giáo.
3/. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ tham dự thánh lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban ? 2) Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để giới thiệu Chúa cho tha nhân, nhất là cho những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và được tham phần vào sự sống đời đời ?
4/. SUY NIỆM:
Trong cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, mỗi người cần được ăn lương thực để đủ sức như sau:
*1) Man-na: lương thực bổ sức cho dân Ít-ra-en trên đường về miền đất hứa:
Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và con cháu ông (x. St 12, 5-7).
Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân Ít-ra-en tuy không còn bánh ăn nước uống vật chất như khi ở Ai Cập, nhưng họ lại được Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16, 15) và uống nước từ tảng đá chảy ra (x Xh 17). Nhờ đó họ đã đủ sức vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm để sau cùng về tới được miền Đất Chúa hứa ban cho A-bra-ham và con cháu là xứ Ca-na-an.
*2) Bánh và nước: bổ sức cho ngôn sứ Ê-li-a về tới núi của Chúa :
Sau khi tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men (x. 1 V 18, 20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy bắt, nên ông phải chạy đến Núi Khô-rép để được Đức Chúa bảo vệ.
Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt mỏi và tuyệt vọng, chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng khi đang thiếp ngủ dưới một gốc cây, ông đã được thiên sứ đến đánh thức và mang cho ông bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước của Chúa mà Ê-li-a đã hồi phục sức khỏe và tiếp tục cuộc hành trình tiến về Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19, 1-8).
*3) Man-na Mới: bổ sức cho các tín hữu trên đường về Nước Trời:
Manna xưa là hình ảnh tiền trưng của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giê-su thiết lập. Người đã tự hiến làm lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi nói rằng: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để cho thế gian được sống” (Ga 6, 48.51).
Lương thực nói trên còn là Lời Thiên Chúa như Đức Giê-su đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta là Đức Giê-su (x Ga 1, 14). Người trở thành con đường duy nhất nối liền giữa đất với trời như Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Từ đây ai muốn lên trời phải ăn được hai của ăn Chúa ban là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
*4) Bánh Thánh Thể hôm nay – mầm sống lại của cuộc sống mai sau:
Ngày nay Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể để tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su và mời gọi mọi người chúng ta năng lãnh nhận, để có mầm sống lại trong mình như lời Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Mỗi tín hữu hôm nay phải năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để được hưởng nếm sự ngọt ngào của Chúa Giê-su, hầu có thể vượt qua các thử thách gian nan gặp phải trong cuộc sống. Hãy để Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi chúng ta nên giống Người. Mỗi lần rước lễ chúng ta sẽ cảm nếm được hương vị hạnh phúc thiên đàng, được nghỉ ngơi trong Chúa như lời Chúa hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30). Ai ăn Bánh Thánh Thể sẽ tiếp nhận được mầm của sự sống lại ở đời sau.
5/. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần dự lễ là chúng con được Chúa kêu gọi ăn Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa tặng ban. Khi lên rước lễ là chúng con được đón nhận cả nhân tính và thần tính của Chúa. Xin giúp chúng con siêng năng dự lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo huấn và được Mình Chúa dưỡng nuôi. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người sống trong cùng một nhà, ở chung cùng một khu xóm, cùng học tập trong một mái trường, làm việc trong một cơ quan hay nhà máy… Xin cho chúng con biết đón nhận những người đối xử tốt với chúng con mà cả những kẻ không ưa thích nói xấu chúng con. Xin giúp chúng con mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần để được ơn biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa, và nên anh chị em của mọi người trong gia đình Hội Thánh.
X). HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
TA LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Trong sách các tiên tri có chép rằng: “ Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo “ ( Ga 6, 45 ). “ Mọi người “ đó chính là tất cả chúng ta mà cách riêng là dân Do Thái. Chúa dạy bảo chúng ta là vì Chúa yêu thương chúng ta. Chúa như người cha, người mẹ trong gia đình dạy dỗ con cái để chúng nên người, mà dạy bảo thì có lúc làm cho người được dạy bảo cảm thấy phiền lòng, cảm thấy chói tai, bực bội, khó chịu bởi những lời dạy bảo thực lòng, chân thành. Chúa dạy bảo để chúng ta nên nghĩa thiết với Chúa và có phần lợi cho chúng ta hơn.
Chúa Cha dạy bảo chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta hãy đến vói Chúa vì Chúa là Người Con Một của Chúa Cha, và tin vào Chúa là bánh hằng sống từ trời xuống. Ngày xưa, dân Do Thái kêu trách Chúa khi Chúa nói điều này với họ. Họ hiểu Chúa nói cho nên họ mới kêu trách Chúa, nhưng mà họ lại không tin vào Chúa. Không tin vì lối suy nghĩ thiên kiến, chủ quan, ấu trĩ, cục bộ của họ ( Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Chúng ta biết rõ cha mẹ của ông ).
Chúa vẫn tiếp tục khẳng định Chúa là bánh hằng sống từ trời xuống. Từ trời xuống nghĩa là nguồn gốc của Chúa ở trên trời, do vậy Chúa mới nói đến mối liên hệ giữa Chúa với Chúa Cha. Chúa thấy Chúa Cha. Chúa ở với Chúa Cha. Chúa bởi Chúa Cha mà ra, vì thế khi Chúa nói Chúa là “ Bánh hằng sống từ trời xuống “, thì chẳng phải tự ý Chúa nói mà là Chúa nói theo ý của Chúa Cha. Chúa Cha muốn Chúa nói cho chúng ta biết như thế để chúng ta đến với Chúa. Khi chúng ta nghe lời dạy bảo của Chúa Cha qua Chúa, chúng ta tin Chúa, chúng ta tin bánh hằng sống chính là thịt Chúa, nguồn gốc sự sống đời đời của mỗi người chúng ta và rồi chúng ta khỏi phải chết.
Lạy Chúa, ngày xưa nhờ chiếc bánh lùi và bình nước Chúa ban làm của ăn của uống mà tiên tri Êlia có đủ sức đi bốn mươi đêm ngày đến núi Horeb để gặp Chúa ( Bđ I ). Ngày hôm nay, Chúa ban cho chúng con Mình và Máu Thánh Chúa làm của ăn của uống nuôi sống chúng con, cho chúng con đủ sức đi suốt chặng đường hành trình đức tin tiến về nhà Chúa để gặp Chúa sau này. Trong cuộc hành trình đây, nhờ sức mạnh từ của ăn của uống thiêng liêng Chúa ban đó mà chúng con loại bỏ được mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác khác và sống hiền hậu, thương xót, tha thứ cho nhau và bắt chước Thiên Chúa, sống trong tình thương mến nhau, như Chúa đã yêu mến chúng con ( Bđ II ). Xin Chúa giúp chúng con thường xuyên đến với Chúa, rước Chúa mỗi ngày để nhờ đó mà chúng con sống tốt hơn, ít làm phiền hà Chúa hơn. Amen
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH BỞI TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thân xác con người cần phải được nuôi sống bằng những thực phẩm thông thường như bánh, cơm, thịt, cá… Tuy nhiên, có những thứ khác tuy không phải là thực phẩm như cơm bánh nhưng cũng cần cho sự phát triển trí tuệ con người nên cũng được xem là lương thực – thường được gọi là lương thực tinh thần- như sách, báo và nhiều loại văn hoá phẩm khác.
Lại còn có những thứ “bánh” khác cao cấp hơn, tuy không phải là thực phẩm thông thường như cơm cháo, không phải là lương thực tinh thần như sách báo, nhưng rất cần cho con người được sống và tăng trưởng. Điển hình cho thứ “bánh” nầy là… người mẹ!
Nhà thơ Kiên Giang viết về người mẹ như một thứ “bánh” tối cần cứu ông thoát bệnh và nuôi ông lớn lên thành người:
“Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo.
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mỏi mòn nhịp võng đưa,
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru…” (Trích: Khói trắng của Kiên Giang)
Mẹ là “bánh” rất tuyệt vời cho con, một thứ bánh tối cần cho con được sống; vì nhờ dạ mẹ mà con được tượng hình và được sinh ra; nhờ dòng sữa mẹ mà con tăng trưởng từng ngày; nhờ lời mẹ ru mà con được yên giấc; nhờ sự ấp yêu vỗ về của mẹ mà con được hạnh phúc; nhờ mẹ lo liệu thuốc men mà con thoát khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo; nhờ mẹ kiên trì dạy dỗ mà con được khôn ngoan; nhờ mẹ thương yêu mà con được trở thành người nhân ái…
Thế nên, câu ca dao Việt-nam sau đây ví người mẹ như “chuối bà hương” thơm ngon, như “xôi nếp một” vừa thơm vừa dẻo, như “đường mía lau” đem lại vị ngọt dịu dàng.
“Mẹ già như chuối bà hương, như xôi nếp một, như đường mía lau.”
Tuy nhiên, dù được xem là tấm “bánh” rất cần thiết nuôi con lớn thành người, nhưng người mẹ cũng chỉ là “bánh” thuộc trần gian nên không thể đem lại sự sống đời đời cho con cái. Vì thế, nhân loại cần có một thứ “bánh” cao cấp hơn có thể mang lại cho họ sự sống đời đời. Đó chính là Chúa Giê-su, Ngài là “Bánh trường sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống” như lời Ngài phán:
“Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 48-51).
Đúng vậy,
Lời Chúa Giê-su là “Bánh yêu thương” từ trời ban xuống, giải thoát muôn người khỏi chết vì chia rẽ hận thù, do ngộ nhận “tha nhân là hoả ngục”, là “người xa lạ”, hay thậm chí là địch thù… Nhờ “Bánh” này, nền văn minh tình thương được hình thành, một nhân loại mới được khai sinh, muôn người được khai mở con mắt tâm hồn để nhận ra nhau là anh em con cùng một Cha trên trời, là Chi Thể của Chúa Giê-su và là phần thân thể của nhau (I Cr 15, I Cr 12, Ep 4, 25…). Nhờ đó, nhân loại được lớn lên trong yêu thương.
Cuộc đời Chúa Giê-su là “Bánh phục vụ” từ trời xuống, thúc đẩy muôn người biết sống quảng đại, hy sinh quên mình để phục vụ người khác như Chúa đã nêu gương.
Nhờ “Tấm Bánh Giê-su” được bẻ ra và trao ban mà các tín hữu được nên đồng huyết nhục với Chúa và nhận được sự sống đời đời do Ngài ban tặng.
Khi tự giới thiệu mình là “Bánh” cho trần gian, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài là Đấng tuyệt đối cần thiết cho sự sống và hạnh phúc của loài người, không có Ngài, nhân loại không thể tồn tại và có được bộ mặt nhân ái như hôm nay.
Muốn hấp thụ cơm bánh hằng ngày, người ta cho nó vào miệng rồi nhai và nuốt; còn muốn hấp thụ “Bánh bởi trời”, người ta phải đón nhận Chúa Giê-su và tin vào Ngài như lời Ngài phán: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ.” (Ga 6, 35). “Tôi bảo các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh.” (Ga 6, 48)
Ăn “Bánh Giê-su” theo trích đoạn Tin Mừng nầy có nghĩa là tin vào Chúa Giê-su, nhưng không phải là tin suông, mà là sống theo giáo huấn của Chúa Giê-su, noi gương bắt chước Ngài và sống như Ngài đã sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con đã không tiếc thời gian và công sức để kiếm cơm bánh nuôi sống thân xác mau hư nát nầy thì xin cho chúng con cũng đừng tiếc thời gian để đến với Chúa là “lương thực” thường tồn mang lại sự sống đời đời cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN-B
BÁNH HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
*Bánh Hằng Sống
Từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết, thì niềm mơ ước bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu thì dân chúng liền ùa đến nghe Ngài nói.
Đám đông dân chúng Do Thái rất chú tâm đến vấn đề này vì kể từ thời Abraham và Moisen họ triền miên sống trong mù mịt, chẳng hiểu chút gì về những điều xảy đến cho những người đã chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết”, nhưng họ chẳng có một khái niệm gì về thế giới ấy, vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào sự bí nhiệm này. Khi nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Nhưng còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trường sinh.
*Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể
Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ «ăn» và «uống», «thịt» và «máu» theo nghĩa tâm linh. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu.
Bản chất của Đức Giêsu là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể «ăn» và «uống» Mình Máu Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là một vị thần linh. «Ăn» và «uống» Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên như Ngài, nói cụ thể hơn là giống như Ngài, trở nên một với Ngài.
Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã nói: Ai uống nước tôi cho, «nước» ở đây chính là bản thân Ngài, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn «vọt lên». Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.
*Bánh Hằng Sống chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh Ta ban là chính Thịt Ta để cho thế gian được sống”. Có lẽ chúng ta vẫn chưa xác tín vào lời của Chúa. Chúng ta vẫn chưa tin đủ mỗi khi chúng ta rước lễ, chính là lúc chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thì đây là một bằng chứng cụ thể để củng cố đức tin của chúng ta nơi bí tích Thánh Thể.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano, nước Ý. Cha Basiliô, đã dâng Thánh Lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa, thì Chúa đã làm một phép lạ như một bằng chứng cụ thể về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi cha Basiliô truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên Máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Một cuộc khảo sát khoa học được thực hiện vào năm 1971 cho biết, thịt đây là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu của một người thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713 và thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban đức tin cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH TỪ TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.
I. Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần
Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.
Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.
Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.
II. Đức Giêsu là bánh từ trời
Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!
Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.
Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.
III. Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa
Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.
Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.
Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1/.Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi?
2/. Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- B
TÔI LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.
Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.
Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.
Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.
Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxixthuongnienb