CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession 6
GIỚI RĂN MỚI- Chú giải của Fiches Dominicales. 12
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 17
NHƯ THẦY ĐÃ YÊU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
DẤU CHỨNG TÌNH YÊU LỚN NHẤT- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt 49
YÊU NHƯ CHÚA YÊU– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt. 55
ANH EM HÃY YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 60
GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU– Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy 65
YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY- Lm. Đan Vinh HHTM.. 70
YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 83
DÒNG SUỐI YÊU THƯƠNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 89
ĐIỀU RĂN CỦA THẦY- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD.. 94
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU- Lm. Giacôbê Tạ Chúc.. 97
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng.. 100
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Cv 10, 25-26. 34-35. 44-48
“Ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Phêrô vừa vào nhà, thì Cornêliô ra đón ngài, và sấp mình dưới chân ngài mà lạy. Phêrô liền đỡ ông dậy và nói rằng: “Xin ông chỗi dậy, vì chính tôi cũng chỉ là người”.
Phêrô lên tiếng nói rằng: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!”
Phêrô đang nói các lời đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi kẻ đang nghe lời. Các tín hữu đã chịu cắt bì, những người đã đến cùng Phêrô, đều sửng sốt, khi thấy ơn Thánh Thần cũng đã tuôn đổ xuống trên các dân tộc; vả lại họ nghe các người ấy nói nhiều thứ tiếng và ngợi khen Thiên Chúa. Bấy giờ Phêrô lên tiếng nói rằng: “Ai có thể ngăn cản ta lấy nước mà rửa cho những kẻ này, khi họ đã nhận lãnh Thánh Thần như chúng ta?” Và ngài truyền rửa tội cho họ nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Bấy giờ họ xin ngài ở lại với họ ít ngày.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (x. c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.
BÀI ÐỌC II: Ga 4, 7-10
“Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta”.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 15, 9-17
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession
Theo Thánh Gioan, vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu đã bày tỏ cho các bạn của Người viễn ảnh “Chương trình của Thiên Chúa trên thế giới”, và ý nghĩa của việc hiến dâng sự sống cho đến chết của Người.
Trong trang sách đáng yêu này của Thánh Gioan là một bài hát ca tụng tình yêu. Danh từ “yêu” “tình yêu” “ban”, được lặp lại 11 lần… và được dùng với từ “giới răn”. Đối với Đức Giêsu, niềm vui của người được yêu, đó là làm theo ý muốn của người yêu mình.
Ta không thể không để ý đến sự “sinh động” trong trang sách này: Như một bài hát nội tâm, những điệp khúc có cùng một trọng tâm xuất hiện, biến đi và trở lại như những đợt sóng vỗ vào bờ, như giòng thác từ trên đổ xuống từ Thiên Chúa rồi lại trở về nguồn là chính Người.
Trọng tâm của mạc khải này là: Niềm vui “Ta đã nói những điều này cho các con để chia sẻ ‘niềm vui của Ta’, và để các con được tràn đầy niềm vui”.
Vào giờ Đức Giêsu bước từ thế giới này sang bên kia với Chúa Cha, Người nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Đây là những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giêsu, đêm trước người “ra đi”. Đối với Đức Giêsu, tất cả bắt đầu trong huyền nhiệm của Thiên Chúa, trong vực thẳm vô hình là “Nguồn” của tất cả mọi sự. Nơi Thiên Chúa, không có sự cô độc không có buồn bã, nhưng có niềm vui yêu thương luôn hiện diện giữa ba Ngôi vị hằng yêu thương nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha yêu Chúa Con, và hai Đấng thông chuyển niềm vui yêu thương này cho Chúa Thánh Thần. Tình yêu vô hình đó, một ngày kia đã hiện thân trong một con người, là Giêsu thành Nagiarét. Huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, có thể ngắm nhìn và cảm nhận được tình yêu này đã làm xúc động trái tim một con người: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy”.
Thầy cũng đã yêu thương anh em.
Nhưng giờ đây, trong con người Chúa Giêsu, mãnh lực tình yêu bắt đau lan ra khắp nhân loại. Thiên Chúa chia sẻ tình yêu của Người, nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không bao giờ được quên Chúa Giêsu đã hành động thế nào để yêu thương chúng ta.
Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.
Câu nói: “Thầy thương yêu anh em” của Chúa Giêsu hàm ẩn sự mê say. Một say mê tình yêu điên cuồng và vô biên: Người vẫn thương yêu những kẻ thuộc về mình còn ở trên trần gian, Người thương yêu họ đến tận cùng” (Ga 13,1). Tột đỉnh của tình yêu chính là Thập giá vinh quang. Đấy là vinh quang của Chúa Giêsu và niềm vui tình yêu vô tận.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thay gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết.
Chúa Giêsu dám nói rằng, Người xóa bỏ sự phân biệt giữa “Thầy và tôi tớ”, giữa “Thiên Chúa” và “Con người”. Từ nay chỉ còn là “Bạn hữu”. Không có gì giấu diếm nhau. Tình yêu có khuynh hướng chia sẻ để tất cả là của chung.
“Tất cả những gì ‘Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết”. Tình yêu khước từ sự “thống trị” người khác nhưng luôn tôn trọng và làm cho người kia “bằng” chính mình.
Qua những kinh nghiệm về tình yêu của con người, chúng ta biết rằng, hai người yêu nhau thường hướng đến sự trong sáng: tình yêu là trao đổi, là hiệp thông. Ta tự tỏ ra cho người kia biết. Chúa Giêsu đã nói: Tất cả những gì Thầy đã nghe được ở Chúa Cha, Thầy đã tỏ ra cho anh em biết. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã nói hết tất cả, không còn gì khác để biết về Thiên Chúa nữa. Thien Chúa đã nói tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa.
Đây là điều răn của Thầy: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”.
Giòng sông tình yêu của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy. Nước của giòng thác, khi rơi xuống đất, trải ra, bắn tung lên. Con người khi được Thiên Chúa “yêu thương” chính họ cũng phải trở nên tình yêu theo hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa: “như Chúa Cha thương yêu Thầy, Thầy thương yêu anh em” “Như Thầy thương yeu anh em, anh em hãy thương yêu nhau”.
Chúng ta đừng đọc lướt quá nhanh chữ “cũng như” huyền nhiệm này. Lạy Chúa, Chúa dẫn chúng con đi tới đâu? Chúa yêu cầu chúng con thương yêu đến mức nào? tình yêu của Chúa đã đưa Chúa đen đâu? “Không ai có tình yêu lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Yêu thương đến hy sinh mạng sống của chính mình. “Đây là Mình Thầy, bị trao nộp, đây là Máu Thầy bị đổ ra. Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, hãy làm việc này như chính Thầy” Giới hạn của tình yêu đó là trao tặng không hạn giới mức độ đo lường. Tình yêu là Thập giá. Thương yêu, thương yêu và yêu thương. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Yêu thương là giới răn của Chúa và dường như chỉ có một giới răn duy nhất đó. Giới răn này làm Chúa quan tâm nhất. Khi con yêu thương tha nhân, con làm điều mà Chúa đã luôn luôn làm. Khi yêu thương, chúng ta làm cho “Thiên Chúa ngự trị” và tạo được một khung trời đẹp cho con người. Tôi duyệt xét lại cuộc sống cụ thể của tôi dưới ánh sáng này. Người này, người kia đối với tới họ là ai? Tôi phải thương yêu ai? Tôi phải chịu trách nhiệm về ai? Ai đang mong đợi gì ở tôi? thái độ của tôi đối với người xung quanh, gia đình và đồng nghiệp thế nào?
Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy. Anh em là bạn hữu của Thầy. Nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Đối với nhiều người trong thời đại chúng ta, động lực tình yêu dừng lại ở sự đoàn kết với anh em. Những đôi vợ chồng, những gia đình, và các chủng tộc cần phải thương yêu lẫn nhau. Lúc bấy giờ ta có thể nói đến “chân trời tình yêu” (tình yêu theo một chiều ngang); vũ trụ của con người giới hạn ở chân trời trên mặt đất.
Đối với Chúa Giêsu, rõ ràng có một “chiều dọc thẳng đứng” kép đôi xuyên qua con người: Tình yêu từ trên cao Thiên Chúa đến với chúng ta, cũng phải trở về chốn cao sang, trở về với Thiên Chúa. Còn phải có một số rất đông người trở thành “Môn đệ của Chúa”, nghĩa là nhưng người ý thức được những gì đang diễn ra tuồng tình yêu ở nơi trần thế. Phải nhận ra tình yêu, phải nhận biết Thiên Chúa và yêu mến người. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu này: “Anh em hãy trung tín, và ở trong tình yêu của Thầy, anh em hãy là bạn hữu của Thầy. Những môn đệ của Chúa Giêsu, các Kitô hữu, là thành phần của nhân loại đang mến Chúa Giêsu một cách có ý thức: Trách nhiệm vô cùng lớn lao!
Nói cho cùng loài vật cũng thương yêu lẫn nhau. Nhưng con người trong vũ trụ chẳng những có khả năng sống năng lực tình yêu lớn lao này, mà còn biết được khả năng này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để tạ ơn Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu.
Cũng như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người.
Lúc bấy giờ vòng chuyển động đã hoàn tất. Chuyển động vĩ đại, phát xuất từ Chúa Cha, đã trở về với cội nguồn, và chúng ta có thể chiêm ngắm viễn tượng mà Chúa Giêsu đang có về con người. Một nhân loại được Thiên Chúa thương yêu. Một Thiên Chúa Cha. Một nhân loại huynh đệ, thương yêu lẫn nhau. Một nhóm môn đệ, một Hội Thánh biết nhận ra tình yêu của Thien Chúa Cha.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Niềm vui của Chúa Giêsu là được Chúa Cha thương yêu và yêu thương anh em, là nhận ra Chúa Cha va yêu mến Người. Niềm vui phải là đặc tính của người Kitô hữu, đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu.
‘Thế mà có một số người thường hỏi: trở nên người Kitô hữu thì có khác gì.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
GIỚI RĂN MỚI- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
*1) “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”
Bài Tin Mừng trích trong chương 15 của thánh Gioan nối tiếp đoạn Tin Mừng tuần trước. Như bức tranh in chìm trong giấy, biểu tượng Cây Nho chỉ tái hiện vào cuối đoạn Tin Mừng. Nó nhường chỗ cho điều làm nền tảng cho nó: Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Chuyển động vòng tròn của việc độc thoại về đời sống cộng đoàn các môn đệ sau khi Người “về” cùng Cha, vốn là tiêu biểu của tư tưởng của thánh Gioan. Một tình yêu duy nhất, nhưng không ngừng trào tràn:
– từ Chúa Cha qua Chúa Con: “Như Cha đã yêu Thầy”
– từ Chúa Con qua cac môn đệ: “Thầy cũng yêu anh em”
– rồi giữa các môn đệ với nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như thế là trung tín với giới răn của Người và ở lại trong tình yêu của Người, như thế họ sẽ được “tràn đầy niềm vui”.
Từ ngữ chìa khoá của chuyển động vòng tròn này là “tình yêu” (tiếng Hy lạp: agape), được sử dụng 12 lần trong bản văn này, dưới những hình thức khác nhau. A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em (Tin Mừng theo thánh Gioan Centurion, trang 202).
*2) “Như Thầy đã thương anh em, anh em hãy thương nhau”
Vừa khẳng định: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”, Đức Giêsu nói tiếp ngay: “Giới răn của Thầy là anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em”. Hai từ “như” nói lên mầu nhiệm sâu xa nhất của mặc khải. Marchadour lưu ý ta: Đó không phải là một lối so sánh, nhưng là một đào sâu, một thiết lập nền tảng. Ở đây Gioan nói về tình yêu mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, đã biểu lộ trên thập giá (3,16), là kiểu mẫu phải qui chiếu, tình yêu đó là nền tảng của cộng đoàn mới: “Phần chúng ta, chúng ta yêu thương vì Người đã yêu thương ta trước” (1 Ga 4, 19)” (Sđd, trang 202).
Chính do cách thực hiện lời Người truyền: yêu nhau, mà Đức Giêsu nhận ra họ là môn đệ Người, mà Người trở nên “bạn hữu” của họ khi Người chia sẻ cho họ điều thiết thân nhất: sự hiểu biết Chúa Cha.
Từ bao đời, sự gần gũi với Thiên Chúa là ước mơ của con người. Trong Cựu ước, vài người bạn của Thiên Chúa như Abraham, đã gặp gỡ Thiên Chúa như gặp một người thân. Môsê cũng đã sống cái kinh nghiệm thần bí ấy, “Yahvê đã chuyện trò với Môsê diện đối diện, như người ta chuyện vãn với bạn bè” (Xh 33, 11).
Đó là đặc quyền Đức Giêsu dành cho những ai chấp thuận làm môn đệ Người. Thực ra, tình yêu này không phải do người tín hữu chọn mà được; chính Đức Giêsu chọn lựa bạn hữu của Người (6,70; 13,18). Đó là một ân ban nhưng không để con người không thể tự mãn (Sđd, trang 202).
BÀI ĐỌC THÊM.
*1) “Con đường tình yêu”. (Đức Cha L.Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 194).
Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới răn mới (13,34). Người nhắc đi nhắc lại 2 lần: “Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em. Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy thương nhau”. Người dạy ta một cách yêu thương mới. Tình yêu tự nhiên bộc phát phải chăng là mối tình có lợi cho ta, giup ta phát triển. Một tình yêu dựa trên sự hấp dẫn, cảm tình; một tình yêu không những trong đó ta vẫn là ta, mà ta còn cảm thấy mình được đánh giá cao, có cảm giác mình lớn lên khi cho và nhận. Thứ tình yêu bè bạn, tình yêu hôn phối như thế đúng là một lý tưởng giúp ta triển nở. Tự nhiên ta dễ cảm xúc trước mặt tình yêu như vậy. Chính Đức Giêsu cũng đã biết đến thứ tình bạn rất nhân loại ấy, Người yêu thương Mátta, em gái bà và Ladaro (11, 5).
Nhưng Người muốn ta tiến xa hơn trong tình yêu. Người muốn đưa ta lên đến tận ngọn nguồn tình yêu: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương các con: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”: Điều Đức Giêsu mong đợi, mời goi các môn đệ, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, để yêu như Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn nhưng không. Đó thật là một quà tặng. Tình Yêu Thiên Chúa thì phổ quát Người cho mặt trời mọc lên soi người lành cũng như kẻ dữ, cho người công chính cũng như kẻ bất lương! Trái tim Thiên Chúa vui rộn ràng khi thấy kẻ tội lỗi ăn năn hối cải, Người không ngừng kêu gọi, Người sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai trở ve với Người. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến nỗi đã ban Con Một mình! Tin Mừng có gì khác hơn là một mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã biểu lộ khi Người yêu ta đến cùng? Thiên Chúa là tình yêu. Làm sao ta có thể yêu như Thiên Chúa được?
Đức Giêsu vạch cho ta một con đường. Nếu muốn học yêu như Chúa, ta hãy để Người chỉ dạy. Ta đâu phải là người mở ra con đường tình yêu. Chính Lời Chúa chỉ cho ta. Ta phải nghe và trung thành tuân giữ Lời Chúa. Như thế là ta thực tập yêu theo đường lối của Thiên Chúa: “Nếu anh em tuân giữ điều răn của Thầy anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy tuân giữ điều răn của Cha nên Thầy ở trong tình yêu của Cha”. Đó không phải chỉ là cảm tính. Đó là sự hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa. Đó là sự hoà hợp giữa đời sống của ta với đời sống của Đức Giêsu. “Không ai có tình yêu lớn hơn người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu”. Đức Giêsu, người mục tử tốt lành, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Người kêu mời ta; hãy làm đầy tớ phục vụ anh em, hãy hiến mạng sống vì anh em. Người mời gọi ta yêu đến cùng như Người: “Như Thầy đã yêu anh em “.
Lời mời gọi này quả là một thách đố bất khả kham nếu chỉ nhắm vào sức riêng của ta. Tình yêu trong ta không phải là kết quả của năng lực riêng của ta. Nếu Đức Giêsu trao phó cho ta sứ mệnh yêu như Người, thì chính Người làm trổ sinh trong ta những hoa trái của một tình yêu như thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại”. Vì thế chỉ có ta mới có thể loan báo tình yêu đến cùng và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta. Biết được nguồn mạch phát sinh tình yêu ấy rồi, ta sẽ tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ay trong ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con”.
*2) “Như” từ ngữ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị quên lãng. (F. Deleclos, trong “Hãy cầm lấy mà ăn Lời”, Centurion-duculot, trang 124).
Hãy yêu thương nhau. Lời trích dẫn thiếu sót ấy có thể chẳng đi đến đâu nếu ta không quy chiếu về khuôn mẫu, không vượt qua được những khía cạnh cảm tính, hời hợt và chiếm hữu của tình yêu.
Để hiểu biết thực tại, phải ngụp lặn trong dòng sông huyền nhiệm mà Tin Mừng thánh Gioan trình bày cho ta. Không mơ mộng đâu, nhưng đó là lời tâm huyết của con Người. Một xâm chiếm khu vườn bí ẩn của Thiên Chúa nhập thể, một tuyen ngôn tình yêu, thú nhận một tâm tình dịu dàng vô biên: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”. Khó tin, nhưng có thật! Người nói với cả tôi nữa đấy. Người nài nỉ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy; để niềm vui của Thầy ở trong anh em và anh em được tràn đầy niềm vui”. Nhưng tình yêu có qui luật ở lại trong ta để trái tim ta có thể đập nhịp đập của trái tim Người; để tâm tư, hành động của ta rập khuôn theo tâm tư và hành động cua Người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. “Như”, từ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị lãng quên.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48
Đoạn trích sách Công Vụ tường thuật thánh Phê-rô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo tên là Co-nê-li-ô. Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Ngài trên viên sĩ quan lương dân nầy cùng thân bằng quyến thuộc của ông; như vậy, cho thấy tình yêu Thiên Chúa được ban cho hết mọi người không loại trừ bất kỳ ai.
1Ga 4: 7-10
Trong đoạn trích thư thứ nhất này, thánh Gioan ca ngợi tình yêu Thiên Chúa đi bước trước: “Tình yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Ga 15: 9-17
Sau dụ ngôn về “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và qua họ với tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48)
Câu chuyện nầy thuật lại một biến cố đặc biệt nhất trong sự nghiệp tông đồ của thánh Phê-rô và mang tính quyết định nhất đối với việc phát triển Giáo Hội tiên khởi: chấp nhận một lương dân và thân bằng quyến thuộc của người nầy gia nhập cộng đoàn Ki-tô giáo, không cần qua luật Mô-sê, nhất là phép cắt bì. Một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã bắt buộc vị lãnh tụ các Tông Đồ thực hiện điều nầy.
Người lương dân nầy tên là Co-nê-li-ô, viên sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rô-ma đồn trú tại thành Xê-da-rê. Viên sĩ quan nầy là một người trong số những người có thiện cảm với Do-thái giáo, được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Họ là những người nhận ra vị Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, cầu nguyện với Ngài và cứu trợ cộng đồng Do-thái, nhưng không gia nhập vào cộng đồng nầy, khác với những tân tòng, nghĩa là những người chấp nhận phép cắt bì, tuân giữ ngày sa-bát và những đòi hỏi khác của luật Mô-sê.
*1.Thái độ của thánh Phê-rô (10: 25-26):
Chấp nhận lời mời của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thân hành đến nhà ông. Hoạt cảnh được thánh Lu-ca tường thuật thật cảm động. Sự kiện thánh Phê-rô vào nhà một người lương dân, thì thật khác thường. Như chúng ta biết, người Do thái cấm không được giao tiếp với lương dân, cốt là tránh tất cả sự nhiễm uế ngoại giáo.
Việc ông Co-nê-li-ô đón tiếp thánh Phê-rô cũng thật khác thường: “Khi thánh Phê-rô bước vào, thì ông Co-nê-li-ô liền ra đón và phủ phục dưới chân vị Tông Đồ mà bái lạy” (10: 25). Thái độ của viên quan Rô-ma nầy cũng thật đáng ngạc nhiên. Việc phủ phục là một nghi lễ Đông Phương được dành cho các vị thần linh và các bậc vua chúa. Trước cử chỉ tôn kính của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô phản ứng: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (10: 26). Có lẽ thánh nhân nghĩ đến hình ảnh người phong hủi và người đàn bà tội lỗi đã phủ phục dưới chân Thầy mình. Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa trong khi thánh nhân chỉ là một người môn đệ khiêm tốn của Đức Giê-su.
*2.Diễn từ của vị lãnh tụ Tông Đồ (10: 34-35):
Bài diễn từ của thánh nhân cũng khác thường. Số người tham dự thì đông: “Ông Co-nê-li-ô cho mời thân bằng quyến thuộc đến” (10: 24). Vào lúc đó, thánh Phê-rô công bố những điều thật bất ngờ: không còn một dân đặc quyền đặc lợi nữa, Thiên Chúa không thiên vị người nào hay dân tộc nào, “nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (10: 34-35). Qua đó, vị lãnh tụ Tông Đồ nhận ra chiều kích mới của dân Thiên Chúa.
*3.Hoạt động của Chúa Thánh Thần (10: 44-48):
Sau cùng, hoạt động của Chúa Thánh Thần cũng khác thường. Sách Công Vụ làm chứng rằng Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Giáo Hội tiên khởi. Vì thế, không phải là vô căn cứ khi sách Công Vụ Tông Đồ được gọi là “sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Chính Chúa Thánh Thần đã xếp đặt cuộc gặp gỡ giữa thánh Phê-rô và ông Co-nê-li-ô. Chính Ngài đã ban cho cả hai người thị kiến hay xuất thần; chính Ngài làm gián đoạn bài diễn từ của vị Tông Đồ để tỏ mình ra và ngự xuống trên mọi người. Có mấy anh em ở Gia-phô, tức các Ki-tô hữu gốc Do thái, cùng đi với thánh Phê-rô (Cv 10: 23). Họ vô cùng kinh ngạc vì những dấu chỉ đặc sũng làm chứng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi lương dân, ngay cả trước khi những lương dân nầy lãnh nhận phép Rửa. “Lễ Ngũ Tuần lương dân” nầy, khá giống với Lễ Ngũ Tuần trước đó tại Giê-ru-sa-lem, cho thấy Thiên Chúa có sáng kiến ban tặng muôn vàn thiên ân cho “những ai ăn ngay ở lành”.
Đối với Giáo Hội tiên khởi, đây là một mặc khải và là một cuộc cách mạng. Chính thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, ý thức đầu tiên về điều nầy. Với những người lương dân nầy mà Chúa Thánh Thần chỉ định, thánh nhân mở rộng cánh cửa Nước Trời khi “truyền làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” (10: 48).
BÀI ĐỌC II (1Ga 4: 7-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong đoạn trích nầy, chúng ta gặp lại chủ đề mà thánh Gioan không ngừng lập đi lập lại: “Tình yêu Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (4: 7), xoay quanh hai ý tưởng. Trước hết, Thiên Chúa là Tình Yêu, vì thế tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa. Sau nữa, Thiên Chúa chứng thực tình yêu của Ngài ở nơi việc Ngài đã ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
*1.Tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa.
Trong chỉ vài lời, thánh Gioan đặt nền tảng cho “sự hiểu biết” Ki-tô giáo đích thật. Trái với những khẳng định của các ngôn sứ mạo danh, những kẻ làm xáo động các tín hữu, thánh nhân quả quyết rằng chúng ta biết Thiên Chúa không bởi ánh sáng thần khải, cũng không bởi những suy luận thuần túy trừu tượng, nhưng từ thành quả của một kinh nghiệm của đức ái: yêu thương nhau như Thiên Chúa yêu thương chúng ta. “Tình Chúa đối với chúng ta” là khuôn vàng thước ngọc và là nguồn mạch của mọi tình yêu. Di sản Do-thái rất dễ nhận ra ở nơi đoạn trích dẫn nầy: lời quả quyết được diễn tả vừa theo hình thức khẳng định: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (4: 7) vừa theo hình thức phủ định: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (4: 8). Đây là nét đặc trưng của lối hành văn Do-thái.
Như vậy, “biết Thiên Chúa” nhờ kinh nghiệm của đức ái nầy, vừa trải rộng cho hết mọi người vừa hướng về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, đưa chúng ta dự phần vào cùng một cuộc sống với Thiên Chúa, chia sẻ cùng sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan không giới hạn viễn cảnh chỉ vào đức ái Ki-tô giáo. Cũng như trong Tựa Ngôn, thánh Gioan đã nhấn mạnh chiều kích phổ quát: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
*2.Thiên Chúa chứng thực tình yêu của Ngài ở nơi việc Ngài ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
Trong bức thư nầy, những lời khuyên bảo và những lời nhắc nhở về đạo lý được quyện vào nhau. Điều quan trọng là giúp các Ki-tô hữu kiên vững trong niềm xác tín của mình khi phải đối mặt với những kẻ muốn loại bỏ tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể khỏi Tin Mừng, và vì thế, đánh mất cả ơn Cứu Độ. Ấy vậy, nhờ sự kiện Nhập Thể, Đức Ki-tô mới có thể dâng hiến thân thể của mình thành của lễ. Đó là bằng chứng xác thực nhất và cao cả nhất cho thấy tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
“Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian” (4: 9). Diễn ngữ nầy chỉ được gặp thấy nơi bút pháp của thánh Gioan. Trong thư thứ nhất nầy, cũng như trong Tựa Ngôn và trong Tin Mừng Gioan, đều có chung tư tưởng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16).
Nhập Thể đã thúc đẩy tình yêu Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa khi “Sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (4: 10). Như vậy, Nhập Thể và Ơn Cứu Độ là hai mặt của một thực tại, không thể nào bị loại ra khỏi Ki-tô giáo. Chúng không là những khái niệm xuất phát từ những suy luận phàm nhân, nhưng là những sáng kiến đến từ Thiên Chúa và chứng thực chân lý hàng đầu và căn bản nầy: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Gioan nhấn mạnh hơn ai hết tình yêu Thiên Chúa. Bản văn Tin Mừng hôm nay cũng dâng hiến những âm vang thư thứ nhất nầy.
TIN MỪNG (Ga 15: 9-17)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ “Diễn Từ Cáo Biệt” của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài. Đoạn Tin Mừng nầy tiếp liền sau dụ ngôn về “Cây Nho Thật” được Đức Giê-su công bố vào Chúa Nhật trước. Trong dụ ngôn về “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su đã cho thấy cành nho chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu gắn liền với cây nho. Cũng vậy, các môn đệ dự phần vào sự sống Thiên Chúa và sinh hoa kết trái chỉ khi nào kết hiệp với Ngài. Qua hình ảnh nầy, Đức Giê-su diễn tả mối liên hệ mới mà Ngài đến thiết lập giữa Thiên Chúa với con người: mối tâm giao chan chứa yêu thương.
*1.Tình yêu của Đức Giê-su đối với các môn đệ của Ngài (15: 9):
Trong bầu khí ly biệt nầy, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài, những người mà Ngài yêu thương cho đến cùng (13: 1), bằng một cung giọng rất mực trìu mến: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (15: 9).
Ở đây, chúng ta chạm đến đỉnh cao của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối liên hệ Phụ Tử độc nhất. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào những mối liên hệ giữa Cha và Con được nêu lên, đều được liên kết vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại. Điều nầy vén mở rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì tập trung vào chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta. Tình yêu mà Chúa Cha dành cho Chúa Con, cũng chính là tình yêu Chúa Con dành cho các môn đệ của mình.
*2.Tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giê-su (15: 10-11)
Về phần mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu mến Ngài, không là một thứ tình cảm trừu tượng, nhưng nhất mực trung thành với các điều răn của Ngài: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (15: 10).
Chúng ta đã thấy rồi, động từ “ở lại” là động từ chủ chốt của Tin Mừng Gioan. Trong chương 15 nầy, động từ “ở lại” xuất hiện mười ba lần, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, đức ái mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài, thực hành những huấn lệnh Tin Mừng; bên trong, tăng cường mối liên hệ với Đức Ki-tô.
“Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn” (15: 11). Thật là mâu thuẩn biết bao, “niềm vui” nầy được công bố bởi Đức Giê-su. Ngài sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Và cũng thật mâu thuẩn biết mấy, niềm vui mà Ngài hứa với những môn đệ của Ngài, những người sắp phải chịu cơn choáng váng đến tận cùng nỗi tuyệt vọng khi chứng kiến cái chết của Ngài. Tuy nhiên, niềm vui nầy được định vị ở trung tâm lập luận: vui trong bầu khí thân tình giữa Thầy và trò nầy. Đó sẽ là cách thế hiện diện mầu nhiệm của Ngài ở nơi họ, nhờ đó họ sống sự sống của Ngài. Đó là niềm vui “không ai lấy mất đi được”, như Ngài sẽ xác định ngay sau đó (16: 22).
*3.Tình yêu của các môn đệ đối với nhau (15: 12-17):
Trong Diễn Từ Cáo Biệt, những lời dặn dò sau cùng nầy, những lời trăn trối này, những lời tâm huyết nầy, được cô động ở nơi lệnh truyền duy nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau” (15: 12a). Người ta đã đọc thấy từ lâu trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Tuy nhiên, lệnh truyền hãy yêu thương nhau mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ của Ngài có tầm mức vượt quá mọi mức độ, không còn tình yêu quy chiếu về chính mình, nhưng quy chiếu về chính Ngài: “Như Thầy đã yêu thương anh em” (15: 12b). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giê-su là khuôn mẫu tình yêu của Đức Giê-su đối với các môn đệ; đến phiên các môn đệ, tình yêu của Đức Giê-su đối với họ phải là khuôn mẫu tình yêu của họ đối với nhau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (15: 13).
“Những người mà Đức Giê-su yêu thương”, trước hết là các môn đệ của Ngài đang vây quanh Ngài và lắng nghe lời Ngài, những người mà Ngài gọi là “bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (15: 14-15). Đó là những người “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (15: 16).
“Những người mà Đức Giê-su yêu thương”, cũng là tất cả những ai mà Ngài đã hiến dâng mạng sống mình cho họ. Lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” phải rộng mở bao la như tình yêu của Đức Giê-su dành cho nhân loại.
Tuy nhiên, cung giọng trực tiếp của Ngài là cung giọng chứa chan tình thương mến, cả với tư cách con người lẫn tư cách Thiên Chúa. Chính bằng cung giọng chan chứa tình thương mến nầy mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ vào lúc từ giả các ông ra đi. Tấm lòng nhân ái của Ngài để lộ chiều kích sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHƯ THẦY ĐÃ YÊU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Bấy lâu nay, chúng ta cứ tưởng mình đã biết Thiên Chúa. Nhưng trong Thánh lễ này, thánh Gioan khuyến cáo chúng ta rằng “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”. Thánh Gioan còn nói “Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra”. Hóa ra bấy lâu này chúng ta chưa thực sự là con cái Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương để từ nay xứng đáng là con cái của Ngài.
*II. Gợi ý sám hối
– Xin Chúa tha thứ những việc làm, lời nói và ý tưởng của chúng ta nghịch lại với đức yêu thương.
– Xin Chúa tha thứ vì tình thương của chúng ta còn quá giới hạn và ích kỷ, chưa biết yêu “như Chúa đã yêu”.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta chưa dám hy sinh vì những người mình yêu.
*III. Lời Chúa
*Bài đọc I (Cv 10, 25-26. 34-35. 44-48)
Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong cuộc sống của Giáo Hội.
– Do thái giáo xưa nay coi ơn cứu rỗi là độc quyền của dân do thái, cho nên không bao giờ chấp nhận cho một người dân ngoại làm tín hữu chính thức. Cùng lắm, nhưng người “ngoại” ấy chỉ được làm “kẻ kính sợ Chúa” mà thôi.
– Cornêliô là một người ngoại. Còn Phêrô đang là lãnh đạo của Giáo Hội. Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đã mở toang cánh cửa Giáo Hội để từ nay bất cứ người nào cũng có thể gia nhập Giáo Hội.
Bước ngoặc quan trọng này do Chúa Thánh Thần thúc đẩy (chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích Phêrô đến nhà ông Cornêliô) và Chúa Thánh Thần chuẩn nhận (Khi Phêrô đang nói thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang có mặt trong nhà ông Cornêliô).
*Đáp ca (Tv 97)
Lời Tv rất thích hợp để diễn tả tâm tình hân hoan sau sự kiện Phêrô rửa tội cho gia đình ông Cornêliô: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công… Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân… Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
*Tin Mừng (Ga 15, 9-17)
Tiếp tục dụ ngôn Cây nho và cành nho.
Đức Giêsu dạy: “Hay ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”.
Lòng “Yêu mến nhau” mà Đức Giêsu muốn các môn đệ mình có phải vươn tới những mức độ sau đây:
+ “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”
+ “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”
*Bài đọc II (1 Ga 4, 7-10)
Câu quan trọng nhất trong đoạn thư này là câu định nghĩa “Thiên Chúa là Tình yêu”. Từ đó sinh ra những hệ luận:
+ Chúng ta hãy yêu thương nhau.
+ Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.
*V. Gợi ý giảng
* 1. “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình”. Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ”. Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em. Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: “Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ơ đó”. Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó.
* 2. Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo đức và hỏi:
– Ngài có tin Thiên Chúa không?
– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao ma cảm nhận được như thế?
– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
– Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”
Thực vậy, Tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yeu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì bực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu. (Viết theo Flor McCarthy).
* 3. Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều Bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được cac giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có 3 chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
+ Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
+ Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau nay theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bạn bè thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
+ Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Có những người mà tự nhiên ta cảm thấy xa cách, khó ưa và không thể nào yêu thương được. Chẳng hạn như trong chế độ buôn bán nô lệ, rất khó có được tình yêu thương giữa một người da trắng tự do và một người da đen nô lệ. Những người da trắng thời đó coi những người nô lệ da đen như một con vật biết nói, bắt họ phải làm việc cho mình, đánh đập họ, khi chán họ thì bán cho người khác, khi tức giận thì còn có thể giết họ bỏ. Thời đó người da trắng không thể nào yêu thương người da đen. Tại sao? Vì họ khinh miệt người da đen, nói khac đi, họ không tôn trọng người da đen. Như Bác Tôm là một người da đen, bác rất tốt, bác làm việc giỏi, bác lại có lòng đạo đức. Thế nhưng những đức tính ấy không khơi lên lòng tôn trọng và do đó lòng yêu thương của ten lái buôn nọ. Ngược lại, bác càng tốt càng giỏi chừng nào thì hắn càng muốn bắt Bác đi làm món hàng mua bán chừng nấy, vì chính những đức tính ấy càng làm cho bác thành một món hàng cao giá. Còn đối với ông Senbi, tuy là một chủ da trắng nhưng lại yêu thương bác Tôm là một người nô lệ da đen, tại sao? Vì ông Senbi biết đánh giá đúng những đức tính của Bác. Ông không Tôm bằng thằng, bằng mày, mà gọi bằng Bác. Ông không coi Tôm là toi mọi nhưng coi như người nhà. Đối lại Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối “Nếu ông chủ buộc lòng phải bán tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi cũng được”. Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Trong truyện “Túp lều Bác Tôm”, ta thấy hai điều: thứ nhất, tên lái buôn da trắng không thể nào yêu thương được người nô lệ da đen là vì không có lòng tôn trọng người ấy; thứ hai, giữa bác Tôm và ông chủ da trắng có tình thương yêu nhau là vì họ tôn trong nhau. Như vậy, tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho người ta đến gần nhau và tình yêu thương nhau. Hơn nữa, tôn trọng còn là cái nền tảng vững chắc giúp cho tình yêu của những người đã yêu thương nhau lại cang bền vững hơn.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
+ Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta,. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
+ Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yeu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
* 4. Vài suy nghĩ vụn vặt về tình yêu
a). “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia xẻ”, “Hiệp thông” v. v. là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm, cùng lý tưởng với con.
Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Đức Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”
b). “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề “Anh phải sống”: hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
* 5. Ở lại trong tình thương
Đức Giêsu bảo: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.
+ Chữ “ở lại” mà Đức Giêsu dùng khiến tôi hình dung tình thương của Chúa như một mái nhà. Mái nhà tình thương này luôn có chỗ cho tôi. Chúa bảo tôi hãy ở trong đó mãi, đừng bỏ nhà ra đi. Nghĩa là Chúa luôn thương tôi, chỉ có tôi là có khi không ở trong tình thương đó.
+ Ở trong mái nhà tình thương của Chúa, khi tôi đói thì được ăn, khi khát thì được uống, khi mệt mỏi thì có thể nghỉ ngơi, khi bệnh tật thì được chăm sóc, khi buồn phiền thì có người an ủi…
+ Chúa khuyên tôi ở lại vì Ngài biết tôi có thể bỏ đi. Tôi bỏ đi khi tôi không còn coi đó là nhà mình nữa, tôi tìm một chỗ khác mà tôi nghĩ là nhà mình; Tôi bỏ đi khi tôi tưởng là trong nhà đo người ta không thương tôi nữa do tôi đã lầm lỡ thế nào đó.
+ Nhưng khi Chúa bảo tôi “hãy ở lại” nghĩa là Ngài khẳng định rằng dù tôi thế nào đi nữa thì tôi vẫn được Ngài thương yêu, và không chỗ nào khác ở ngoài là nhà thực sự của tôi.
* 6. Như Thầy đã yêu (Ga 15,9-17)
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: “10.645 người nghèo đã khỏi mù”. Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đong ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
***
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chu ông và tôi tớ, nhưng chính là “Bạn hữu thân tình”.
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho cac con biết” (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô day: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “Như Thầy đã yêu”. Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết: “Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, ma việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
*VI. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dấu chỉ chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là tuân giữ giới răn yêu thương mà Người đã trối lại. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
- Sứ mệnh Hội thánh là phải trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa giữa lòng thế giới / Xin cho mỗi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức và thực thi sứ mệnh ấy cho những người chung quanh mình.
- Sứ mệnh của các nhà cầm quyền trong xã hội là phục vụ công ích cho mọi người / Xin cho các nhà cầm quyền khắp nơi / biết dẹp bỏ tư lợi của bản thân và của bè phái mình / để phục vụ tất cả mọi người.
- Chung quanh chúng ta nhiều người bệnh tật già yếu, dốt nát / bị gia đình cũng như xã hội bỏ rơi / Xin cho có nhiều người biết quan tâm để yêu thương an ủi giúp đỡ họ.
- Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là phải trở nên dấu hiệu tình thương của Chúa cho mọi người chung quanh gặp gỡ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta không một ai trở thành dấu hiệu của bất công gian dối, hận thù và chia rẽ.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con được hiệp thông với Chúa nhờ lời Chúa và Thánh Thể Chúa, xin giúp chúng con biết sinh hoa kết quả trong việc tha thứ giúp đỡ mọi người, để chúng con trở thành chứng nhân tình yêu Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
*7. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa đã yeu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta. Chúng ta hãy hết sức sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự ganh ghét, thù hận, ích kỷ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp… “
– Chúc bình an: Chúng ta hãy thể hiện lòng yêu thương nhau qua việc chúc bình an cho nhau một cách thật lòng.
*VIII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Chúc anh chị em về bình an và cố gắng sống yêu thương với hết mọi người.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH -B
DẤU CHỨNG TÌNH YÊU LỚN NHẤT- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt
“Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các ngươi”: Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu tôn vinh Người của Chúa Cha, tạo nên nền tảng và mẫu mực cao cả cho đời Kitô hữu, một cuộc đời từ đây được phô diễn ra bằng đức ái.
“Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta”: Nguyên tự: “hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Ta” (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là ‘trong tình yêu Ta dành cho các ngươi’. Cả bản văn toàn là thuộc cách chủ thể (génihfs Subectifs): tình yêu của Cha đối với Ta, tình yêu của Ta đối với các ngươi (trong đó các ngươi phải lưu lại), các lệnh truyền của Ta (c.10), các lệnh truyền cua Cha Ta, và, lần nữa, tình yêu của Cha Ta đối với Ta.
“Để niềm vui của Ta ở trong các ngươi và niềm vui các ngươi được trọn vẹn”: Là dấu hiệu của một đời sống triển nở, niềm vui được Cựu ước xem như là điểm đặc trưng của thời cứu độ và của bình an cánh chung (Is 9,2; 35,10; 55,12; 65,18; Xp 3,14; Tv 126,3-5) và chủ đề này xuất hiện lại trong các Tin mừng (Mt 25,21.23; Lc 1,14; 2,10). Nơi Gioan, niềm vui của Chúa Kitô phục sinh được chia sẻ ngay từ bây giờ cho các môn đồ sống sự sống mới; niềm vui này phải chiếm hữu tất cả con người và như vậy phải đạt được sự sung mãn nào đó (x. Ga 17,13; 1Ga 1,4; 2Ga 12). Hiện giờ, nó có thể cùng đồng hành với đau khổ (16,20-24;14,28).
“Không có tình yêu nào lớn hơn”: Nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu Người đối với Chúa Cha (14,30), thì nó cũng là chóp đinh của tình yêu Người đối với những kẻ Người đã chọn làm bằng hữu (13,1.4). Đó chính là nền tảng và quy phạm của tình anh em.
“Và đã cắt cử anh em để anh em ra đi”: Động từ Hy lạp tithenai, như công thức Hy Bá tương ứng, diễn tả sự kiện đặt một người nào trong một chức vụ gì đó đồng thời bảo đảm cho kẻ ấy những phương thế để thực thi một cách kiến hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1Cr 12,28; 2Tm 1,11). Như vậy là nhóm môn đồ, nhờ một hồng ân của Chúa, được trao ban trách nhiệm truyền giáo (x. Mc 3,14; 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1).
KẾT LUẬN
Niềm vui hoàn hảo là hậu quả của lời mặc khải của Chúa Con và của việc tuân giữ các lệnh truyền mà lời đó bắt buộc. Bao giờ cũng vậy khi người ta tiếp xúc với những sự xếp đặt của chương trình Thiên Chúa: chương trình này thường đòi hỏi khổ chế hy sinh nhưng cũng bao hàm một sự tiền nếm niềm vui mà chúng ta sẽ được trên trời khi kết hiệp hoàn toàn với chiến thắng của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu vừa cho chúng ta biết bí mật cuối cùng và quý giá nhất của tâm hồn Người. Trong một màn độc thoại dài “trước khi qua khỏi thế gian này mà về với Cha”, Người trút những tâm sự sau hết, nói lên những dặn dò cuối cùng; Người xem ra muốn để lại cho các sứ đồ một di chúc thiêng liêng. Thoạt nghe đoạn văn của diễn từ sau Tiệc ly này, điều đánh động chúng ta là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu mà các sứ đồ cần có đoi với nhau. Trong một đoạn rất ngắn như đây mà Người đã lặp lại chữ “lệnh truyền” bốn lần cả thảy. Như thế Người muốn nhắc nhở một điều tuyệt đối, không bao giờ được đặt lại vấn đề; như thể đó là thực tại chủ chốt, ưu tư thiết yếu, nỗi bận tâm duy nhất của những ai tự cho là thuộc về Người và đáng được vào số những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người.
2) Việc nhấn mạnh này của Chúa Giêsu làm chúng ta bối rối lắng lo. Phải chăng Người không muốn qua đó nói rằng: nguy hiểm chính yếu luôn rình rập nhóm sứ đồ rồi những người sẽ trở nên môn đồ quanh họ, rồi tất cả những ai trong các thế hệ kế tiếp sẽ được quy tụ trong cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, chính là sự thiếu tình yêu. Điều này cũng là cám dỗ thường xuyên nhất là có lẽ là sai lầm thường gặp nhất.
3) Có lẽ! Vì dù sao, xét lại thái độ hiện thời của chúng ta và những nứt rạn mà mỗi thế hệ không ngừng tạo ra trong sự duy nhất của thân thể Chúa Kitô, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Kitô đã chẳng quá nhấn mạnh. Không cần phải nói đến gương xấu của việc các Giáo hội ly khai, những mối bất hòa lớn lao trong mỗi Giáo hội, hay biết bao tranh chấp của các phong trào ngay trong mỗi Giáo hội địa phương; không cần phải xét đến những gì xảy ra chung quanh chúng ta mà thực sự không tùy thuộc chúng ta, chỉ cần mỗi người hãy nhìn đến mình là đủ, vì mỗi người chỉ có trách nhiệm về chính mình, về phương cách: để tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu, chúng ta yêu mến thế nào? Dù trả lời ra sao đi nữa, thì mỗi một người, nếu thành thật, đều biết mình có thể tiến bộ hơn. Để được như vậy, phải nghe Chúa. Người vừa nói với chúng ta: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các ngươi”. Mẫu gương của tình yêu chính là Người. Thành thử phải đọc lại Tin mừng, khám phá trong mỗi lời nói, mỗi hành vi của Chúa Giêsu, làm sao đã tỏ lộ cái tình yêu hằng có trong Người, để biết được chúng ta phải cư xử thế nào đến phiên chúng ta. Đừng mất công tìm đâu xa; trong diễn từ mới nghe lúc nãy, Chúa cho chúng ta thay quá rõ Người yêu mến ra sao.
4) Ngay từ đầu cuộc đàm đạo; Người đã bảo chúng ta: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta” sau khi quả quyết: “Ta đã yêu các ngươi”. Người không đòi hỏi chúng ta đáp trả tình yêu của Người đối với chúng ta, không đòi hỏi chúng ta yêu mến Người. Người chỉ xin chúng ta hãy lưu lại, hãy để mình bị bao bọc, để mình chìm đắm trong tình yêu mà Người đang bao phủ chúng ta và đừng làm gì phá vỡ việc lưu lại ấy. Điều tùy thuộc chúng ta là đừng chối từ những gì Người ban cho chúng ta. Người bảo dấu hiệu cho biết ta lưu lại trong tình yêu Người là tuân giữ lệnh truyền Người, một điều thực ra không liên hệ tới Người. Lệnh truyền của Người, ay là đến phiên chúng ta yêu thương kẻ khác; như thể Người không muốn tình yêu Người ban trở về lại với Người, nhưng đổ tràn trên kẻ khác; tình yêu Người biểu lộ như thế sánh được với một con sông luôn tuôn chảy, chẳng bao giờ trở lại về nguồn. Xa hơn Người sẽ nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì bạn hữu”. Tình yêu mà Chúa dành cho chúng ta không giống tình yêu của chúng ta, thứ tình yêu luôn thắc mắc về sự đáp tra nó nhận được: sự đáp trả này đã đủ chưa? Có thành thật và không giả hình chăng? Có bền vững chăng? tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu luôn tiến tới, không chờ đợi đáp trả tí nào. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu không trở lại với chính nó. Nó phong phú luôn mãi; đấy là lý do giải thích mềm vui của Chúa Giêsu mà Người có đề cập chỗ khác: “Cho thì vui hơn nhận” (Cv 20,35).
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
YÊU NHƯ CHÚA YÊU– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra mot khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phai yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những ngươi nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dau để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tien, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được an no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đep, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?
3- Đối với ban, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- A
ANH EM HÃY YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói “nàng là xương tư xương tôi, thịt là thịt tôi” (St. 2, 23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói “đồng bào ruột thịt”. Đồng bào nghĩa là cùng chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt. Nói khác đi, ta nhận nhau như chính mình.
Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St. 3, 12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương toi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.
Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho loài người, nhưng đã thất bại, loài người không thể thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lần này, Thiên Chúa nhờ chính Con Một Ngài là Đức Giêsu thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho loài người: “Chúa Cha đã yêu mến Thay thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” để “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha truyền sang Chúa Con, và Chúa Con truyền sang chúng ta, như thế, tình yêu này mang bản chất Thiên Chúa, chứ không mang tính xương thịt như ban đầu nữa. Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa để chúng ta noi gương Chúa Con mà yêu thương nhau.
Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền cua Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.
Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.
Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.
Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.
Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô ma bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.
Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU– Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”.
Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.
Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.
Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.
Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.
Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạngsống vì bạn hữu mình.”
Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.
Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.
Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.
Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.
Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.
Tại Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.
Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.
Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai là Biển Chết.
Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
Một hình ảnh cho chúng ta thấy:
Càng trao ban, càng dồi dào.
Càng trao ban, càng sinh lợi.
Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.
Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Amen.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-B
YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY- Lm. Đan Vinh HHTM
*1) Ý chính: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo dụ ngôn cây nho và cành nho. Đức Giêsu nói về mối tương quan mật thiết giữa các cành nho là tình yêu thương giữa các môn đệ, các tín hữu với nhau. Như Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con thế nào, thì Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ như vậy, và người truyền cho các môn đệ cũng phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu thương và hy sinh chịu chết để cứu độ họ.
*2) Chú thích:
– Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy, Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người (Ga 15,9-10):
+ Chúa Cha đã yêu mến Thầy: Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là thứ tình yêu chia sẻ và trao ban, và tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là thứ tình yêu tôn kính và vâng phục.
+ Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha, Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu như vậy.
+ Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy: Đây là lời mơi gọi tha thiết của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Người kêu gọi họ hãy luôn kết hiệp với Người, và đừng bao giờ từ chối hay phản bội tình yêu của Người.
+ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Giữ các giới răn là một cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giêsu. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người.
+ Nếu Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc sống ở trần gian, Đức Giêsu luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38; 8,29; Dt 10,9). Người vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá (x. Pl 2,8). Nhờ tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, là bằng chứng cho thấy Đức Giêsu luôn “ở lại trong” tình thương của Người.
– Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,11-13):
+ Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan mà Đức Giêsu cảm nhận được là kết quả của việc Người đã tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, luôn làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông biết tuân giữ giới răn yêu thương nhau như Đức Giêsu đã truyền dạy.
+ Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn mà các môn đệ phải thi hành là yêu thương nhau không phai bằng tình cảm suông hay lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng tình yêu phải thể hiện qua việc tình nguyện hiến thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức Giêsu yêu thương và đã phó nộp mình chịu chết để đền tội thay cho các môn đệ và các tín hữu chúng ta.
+ Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương đòi phải hy sinh và cho đi. Món quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng sống của mình là dấu hiệu một tình yêu tột đỉnh. Đức Giêsu đã sẵn sàng chịu chết để đền tội thay cho môn đệ, thay cho mọi tín hữu chúng ta. Người cũng đ¨°i môn đệ phải noi gương Người để sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì anh em (x. 1 Ga 3,16; Pr 2,21).
– Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tối tớ nữa, vì tối tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,14-15):
+ Anh em là bạn hữu của Thầy: Các môn đệ là học trò sẽ được Đức Giêsu nâng cấp lên trở thành bạn hữu của Người, với điều kiện họ thực thi những điều Người truyền dạy.
+ Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình bạn đưa tới sự hiệp thông về tư tưởng, tâm tình vàsức sống. Đức Giêsu đã cư xử với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã bày tỏ cho các ông biết tất cả những gì Người đã đón nhận được từ nơi Chúa Cha.
– Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau (Ga 15,16-17):
+ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em: Ơn gọi trở thành môn đệ của Đức Giêsu không phải do các ông có công xứng đáng và chủ động chọn Người, nhưng chính Người đã tuyển chọn và kêu gọi các ông trước và các ông đã sẵn sàng đáp lại bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi làm môn đệ Người, như hai đôi anh em: Simon Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4,19.21).
+ Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giêsu đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng nhân cho Người (x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu và nhờ Ơn Thánh Thần tác động mà các ông đã đem lại nhiều hoa trái tốt là đưa nhiều người gia nhập vào Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41).
+ Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em: Trong sự hiệp thông với Đức Giêsu như cành nho liên kết với thân cây nho, thì những lời cầu xin nhân danh Đức Giêsu sẽ được Chúa Cha chấp nhận.
+ Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương nhau là một giới răn mới và quan trọng nhất nên được Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Tình yêu ấy là dấu hiệu người môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
*1) “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12):
– Câu chuyện: Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và hay đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với em. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho em. Khi tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vay bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
– Suy nghĩ và quyết tâm: Thì ra cậu bé tưởng lầm rằng khi cho máu, thì mình sẽ phải hy sinh mạng sống của mình cho em, vì bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu mà tiếp sang cho đứa em gái! Vì quá thương em và không muốn em chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã can đảm hy sinh mạng sống của mình để cho em cậu được cứu sống! Quả thật, trong trường hợp này: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ (Ga 15,13). Con Thiên Chúa đã yêu các môn đệ là chúng ta đến cùng, nên đã hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội thay và đã sống lại để cứu sống chúng ta để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để biểu lộ tình thương đối với các người thân yeu trong gia đình mình, noi gương Chúa Giêsu như cậu bé trong câu chuyện trên đã thể hiện?
*2) Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy:
– Câu chuyện: Mục sư Mác-tin Lu-tơ Kinh (Martin Luther King):
Vào năm 1963, tại Thủ đô Wa-sinh-tân (Washington), 200.000 người đã lắng nghe vị mục sư da đen là Mác-tin Lu-tơ kinh, người đã đoạt giải No-ben Hòa Bình nói chuyện. Nội dung bài phát biểu của ông được cô đọng trong mấy lời như sau: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Gioóc-giơ (Georgia), con cháu của những người nô lệ và của những chủ nôsẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi sẽ trở về sống trong một đat nước mà chúng sẽ không bị đánh giá, đối xử bất công dựa trên màu da, nhưng là trên những công lao đóng góp xây dựng của chúng …”. Ong luôn cố gắng thực hiện ước mơ đó, dù gặp biết bao khó khăn trở ngại, ganh ghét đố kỵ. Đến năm 1968, Mác-tin lu-tơ Kinh đã ngã gục dưới làn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng chương trình hành động của ông vẫn được tiếp tục. Bởi vì ước mơ hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc của ông đã được hàng triệu người trên thế giới đồng cảm cùng quyết tâm thực hiện.
– Suy nghĩ và quyết tâm: Hiện nay tại môi trường bạn đang sống như: khu xóm, trường học, xí nghiệp, nhà máy, công sở, bệnh viện, nhà thờ…có sự kỳ thị về Nam Bắc, tôn giáo, cũ mới, nam nữ…hay không? Bạn sẽ làm gì để khắc phục tình trạng kỳ thị ấy, hầu xã hội của chúng ta ngày một công bình nhân ái hơn?
*3) “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13):
– Câu chuyện: “Anh phải sống”.
Có hai vợ chồng nhà kia, hàng ngày cùng nhau vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm 4 miệng ăn: hai vợ chồng và hai đứa con thơ: Đứa lớn được 7 tuổi và đứa em mới 4 tuổi. Một hôm, vào buổi chiều, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tã. Sấm chớp ầm ầm và gió mạnh làm mặt sông dậy sóng. Chiếc ghe nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp, khiến hai vợ chồng bị văng ra khỏi ghe. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng một tay bám vào thân cây, còn tay kia cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể đều chết chìm, người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ để nuôi các con em nhé!”. Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống mà nuôi con!”, rồi chị đã tự buông tay ra cho chìm xuống để anh đủ sức bơi được vào bờ. Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sống lập bàn thờ và thành tâm khấn vái để cầu xin hương hồn người chết phù hộ cho ba bố con.
– Suy nghĩ và quyết tâm: Cao cả thay tình thương của một người vợ, người mẹ! Chị đã quên mình, sẵn sàng hy sinh chịu chết để cho chồng và con được sống! Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Còn bạn, bạn quyết tâm làm gì trong những ngày Mùa Phục Sinh này để chứng tỏ tình thương đối với các người thân yêu ruột thịt của mình?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
*1) Lạy Chúa Giêsu, Con hiểu rằng: Đạo của Chúa lấy giới răn Mến Chúa Yêu người làm căn bản. Nhưng trong thực tế, con đã chưa làm theo giới răn ấy. Lòng chúng con còn đầy sự ích kỷ vụ lợi, trong khi lẽ ra con phải vị tha bác ái. Gia đình chúng con chưa thực sự có tình yêu của Chúa, chưa hiệp nhất yêu thương nhau, trên thuận dưới hòa như Chúa đã dạy. Các bậc cha mẹ hay cãi lộn nhau, vợ chồng chưa quên mình và hy sinh cho nhau, con cái chưa hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em chưa thực sự tôn trọng lẫn nhau và chia sẻ tình thương cho nhau.
Vay lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu dọi vào tâm trí chúng con. Xin ngọn lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm và biến đổi lòng chúng con ngày một quảng đại hơn. Xin cho tình yêu đích thực của Chúa luôn ngự trị và tỏa sáng trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết cảm thông chia sẻ đón nhận người khác và sẵn sàng quảng đại cho đi. Nhất là xin cho chúng con biết yêu thương đến độ dám hy sinh quên mình để noi gương Chúa xưa. Nhờ đó, ánh sáng vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trên chúng con.
*X) Hiệp cùng Mẹ -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
*2) Lạy Mẹ Maria. Xưa trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, Mẹ đã luôn hiện diện và kết hiệp mật thiết với Người. Mẹ đã cảm thông và chia sẻ với nỗi đau khổ của Chúa. Mẹ đã chấp nhận đi đường thương khó của Chúa, để cùng chết và cùng sống lại vinh quang với Người.
Giờ đây, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ: luôn sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong cuộc đời chúng con, thể hiện trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chết đi cho những sự ganh ghét hận thù, ích kỷ vụ lợi, đam me lạc thú bất chính và các thói hư tật xấu. Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi vào mọi sinh hoạt của chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ cảm thông với nỗi đau khổ của người khác. Xin cho chúng con biết nở nụ cười cởi mở để giơ tay ra trước làm hòa với người không ưa chúng con, sẵn sàng đi bước trước đến với người chúng con chưa quen biết. Xin cho chúng con biết nhìn nhận người khác là anh chị em để quên mình mà phục vụ họ, nhất là đối với những người đang đau khổ thể xác cũng như tâm hồn. Xin Mẹ giúp con luôn ý thức rằng: yêu thương không phải chỉ là tình cảm suông, nhưng là hành động cho đi, là luôn hy sinh để làm cho người yêu được hạnh phuc. Xin cho chúng con biết yêu thương bằng tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã tặng cả mạng sống của mình, sẵn sàng chịu chết để chúng con được sống. Nếu chúng con thực hành tình yêu như thế là chúng con đang hòa nhịp với trái tim yêu thương của Chúa, đang làm chứng rằng ‘Thiên Chúa là Tình yêu”, và hy vọng chúng con sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa, và đưa được nhiều anh em về làm con cái Chúa với chúng con.
*X) Hiệp cùng Mẹ -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
CHÚA NHẬT vi PHỤC SINH- B
YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu truyền dậy: Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con. Chúa Giêsu đã tóm kết các giới răn của đạo cũ và mới vào hai điều: Yêu Chúa và yêu người. Chúng ta không xa lạ gì với giới răn cao trọng này. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chúng ta thuộc lòng các giới răn: Yêu Chúa, yêu tha nhân như chính mình và yêu thương cả kẻ thù. Thánh Gioan nói: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa (1Ga 4,7).Ai trong chúng ta cũng biết yêu, vì chúng ta được sinh ra trong tình yêu. Nhưng chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Chỉ những người đang yêu mới hiểu và cảm nhận được ý nghĩa của tình yêu.
Trong văn học, người ta dùng ca dao, tục ngữ, châm ngôn, thi phú, ca nhạc và văn thơ để ca ngợi và đánh bóng từ ngữ ‘tình yêu’. Tình yêu có nhiều mức độ như chúng ta có cảm tình, ưa, chịu, hợp, khoái, thích, thương, chuộng, mến… rồi yêu. Tình yêu cũng có nhiều cấp bậc. Tình yêu gia đình và con cái, tình yêu trai gái, yêu quê hương xứ sở, yêu quốc gia dân tộc, yêu giáo hội và yêu thương nhân loại. Chúng ta chẳng có thể kể ra hết các loại yêu vì chúng ta đang đan xen chằng chịt trong tình yêu. Thật rất khó để hình dung một tình yêu tinh tuyền không đối tượng. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận một tình yêu qua những hành vi cử chỉ được biểu lộ. Tình yêu gắn kết giữa trái tim, ý chí, trí khôn và đối tượng yêu.
Quan sát thế giới chung quanh, có bao nhiêu điều và bao nhiêu người mà chúng ta thật sự yêu thích? Những người hàng xóm láng giềng, chúng ta gặp gỡ và chào hỏi nhau hằng ngày. Chúng ta cũng chẳng yêu và chẳng ghét họ. Có nhiều người cùng dân tộc, mầu da, tiếng nói, nói chung, chúng ta cũng chỉ có chút cảm tình, chúng ta có thể biết nhau và hiểu nhau, nhưng nói là yêu nhau thì chắc là không. Những người bạn cùng sinh hoạt trong một nhóm hội, một cộng đoàn, một giáo xứ, chúng ta cũng chẳng quan tâm nhiều lắm. Nếu nói yêu thích thì không hẳn, nhưng chúng ta có chút tình cảm thân thương, liên đới và sự gắn bó gần gũi.
Chúng ta thử giới hạn lại trong đời sống đại gia đình, trong đó có cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em là những người sống gần gũi nhất, chúng ta thật sự yêu thương họ bao nhiêu. Trong gia đình, đôi khi anh chị em chúng ta còn tranh dành, cãi cọ, phiền trách và giận hờn nhau. Tình yêu dành cho những người thân thường được biểu lộ qua sự quan tâm, lo lắng, cảm thông, tha thứ, hy sinh và chăm sóc cho nhau. Hãy tự vấn xem chúng ta có đối xử tốt, tôn trọng, quí mến và yêu thương nhau thật tình không? Gia đình chính là tổ ấm của tình yêu.
Tất cả mọi thứ tình yêu trên đời đều tương đối và vô thường. Tình yêu cha mẹ con cái được kể là sâu đậm nhất. Tình yêu vợ chồng rất cao quí thật đáng khâm phục và tôn trọng. Trong cuộc đời, đã có những cặp vợ chồng sống trung tín tới tuổi già và tóc bạc răng long. Chính họ đã biết lo lắng, thông cảm, tha thứ và hoàn thiện lẫn nhau. Họ đã dám hy sinh cho nhau và cho con cái, cao quí nhất vẫn là tình phụ và mẫu tử. Qua mọi thời, đã và đang có nhiều gia đình sống trong an vui và hạnh phúc yêu thương.
Đời thường người ta đề cao tình yêu trai gái và tình yêu lứa đôi là cao đẹp và gắn bó nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy có rất nhiều anh chị lúc đầu yêu nhau tha thiết quyết định đi đến hôn nhân, nhưng rồi sau một thời gian chung sống, nhiều cặp vợ chồng cũng có những đổ bể, ly thân, ly dị và thù ghét nhau. Theo dõi tin tức xa gần, chúng ta nghe biết đã có những người dám tự tử vì yêu. Trong những trường hợp này, có lẽ họ đã đặt nền tảng tình yêu trên nền cát và sự chọn lựa không cân xứng. Vì không chiếm hữu được hoặc bị mất người yêu, nên đã tự tử. Đây có thể là một thứ tình yêu bồng bột, tình yêu Solonpas, tiếng sét ái tình và tuyệt vọng vì yêu.
Chúng ta suy về ý nghĩa đích thực của chữ YÊU. Tình yêu quanh quyện trong lòng mọi lúc và ở mọi nơi. Yêu nhau ở xa thì nhớ, ở gần thì thương. Thương nhau là muốn ôm ấp, muốn ngắm nhìn, muốn chia sẻ, muốn lo lắng chăm sóc và muốn ở bên cạnh. Xem ra tình yêu rất bao la, nhưng cung rất giới hạn. Chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương mọi người, nhưng thực sự chúng ta chẳng yêu thương ai tròn đầy. Chỉ nói tiếng yêu cho đẹp thôi. Làm sao gọi là tình yêu, khi làm việc gì cũng so sánh, chành cạnh, phân biệt hơn thua và còn lạm dụng lẫn nhau để tiến thân. Tuy nhiên xét cho cùng, về mặt tích cực của tình yêu gia đình, vì có yêu thương nên mới có ghen và vì có yêu nhau nên có những sự góp ý, chỉnh sửa, cấm cản, cằn nhằn và tranh cãi cũng là để giúp nhau nên hoàn thiện. Mỗi người hãy tự hỏi ai là người chúng ta yêu thương nhất và chúng ta đã đối xử với người đó thế nào?
Chúng ta có thể tìm mẫu tình yêu chân chính và cao quí nơi Chúa Giesu. Chúa Giêsu cho chúng ta một giải đáp của tình yêu:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã hy sinh hiến mình trên thập giá để cứu độ chung ta. Chúng ta biết rằng họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Chúa Giêsu đã chết cho kẻ tội lỗi là chúng ta. Tình yêu của Chúa vượt trên mọi thù hành, ganh ghét, bách hại, tù đầy và giết chóc. Tình yêu thí mạng của Chúa cao vượt mọi thứ tình yêu. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu như Chúa yêu.
Có lẽ phần đông trong chúng ta sống giới luật yêu thương cách ơ hờ như khách bàng quan. Đôi khi chúng ta cũng cảm thông và động lòng trắc ẩn chia sẻ chút ít cơm áo, tiền bạc giúp đỡ những người đau khổ và cùng khốn trong một vài trường hợp. Việc bác ái của chúng ta còn bị cân đo đong đếm và rất giới hạn. Làm phước nhưng muốn được phước báo ngay, cần phải có lời cám ơn, đăng tên hoặc muốn được nêu danh khen ngợi. Tình yêu của chúng ta bị giới hạn trong sự ích kỷ riêng tư và thiếu vị tha. Chúng ta thường muốn sống trong tình yêu trao đổi cân xứng. Thật ra yêu nhiều thì cho nhiều và cho nhiều là yêu nhiều. Tình yêu vị tha được nhận biết và trân quí khi chúng ta có từ bi tâm và hiến mình vì người khác.
Trong Giáo Hội, không thiếu những vị đã học bài học yêu nơi Chúa. Các ngài đã dám xả thân vì bạn hữu như các vị: Cha thánh Đamien of Molokai, tông đồ người hủi tại Hawaii; Thánh Francis Xavier hiến dâng cuộc đời đem tin mừng cho các dân tộc Á Châu; Đức cha Jean Cassaigne đã hiến thân mình nơi trại cùi Di Linh, Việt Nam. Chân phước Têrêxa thành Calcutta hy sinh một đời phục vụ những kẻ cùng khốn tại Ấn Độ và qua mọi thời đại, đã có rất nhiều mẫu gương của các đấng bậc và anh chị em đáng yêu kính đã dõi theo bước chân của Thầy Chí Thanh để xả thân vì yêu. Các ngài đã học yêu thương như Chúa đã yêu các ngài.
Lạy Chúa, chúng con muốn yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết tâm hồn và hết sức cùng yêu thương anh chị em như chính mình. Chúng con ước muốn yêu và được yêu, nhưng lòng chúng con vẫn thờ ơ và chìm đắm trong tham sân si mà thiếu lòng bao dung. Chúa còn mời gọi chúng con hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho kẻ thù thì chúng con có thể làm, nhưng tha thứ và yêu họ thì chúng con cứ khất lần. Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở lòng, mở trí và ban thêm sức mạnh để chúng con biết yêu và yêu như Chúa đã yêu chúng con.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-B
DÒNG SUỐI YÊU THƯƠNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nếu có ai đó chưa biết gì về đạo thánh Chúa, yêu cầu chúng ta: “Bạn có thể giúp tôi hiểu cách vắn gọn về bản chất của đạo Thiên Chúa trong vòng năm phút được không?”
Đề nghị nầy có thể làm cho chúng ta lúng túng. Trước một vấn đề quan trọng như thế thì dễ gì tóm gọn trong dăm ba phút? Thế nhưng lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta giải quyết phần nào vấn nạn nầy.
Có thể hiểu cách đơn giản rằng Đạo Chúa không gì khác hơn là Dòng Suối Yêu Thương với ba chiều kích:
- Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha.
- Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.
- Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.
* * *
Như một quy luật tự nhiên, các suối đầu nguồn luôn trao hết, trút hết nguồn nước của mình vào lòng các dòng sông. Suối sẵn sàng cho đi luôn mãi không tiếc nuối bao giờ.
Các dòng sông, một khi đã nhận được nước từ những con suối ơ thượng nguồn, cũng không ngừng cho đi, cho đi ngày đêm không ngơi nghỉ, trút hết nguồn nước của mình cho vùng hạ lưu và cho ra biển cả.
Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn chảy xuôi xuống các dòng sông và tuôn chảy vào đại dương.
Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn Tình Yêu. Tình yêu của Người như Suối đầu nguồn. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha trao ban tất cả mọi sự cho Chúa Con như Lời Chúa Giêsu xác nhận: “Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Gioan 5, 26).
“Chúa Cha yêu thương ngươi Con và đã giao mọi sự trong tay Con” (Gioan 3, 35).
Bởi vì Chúa Cha đã trao ban mọi sự cho Chúa Con nên Chúa Giêsu khẳng định: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”.
Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.
Chúa Giêsu chẳng những không giữ lại những gì Chúa Cha trao cho mình, mà còn đem tặng ban tất cả cho nhân loại, kể cả mạng sống của Người. Tình yêu của Chúa Giêsu lên đến cao điểm khi nâng con người phàm hèn lên hàng bạn hữu nghĩa thiết và hiến ban cả mạng sống mình cho họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.
Chúa Cha như suối đầu nguồn đã trút hết tình yêu cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như dòng sông cả đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đã trút hết tình yêu ấy cho chúng ta.
Đến lượt mình, chúng ta được kêu mời trút hết tình yêu cho tha nhân như Chúa Giêsu đã trút hết tình yêu của Người cho chúng ta.
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12).
Thế là dòng suối Yêu Thương xuất phát từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giêsu, tuôn tràn xuống chúng ta và thông qua chúng ta để đến với mọi người khắp nơi trên thế giới. Cứ thế, dòng suối Yêu Thương lưu chảy không ngừng, không nghỉ… đem lại hạnh phúc và sự sống cho tất cả mọi người.
Đừng cản trở dòng Suối Yêu Thương
Thỉnh thoảng có những thân cây to lớn bên bờ đổ xuống hoặc những ghềnh đá làm cản trở dòng chảy của con suối khiến nước không thể chảy xuôi về nuôi những cánh đồng phía dưới.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh mình và vì thế chúng ta làm cho đời sống của bao ngươi quanh ta trở nên cằn cỗi.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta tự loại mình ra khỏi gia đình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế chúng ta tự làm cho mình trở thành kẻ lạc loài và cô độc.
Lạy Thiên Chúa là Nguồn Mạch Tình Yêu, xin cho chúng con luôn chia sẻ Tình Yêu Chúa cho mọi người để nhờ đó, chúng con được hoà mình vào dòng suối Yêu Thương không bao giờ vơi cạn.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
ĐIỀU RĂN CỦA THẦY- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giêsu giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giêsu (14,15.21.25; 15,10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gioan thì Đức Giêsu hình như đang đe cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giêsu với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “… Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tơi điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15,12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giêsu vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22,36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giêsu sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14,23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn cua Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giêsu nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ đong. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giêsu khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đoc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vay thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giêsu từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. Amen.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU- Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Khởi đi từ định nghĩa củaThánh Gioan và dựa vào Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu cua Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, phải chăng Tin Mừng của Chúa Nhật 6 Phục Sinh cũng là đề tài về “Tình yêu”. Nhưng tình yêu thì có muôn vàn cách để hóa giải, Xuân Diệu cũng đã có lần bất chợt thốt lên rằng:
“Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Con người thì không thể, nhưng Thiên Chúa thì có thể, bởi vì Ngài chính là Nguồn của mọi tình yêu. Là con ngươi, ai cũng cũng biết yêu thương,chỉ trừ ra những người không còn khả năng, không có lý trí, hay bị mất trí, bị tâm thần… thì không biết yêu là gì, còn tất cả, bao lâu tim còn đập là bấy lâu con người vẫn phải yêu: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Khi nói như vậy thì có quá lắm không, vì những anh em theo các tôn giáo khác hoặc không theo một tôn giáo nào, họ đâu đã biết Chúa, vậy họ không biết yêu? Không hẳn như vậy, tình yêu cũng như những cơn sóng cuồn cuộn trong đại dương bao la bất tận. Nó cũng như những thác nước ầm ầm vượt mọi chướng ngại vật đổ xuống. Tình yêu là trừu tượng, nhưng con người là cụ thể. Người Hy lạp dùng động từ”Eros” để diễn tả tình yêu. Còn Kitô Giáo thì dùng động từ” Agapê”. Ở giữa hai từ này còn có từ” Philia.
Eros là tình yêu vụ lợi, là một sự ham muốn, một tình cảm lôi cuốn của người khac khi nơi họ có điều gì đó hợp với mình. Eros là một khát vọng, một sự thèm muốn để chiếm đọat. Eros như những nấc thang giúp con người đi từ thế giới khả giác đến thế giới tâm linh. Đức Thánh Cha trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã sử dụng động từ Eros rất nhiều lần. Còn philia là tình yêu vô vị lợi, thường dùng để chỉ tình bạn, tình bạn này chỉ căn cứ ở sự hợp tính nhau, nó giới hạn trong một số người. Còn tình yêu của người Kitô Hữu, nó có sức mạnh và vượt lên trên thứ tình cảm của eros và Philia. Đó chính là AGAPÊ, Agapê là tình yêu vô vị lợi, tự do và dựa trên sự tín nhiệm, không căn cứ trên sự hợp tính nhau. Người kitô hữu thương mến nhau không chỉ là bạn hữu, nhưng còn là chi thể, là anh em trong Chúa Kitô. Tình yêu này phổ quát, vì mọi người là chi thể của Chúa Kitô. Như vậy phải có yếu tố mến Chúa như là lý lẽ tối hậu của lòng yêu người. Người Kitô Hữu nhìn thấy Chúa trong con người anh em. Vậy đối tượng của đức mến là Thiên Chúa và anh em là tạo vật của người. Agapê không nằm trong sự chiếm hữu mà là sự cho đi. Thiên Chúa là tình yêu cho đi một cách trọn vẹn nhất. Tình yêu Agapê xuất phát từ Thiên Chúa, nó không đòi hỏi một sự đáp đền, Agapê là tình yêu dâng hiến hòan tòan và trọn vẹn cho tha nhân, tình yêu vô vị lợi. Chính tình yêu này(Agapê) đã làm cho Đức Giêsu chịu chết trên thập tự Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người: “không có tình yêu thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15, 13).
“Tình yêu chính là đặc thù của nhân bản con người”, ” Con người không thể thiếu tình yêu và con người được kêu gọi để trở nên những người có khả năng yêu”(Thông Điệp Thiên Chúa là tình yêu). Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, triết gia KierKegaard viết:”Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu có tương quan đảo ngược với sự vĩ đại và cao cả của đối tượng. Kẻ bị bỏ rơi ở trần gian là người được Thiên Chúa yêu thương nhiều nhất.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- B
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU- Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng
Cuộc sống cần tình yêu. Nhân loại cần tình yêu. Mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu. Bạn và tôi cũng thế: rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Vì tình yêu quan trọng đến thế, cho nên trước khi rời bỏ thế gian, trước lúc chia tay các tông đồ, những người được Chúa Giêsu yêu thương nhiều, Người đã không để lại một tài sản nào, không trối trăn một kho tàng vật chất lớn lao nào, nhưng chỉ để lại lời di chúc ngắn ngũi, qua đó gởi gắm một tâm tư quí báu: “Các con hãy yêu thương nhau”. Nhờ các con yêu thương nhau, mà tình yêu ấy trở thành dấu chỉ để “mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Năm 1999, báo Tuổi Trẻ có mở một cuộc thi viết mang tên: “Viết về cha tôi”. Trong cuộc thi này có rất nhiều người con viết về cha mình. Tuy có những người cha không làm tròn bổn phận làm cha, để lại sự u uất có lúc là tất cả nỗi thèm khát tình cha của những đứa con. Nhưng những câu chuyện về những người cha thiếu trách nhiệm không nhiều. Độc giả cảm thấy vui vì những bài viết ca tụng người cha nhiều hơn. Những đứa con ca tụng cha mình, bởi cha nó yêu thương nó.
Sau cuộc thi “Viết về cha tôi” đó, báo Tuổi Trẻ đã gom những bài viết hay thành cuốn sách với tựa đề: “Cao hơn đỉnh Thái”. Trong đó tác giả Nguyên Hương kể về kỷ niệm thời chiến tranh của mình. Giữa lúc bom đạn khói lửa như mưa của tháng 3. 1975, để cứu lấy mạng sống của chính mình, gia đình phải chạy loạn. Chắc lúc đó Nguyên Hương chỉ mới là chú bé 12 hay 13 tuổi gì đó, cũng theo gia đình chạy loạn vào chùa. Trong chùa có vô số người chạy giặc. Sân chùa lớn là thế, bỗng chốc trở thành cả sân người. Ai cũng lộ rõ nét hồi hộp lo sợ trên gương mặt mình. Hình như nỗi hoảng sợ khiến con người ta ít nói hơn. Cả sân người đông đúc nhưng tiếng ồn ào không lớn, nghe như tiếng rì rào của gió.
Giữa lúc mọi người đang nơm nớp sợ hãi, bỗng nhiên tiếng khóc của một đứa bé trên tay mot người mẹ trẻ ré lên xé không gian. Tiếng khóc ré đòi sữa của đứa bé bất chấp tiếng đạn réo ngang trời và khói xám mịt mù. Bên cạnh người mẹ trẻ ấy là người cha của đứa bé cũng còn trẻ lắm, đang cố gắng đổ từng muỗng sữa vào miệng con. Người cha đã toát cả mồ hôi mà đứa bé vẫn không chịu uống một giọt nào. Bao nhiêu sữa đổ vào lại trào ra đầy mặt, chảy xuống cổ. Nó nhất định không chịu uống sữa bằng cách đổ từng muỗng vào miệng, chỉ đòi cho được cái chai và núm cao su mà nó vẫn thường mút, vì vội chạy nên cha mẹ của nó đã bỏ quên ở nhà. Tiếng khóc đòi hỏi rất quyền hành, càng lúc càng lớn. Một lúc sau, đứa trẻ đã hết hơi để khóc. Thấy con mình càng lúc càng tái đi vì đói và khóc, người mẹ cũng khóc theo. Thấy vậy, người cha đứng bật dậy, nói với vợ: “Để anh về lấy chai sữa cho con”. Người cha cúi xuống hôn con, rồi nắm tay vợ. Biết đâu đây là lần cuối cùng, anh nựng con, vì ngoài kia, tiếng đạn vẫn cứ réo ngang réo dọc. Người vợ nước mắt chảy dài thương chồng. Chị ôm chân chồng, miệng lắp bắp: “Lỡ có gì…”. Nhưng người chồng gỡ tay vợ ra. Anh chạy đi trong làn đạn mịt mù, ai nhìn thấy cũng thương tâm, hồi hộp lo lắng cho anh…
Mọi người chờ đợi, chờ đợi. Rất lâu, rất lâu sau… Thật may mắn, anh đã trở lại: Và chai sữa trên tay. Tác giả kết luận bằng một câu thật ý nghĩa: “Người cha có còn nhớ lúc liều mình chạy về phía khói lửa hay đã lãng quyên như bao điều cha mẹ đã quyên mình cho con được bình yên”.
Chắc bạn biết, cuộc đời có rất nhiều thứ tình yêu: tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… và câu chuyện trên đây là tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Vì yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”, vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Vì yêu con, người cha trong câu chuyện bên trên đã quên cả mạng sống của mình. Nhưng đâu phải chỉ có tình yêu cha mẹ với con cái mới huyền nhiệm như thế, tất cả chúng ta đều có thể làm gì đó để gọi là yêu thương đối với anh chị em mình. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả ngường đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc.
Mỗi thánh lễ đều là một cử hành về Tình Yêu lớn lao vô bờ, không phải giữa những con người mà là Thiên Chúa đối với con người. Dâng thánh lễ Chúa nhật thứ VI phục sinh hôm nay, xin cho bạn và tôi gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để càng ngày càng ý thức hơn tình yêu bản thân với anh chị em xung quanh. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu trong ta để từng lúc, ta biết chân thành yêu Chúa nhiều hơn và yêu người như yêu Chúa, yêu người như Chúa yêu ta.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemliochuachuanhatviphucsinhb