CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỤC TỬ NHÂN LÀNH (*)-Noel Quession.. 6
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ TỐT LÀNH- Chú giải của Fiches Dominicales 15
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 25
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
NGƯỜI MỤC TỬ TỐT LÀNH- Chú giải mục vụ của Học viện Piô Giáo Hoàng 55
HẠT LÚA MỤC NÁT- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 60
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO– Lm. Đan Vinh HHTM 65
CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB 83
CHÂN DUNG MỤC TỬ GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 89
CHÚA CHIÊN LÀNH- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 94
TÌNH NGƯỜI MỤC TỬ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.. 99
MỤC TỬ TỐT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 103
RAO GIẢNG ĐỨC KITÔ PHỤC SINH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 109
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy Thánh Thần, đã nói: “Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 117, 1 và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29
Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. – Ðáp.
Xướng: Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. – Ðáp.
Xướng: Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. – Ðáp.
BÀI ÐỌC II: 1 Ga 3, 1-2
“Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 10, 11-18
“Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
MỤC TỬ NHÂN LÀNH (*)- Chú giải của Noel Quession
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: “Tôi là” các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những hành vi lạ lùng, Người đã nói “nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ”. Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.
“Ta là Bánh …”. -“Ta là ánh sáng trần gian…”. -“Ta là cửa …”. -“Ta là Đấng chăn chiên lành …”. -“Ta là cây nho…”. “Ta là sự Phục sinh và là sự sống…”.
Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi”, có nghĩa “Tôi là”.
Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng “Aramên”, ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng “Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH”, từ bốn chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là “Ta là” (Xuất hành 3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: “Tên của Người là gì? Và câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: “Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngữ đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là “Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra là “Đức Chúa”.
Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là “Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là “Đấng chăn chiên” duy nhất.
Tôi chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.
Biểu tượng “người mục tử dẫn đàn chiên” đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những “Thần Thánh” và “Vua Chúa”.
Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa: “Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi” (Tv 22,1). “Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta” Chúa đã nói (Ed 34). “Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ – Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).
Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học” rõ ràng: Người nói Người là “Đấng Mêsia”, “sứ giả của Thiên Chúa” để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách “bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: “Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những “con người” như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.
Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng liêng: “Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người ra, không có sự cứu rỗi nào cả”.
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.
“Người chăn chiên lành” ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại với các “vị câu thế” giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn “những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu, “người làm thuê” chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: “Người hy sinh mạng sống của chính Người”. Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những “chuồng chiên” lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: “Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).
Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một “tác động” yêu thương, yêu thương đến cùng. “Không có tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình” (Ga 13,1; 15,13).
Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: “Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra”. “Ta hiến dâng mạng sống của Ta”. Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta “cho chính chúng ta?”. Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sự dâng hiến – tối thượng này không?
Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.
Khác với người làm thuê, “không thiết tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?
Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không phải chuyện đùa giỡn.
Qua những lời thắm thiết nồng nàn “Ta biết chiên của Ta” chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: “Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai”. Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó” và “dấn thân vì người đó”.
Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.
Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi “Maria”, Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.
Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, “sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự “quen biết” này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ “Oicouménè” Hy Lạp có nghĩa là “toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: “Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có “hơn” Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết “vô ích”? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: “Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi”. Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe “tiếng của Người” và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và “đoái nhìn đến”, chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.
Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.
Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như “tháo cởi và mặc lại” áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Năm Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ TỐT LÀNH- Chú giải của Fiches Dominicales
- Giữa cuộc luận chứng về căn tính.
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ trên bàn thờ trong Đền Thờ.
Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống” (7,37-38). Kế đó, Người nói với người Do Thái: “Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời” (8,12).
Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người truyền cho anh: “Hãy đi rửa ở suối Siloê”?
Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ, nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức Giêsu, anh nhận ra Người là Con Người: “Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
- Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử cứu thế
Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu “trộm cướp”, chúng theo ngã khác leo vào chuồng chiên, với “vị mục tử đích thực”: theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài (10,1-6). Đối với các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ hiểu.
Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là “cửa chuồng chiên” (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: “Ta là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)!” không phải theo nghĩa nhẹ nhàng, bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sứ mệnh mục vụ.
– Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo vệ. Đức Giêsu, “vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê (1Sam 17,31 ), không sợ “nguy nan” hay “thiệt mạng”.
Khác với người “chăn thuê”, Đức Giêsu, vị “mục tử tốt lành”, “biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”. Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
- Đến qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới.
– Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng chiên Do Thái, vươn tới những con chiên khác” mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về, để chỉ còn “một đàn chiên và một chủ chiên”.
A.Marchadour chú giải: lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tự nhận Người (17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Người. Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu (11,52); sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn trước khi Người về cùng Cha (17,21) (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 144).
– Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng, qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Người và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người, đúng hơn “phó thác mạng sống” trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối (“Mạng sống Ta… không ai lấy được: chính Ta tự trao ban”) vừa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha (“Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha”), Đức Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ toàn thể nhân loại.
Marchadour nhận xét: “Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. tất cả đến từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong cái chết, giờ phút mà con người thường bị truất quyền làm chủ mạng sống, Đức Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để đem sự sống đến cho con người” (Sđd, trang 144-145).
BÀI ĐỌC THÊM
1) Dung mạo đích thực của Giáo Hội
“Ta còn những chiên khác chưa thuộc đàn này”.
Đó là dung mạo đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là truyền giáo. Nếu không Giáo Hội sẽ chẳng còn là Giáo Hội nữa. Hoặc sẽ là Giáo Hội của những Người được sai đi (Tông đồ) hoặc sẽ chẳng còn là Kitô hữu nữa. Chúng ta, bạn và tôi, hôm nay, phải thi hành điều mà các Tông đồ đã làm vào thời các ngài. Các ngài đã để Mầu Nhiệm Phục Sinh biến đổi mình. Các ngài đã hiểu rằng, nhờ Bí tích Thánh Thể và qua các ngài, nhân tính Chúa lại hiện diện nhiều hơn nữa. Các ngài đã hiểu rằng Người muốn nhờ các ngài đem đến cùng tận địa cầu, cũng như nhờ chúng ta đem đến tận cùng thời gian, ơn cứu độ mà trong 33 năm, Người đã đem tới cho những người sống cùng thời với Người. Từ nay, chính nhờ đôi mắt ta mà Đức Kitô có thể nhìn thấy những khổ đau của nhân loại, chính nhờ đôi chân ta mà Đức Kitô có thể đi đến gặp gỡ con người trong đau thương hay trong lầm lạc, chính nhờ trái tim ta mà Người có thể yêu thương thế giới hiện đại. Chính qua bản thân ta mà Đức Giêsu Cứu Thế muốn trao ban sự sống của Người, sự sống của ta. Như thế, trở về chuồng chiên không còn là cứ giữ nguyên lốt chiên, nhưng là trở nên, qua ơn gọi, chính Vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc đàn .
Nói về ơn gọi là nói về cuộc chuyển hoán, cuộc đổi đời quyết liệt của tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Ơn gọi này đòi buộc ta phải giã từ thân phận của những kẻ tiêu thụ thuần tuý, chỉ biết đòi hỏi trong Giáo Hội. Ta phải trở nên thân thể Đức Kitô. Ta phải là bóng hình của Người. Mỗi người ở địa vị mình, đều được kêu gọi vào những công việc khác nhau, để thực sự trở thành những Mục tử Tốt lành cho con người thời nay”.
- “Tình yêu, con đường duy nhất để đến vơi thế giới bất tin” (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu dành cho ngày ơn thiên triệu).
“Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấn thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại, mà con người đã khước từ Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu, mọi linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu. (…) Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: “tất cả đều dành cho tình yêu đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu, và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo Hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chặn. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính chị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phu. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”; thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…).
Thánh nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Công Đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc ”Giáo Hội thời Công Đồng đã làm gì? Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14/9/1965: “Giáo Hội yêu, Giáo Hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đã kêu, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người, kể cả những người bắt bớ Giáo Hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: “Giáo Hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm linh mục trên khắp thế giới. Những linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo Hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các linh mục, đặc biệt là những linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo Hội (…).
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo. Trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (…).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: “Chị nói gì với Đức Giêsu?” Chị thánh trả lời: “Em không nói gì hết, em yêu Người”? Chỉ tình yêu là quan trọng.
- “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”.
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Uỷ ban quốc gia về ơn thiên triệu)
“Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức ái đã cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là TRÁI TIM, và TRÁI TIM đó cháy đỏ TÌNH YÊU. Con hiểu rằng chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hoạt động, và nếu Tình Yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin Mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng TÌNH YÊU phủ trùm lên mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian… Tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: “ôi Giêsu, Tình Yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là TÌNH YÊU.
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, Ôi lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con, trong trái tim Giáo Hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình Yêu, như thế con sẽ là tất cả, như thế giấc mơ của con đã thành hiện thực!”
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
hụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B này có chung một chủ đề: Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.
Cv 4: 8-12
Khi bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô giải thích cho những người đã kết án tử Đức Giê-su trước đây, rằng họ đã loại bỏ Đấng mà chỉ ở nơi Ngài con người mới gặp được ơn cứu độ.
1Ga 3: 1-2
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở rằng được liên kết với Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa và được bảo đãm dự phần vào số phận vinh quang của Ngài.
Ga 10: 11-18
Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su là vị Mục Tử nhân lành, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta vào ràn chiên của Thiên Chúa, vì Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 8-12)
Việc thánh Phê-rô bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng là kết quả của một sự kiện mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua: sau khi chữa lành một người què trước cửa Đền Thờ, vị thủ lãnh của các Tông Đồ đã ngỏ lời với đám đông kinh ngạc. Những lời phát biểu của thánh nhân đã làm bối rối các vị lãnh đạo Giê-ru-sa-lem và chắc chắn gây bực tức cho nhóm Sa-đu-xê-ô.
Chúng ta biết rằng nhóm Sa-đu-xê-ô không tin vào sự phục sinh của thân xác, vì cho rằng quan niệm nầy xuất hiện rất muộn thời trong niềm tin Ít-ra-en. Theo họ, sự tinh tuyền đạo lý đòi buộc người ta phải gắn bó với niềm tin thời kỳ trước lưu đày, ở đó không có dấu vết nào của niềm tin vào sự sống lại mai sau. Vì thế, họ không thể nào chấp nhận khi nghe nói về việc Đức Giê-su sống lại.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt cùng nhau ở Cửa Đền Thờ khi hai ngài lên Đền Thờ cầu nguyện và chữa lành người què. Cả hai ngài bị giam trong tù suốt đêm. Sáng hôm sau, họ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức Tòa Thượng Thẩm Do thái, để bị chất vấn và tra hỏi.
*1.Nơi diễn ra phiên tòa.
Hai vị Tông Đồ bị điệu ra trước những quan tòa mà, trước đây vài tuần, chính họ đã kết án tử Đức Giê-su: Thượng Tế đương nhiệm Cai-pha chủ trì Thượng Hội Đồng, Thượng Tế mãn nhiệm Kha-nan là bố vợ của Thượng Tế Cai-pha, cùng với các kỳ mục và các kinh sư.
Phiên tòa diễn ra cũng một nơi trước đây đã xử Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trời đã tối nên các thành viên Thượng Hội Đồng tụ họp vội vàng trong dinh Thượng Tế Cai-pha. Dinh Thượng Tế Cai-pha có lẽ đã gợi cho thánh Phê-rô nhớ lại kỷ niệm đau buồn của mình. Nhưng thật là khác biệt biết bao giữa thái độ hèn nhát của người môn đệ sợ hãi vào đêm bi thảm đến nỗi đã chối thầy mình đến ba lần và cái dũng khí của vị Tông Đồ được biến cố Phục Sinh soi sáng và được đầy tràn Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần.
*2.Chứng từ của thánh Phê-rô trước Thượng Hội Đồng.
Giờ của sự thật đã điểm. Thánh Phê-rô phục hồi quyền của Đức Giê-su mà họ đã kết án trước đây, buộc tội những kẻ giết Ngài và công bố sự phục sinh của Đấng chịu đóng đinh. Thánh nhân dạn dĩ phát biểu: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng” (4: 10a).
Thật ra, người ta tra hỏi các ngài là nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà hai ông đã chữa lành người què nầy. Thánh Phê-rô quả quyết: “Chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh” (4: 10b) Và vị Tông Đồ còn cất cao giọng hơn nữa: “Đấng ấy là viên đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (4: 11).
Thật thú vị biết bao khi thánh Phê-rô công bố sứ điệp Phục Sinh trước Thượng Hội Đồng nầy đã lăng nhục và bêu xấu Đức Giê-su. Thật tốt đẹp biết mấy khi những người đại diện chính thức của dân Chúa chọn nghe trực tiếp lời loan báo ơn cứu độ từ nay đạt được nhờ Đấng mà họ đã giết chết. Khi trích dẫn Kinh Thánh: “Viên đá mà thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118), vị Tông Đồ minh chứng rằng chân lý thuộc về phía của mình, bởi vì các ngôn sứ đã báo trước rằng chính họ là những thợ xây nhà Ít-ra-en đã loại bỏ đá tảng góc tường nầy.
Hơn nữa, sự hiện diện của người què được chữa lành trước tòa án nầy không là lời chứng hùng hồn rằng Đức Giê-su là nguồn ơn cứu độ sao? Phải nói rằng chính nhờ sự hiện diện của người được chữa lành nầy mà hai vị Tông Đồ được cứu: “Họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào” (Cv 4: 14). Cuối cùng, hai ông được thả ra, vì Thượng Hội Đồng sợ đám đông dân chúng: “Ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra” (Cv 4: 21). Nhưng chẳng bao lâu sau, thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt một lần nữa, lần nầy hai ông bị đánh đòn và cấm không được nói đến danh Đức Giê-su; nhưng các ngài không thể nín lặng được và sẽ không bao giờ còn nín lặng.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-2)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “ơn làm con Thiên Chúa”. Người Ki-tô hữu là con Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha. Nhưng ơn nghĩa tử nầy sẽ thăng hoa viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống hoàn toàn với Con của Ngài vào ngày Ngài trở lại trong vinh quang.
*1.Ơn làm con Thiên Chúa (3: 1):
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: “Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (3: 1a). Đây không chỉ là tước hiệu mà Ngài ban tặng cho chúng ta, nhưng là một thực tại thâm sâu: “Thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (4: 1b). Theo văn hóa Do thái, một danh xưng diễn tả một thực tại tận căn của con người: như vậy, Chúa Cha yêu thương chúng ta đến mức Ngài liên kết chúng ta vào Con của Ngài khi gọi chúng ta là con của Ngài. Phẩm vị nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (3: 1c). Lời phát biểu nầy vang dội những lời của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 18).
Toàn bộ bức thư nầy được cấu trúc theo lối phản đề: cuộc sống người Ki tô hữu đối lập với cuộc sống của những kẻ cứng lòng tin hay những người lạc giáo. Ở đây, lối phản đề bao phủ một vùng rộng lớn: thế gian, được hiểu theo nghĩa tiêu cực, là thế giới của tội lỗi, bởi vì “thế gian đã không biết Thiên Chúa”.
*2.Sự biến đổi trong tương lai (3: 2):
Đoạn trích nầy có thể được đặt nhan đề: “Từ phép Thánh Tẩy đến sự biến đổi làm con Thiên Chúa của chúng ta”. Chúng ta đã được biến đổi rồi bởi cuộc sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu tiên. Ơn làm con Thiên Chúa được thành toàn chỉ khi chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Điều nầy sẽ chỉ xuất hiện vào thời chung cuộc “khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Thánh Phao-lô cũng gợi lên sự biến đổi tương lai nầy trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21). Thật ra, theo thánh Gioan, ngay từ bây giờ sự biến đổi này đã được ươm mầm rồi ở nơi chức năng làm con Thiên Chúa của chúng ta: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Ga 10: 11-18)
Hình ảnh người mục tử với đàn chiên rất quen thuộc với dân Do thái vốn đã là dân du mục sống nghề chăn nuôi. Cựu Ước đã phác họa Đức Chúa là vị Mục Tử lý tưởng. Tước hiệu này diễn tả hai khía cạnh của mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Ngài: uy quyền nhưng từ bi nhân hậu. Nhưng tước hiệu mục tử nầy được dành riêng đặc biệt hơn cho Đấng Thiên Sai trong tương lai, nhất là vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, vào thời điểm của những tai họa lớn lao: Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon đánh chiếm, Đền Thờ bị phá hủy và dân chúng bị dẫn đi lưu đày. Trong hoàn cảnh bi thảm đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tiên báo rằng rồi đến một ngày Thiên Chúa sẽ đòi lại đoàn chiên của Ngài khỏi những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm gì đến đoàn chiên để giao lại cho Tân Đa-vít, không là vua, nhưng là mục tử đích thật, tận tâm tận lực chăn dắt chúng (Ed ch. 34). Chính dụ ngôn của vị ngôn sứ nầy là nguồn cảm hứng cho diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” của Đức Giê-su.
Đức Giê-su công bố diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” tại Giê-ru-sa-lem sau khi Ngài cho một anh mù được sáng mắt. Trong bài diễn từ nầy, Đức Giê-su tự nhận mình là người mục tử đích thật, còn giai cấp lãnh đạo Do thái, họ là “những kẻ chăn chiên thuê”,“quân trộm cướp”, “những kẻ tiếm quyền mục tử”. Những người lãnh đạo Do thái đã trục xuất con chiên lẽ loi cô độc khỏi ràn chiên, tức là anh mù được sáng mắt, trong khi Đức Giê-su đã thu nhận anh, dẫn đưa anh vào ánh sáng đức tin… Như vậy chân dung của người mục tử nhân lành nêu bật sự đối lập nầy.
Trong ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”. Vào mỗi năm Phụng Vụ, chúng ta đọc một đoạn trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “Người Mục Tử nhân lành” thuộc chương 10 Tin Mừng Gioan: Vào năm A, phần đầu (10: 1-10); vào năm B, phần thứ hai (10: 11-18); và vào năm C, phần cuối cùng (10: 27-30).
Trong phần thứ hai (10: 11-18) mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giê-su vạch rõ cho thấy Ngài là “Mục Tử nhân lành” như thế nào qua những phẩm chất như sau:
– “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
– “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi”.
– “Chỉ một đoàn chiên và một mục tử”.
-Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Ngài.
*1. “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10: 11-13):
Ngay từ đầu đoạn văn này, Đức Giê-su xác định phẩm chất quan trọng nhất của người mục tử nhân lành là “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (10: 11). Tiếp đó, Đức Giê-su vạch rõ sự khác biệt giữa người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên với kẻ chăn chiên thuê chỉ lo cho sự an toàn của mình mà “không thiết gì đến chiên” (10: 13). Đức Giê-su xác định ngay từ đầu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (10: 11), đồng thời Ngài cũng ám chỉ đến giai cấp lãnh đạo Do thái là kẻ chăn chiên thuê, họ chỉ lo làm sao giữ cho được địa vị, chức tước, quyền hành của mình mà không quan tâm đến hoàn cảnh sống của đoàn chiên.
*2.“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10: 14-15):
Theo Kinh Thánh, động từ “biết” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng, không chi diễn tả sự hiểu biết của khối óc, nhưng còn sự chuyển động dạt dào của con tim. Sự kiện người mục tử “biết” từng con chiên cấu thành niềm tin tưởng phó thác của đoàn chiên vào người mục tử của mình. Đức Giê-su cho chúng ta nguyên mẫu mối quan hệ tuyệt vời này: “Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha”. Đó cũng là khuôn mẫu mà Ngài muốn thiết lập với những người thuộc về Ngài: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. Để thực hiện mối tương giao tận mức như thế, Đức Giê-su phải trả bằng giá máu của Ngài. Đây là ý nghĩa căn bản của dụ ngôn.
*3.“Chỉ một đoàn chiên và một mục tử” (10: 16):
Niềm hy vọng lớn lao chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: thời kỳ của Đấng Thiên Sai sẽ là thời kỳ hiệp nhất dân Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã ôm ấp giấc mơ nầy sau khi dân Do Thái bị phân chia thành hai vương quốc (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên). Những người lưu đày ở Ba-by-lon (thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên) đặt trọn niềm hy vọng của mình vào sự can thiệp của Đấng Thiên Sai, Ngài đến thực hiện công việc khó khăn này, đó là quy tụ mọi con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa: “Đức Chúa sẽ quy tụ đoàn chiên của Ngài còn sót lại từ khắp mọi miền” (23: 3). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng hứa: “Sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy” (37: 24). Sự hiệp nhất sẽ là dấu chỉ của kỷ nguyên Thiên Sai như bước khởi đầu của sự quy tụ cánh chung vĩ đại vào thời sau hết, khi muôn dân nước đều nghe tiếng gọi của Đức Chúa, vì Ít-ra-en là ánh sáng muôn dân.
Khi công bố Ngài kiến tạo sự hiệp nhất của đoàn chiên, Đức Giê-su khẳng định Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Nhưng Đức Giê-su không chỉ nghĩ đến những con chiên của nhà Ít-ra-en chưa nhận biết Ngài, Ngài còn nghĩ đến cuộc hoán cải của thế giới lương dân. Khía cạnh Giáo Hội được diễn tả qua hình ảnh về một ràn chiên không còn được rào chắn vây bọc chung quanh, nhưng mở rộng ra với toàn thể thế giới. Chính Giáo Hội có sứ mạng hiệp nhất đoàn chiên trong cùng một ràn chiên và dưới cùng một vị mục tử, Đấng đã sinh ra trong hang lừa máng cỏ và đã hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên.
*4.Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Đức Giê-su (10: 17-18):
Cuối cùng, Đức Giê-su kết thúc đoạn văn này và cũng toàn bộ bài diễn từ này khi khẳng định rằng việc Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên là do ý muốn của Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại” (10: 17).
Đó là lý do tại sao Đức Giê-su nghiêm túc đối mặt với cuộc Khổ Nạn sắp tới của mình, nhưng hoàn toàn độc lập đối với những kẻ gây ra cái chết của Ngài, tức là các vị lãnh đạo Do thái hay viên Tổng Trấn Rô-ma: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. Đồng thời, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Sở dĩ Ngài phải chịu như thế chỉ vì: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (10: 18). Vì thế, không có chuyện Đức Giê-su hóa giải sự bất hòa giữa Thiên Chúa với nhân loại bằng giá máu của Ngài vì tội lỗi của con người.
Đức Giê-su công bố những lời này khi Ngài tham dự lễ Lều vào mùa thu tại Giê-ru-sa-lem. Những lời công bố này sẽ vang dội xuyên suốt thời gian sắp tới và sẽ được hiện thực khi Ngài tham dự lễ Vượt Qua vào mùa xuân sang năm tại Giê-ru-sa-lem. Đó là cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su từ Tử Nạn đến Phục Sinh và Vinh Thăng.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Cv 4,8-12) : Phêrô và Gioan làm chứng trước Thượng Hội Đồng về việc chữa một người què à người ấy được chữa lành nhờ Danh Đức Giêsu.
– Bài Tin Mừng (Ga 10,11-18) : Mục tử thật và kẻ chăn thuê à Mục tử nhân lành yêu thương đàn chiên, biết từng con chiên.
– Bài đọc II (1 Ga 3,1-2) : Tình yêu của Chúa Cha đã cho chúng ta thành con Thiên Chúa.
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Mỗi năm, Giáo Hội dành ngày Chúa nhật thứ IV mùa Phục sinh để nhắc cho chúng ta biết Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
Ngày hôm nay cũng là ngày Giáo Hội trên toàn thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình yêu của Ngài ; đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều người trẻ hiến thân làm Linh mục để tiếp nối sứ mạng Đức Giêsu là làm mục tử chăm sóc đoàn chiên Ngài.
*II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta là những con chiên được Đức Giêsu là mục tử nhân lành dẫn dắt. Nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức tình thương Chúa luôn bao bọc cuộc sống chúng ta.
– Đôi khi chúng ta còn tỏ ra là những con chiên bướng bỉnh không đi theo sự dẫn dắt của Chúa.
– Chúng ta ít quan tâm đến việc khuyến khích và nuôi dưỡng các ơn thiên triệu.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho một người què được khỏi, ông bị bắt dẫn ra trước Thượng Hội Đồng Do thái giáo cùng với bạn đồng hành là Gioan.
Trước Thượng Hội Đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh thánh Đức Giêsu.
Nhân dịp đó, Phêrô giảng về Đức Giêsu : Ngài đã bị các thủ lãnh do thái giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại và tôn vinh Ngài lên đến tuyệt định vinh quang. Nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
*2. Đáp ca: Tv 117
(như Chúa nhật I Ps)
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
*3. Tin Mừng: Ga 10,11-18
Đức Giêsu xưng mình là mục tử tốt lành. Ngài cũng phân biệt mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê :
– Những đặc tính của Người mục tử tốt lành : a/ thí mạng sống vì chiên ; b/ biết các con chiên và được các con chiên biết ; c/ muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.
– Kẻ chăn chiên thuê chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Hắn ưu tiên lo cho bản thân nên khi gặp nguy hiểm thì bỏ mặc đàn chiên để chạy trốn.
*4. Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ to lớn vô cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu :
– Hiện nay Thiên Chúa cho chúng ta làm con của Ngài.
– Sau này Ngài còn cho chúng ta được giống như Ngài.
*IV. Gợi ý giảng
Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin ? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao ? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi :
– Quo vadis, Domine ? Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?
– Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.
“Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên” (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga.15,13).
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói : “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào : “Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con”. Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người “Mục tử tốt lành” cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa.
– Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
– Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
– Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
*
Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa : luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ
a/ Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn chiên” không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên với mục tử”, thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu ! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh “chiên và mục tử” thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
b/ Những nét đặc trưng của Vị Mục Tử nhân lành
Đức Giêsu đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây :
* Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận : biết họ muốn gì ? họ cần gì ? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào ?
* Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
c/ Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ :
Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay :
(1) : Tổng dân số của Việt Nam hiện là : 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số). (2) : Tổng số công giáo của 25 giáo phận : 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3) : Tổng số linh mục của 25 giáo phận : 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4) : Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận : 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5) : Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận : 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6) : Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận : 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).
Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây : (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.
Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình. (Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội).
*3. “Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín“.
“… Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin : đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói : “Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. “Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu” thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)
Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là sự sống. Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc “Giáo hội thời Công đồng đã làm gì ?” Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965 : “Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux : “Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm Linh mục trên khắp thế giới. Những Linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các Linh mục, đặc biệt là những Linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo hội (…)
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng ? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tình yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (…).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa : “Chị nói gì với Đức Giêsu ?” Chị thánh trả lời : “Em không nói gì hết, em yêu Người”, Chỉ tình yêu là quan trọng. (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu cho ngày ơn thiên triệu. Trích dẫn bởi Fiches dominicales, năm B)).
*4. “Trong trái tim Giáo hội, tôi sẽ là Tình yêu“
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Ủy ban quốc gia về ơn thiên triệu).
“… Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức Ái đã cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu giáo hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là Trái Tim và Trái Tim đó cháy đỏ Tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có Tình yêu mới làm cho các chi thể của Giáo hội hoạt động và nếu tình yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng Tình yêu phủ trùm lên mọi ơn gọi và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian. Tắt một lời, Tình yêu là vĩnh cửu !
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên : “Ôi Giêsu, Tình yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là Tình yêu !…
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, ôi Lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con… Trong Trái Tim Giáo hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình yêu… như thế con sẽ là tất cả… như thể giấc mơ của con đã thành hiện thực !!!…”
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.
- Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / đều tích cực quan tâm đến việc nâng đỡ, đào tạo và chọn lựa những người xứng đáng với ơn gọi làm Linh mục và tu sĩ.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang thi hành trách nhiệm làm Mục tử trong Hội thánh / biết noi gương Đức Giêsu là mục tử tốt lành / sẵn sàng hiến thân chăm lo cho đoàn chiên Chúa đã trao phó cho mình.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa / và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy / để dấn thân vào đời sống giáo sĩ và tu sĩ
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ trong họ đạo chúng ta / biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần Tin mừng / để cống hiến cho Hội thánh những mầm giống ơn gọi tốt lành.
Chủ tế : Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, xin cho chúng con biết rộng rãi góp phần vào việc đào tạo Linh mục và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, và bằng sự giúp đỡ nhiệt tình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
*VI. Trong Thánh lễ
– Kinh Tiền Tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phục sinh V, trình bày Đức Giêsu là Linh mục và của lễ.
– Trước kinh Lạy Cha : Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo “Chúng con hãy xin chủ ruộng đến gặt lúa của Ngài”. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa Cha ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi Linh mục để làm việc trên cánh đồng truyền giáo, để cho “Nước Cha” mau trị đến.
*VII. Giải tán
Rời Nhà thờ để trở lại với cuộc sống, chúng ta sẽ thấy còn biết bao người lương chưa biết Chúa, chưa yêu mến tôn thờ Ngài. Vậy anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho có thêm ơn gọi Linh mục làm việc trên cánh đồng truyền giáo.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH -B
NGƯỜI MỤC TỬ TỐT LÀNH- Chú giải mục vụ của Học viện Piô Giáo Hoàng
“Thí mạng sống mình vì chiên”: nguyên ngữ: “để tâm hồn mình cho”; nên đối chiếu thành ngữ với công thức “thí mạng sống” của Mc 10,45 là tiếng xem ra phát xuất từ Is 53,12 (Bài ca Người Tôi tớ).
“Ta biết chiên Ta”: Theo truyền thống Thánh kinh, sự hiểu biết giữa người với người bao hàm tình yêu. Sự hiểu biết liên kết Chúa Giêsu với thân thuộc Người bắt nguồn và tìm được sự sung mãn trong tình yêu nối kết Con với Cha.
“Ta còn những chiên khác không thuộc về ràn này”: Ràn này là ràn của Hội đường, của Israel, ám chỉ rõ ràng, đến tất cả dân ngoại sẽ tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gọi họ là chiên của Người trước, vì họ đã thuộc về Người rồi do sự tiền định và do ý hướng tốt của tâm hồn họ. Vì thế, “họ sẽ nghe tiếng Người” khi Tin mừng được rao giảng cho họ.
“Ta thí mạng sống Ta”: Ba lần (cc.11.15.17) Chúa Giêsu lặp lại công thức vừa nói (nguyên ngữ: Ta để hay gởi mạng sống Ta). Qua văn mạch ta thấy từ ngữ này, thuộc riêng về Gioan, tương đương với các từ ngữ gặp được trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 20,28; Mc lo,45). Ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tính cách bộc phát và tự do của việc Người hy sinh. Dù chết vì vâng lệnh Cha (c.18), Người vẫn hoàn toàn độc lập với những tác giả gây nên cái chết cho người. Giuđa, các thủ lãnh Hội đường, Philatô, các lý hình chỉ bắt buộc được điều Người muốn chịu và khi đến giờ của Người thôi (13,1).
“Đó là lệnh truyền Ta đã nhận nơi Cha Ta”: Các thần học gia không đồng ý với nhau về bản chất thánh ý này của Chúa Cha, được biểu lộ ra cho Chúa Con xét như là người: phải chăng đó là một mệnh lệnh hay là một ý thích của Chúa Giêsu Kitô? Dù người ta bảo thế nào, thì rõ ràng thánh Phaolô, với những từ ngữ minh xác nhất, vẫn nói đến sự “vâng phục của Chúa Kitô” trong công cuộc cứu chuộc thế gian nhờ chết trên thập giá (Rm 5, 19; Pl 2,8; Dt 5,8).
“Và có quyền lấy lại”: Quyền Phục sinh là quyền hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, và vì thế đồng nhất trong Ba Ngôi. Bởi vậy Luca (Cv 2,24; 3,15; 4,10 v.v…) và Phaolô (2Cr 4,14 …) gán nó cho Chúa Cha và cho cả Thánh Thần; còn Gioan ở đây lại gán cho Chúa Con.
KẾT LUẬN
Chỉ có vài trang Tin Mừng thôi mà Gioan cũng diễn tả một cách không kém mạnh dạn và đơn sơ cái hồng ân được có Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, như là sự mặc khải về nguồn tình yêu, sự sung mãn của ơn cứu rỗi và cả trung tâm xuất phát ánh sáng cùng sự sống. Nơi con người của Chúa Giêsu, chủ đề Thánh Kinh cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử xuất hiện cách trẻ trung kỳ lạ và được hoàn tất ngoài sức hy vọng của loài người.
Ý HUỚNG BÀI GIẢNG
1) Nền văn minh chúng ta không còn biết đến những đàn chiên nữa. Chỉ biết đến một loại đàn khác là đàn xe, đàn người vô danh đông đảo trong các thành phố lớn. Ngày nay, để nói với chúng ta, chắc rằng Chúa Giêsu cũng sẽ lấy những hình ảnh rút ra từ cuộc sống thành thị hiện đại, nhưng giáo huấn Người vẫn như xưa. Và điều Người dạy chúng ta, là Người vẫn luôn hiện diện giữa thế giới chúng ta hôm nay, cũng trà trộn vào thế giới chúng ta như xưa mục tử trà trộn với đoàn chiên mình. Một trong những đặc điểm của mục tử là tham dự vào cuộc sống của đàn chiên, hợp làm một với chúng. Ông không ở ngoài, nhưng đứng đầu đàn chiên qua sự so sánh này, Chúa Giêsu muốn dạy rằng Người hiện diện trong nhân loại và đứng đầu nhân loại. Không một ai trong thời đại nào thoát ra khỏi sự chăm sóc của Đấng muốn dẫn dắt mọi người đến nơi gặp được hạnh phúc đích thực cả. Chỉ cần một dữ kiện, là con người phải chấp nhận, nhất là nhờ đức tin, trở thành phần của “đàn chiên” mà Chúa Kitô là mục tử tốt.
2) “Ta biết chiên Ta… như Cha biết Ta”. Chúng ta đi vào một vùng của tâm hồn, nơi có nhu cầu sâu xa nhất của con người đấy. Thật vậy, con người đau khổ vì cái gì nhất? Thưa vì cảm thấy cô đơn. Không một cảm tình, một trực giác, một chú ý nào có thể tiến vào chốn thâm tâm của hữu thể chúng ta cả. Có một trung tâm của ý thức chúng ta mà không ai (ngay cả chúng ta) có khả năng vào được; và chính ở trung tâm ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn. Các khoa học nhân văn, nhất là tâm lý học, cố gắng làm cho nổi lên trình diện tri thức khoa học những cấu tạo bí ẩn của vô thức. Dầu chúng ta thành công hay không, thì luôn luôn vẫn còn có một trung tâm bất khả giản lược, nơi con người cảm thấy cô đơn đối với chính mình, với các vấn đề và định mệnh của mình. Con người đau khổ vì không được ai biết rõ mình. Thế mà đây Chúa Giêsu lại nói Người biết rõ con người như Chúa Cha biết Chúa Con. “Như Cha biết Ta”, điều này muốn bảo Chúa Giêsu biết con người với một tri thức trực tiếp đi đến tận đáy sâu của họ. Và tri thức này đầy tình yêu mến. Như thế Chúa Giêsu làm cho con người không còn cô đơn. Đấng đã biết rõ con người thì không kết án nó, nhưng ngược lại sẽ thương yêu nó với một tình yêu hoàn toàn và có tính cách cứu chuộc.
3) Chúng ta có nhạy cảm trước nỗi cô đơn của người anh em ở chung quanh ta không họ sẽ cảm thấy phần nào được chúng ta biết đến, và do đó phần nào được thoát khỏi nỗi cô đơn của họ nếu chúng ta cố gắng biết họ như Chúa Giêsu đã biết họ. Nghĩa là nếu chúng ta đặt mình trong cái nhìn đầy yêu mến của Chúa Giêsu đối với họ.
4) Dù là gì đi nữa: linh mục, giáo chức, cha mẹ hay chỉ là anh em của những người anh em, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những kẻ chung quanh, và do đó là mục tử trong mức độ trách nhiệm của chúng ta. Và vì là mục tử, chúng ta phải yêu thương anh em chúng ta đến độ sẵn sàng hiến mạng sống mình cho họ theo gương Chúa Giêsu.
5) Hy tế Thánh lễ, việc tái diễn theo nghi thức hy tế thập giá, dẫn đưa chúng ta một cách hiện thực vào mầu nhiệm chết vì đàn chiên của Mục tử tốt. Việc gặp gỡ có tính cách cộng đồng và cá nhân giữa chúng ta với Người phải tăng thêm sự thân tình với Mục tử của chúng ta và dần dần biến đổi chúng ta thành những mục tử tốt, hoàn toàn hiến thân cho anh em Có như vậy, chúng ta mới tìm được hạnh phúc đích thực, hoàn toàn.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
HẠT LÚA MỤC NÁT- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO– Lm. Đan Vinh HHTM
*I. HỌC LỜI CHÚA
*1. TIN MỪNG: Ga 10,11-18
(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. (13) Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. (15) Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sỡ dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh chính mình. Tôi có quyền hy sinh và lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh Cha tôi mà tôi đã nhận được.
*2. Ý CHÍNH: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõtừng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâmđến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay đi lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạngmình đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
*3.CHÚ THÍCH:
– C 11-13: + Tôi chính là:Đây là kiểu nói của Thiên Chúa khi mặc khải danh xưng: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giê-su cũng nhiều lần dùng kiểu nói này: “Tôi Hằng Hữu”(Ga 8,24.28); “Chính tôi là Bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là Bánh từ trời xuống” (Ga 6,41) ; “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12 ; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7.9) ; “Tôi chính là Mục tử nhân lành” (Ga 10,11.14) ; “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) ; “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) ; “Thầy là cây nho thật… Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5). + Mục Tử nhân lành: Mục Tử là người chăn chiên. Mục tử là hình ảnh diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en như lời tuyên sấm của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm. Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ;.Con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để chăn dắt dân Ít-ra-en như Mô-sê (x. Is 63,11), Đa-vít (x. Tv 78,70-71). Có hai loại mục tử là mục tử tốt và mục tử xấu (x. Gr 10,21). Thiên Chúa hứa ban một mục tử dòng dõi Đa-vít, luôn làm đẹp lòng Người sẽ đến (x. Gr 23,4-6) là Đức Giê-su (x Ga 10,11). +Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên:Đây là khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống cho người mình yêu là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13). + Người làm thuê không phải là mục tử:Người chăn thuê ám chỉ các đầu mục Do thái như các kinh sư, Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 23,2), các ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Họ thường có thái độ hèn nhát và vô trách nhiệm (x. Ga,12-13), chỉ lo tìm tư lợi, dẫn đường sai lạc, nói mà không làm và đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).
– C 14-16: + Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi:Từ ngữ “biết” trong Kinh Thánh không những là sự hiểu biết về mặt kiến thức, mà còn nói lên mối quan hệ mật thiết: Biết điều gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thểvề điều đó. Biết người nào là có quan hệ mật thiếtvới người đó (x. Lc 1,34). Đức Giêsu biết các tín hữu là chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và họ luôn vâng nghe lời Người. + Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này:Sự quan tâm của Mục Tử nhân lành còn phổ biến đến hết mọi dân tộc qua các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Người được trao cho các môn đệ là đại diện của Giáo Hội và cũng là sứ mạng của mỗi tín hữu (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Nhờ sự chết của Đức Giê-su trên cây thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl 3,28). Từ nay mọi người thuộc mọi dân tộc đều có thể gia nhập vào đoàn chiên của Chúa Giê-su, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn thể nhân loại (x. 1 Tm 2,4).
– C 17-18: + Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi:Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giê-su đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17;17,5).. + Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giê-su chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, do ý của tổng trấn Phi-la-tô, Giu-đa, quân lính và dân chúng… Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha (x. Mt 26,39) vào “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + Để rồi lấy lại:Đức Giê-su đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giê-ru-sa-lem, chịu đau khổ, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21), nhờ quyền năng của Thiên Chúa (x. Cv 2,32-33).
*4. CÂU HỎI:
*1) Mục tử là gì?
(2) Ba đặc điểm của người mục tử tốt lành là gì?
*3) Đức Giê-su nhiều lần tự khẳng định về mình qua những câu nào trong Tin Mừng?
*4) Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm Thiên Chúa chính là Mục Tử nhân lành của dân Ít-ra-en trong câu nào?
*5) Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã đặt những vị nào làm mục tử để thay Ngài chăn dắt dân Ít-ra-en?
*6) Khác biệt quan trọng nhất giữa mục tử tốt với kẻ chăn thuê là gì?
*7) Đức Giê-su quở trách các đầu mục dân Do thái vốn là những kẻ chăn thuê vì những tội nào?
*8) Ý nghĩa sâu xa của từ “biết” trong Thánh Kinh là gì?
*9) Tin mừng ghi lại hai lần Đức Giê-su được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu như thế nào?
*10) Đức Giê-su đã tình nguyện chọn thi hành sứ mệnh cứu thế bằng con đường chịu khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha trong câu nói nào?
*II. SỐNG LỜI CHÚA
*1. LỜI CHÚA: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga10,11).
*2. CÂU CHUYỆN:
*1) QUO VADIS ? – THẦY ĐI ĐÂU ?
Thời hoàng đế NÊ-RÔNG ra tay bách hại đạo công giáo. Thủ đô Rô-ma ngập tràn máu lửa: biết bao tín hữu đã bị giết chết dưới bàn tay của bạo chúa tàn bạo điên loạn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giê-su thiết lập như sắp bị tan tác tiêu diệt. Phê-rô là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu đã tha thiết xin ông trốn khỏi Rô-ma, để có thể tiếp tục lãnh đạo đoàn chiên. Đề nghị này khiến tông đồ Phê-rô phân vânm vì đoàn chiên chắc sẽ bị nao núng nếu mất đi chủ chiên? Thầy Giê-su đã chẳng khuyên các môn đệ: khi người ta bắt chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác đó sao? Thế là Phê-rô đã mang theo bị gậy và hóa trang để trốn ra khỏi thành. Nhưng rồi ông lại gặp Chúa Giê-su Phục Sinh đang đi vào thành nên ông hỏi:
– Quo vadis, Domine ? Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy ?
Chúa Giê-su Phục Sinh trả lời :
– Ta đi vào trong thành để chịu đóng đinh thêm một lần nữa. Nói xong Chúa biến mất.
Hiểu ý Thầy, nên Phê-rô đã quay trở vào thành Rô-ma để động viên an ủi đoàn chiên đang bị bách hại. Sau cùng ông đã bị bắt và bị đóng đanh ngược đầu để nêu gương chết vì lòng mến Chúa cho đoàn chiên.
*2) MẸ TÌNH NGUYỆN CHẾT THAY CHO CON
Trên một tạp chí y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ GIĂNG COÓC-TÊ (Jean Cortez) đã kể lại một trường hợp đặc biệt mà chính ông chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé về sự bất lực của mình trước căn bệnh hiểm nghèo này, và tuyên bố bé Ăng-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và bà quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường của con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không bị bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại bị mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con.
Bác sĩ Coóc-tê kết luận: “Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể có một thần lực siêu phàm nào đó đã tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ đứa con sang bà mẹ!”.
*3) MUC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH CHỊU CHẾT VÌ ĐOÀN CHIÊN
Đức cha RÔ-MÊ-RÔ, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết phản đối chính phủ đã vi phạm nhân quyền, khi ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản để áp bức bóc lột nông dân, mà tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã can đảm đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động như thế có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và bị giết chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giê-su, vị Mục Tử nhân lành, Đức cha Rô-mê-rô đã sẵn sàng chịu chết, hiến mạng sống mình để “đoàn chiên được sống và sống dồi dào”.
Ngày 24/3/1980, một tay súng chuyên bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rô-mê-rô trong lúc ngài đang cử hành thánh lễ trong nhà thờ với đoàn chiên, khiến ngài đã tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phút, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên giáo dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh của Chúa Ki-tô.
Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Ro-me-no tranh đấu đòi nhân quyền cho giáo dân bị áp bức, ngài đã ý thức rằng tính mạng của ngài đang bị đe dọa. Một lần kia ngài đã quả quyết với các phóng viên rằng: “Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ “trỗi dậy” giữa dân của tôi”. Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến giáo dân của Ngài tại San Salvador, và chính vì thế, ngài đã sẵn sàng chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã sống lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên… Ta biết chiên của Ta và Ta hiến mạng sống vì chiên của Ta”.
*4) NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC MỤC TỬ THỜI ĐẠI MỚI:
Linh mục là người mục tử được Chúa trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên về phần linh hồn.
– “LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?”:Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là “đồ tư bản chết tiệt!”. Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ người nghèo ít học, người bệnh tật, cô đơn… thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ tả khuynh bần tiện!”.
Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!
– “MỘT NGƯỜI LUÔN LUÔN SAI LẦM”(He is always wrong):Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông đối với các Linh mục là chủ chăn thời nay như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút:“Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!”.
* Giảng quá 20 phút: “Ông ta là ưa nói dai và nói dài!”
* Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bị khó ngủ!”
* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: “Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi thăm kẻ liệt!”.
* Nếu ít đi thăm:“Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.
* Nếu linh mục còn trẻ:“Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!”.
* Nếu đã cao niên:“Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!”
Thật đúng như người đời thường nói: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”. Làm Linh mục thật không dễ chút nào phải không các bạn ?”.
*3. THẢO LUẬN:Bạn sẽ làm gì để trở nên chiên ngoan trong đoàn chiên do các mục tử được Chúa sai đến chăm sóc?
*4. SUY NIỆM:
*1) VỀ hai loại mục tử trong Hội Thánh:
Mục tử là người lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên. Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã phân biệt hai loại mục tử là: mục tử chân chính và mục tử giả hiệu như sau:
– Mục tử chân chínhlà chủ chiên thực sự của đoàn chiên noi gương Đức Giê-su như Người khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10,14). Đức Giê-su đã hy sinh quên mìnhcho đoàn chiên: Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x Mt 13,1-9), làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự để đền tội thay cho đoàn chiên như Người đã nói: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Điều Đức Giê-su luôn quan tâm là lo cho «chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Sống dồi dào về thể xác bằng cách chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền cho dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang đói (x. Mt 14,15-21). Dồi dào về tinh thần như nhiệt thành trong sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Trời, thiết lập bảy phép bí tích, bao dung tha thứ tội lỗi, rửa chân phục vụ môn đệ, đổ Thần Khí trên các tông đồ… noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su.
– Mục tử chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ tỏ thái độ vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «Khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ, như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa cáo trách các mục tử chăn thuê của Ít-ra-en như sau: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).
*2) Mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay:
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay phải là người có “mùi chiên”,gần gũi với con chiên; Là người cha, người anh em với sự hiền dịu, kiên nhẫn và đầy lòng thương xót; Là người có lối sống khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm cũng như khó nghèo bề ngoài như sống đơn giản khắc khổ trong cuộc sống; Là những người không có “tâm lý của các ông hoàng”; Là những người không có tham vọng làm phu quân của Giáo Hội; Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiênđược giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên, làm cho niềm hy vọngđược lớn lên.
Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim mình. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.
Cuối cùng để chu toàn sứ vụ chăn dắt, vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên như sau: Một là đi phía trước để dẫn đường; Hai là đi giữa để duy trì sự hiệp nhấtvà giữ vững tinh thần của đoàn chiên; Ba là đi phía sau để tránh cho chiên khỏi bị tụt hậu, và tạo điều kiện cho chiên đánh hơi hầu tìm ra hướng đi mới cho đoàn.
*3) Ngày Thế giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu:
Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ tiếp nối, nên Giáo Hội đã chọn ngày Chúa Nhật 4 Phục Sinh làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu ơn gọi này như sau:
– Một là vì những gương mù gương xấu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ: thái độ sống thiếu khiêm tốn, thiếu đạo đức, thiếu khôn ngoan, thiếu lịch sự, thiếu nhân bản và thiếu cả bác ái của một số linh mục và tu sĩ, nên ít được mến phục và đi theo con đường này.
– Hai là thiếu sự cảm thông và cộng tác với các vị chủ chăn nơi các tín hữu.
– Ba là thiếu cầu nguyện cho ơn thiên triệu như lời Chúa Giê-su: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10:2).
*4) Cụ thể chúng ta nên làm gì?
*a) Đối với các linh mục tu sĩ:
– Hãy luôn khiêm tốn yêu thương thể hiện qua thái độ lịch sự, vui vẻ và luôn mỉm cười mỗi khi có dịp tiếp xúc với tha nhân.
– Tránh than vãn về các nỗi khổ gặp phải trong đời tu khi nói chuyện với các bạn trẻ.
– Nhắc nhở cộng đoàn năng cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
– Nếu biết bạn trẻ nào có ý muốn dâng mình cho Chúa, hãy đến thăm, trò chuyện và giải thích cho họ hiểu biết thêm về ý nghĩa và giá trị của đời tu…
*b) Đối với những người đang sống đời hôn nhân gia đình:
– Hãy năng cầu xin Chúa giúp con cháu mình nhận ra ơn Chúa kêu gọi và mau mắn đáp lại.
– Tránh phê bình, chỉ trích, nói hành nói xấu các chủ chăn như Giám Mục, linh mục, và tu sĩ.
– Tham gia vào hội Bảo Trợ ơn gọi linh mục tu sĩ bằng lời cầu nguyện và quảng đại đóng góp tài chánh hằng năm để ủng hộ cho ơn thiên triệu.
*5.CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Xin ban cho chúng con những linh mục quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng đón nhận mọi người, nhất là những người đau khổbất hạnh.
Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được Chúa.
Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con,giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa hiện thân trong mọi ngườinhất là những người nghèo khổ và sẵn sàng phục vụ họ.
Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những chủ chăn tốt lành luôn biết noi gương Chúa: “Đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.- AMEN.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-B
CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành khả kính, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy hướng về. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử cho tất cả mọi người.
Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình
Trong Tin mừng Gioan chương 10, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét căn bản này. Trước hết, vị Mục tử nhân lành biết rõ từng con chiên trong đàn :“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc được Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài đã biết. Chúa là vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn của mình.
Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Chúa cũng rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn nghĩa thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi.
Trong một bài giảng mùa chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình và người Mục tử phải có ‘mùi chiên’. Cụ thể, Đức Thánh Cha vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống chung với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành luôn biết các con chiên của mình, và mang nơi mình ‘mùi’ của từng con chiên.
Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn kể về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện đối với các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên khỏe mạnh để lặn lội đi tìm kiếm một con què quặt đang đi lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí và hay quên. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị đóng đinh bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh dễ quên. Căn bệnh lú lẫn và hay quên của Chúa thật đáng trân quý biết bao.
Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống hệt một tên tử tội đốn mạt. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh tính mạng để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử toàn hảo, đã hy sinh ngay cả mạng sống cho đoàn chiên.
Kết luận
Một linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên blog như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những bệnh nhân, những cụ già đơn chiếc và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Cha xứ của họ, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống đối Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà xứ và dã tâm đập chết vị Linh mục mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, chính quyền cũng làm ngơ và ra vẻ như đồng thuận. Bà cố của Cha khi nghe tin, đã rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Tuy nhiên, bà cố không bao giờ than trách, chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.
Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế, Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu ? Chúng tôi cũng muốn đến kính viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng lạ lẫm gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.
Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài đã trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay, nhất là cho các anh em linh mục.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
CHÂN DUNG MỤC TỬ GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do-thái ngày xưa chuyên nghề du mục. Hình ảnh nầy thường được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Ngài.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng lại hình ảnh nầy như một biểu tượng cao đẹp để diễn tả tình thương cao vời Ngài dành cho nhân loại với những nét lớn sau đây:
*1. Mục tử Giê-su sống hoà mình thân mật với đoàn chiên
Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng quyền năng cao cả, còn loài người chỉ là tạo vật thấp hèn. Cách biệt giữa đôi bên là vô biên, vô hạn.
Thế nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua mọi cách biệt để sống hoà đồng với con người. Ngài không muốn duy trì quan hệ đẳng cấp kiểu vua-tôi, chủ-tớ với con người nhưng muốn sống hài hoà thân mật với hết thảy chúng ta.
Khi tự xưng mình là người chăn chiên tốt, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài vui sống chan hoà với mọi người bằng mối tương quan hết sức thân mật, không còn khoảng cách.
Ngài đã từng hoà mình với dòng người tội lỗi chờ được thanh tẩy bên bờ sông Gio-đan (Mt 3, 13-16). Ngài cùng ăn uống đồng bàn và trọ nhà những người tội lỗi (Lc 19,7). Ngài nâng ly rượu chúc mừng đôi tân hôn trong tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11). Ngài khóc thương La-da-rô bạc mệnh (Ga 11,35). Ngài cứu chữa những kẻ bệnh tật, vui đùa với các trẻ thơ… Nói tóm lại, tất cả mọi người đều có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Mục tử Giê-su.
*2. Mục tử Giê-su cho chiên được sống dồi dào
Thánh vịnh 23 phác hoạ chân dung Chúa Giê-su như Vị Mục tử nhân lành tận tình nuôi dưỡng đoàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.
Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 1-3).
Các mục tử trên đời này nuôi chiên nhằm khai thác chiên: xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền; còn Mục tử Giê-su thay vì khai thác trục lợi đoàn chiên thì lại hiến thân mình làm lương thực để chiên được dồi dào sức sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào” (Gioan 10, 10).
Ngài chấp nhận trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống đoàn chiên đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Gioan 6, 35).
*3. Mục tử Giê-su chăm sóc từng con chiên một, không bỏ rơi bất cứ con chiên nào
Lời tiên báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã được ứng nghiệm từng chữ nơi Mục tử Giê-su: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Edekien 34, 15-16)
Qua dụ ngôn mục tử bỏ 99 con chiên nơi hoang địa để đi tìm con chiên lạc, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài chăm sóc chi li từng người một, không muốn bất kỳ một ai phải hư vong. (Lc 15, 4-7)
*4. Mục tử Giê-su hiến thân mình cho chiên được sống
Khác xa người chăn thuê cao chạy xa bay khi thấy đàn sói hung tàn xông tới vồ xé bầy chiên, Mục tử Giê-su chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đến cùng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục tử nhân lành… tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gioan 10, 11-15)
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Mục tử có một không hai trên đời.
Chúa sống hoà mình thân mật với chiên, nuôi chiên sống dồi dào, chăm lo cho từng con một, không bỏ rơi bất cứ con nào và thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Xin thương giúp cho các bậc cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình, các linh mục trở thành mục tử nhân lành trong giáo xứ, Thầy Cô trở thành mục tử cao quý ở trường học… để mỗi người chúng con tuỳ theo chức phận mình, biết tận tình nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên Chúa trao cho chúng con theo gương người Mục tử nhân lành là chính Chúa.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-B
CHÚA CHIÊN LÀNH- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa quí ông bà và anh chị em,
Dân tộc Do thái thời Cựu ước phần đông là dân du mục, cuộc đời họ gắn liền với đàn vật và đồng cỏ. Cho nên khi Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng, Ngài vận dụng những hình ảnh trong đời thường thật gần gủi để cho dân chúng dễ hiểu những chân lý Tin mừng.
Tin mừng hôm nay gợi lên hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói lên mối tương quan cao đẹp giữa Ngài với chúng ta. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, còn chúng ta là đàn chiên của Ngài. Người mục tử nhân lành cần hiểu biết chiên của mình.
Chúa Giêsu nói: “Ta biết các chiên Ta…” (Ga 10, 27). Có nghĩa là Ngài hiểu biết từng người chúng ta. Ngài không những biết rõ hoàn cảnh sinh sống, nhưng còn thấu rõ tâm tư, tình cảm của chúng ta nữa. Ngài biết những thành công thất bại, những lo lắng buồn phiền của chúng ta. Ngài biết những bệnh tật mà chúng ta đang chịu. Ngài biết những ưu tư chúng ta đang mang trong tâm hồn.
Người mục tử nhân lành còn chăm sóc từng con chiên của mình, như Chúa dùng miệng ngôn sứ Ezêkiel loan báo trước: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ chữa cho lành; con nào mập béo, Ta sẽ canh chừng. Và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính” (Ez. 34, 15-16).
Người mục tử nhân lành có ánh mắt quan tâm chiên của mình. Quan là nhìn, tâm là tim: là ánh nhìn bằng con tim. Chúa Giêsu nhìn chúng ta bằng trái tim của người mục tử. “Ngài chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đi theo Ngài vất vưởng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34). “Ngài chạnh lòng thương khi thấy họ đói lã, nên hoá bánh ra nhiều cho họ ăn uống thoả thuê” (Mt 15, 32). “Ngài chạnh lòng thương trước bệnh tật của con người, nên ra tay chữa lành nhiều người” (Mt 14,14). Ngài chạnh lòng thương trước nỗi mất mát đau buồn của bà goá thành Na-im, vì con trai của bà chết, Ngài đến chạm quan tài để hồi sinh cho con bà” (Lc 7, 13-15).
Cuối cùng, người mục tử nhân lành hi sinh vì đàn chiên của mình. Chúa nói: “Tôi là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Thật vậy, “Ngài đã tự hiến mạng sống vì chúng ta”(Ga 10,18). Ngài chấp nhận chết đi để chúng ta được sống. Lương thực Ngài mang đến, đó là Lời hằng sống, và Mình Máu Thánh, những lương thực ấy sẽ cho chúng ta được sống và sống dồi dào, như lời Ngài khẳng định: “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào” (Ga 10,10).
Anh chị em thân mến,
Tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013), ngài nói với các Linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”.
Đức Thánh Cha gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử nữa.
Nhưng theo con nghĩ không chỉ Đức thánh cha, các giám mục, linh mục mới là người mục tử, mà là tất cả chúng ta đều được mời gọi mang nặng mùi chiên theo gương mục tử Giêsu.
Vì thế, trong giáo xứ, cha xứ phải là người mục tử sẵn sàng xả thân phục vụ con chiên trong xứ đạo của mình.
Trong gia đình, cha mẹ cần có tấm lòng mục tử biết dành thời giờ, yêu thương chăm sóc, tận tình lo lắng cho con cái.
Nơi trường học, thầy cô giáo cần có tấm lòng mục tử để hiểu biết và tận tâm giáo dục học trò trở thành những con người tốt cho xã hội và Giáo hội.
Ở bệnh viện, những y tá, bác sỹ cần có lòng mục tử, để làm việc theo lương tâm với tinh thần phục vụ, biết chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân, tận tình tận tâm.
Chính vì thế, Chúa nhật hôm nay thường gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Xin Chúa thương ban cho Giáo hội có nhiều thanh niên nam nữ, biết quảng đại hiến thân phụng sự Chúa, để trở thành những thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo mênh mông. Nhất là cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ được trở nên những mục tử như lòng Chúa mong muốn, là biết yêu thương phục vụ đoàn chiên.
Xin Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành, thương ban cho Giáo hội có nhiều mục tử theo gương Chúa, là hiểu biết tâm tư nguyện vọng của chiên mình, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hi sinh bản thân vì lợi ích cho đoàn chiên. Và xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng mục tử, để xả thân phục trong Giáo xứ, trong gia đình và trong xã hội hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
TÌNH NGƯỜI MỤC TỬ- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thai nhi sắp được chào đời. Nó mới hỏi Thượng đế rằng: “Thưa Ngài, có phải ngày mai Ngài sẽ đưa con vào đời không?
Thượng đế trả lời: Đúng đó con ạ!
Đứa bé đáp: Nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?”.
Thượng đế đáp: “Hãy yên tâm, trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ ở bên con và chăm sóc con chu đáo”.
Đứa bé lại hỏi: “Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?”
Thượng đế trả lời: “Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những lời ngọt ngào và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dậy con biết nói những điều hay lẽ phải”.
– Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Vậy, ai sẽ bảo vệ con?
– Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của mình.
– Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được thấy ngài nữa.
– Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta mỗi khi lạc lối.
– Vậy thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con là gì?
– Tên của người không quan trọng, con chỉ giản đơn gọi người là Mẹ.
Nếu người mẹ cần thiết cho con cái thế nào, thì người mục tử cũng cần thiết cho đàn chiên như vậy. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục từ luôn sống vì lợi ích đàn chiên, luôn sống cho và vì đàn chiên. Người mục tử gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Ngài yêu thương con người nên đã mang lấy thân phận con người để cùng đồng hành với con người. Ngài đã cùng chia vui sẻ buồn với con người qua những thăng trầm của cuộc sống. Ngài đã sống một cuộc đời yêu thương và phục vụ như một người đầy tớ phục vụ chủ nhân. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho đàn chiên được sống. Ngài còn hiến mình thành lương thực nuôi dưỡng đàn chiên qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Hình ảnh người mục tử còn là hình ảnh của những người cha, người mẹ đang ngày đêm lo lắng bảo vệ con con cái. Các ngài đã hy sinh cuộc đời vì hạnh phúc các con. Các ngài đã trải qua những mưa nắng khắc nghiệt của dòng đời để mang lại cơm no áo ấm cho đàn con. Các ngài đã chấp nhận chịu tiêu hao như hạt lúa chịu mục nát đời mình cho con cái lớn khôn.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử hết lòng vì đàn chiên. Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta có cha, có mẹ luôn hết mình hy sinh cho chúng ta. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Cám ơn Chúa vẫn nuôi dưỡng chúng ta trên đồng cỏ xanh tươi là bàn tiệc Thánh thể, nhờ đó mà ta được no thoả ân tình của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với bàn tiệc Thánh Thể. Xin đừng bao giờ để tâm hồn mình bị chết đói, chết khát ngay bên nguồn nước trong lành với đồng cỏ xanh tươi là Bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu với tình mục tử đã dọn sẵn cho chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
MỤC TỬ TỐT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tình yêu Chúa cao vời biết bao, ngút cao như mây trời và mênh mang như biển cả. Chúa yêu thương con người qúa bội. Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ và đã thực hiện trọn vẹn lời hứa. Chúa Giêsu đã xuống thế mang thân phận con người để hoà nhập cuộc sống. Thiên Chúa làm người để cùng chia sẻ mọi nỗi truân chuyên, cơ cực, khổ đau, chối bỏ và ruồng rẫy trong thân phận người. Ngài đã dám hy sinh xả thân vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử chăn chiên thật ấn tượng. Chủ chiên đi trước và đoàn chiên theo sau. Chủ chiên mong tìm nguồn suối mát để chiên được giải khát. Chủ chiên đi tìm cánh đồng cỏ xanh tươi để chiên bồi dưỡng, nghỉ ngơi. Chúa Giêsu ví Ngài như người Chủ Chiên nhân lành.
Người mục tử tốt lành lo chu đáo cho mọi nhu cầu của đoàn chiên. Đối với người Dothái, hình ảnh người chăn chiên rất quen thuộc. Họ hiểu trọn vẹn ý nghĩa về vai trò của người chủ chiên và người làm thuê. Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã viết về Chúa Giêsu chủ chiên tốt lành: “Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên đá góc tường”. Để được ơn cứu độ sẽ không có một Danh nào khác, mà chỉ nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô.
Thư của Thánh Gioan Tông Đồ đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta là dường nào. Ngài cho chúng ta được quyền làm con cái Thiên Chúa và hưởng nhờ ơn cứu độ. Ngài chăn dắt chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. Thánh Gioan đã viết: “Chúa phán: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Chúa biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Mục đích tối hậu là dẫn dắt mọi người về chung hưởng hạnh phúc viên mãn trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).
Chúng ta biết rằng nhu cầu cuộc sống thì vô vàn và sức lực cùng khả năng của con người thì giới hạn. Sống giữa một xã hội đổi thay và hỗn hợp văn hoá, tuyền thống, ngôn ngữ và tôn giáo, chúng ta khó có thể đáp ứng thoả đáng mọi nhu cầu của con người. Để tìm một một nguồn dưỡng nuôi thích đáng, mỗi người đều phải cộng tác nâng đỡ và mở cửa tâm hồn đón nhận. Sống trong một nền văn hoá đa dạng có các phương tiện truyền thông tốc độ, người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn cần tỉnh thức nhiều hơn. Đàn chiên không đơn thuần nhập đàn theo nhau tìm đến dòng suối mát hay cánh đồng tươi xanh để cùng ăn uống thoả thuê. Nhu cầu cuộc sống không đơn giản đi theo bầy đàn.
Sứ mệnh mục tử được lan trải và áp dụng trong các vai trò cụ thể qua sự dưỡng nuôi và giáo dục. Chúng ta đang cần có các mục tử tốt trong mọi bước đi của cuộc đời. Chúng ta cùng chia sẻ vai trò quan trọng này trong chức vụ là cha mẹ, huynh trưởng, nhà giáo dục, các thầy thuốc, bác sĩ, các công nhân viên, các quan chức chính phủ và các nhà giáo dục tôn giáo.
Tại gia đình, vai trò giáo dục chủ yếu là của cha mẹ, phụ huynh lo lắng cho con cái về mọi mặt. Hãy yêu thương và dùng thời gian ở bên để chia sẻ buồn vui và những khó khăn với con cái. Đôi khi có những đứa con ngỗ nghịch, chúng ta cần kiên nhẫn dạy bảo với tình thương bao dung. Cha mẹ phải luôn là mục tử gương mẫu dám hy sinh cho đàn con.
Nơi nhà trường, chúng ta cần các thầy cô. Các thầy cô cần học biết hoàn cảnh và nhu cầu của từng học sinh. Các em không phải là một đám học trò nhưng là từng cá vị có những khả năng riêng biệt cần phát triển. Kiến thức, văn hoá và đạo đức là tinh hoa cần được trau dồi và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối.
Trong nhà thương, cần có các bác sĩ và y tá như là từ mẫu. Các bác sĩ chăm sóc và chữa lành bệnh nhân và đối xử với họ đầy phẩm chất của một con người. Đem tình yêu thương để phục vụ đồng loại với lương tâm ngay chính. Chữa lành và cứu sống chứ không huỷ hoại và tiêu diệt.
Nơi công cộng và xã hội, chúng ta cần các nhân viên công chức lo cho sự an ninh trật tự, an vui và hạnh phúc chung của mọi người hơn là chỉ vì lợi ích riêng tư. Các nhân viên chính quyền lo cho dân như phụ mẫu.
Trong Giáo Hội, nơi nhà thờ và các trung tâm mục vụ, cần các tu sĩ nam nữ, các giám mục và linh mục phục vụ mọi người trong yêu thương. Hướng dẫn con đường tâm linh chính thật. Không gây hoang mang mập mờ làm lung lạc đức tin. Biết nêu gương sáng và chăm sóc lo lắng đời sống tâm linh cho các tín hữu. Đời sống phải đi đôi với lời giảng dạy. Giáo dân cần thấy bài giảng hơn là nghe bài giảng. Sống niềm tin một cách chân thành và trong sáng. Dám hy sinh xả thân vì anh chị em.
Trong gia đình nhân loại, mỗi thành viên đều nhận những vai trò khác nhau từ đời sống trong gia đình ra ngoài xã hội. Chúng ta không phân biệt giai cấp, chức vụ hay nguồn gốc, mỗi người đều có trách nhiệm và bổn phận lo xây dựng một cuộc sống xã hội tốt đẹp chung. Vì thế, chúng ta không thể đổ trách nhiệm cho riêng một thành phần nào. Ai cũng được kêu gọi đóng góp công sức và khả năng của mình để làm cho cuộc sống con người tươi đẹp hơn.
Chúng ta thường có khuynh hướng gán trách nhiệm, những lời trách móc và đổ lỗi cho người khác hơn là quy chiếu trách nhiệm cho chúng ta. Dễ dàng so sánh và phê bình người khác hơn là xét lại những ngôn hành của chính mình. Chúng ta nên nhớ rằng từ sự suy tư, lời nói đi tới hành động có một khoảng cách rất lớn. Mỗi người cần có một sự dấn thân tu tâm và quyết chí thực thi lời dạy hằng ngày. Nếu lời nói không đi đôi với việc làm thì ngôn hành trở thành bất nhất. Chỉ nói mà không làm. Ai trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tiêu cực này.
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Chúng ta gẫm suy về những lời truyền dạy và thực hành của Chúa. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời giúp chúng ta tu tập sống đạo. Chúa đã giảng và sống lời giảng qua sự cầu nguyện, yêu thương, hy sinh, tha thứ, khiêm nhường, từ bỏ và công bằng chân thật. Chúng ta cần tu tâm tích đức, tu tâm luyện tính và tu tâm hành đạo. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Chúa, là Mục Tử và là Đấng Cứu Độ. Bước theo Chúa Chiên, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống thật và no thoả trong nguồn suối ân tình.
Chúa Giêsu là Chủ Chiên và là cửa chuồng chiên. Đức Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Trong cuộc sống, có rất nhiều cánh cửa mở rộng đón mời chúng ta vào. Có những cánh cửa dẫn chúng ta vào con đường lầm lạc và hư mất. Có những cánh cửa đưa dẫn chúng ta xa lạc trong thế giới tục hoá với nền văn minh sự chết. Có những cánh cửa mở ra cho chúng ta tìm những thoả mãn hưởng lạc và vui thú truỵ lạc. Có những cánh cửa đưa chúng ta vào chung hưởng nguồn vui an lạc thật sự. Chúa Giêsu nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là cửa. Cửa của sự sống và sự sống lại. Đến với Chúa Giêsu và qua Ngài, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống chan hoà trong niềm an vui, hy vọng và hoan lạc muôn đời.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B
RAO GIẢNG ĐỨC KITÔ PHỤC SINH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người được cứu độ.
*1. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết
Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: “Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.
Phêrô còn rao giảng: “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ” (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giêsu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ “phương tiện cứu độ duy nhất” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhờ và qua Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khác? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
*2. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dùng hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo vệ chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.
Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hữu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.
*3. Chúng ta là con Thiên Chúa
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!
Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Tại sao các tông đồ lại rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh?
- Đức Giêsu phục sinh, điều này có đủ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa không? Tại sao?
- Thiên Chúa tạo dựng con người, điều này đủ để chứng tỏ con người là con Thiên Chúa. Vậy Đức Giêsu mang gì thêm cho khẳng định “chúng ta là con Thiên Chúa”?
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhativphucsinhb