CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỘT GIÁO HUẤN, MỘT SỨ ĐIỆP (*)- Chú giải của Noel Quession 6
CHÚA GIÊSU BẮT ĐẦU SỨ VỊ CỦA NGÀI- Chú giải mục vụ của William Barclay 14
DẤU CHỈ KÈM THEO (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
HÃY THEO ĐỨC GIÊSU VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG CÓ UY QUYỀN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
NHƯ ĐẤNG CÓ QUYỀN UY- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 49
MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 52
CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI ÁC THẦN– Lm. Phêrô Lê Văn Chính.. 57
ĐỂ CHO LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 63
LỜI ĐẦY UY QUYỀN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 68
GIẢNG DẠY NHƯ CÓ THẨM QUYỀN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 72
CHÂN TƯỚNG CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 76
ĐẤNG CÓ UY QUYỀN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 81
SỐNG LỜI CHÚA SẼ TRỪ ĐƯỢC QUỶ TRONG TA- Lm. Josephus Quang Nguyễn 86
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người”.
Trích sách Đệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9.
Đáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. – Đáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. – Đáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta”. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 7, 32-35
“Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12
Alleluia, alleluia! – Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 1, 21-28
“Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Đến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
MỘT GIÁO HUẤN, MỘT SỨ ĐIỆP (*)- Chú giải của Noel Quession
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ” ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người “đi vào” một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm “Đức Giêsu và các môn đệ của Người”.
Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến “Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Máccô cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính “Người và các môn đệ” sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ “Galilê của dân ngoại”, miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân… Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um”!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả “nhóm”, giờ đây Máccô giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho ta một “Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn “hành động” đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?
Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu “trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát”. Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ trong cùng một câu nói mà Máccô đã ba lần sử dụng từ “didakê”, “giảng dạy”. Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay “lời dạy” phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: “Thời kỳ đã mãn… Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi… Anh em phải sám hối… Anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Điều làm cho Máccô quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự… Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa… Người ta “kinh ngạc” vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó “đúng thực” tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa… và Ngôi Lời đã làm người”. Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt… Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những “kinh sư ” theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền” của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: “anh ta tin như thế?”, rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói “ba láp”, nói “ba hoa chích chòe”… nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một “kinh sư” hay là một “chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên “của tôi”, được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi” không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên…
Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Máccô không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là “tiếng la hét” vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó”: bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi “lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng” quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn tới “thần ô uế” mà sách bài đọc dịch là “thần xấu’, bởi vì thực ra, từ “ô uế” ở đây không có nghĩa “tình dục” như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự “thánh thiện”. Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ “thần ô uế “. “Thần xấu”, chính là “đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa”: chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó “quấy phá” con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người “bị quấy phá” trên đây, đó là chính biểu tượng của con người “bị tha hóa”. “Bị chiếm đoạt”, vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc “trừ quỷ” của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó “hiểu biết sâu xa” cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ”, khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản “tóm lược” trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ… Thế giới thay đổi chủ… Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: “ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường “Giêsu, người Na-da -rét”, đến tước hiệu kỳ diệu: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa “Thần ác” và “Thiên Chúa” được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là “tiếng la hét của quỷ”. Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này”.
Từ Hi Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì “bịt miệng”, “đe dọa”, “quát mắng”. Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về “nhân cách” của Đức Giêsu… thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, là.”Con Thiên Chúa”, có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một “con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là những Lời”, một giáo huấn, một sứ điệp… một điều gì “mới lạ” cho nhân loại.
Đó là những “Dấu chỉ”, những “hành động của Đức Giêsu, các bí tích… quyền năng của Thiên Chúa”. Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu “trừ quỷ và “dấu chỉ bí tích” này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể… trong đó Đức Giêsu “nói” với ta, và “cứu độ” ta khỏi sự dữ.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA GIÊSU BẮT ĐẦU SỨ VỊ CỦA NGÀI- Chú giải mục vụ của William Barclay
Câu chuyện Maccô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Chúa Cha để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhận dấu ấn của Chúa Cha chứng tỏ Chúa Cha tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu chịu ma quỷ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có một nhóm nhỏ những tâm hồn đồng lòng hiệp ý nhau, để Ngài có thể viết lên đó những sứ điệp của Ngài. Nếu ai có một sứ điệp của Chúa cần rao giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào phải là Hội Thánh, là nơi họp mặt những người thuộc về Chúa. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu sứ vụ của mình từ hội đường.
Có vài điểm khác nhau căn bản giữa hội đường và nhà thờ theo chúng ta được biết ngày nay.
(a) Trước hết hội đường là nhà trường để dạy đạo. Một buổi học trong hội đường chỉ gồm ba việc: Cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải Lời ấy. Không có cử nhạc, ca hát, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ, chỉ bảo, là chỗ có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ có một Đền thờ duy nhất, Đền thờ tại Giêrusalem. Luật quy định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do Thái thì phải có một hội đường, do đó, bất kỳ nơi nào có một nhóm người Do Thái định cư thì có hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi để người ấy trình bày.
(b) Hội đường tạo cơ hội cho người ta truyền rao một thông điệp như thế. Hội đường có một số chức sắc. Có ông trưởng hội đường, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc và thu xếp các buổi học. Có những người phân phát của bố thí. Hằng ngày có việc thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người đóng góp, sau đó được phân phát cho người nghèo. Những người nghèo nhất được cấp thực phẩm đủ 14 bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn gọi là người phục vụ. Vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách thánh. Vị ấy cũng quét dọn hội đường, thổi kèn (loa bằng bạc) để loan báo ngày sabát, dạy lớp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Những có một chức vị mà hội đường không có, đó là người rao giảng hay thầy dạy thường xuyên. Khi mọi người họp lại và buổi họp bắt đầu thì người trưởng có nhiệm vụ chỉ định người giảng dạy. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thể bắt đầu sứ vụ của Ngài trong hội đường. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như một người có một thông điệp muốn rao truyền, do đó, bất cứ hội đường nào của các cộng đồng đều thành tòa giảng cho Ngài dạy dỗ.
Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một mặc khải mới mẻ. Ngài không giảng dạy như các Kinh sư là các chuyên viên về luật. Các Kinh sư này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật, Tora. Trái tim của Luật là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu Luật là năm quyển đầu của Cựu Ước mà họ gọi là Ngũ kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái, Luật ấy hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến. Họ tin rằng Luật vốn được Chúa trực tiếp trao cho Môsê, hoàn toàn thánh và có tính cách ràng buộc tuyệt đối. Họ bảo: “Ai nói Tora không từ Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”, “Kẻ nào bảo Môsê đã viết Luật theo hiểu biết của riêng ông, dầu chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh khi Lời Chúa”.
Nếu Luật vốn thiêng liêng như thế thì có hai việc nẩy sinh. Một là Luật phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sống và đức tin; hai là Luật phải hàm chứa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy, Luật chỉ đòi hỏi hai điều, một là phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ cẩn thận, hai là Luật chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật hàm chứa phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm cho sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc, như vậy lý luận mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và khai triển Luật, có một giai cấp học giả, đó là những Kinh sư, các chuyên viên về Luật, danh xưng dành cho những người cao trọng nhất trong họ là Rabi. Các Kinh sư này có ba nhiệm vụ:
(a) Họ căn cứ vào các nguyên tắc đạo đức trọng đại trong Luật để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy ra trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng. Do Thái giáo bắt đầu bằng các nguyên tắc đạo đức quan trọng, nhưng kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và quy tắc. Bắt đầu là một tôn giáo, nhưng kết thúc là chủ nghĩa duy luật.
(b) Nhiệm vụ của các Kinh sư là truyền dạy Luật và khai triển. Các luật lệ và quy tắc lấy ra từ đó và suy diễn ra chẳng bao giờ viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật truyền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ Kinh sư này đến thế hệ Kinh sư khác. Người học trò giỏi là người có trí nhớ giống như “một cái giếng được lót bằng đá vôi không làm mất đi một giọt nước nào cả”.
(c) Sau cùng, các Kinh sư có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà, mỗi vụ kiện tụng như vậy lại tạo ra những luật lệ mới.
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với các Kinh sư chỗ nào? Ngài giảng dạy có uy quyền. Không có Kinh sư nào dám tự mình quyết định việc gì cả. Ông ta chỉ nói: “Căn cứ theo lời dạy rằng…” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. Hễ nói ra một lời là ông ta dựa vào câu này, câu nọ được ông trích dẫn lại, từ những bậc thày về luật mà thiên hạ đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu! Khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không còn thẩm quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, không dựa vào uy quyền của một chuyên viên nào cả. Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Đối với dân chúng, nghe một người giảng dạy như vậy thật chẳng khác gì được một làn gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn thận trọng của các Kinh sư. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ vang vang, và chính giọng nói ấy đã tác động mọi người.
Chiến thắng đầu tiên đối với các thế lực của ma quỷ (Mc 1,23-28)
Nếu lời Chúa Giêsu khiến dân chúng trong hội đường lấy làm lạ thì việc làm của Ngài càng khiến họ vô cùng kinh ngạc. Trong hội đường có một người bị tà ma ám. Anh ta gây rối và được Chúa Giêsu chữa lành. Qua suốt các sách Phúc Âm, chúng ta vẫn thấy những người bị tà ma và ma quỷ ám như thế. Vậy có gì ẩn sau việc ấy? Người Do Thái, và nói chung cả thế giới thời xưa tin ma quỷ. Hamack nói: “Cả thế giới và cả bầu không khí bao quanh đều đầy dẫy ma quỷ, không phải chỉ có việc thờ ngẫu tượng, mà mọi việc, mọi hình thức của đời sống đều bị chúng cai trị. Chúng ngự trên các ngai vàng, bay lượn trên những chiếc nôi, thật ra thì cả địa cầu là một hỏa ngục”. Tiến sĩ A. Rendle Short kể lại một sự việc chứng tỏ người thời xưa tin ma quỷ mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều nghĩa địa thời xưa người ta tìm thấy những sọ người bị xoi lỗ. Trong một nghĩa địa nọ người ta thấy trong 120 xương sọ có sáu cái bị đục thủng như vậy. Với kỹ thuật giải phẫu giới hạn thời xưa, làm như vậy không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, căn cứ vào việc chỗ xương ấy còn phát triển, người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta hãy còn sống. Điều cũng rõ ràng là lỗ đục xương sọ nhỏ đến nỗi nó không thể có giá trị điều trị hay giải phẫu nào và người ta biết rằng cái vòng tròn được lấy ra đó thường được đeo vào cổ như một thứ bùa chú. Lý do đục thủng như vậy là để ma quỷ có lối thoát ra khỏi thân thể một người. Nhưng nếu các nhà giải phẫu thời xưa sẵn sàng thực hiện một công cuộc giải phẫu như vậy, và nếu người ta cũng sẵn sàng chịu để cho đục như vậy, thì ta thấy niềm tin vào việc bị ma quỷ ám vốn có thật đến độ nào.
Vậy các ma quỷ ấy từ đâu ra? Có ba giải pháp cho vấn đề này. (1) Có người tin rằng chúng cũng xưa như công cuộc tạo thành trời đất vậy. (2) Có người tin rằng chúng vốn là linh hồn của những kẻ ác đã chết nhưng vẫn tiếp tục làm những công việc gian ác của nó. (3) Phần đông liên kết ma quỷ với câu chuyện xưa chép trong Sáng Thế 6,1-8 (đối chiếu với 2Pr 2,4-5). Người Do Thái phóng đại câu chuyện như thế này: Có hai thiên thần trốn Chúa để xuống địa cầu vì bị sắc đẹp của con gái loài người quyến rũ. Tên họ là Asên và Simsai. Một trong hai thiên thần này quay về với Chúa, còn người kia ở lại thế gian để thỏa mãn tham dục của mình và ma quỷ là hậu duệ từ con cháu vị ấy sanh ra. Từ chỉ ma quỷ Mazzikin có nghĩa là kẻ làm hại. Vậy ma quỷ là các hữu thể thích làm ác trung gian giữa Chúa và loài người, gây tai họa cho loài người.
Theo tin tưởng của dân Do Thái thì ma quỷ có thể ăn uống và sinh con đẻ cái. Chúng đông khủng khiếp. Có người cho rằng có đến bảy triệu rưỡi ma quỷ, một người có thể có một vạn ma quỷ ở bên phải và một vạn ở bên trái. Chúng sống tại những nơi ô uế như mồ mả và những nơi có nước dơ, chúng sống trong sa mạc là nơi người ta có thể nghe tiếng hú của chúng. Chúng đặc biệt nguy hiểm cho các lữ khách cô đơn, phụ nữ có con, các cô dâu, chú rể và cho trẻ con ra ngoài sau khi trời tối và cho những người đi đường ban đêm. Chúng hoạt động đặc biệt trong sức nóng oi ả giữa trưa và giữa thời gian mặt trời lặn và mặt trời mọc lên. Có một con quỷ làm cho người ta đui, một con quỷ gây bệnh phong cùi, một con quỷ gây chứng đau tim. Chúng có thể truyền các khả năng làm ma quỷ của chúng cho người ta nữa. Chẳng hạn ma quỷ có thế biến may thành rủi và mọi người tin rằng của cải là do ma quỷ ban cho họ. Chúng cũng làm việc với một số các loài thú như rắn, bò mộng, lừa và muỗi. Theo Lilith thì quỷ đực gọi là shedim và quỷ cái là lilin. Các quỷ cái có tóc dài và là kẻ thù của con trẻ. Chính vì thế mà trẻ con có các Thiên thần bảo vệ (18,10).
Vấn đề không phải là chúng ta tin hay không tin mọi điều vừa kể, cũng không phải là chuyện ấy có thật hay không. Vấn đề là vào thời Tân Ước, người ta tin như vậy. Ngày nay, chúng ta vẫn nói “đồ quỷ”, đó là di tích của niềm tin cổ xưa. Khi có người tin mình bị ma quỷ ám ảnh thì người ấy “ý thức về mình và về một hữu thể khác ở bên trong thúc đẩy, điều khiển mình”. Điều đó giải thích tại sao những kẻ bị quỷ ám tại Palestine thường kêu to lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng biết dù sao cũng có một số người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, chúng biết khi Chúa Giêsu trị vì thì ma quỷ bị thanh toán, và kẻ tin rằng chính mình đã bị quỷ ám thì nói như chính con quỷ nói khi gặp Chúa Giêsu. Có nhiều kẻ làm thầy đuổi quỷ, tự xưng là có thể đuổi được quỷ. Việc ấy có thật đến độ vào khoảng năm 340 SCN, Hội Thánh Chúa thật sự có một dòng đuổi quỷ. Nhưng còn một chỗ khác nhau này: thấy đuổi quỷ thông thường của dân Do Thái và dân ngoại thường dùng thần chú, gào thét, và nghi lễ có tính cách ma thuật. Chúa Giêsu đuổi quý ra khỏi người ta chỉ bằng một tiếng phán rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn đầy quyền năng. Chưa hề có ai thấy việc như vậy trước đó, quyền năng không tại tiếng gào thét, đọc thần chú hay trong lời kêu khấn vái theo công thức, bằng nghi lễ công phu, nhưng quyền năng vốn có ở trong Chúa Giêsu, cho nên mọi người đều kinh ngạc sững sờ.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
DẤU CHỈ KÈM THEO (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng Đức Giê-su đến để thực hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en: chính Ngài là vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 15-20
Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là “Phát Ngôn của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
Mc 1: 21-28
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm; Ngài là Phát Ngôn của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời là Phát Ngôn của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi là sách “To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.
Nhan đề: “Đệ Nhị Luật”, có nghĩa “luật thứ hai” (“Thứ luật”). Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Thật ra, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
*1.Định chế ngôn sứ.
Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên định chế ngôn sứ. Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”.
Đây không phải là lời tiên báo về một ngôn sứ độc nhất, nhưng về những ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.
Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo nầy về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).
*2.Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống.
Lời tiên báo nầy đáp lại nguyện ước của dân chúng. Trên đỉnh núi Xi-nai, Thiên Chúa đã tỏ mình ra và phán dạy trực tiếp với dân chúng khiến họ khiếp sợ nên cầu xin ông Mô-sê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó, vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể vẫn sống. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì “ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).
Bản văn Đệ Nhật Luật nầy, được đọc trong ánh sáng Tân Ước, mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là hiện thân của Thiên Chúa ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết, trái lại được đón nhận “hết ân nầy đến ân khác” của Ngài nữa (Ga 1; 16).
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
*1.Kinh nghiệm bản thân.
Cách giải thích thứ nhất từ chính kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Với tư cách là người lữ hành của Thiên Chúa, thánh Phao-lô rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).
*2.Quan niệm văn hóa và xã hội.
Cách giải thích thứ hai từ quan niệm văn hóa thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.
Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân, chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào cản cho sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm nhuần văn hóa Hy lạp, vì thế những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, thánh nhân nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh Phao-lô vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, thánh nhân biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam” (1Cr 11: 11).
TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ đến thành Ca-phác-na-um.
*1.Thành Ca-phác-na-um.
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ hàm ẩn chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.
Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và giải thích những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm, hay đúng hơn Đấng có uy quyền trong lời nói được minh chứng qua việc làm.
*2.Cách thức Đức Giê-su giảng dạy:
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc kinh sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “bậc kinh sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
*3.Dấu chỉ kèm theo:
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nhìn nhận sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).
*4.Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Đấng Thiên Sai” theo Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được hé lộ chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thực hiện: một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, theo hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể được bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HÃY THEO ĐỨC GIÊSU VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG CÓ UY QUYỀN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Đnl 18,15-20) : Môsê báo trước rằng sau này Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một Vị Ngôn Sứ trổi vượt tất cả các ngôn sứ.
– Đáp ca (Tv 94) : Lời kêu gọi tín hữu hãy lắng nghe tiếng Chúa.
– Tin Mừng (Mc 1,21-28) : Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ uy quyền mà Môsê đã tiên báo.
– Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ) : bàn về cuộc sống độc thân.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề : Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không ? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
– Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
– Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
*2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
*3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền :
– Uy quyền trong lời nói : “Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.
– Uy quyền trong hành động : Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám : “Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.
*4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống : bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm “minh chủ“
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp “Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được” Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy : muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
*
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì : “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân : “Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi” (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là “Giáo lý mới mẻ”. Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là : “Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
- Courtois khẳng định : “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều“.
Jacques Delarue viết : “Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc : “Hãy ra đi bình an”. Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật“.
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì :
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv.118,105).
*
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 3. “Hãy để tôi yên“
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?” Nói như thế cũng có nghĩa là nói “Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi”.
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)
*4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu :
– Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
– Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.
– Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật : đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
– Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh… Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém : tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực : “Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến ?”
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói “Ai tin thì sẽ được rỗi” vậy.
*5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, “đoan” là đầu mối, “dị” là kỳ lạ. Tin “dị đoan” là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.
Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người :
*1. Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
*2. Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
*3. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
*4. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
– Trước lúc rước lễ : Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. “Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch”
*VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN -B
NHƯ ĐẤNG CÓ QUYỀN UY- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần “nhập đề” giới thiệu các nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ ” là Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi (Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người “vì Người giảng dạy như Đấng có quyền uy” (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô: “Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa” (Ga 3,34; x. Ga 14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” đáp ca: Tv 94,8).
“Người ta kinh ngạc về giáo lý của người” (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã kêu ca, ngáp ruồi… Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình, khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.
Bài Tin mừng hôm nay quả là một thánh lễ rút gọn:
c 21. tập họp. Dân chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ hạnh phúc đích thực.
c 22: phung vụ Lời Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích…
c 23-24: dâng lễ. Để đáp lại lời đã nghe, con người thưa “xin vâng”, tin vào lời Thiên Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha. Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.
c 25-26: hiệp lễ. Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối (giải thoát khỏi Ai cập-tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.
27-28: sai đi. Nhờ ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu “danh tiếng Người đồn ra khắp mọi nơi”.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI ÁC THẦN– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Tiên tri là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhắc nhở mọi người biết sống theo lề luật và thánh ý Thiên Chúa, hướng dẫn dân chúng sống giao ước với Thiên Chúa. Trong Cựu ước, đời sống của dân Chúa luôn có sự hướng dẫn của các tiên tri mà Thiên Chúa luôn ban cho họ. Môisen là vị lãnh đạo và cũng là vị tiên tri đã lãnh đạo dân do thái từ đất Ai cập để đi đến đất hứa. Ông vừa là nhà lập pháp và cũng là nhà hành pháp. Chế độ các tiên tri vẫn tồn tại vào thời quân chủ khi những người do thái đã có vua cai trị. Các tiên tri vẫn là những người đồng hành với dân chúng để nhắc nhở họ, và trong thời gian ưu phiền sầu khổ vì bị lưu đày, các tiên tri là những người an ủi họ và nhất là củng cố tinh thần cho họ, làm cho họ được vững vàng trong những gian truân thử thách và biết tin tưởng hướng về tương lai. Chính các tiên tri loan báo cho họ những lời hứa cứu độ và giải thoát . Vào thời Môisen, những người do thái vẫn ghi nhớ cách đặc biệt lời tiên báo của ông về một vị tiên tri mà Thiên Chúa sẽ cho trỗi dậy từ giữa dân để ở với dân Chúa và nói cho họ những lời và mệnh lệnh của Thiên Chúa. Vị tiên tri này cũng sẽ rất mạnh mẽ như Môisen trong lời nói và hành động.
Tin mừng theo Máccô thuật lại trong chương đầu một trình thuật cô đọng và ý nghĩa của hoạt động cứu độ của Đức Giêsu, vị tiên tri đầy quyền năng mà Môisen đã tiên báo. Chúa Giêsu khởi đầu rao giảng trong miền Capharnaum và theo thói quen những người do thái, người vào hội đường vào ngày thứ bảy là ngày hưu lễ và là ngày thánh hóa của họ. Trong hội đường có một người bị quỉ ô uế ám và nó la to lên: “Hỡi ông Giêsu Nazarét, phải chăng ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trong thế giới cổ thời, người ta thường qui những bệnh tật cho quỉ thần. Ở đây, ma quỉ biết Đức Giêsu và kêu tên của người. Cũng trong thế giới cổ thời này, biết và kêu tên của ai cũng là có quyền năng trên người đó một cách nào đó. Ma quỉ kêu tên Chúa Giêsu, nhưng ngược lại nó cảm thấy không thể có quyền năng gì trên người cả, mà ngược lại nó còn cảm thấy rằng chính người đến để tiêu diệt nó, bởi vì người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Quả đúng như vậy, Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa đầy quyền năng, người đến để kết thúc quyền lực của ác thần và ma quỉ trên con người. Vì thế, bằng một lời truyền khiến đầy uy quyền, người trục xuất ma quỉ ra khỏi người bệnh : “câm đi và ra khỏi người này”. Ở đây, theo cách thuật chuyện của thời xưa, việc xua đuổi ma quỉ ra khỏi một người được kể kèm theo những cảnh đáng sợ, “quỉ vật người đó và hét lên một tiếng lớn và thoát ra khỏi người đó”. Thật ra, điều chúng ta cần ghi nhận trong tường thuật của Tin mừng, đó là lời truyền khiến đầy uy quyền của Chúa Giêsu trên ác thần để xua trừ chúng ra khỏi con người. Người đã truyền khiến cho ma quỉ ra khỏi người bệnh một cách dứt khoát mạnh mẽ khiến cho dân chúng chứng kiến đều phải kinh ngạc và tự hỏi: “điều gì đây? một giáo huấn mới đầy uy quyền, người truyền khiến cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh người”.
Thực vậy, câu chuyện của bài Tin mừng thuật lại cho chúng ta một trong những chạm trán đầu tiên của Đức Giêsu với ác thần ma quỉ, cuộc đối đầu giữa sự thánh thiện và sự dữ. Loại trừ ác thần và sự dữ là công việc cứu độ mà Đức Giêsu được sai đến thế gian để thực hiện, và người đã thực hiện điều này với uy quyền Thiên Chúa bởi vì người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Sự thánh thiện thì thuộc về Thiên Chúa , ác thần ma quỉ là những gì chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu có uy quyền không đơn giản bởi vì người thuộc về Thiên Chúa, nhưng còn bởi vì người chính là Thiên Chúa, là nguồn gốc của mọi quyền bính, mọi chân lý và mọi sự thiện. Quyền bính của Chúa Giêsu tuôn trào từ chính bản tính Thiên Chúa của người, là nguồn gốc của mọi sự sống và sự thánh thiện.
Người tín hữu cũng phải đối diện với nhiều cuộc chiến giữa thiện và ác trong cuộc đời của mình. Khi chúng ta càng lúc càng lớn lên và già đi, những cuộc chiến này càng lúc càng trầm trọng hơn. Chúng ta phải đối diện với những chọn lựa giữa những ơn Chúa giúp chúng ta lớn lên trong đời sống thánh thiện và sự dữ tội lỗi mà ác thần lôi kéo chúng ta phạm tội làm mất tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với người khác. Để chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa, phải là những người thánh thiện. Thực ra, người tín hữu vốn có uy quyền của chính Chúa Giêsu để tiêu diệt sự dữ trong lòng mình, bởi vì từ khi lãnh bí tích rửa tội, họ đã thuộc về Chúa và nhận lãnh những quyền bính của chính Chúa Giêsu, họ là những người thánh thiện của Thiên Chúa. Qua bí tích rửa tội, Chúa Giêsu ban tặng cho người tín hữu đời sống thần linh thánh hóa họ, và cũng ban tặng cho họ quyền năng để chiến thắng ác thần sự dữ.
Một cách cụ thể, thánh Phaolô trong bức thư gửi giáo đoàn Corintô, nói đến điều kiện của những người tín hữu. Họ là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, tức là họ đã được thánh hóa và lãnh nhận đời sống thần linh và dĩ nhiên là họ cần tìm cách để khai triển hiệu quả đời sống thần linh này. Có hai bậc sống được đặt ra mà họ cần suy xét để chọn lựa. Những người nam và nữ lập gia đình và những người không lập gia đình. Những người nam nữ không lập gia đình sẽ có nhiều thời gian hơn để suy nghĩ về Chúa và quan tâm làm đẹp lòng Chúa, trái lại những người nam nữ lập gia đình sẽ bị chi phối nhiều hơn về việc đời, làm sao để làm vừa lòng vợ hay chồng, và vì thế tâm hồn của họ bị chia sẻ, họ không còn có đủ thời gian để phục vụ Chúa và sống mật thiết với Chúa. Cái nhìn của thánh Phaolô thì chân thành và giúp chúng ta nhận ra những điều tốt đẹp của đời sống độc thân để dành nhiều thời gian tìm kiếm Thiên Chúa. Vào thời thánh nhân, trong Giáo hội chưa có những hình thức đời sống tu trì với những dòng tu như chúng ta ngày nay, thánh nhân chắc đã tiên cảm về lợi ích của đời sống này mà chúng ta sẽ thấy phát triển rất mạnh mẽ vào thế kỷ thứ IV trong Giáo hội với phong trào đan tu, nhiều người sẽ dấn thân vào đời sống đan tu với lý tưởng tìm kiếm Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa nhờ đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy ngắm Thánh Kinh.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ người thực là uy quyền trong lời nói và việc làm và trong ý chí của người chống lại ma quỉ và ác thần. Những người trong hội đường đã rất ngạc nhiên về lời giảng dạy và uy quyền của người trên ma quỉ. Người tín hữu cũng được mời gọi cùng với Chúa Giêsu khai triển đời sống thần linh đã lãnh nhận để chiến đấu chống lại ma quỉ và ác thần. Qua đời sống hằng ngày, người tín hữu được mời gọi kết hợp với Chúa Giêsu nhiều hơn nữa bằng cách lắng nghe lời Chúa, bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh chu toàn công việc bổn phận cách trung tín và khiêm nhường. Người tín hữu luôn nhận thức là họ đã nhận đời sống thần linh và họ càng lúc càng phải làm cho đời sống thần linh này được lớn lên trong chính mình bằng những cố gắng để chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỉ luôn rình rập họ, lôi kéo họ lạc xa khỏi đời sống thần linh, làm cho họ mất đi tương quan sự sống thần linh với Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-B
ĐỂ CHO LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Lúc ấy, trong hội đường có người bị ma quỷ ám. Thấy Chúa Giê-su, quỷ biết ngay Ngài là Con Thiên Chúa, nên la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Bấy giờ Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Lập tức Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Mọi người chứng kiến đều hết sức kinh ngạc trước quyền lực của Chúa Giê-su. Ngài không cần dùng roi vọt hay bạo lực để trục xuất ma quỷ. Ngài chỉ cần truyền một lời là quỷ phải xuất ra ngay.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng
Khi tạo nên vũ trụ càn khôn từ hư vô, Kinh Thánh cho biết là Thiên Chúa không cần dùng đến những chất liệu có trước mà chỉ cần dùng Lời của Ngài để tạo dựng nên muôn vật muôn loài. Thiên Chúa phán hãy có mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao trên bầu trời… thì chúng liền có như Lời Chúa phán. Thiên Chúa phán hãy có đất, có biển, có đủ mọi loài chim trời cá nước… thì mọi thứ hiện hữu như lệnh Chúa truyền.
Và khi xuống thế làm người ở cùng nhân loại, Chúa Giê-su cũng tỏ cho thấy Lời Ngài có sức mạnh vạn năng: Đứng trước bệnh nhân phong, Ngài phán: “Ta muốn, ngươi hãy trở nên sạch”, thì bệnh nhân mắc chứng bệnh phong hủi nan y liền được chữa lành. Đứng trước mồ La-da-rô đã chết bốn ngày rồi, Chúa truyền: “Hỡi La-da-rô hãy đứng dậy ra khỏi mồ” thì người chết đã bốn ngày rồi lồm cồm đứng lên bước ra khỏi mộ. Khi đang ở trên thuyền giữa biển khơi đang cơn bão tố dữ dội, Chúa Giê-su truyền cho sóng gió lặng yên và ngay tức khắc, biển trở nên phẳng lặng như tờ. Tóm lại, Lời Chúa có sức mạnh vạn năng, mọi vật mọi loài đều tuân theo Lời Chúa phán.
Lời Chúa bị vô hiệu hoá bởi sự ngoan cố của con người
Vậy mà khi Chúa truyền cho loài người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” thì nhiều người vẫn im lìm bất động. Khi Chúa truyền “hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”, nhưng sự giận hờn ghen ghét vẫn chất chứa trong lòng người. Khi Chúa truyền hãy quan tâm phục vụ nhau như Ngài đã hiến thân mình phục vụ con người, thì nhiều người vẫn dửng dưng vô cảm với đồng loại…
Tại sao Lời Chúa chưa cảm hoá được lòng người?
Sở dĩ uy lực của Thiên Chúa và Lời quyền năng của Chúa khựng lại trước con người vì Chúa ban cho con người có tự do để tự định đoạt đời mình và Chúa tôn trọng tự do của họ đến cùng. Cho dù có người viết sách phỉ báng Chúa, Chúa cũng không bẻ bút của họ; cho dù có người dựng phim để lăng nhục Chúa, Chúa cũng không khoá tay họ. Thậm chí ngay cả khi con người dùng tự do của mình để đóng đinh Ngôi Hai Thiên Chúa vào thập giá thì Chúa vẫn tôn trọng tự do của họ đến cùng.
Vì thế, bao lâu con người chưa dùng tự do của mình để quay về với Chúa và để cho Lời Chúa uốn nắn đời mình, thì bấy lâu, Lời Chúa chưa cảm hoá được tâm hồn của họ.
Như mưa trời rơi xuống chan hoà trên mặt đất làm cho đất phì nhiêu, cho hạt nẩy mầm, cho hoa kết trái, cho lúa đơm bông… thì Lời Chúa tuôn xuống tâm hồn ta cũng sẽ làm cho đời ta sinh hoa kết quả như vậy. Tuy nhiên, nếu ta dùng tự do của mình, đóng kín tâm hồn lại như thùng đậy nắp thì Lời Chúa có rơi xuống như mưa cũng không sinh ích lợi gì!
Như ngọn hải đăng bừng sáng giữa đêm đen soi đường chỉ lối cho tàu thuyền về bến bình an, Lời Chúa cũng soi dọi cho bao người tìm về đường ngay nẻo chính, nhưng nếu người ta dùng tự do của mình, khép mắt không nhìn đến thì cũng bằng không.
Lạy Chúa Giê-su,
Ngay cả ma quỷ mà còn biết vâng lệnh Chúa truyền, đang khi chúng con là những người con yêu quý của Chúa, lại không thực hành Lời Chúa phán dạy thì thật là chuyện đau lòng.
Xin đừng để chúng con sử dụng tự do của mình để từ khước những Lời khôn ngoan của Chúa nhưng biết mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và khắc sâu Lời Chúa vào trong tâm khảm mình.
Bấy giờ, Lời Chúa sẽ như mưa nguồn làm cho đời sống chúng con nên tươi tốt, như ánh hải đăng soi lối cho chúng con về bến hạnh phúc chan hòa.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
LỜI ĐẦY UY QUYỀN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cả hội đường đều ngạc nhiên về lời giảng và lời trừ quỷ của Đức Giêsu. Tại sao họ kinh ngạc? Họ kinh ngạc thấy Đức Giêsu là một thường dân, không có địa vị đạo đời, không phải tư tế, giáo trưởng, luật sĩ, biệt phái hay quan chức. Người chỉ là thứ dân, thợ mộc làm công, làm mướn, dám đứng lên đăng đàn thuyết pháp trước một cử tọa đông đủ các nhân vật quan trọng của một thành phố sầm uất phồn thịnh như Caphanaum.
Người ta càng kinh ngạc hơn nữa trước những lời đầy uy quyền. Lời Người thật khác xa lời của các luật sĩ, giáo trưởng, tuy họ rất thông thạo tập tục, luật lệ kinh điển tiền nhân và các tiên tri, nhưng họ chỉ biết giải thích tỉ mỉ, khô khan theo mạch chữ chết, một cách nhồi sọ máy móc vô hồn. Phần Đức Giêsu, Người dạy một đạo lý mới, đạo lý phát xuất từ tâm tư sống động, từ lòng xác tín mãnh liệt, từ chính cuộc sống sung mãn của con người, cuộc sống tôn giáo thâm sâu huyền diệu, cuộc sống linh thiêng hài hòa với kinh nghiệm sống đạo thực tế của chính bản thân. Người tô điểm lời đạo lý bởi trời bằng nhiều cảnh sắc thiên nhiên phong phú. Bất cứ ai lắng nghe học hỏi, đều nắm bắt ý nghĩa đích thực vừa ý mình. Lời đạo lý của Người chứa ẩn nhiều kho tàng quý giá, ai mộ mến tìm tòi, suy gẫm, chiêm niệm đều được sống sung mãn dồi dào.
Tuy nhiên, Người trình bày ý tứ rất đơn sơ trong sáng, hợp với mọi tâm trí người ta. Do đó, họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa đang bao trùm khắp muôn dân, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn, thống trị hay nô lệ, Do thái hay Hy lạp. Tất cả đều là anh em, con một Cha chung trên trời. Lời Người đang đổ tràn vào lòng họ tình yêu vô biên trong một thế giới đầy chia rẽ, hận thù. Họ cảm động trước lòng nhân từ của Thiên Chúa bao dung, đầy lòng thương xót hết mọi tội nhân, như mục tử tốt lành đi tìm chiên lạc giữa sói rừng. Lời Người làm cho họ sống lại, thoát khỏi sự chết dưới ách tội lỗi và gông cùm quỷ dữ. Lời Người khiến quỷ dữ đang trói buộc, ám hại con người phải thét lên tuyệt vọng: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi”. Lời Người là lời cực thánh đầy sức mạnh thánh hóa khiến quỷ không chịu nổi sự thánh thiện của Người, nên chúng phải thốt ra, tuyên xưng cho mọi người biết: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô chỉ được đưa lên tầng trời thứ ba thôi, thế mà không thể tả được những sự lạ lùng ông thấy. Ông chỉ kêu lên: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm thấy bao giờ”. Người dưới đất kể chuyện trên trời còn lạ lùng như vậy. Huống chi lời người trên trời giảng những sự trên trời còn tuyệt diệu biết bao! Đến nỗi thánh Marcô chỉ có thể tả lại sự xúc động tột độ của thính giả bằng tiếng: thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên – Mọi người đều kinh ngạc.
Họ kinh ngạc, nhưng họ chưa nhận ra được tại sao lời Người đầy uy quyền, lời Người trừ khử quỷ dữ?
Lời Người đầy uy quyền vì lời Người là lời của Thiên Chúa, chứ không phải của các kinh sư hay của vua chúa phàm trần. Lời Người cứu chữa kẻ bị quỷ ám, trừ khử quỷ dữ vì lời Người là lời Thiên Chúa. Đây thực sự là điều rất kinh ngạc: Thiên Chúa đã đến ở cùng loài người. Loài người không còn xa lạc Thiên Chúa nữa, không còn dưới ách tội lỗi, dưới ách sa tan. Loài người không còn chết nữa, loài người sẽ được sống vinh quang trong gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận biết và thực thi lời Người, sống hòa hợp và yêu mến Người.
Nếu chúng ta giống như người Do thái chỉ ngạc nhiên thấy vẻ uy quyền bề ngoài của Đức Giêsu như xem xiếc, xem kịch, thì thật vô ích và đáng thương.
Thực ra, bây giờ chúng ta không được trực tiếp mắt thấy, tai nghe những việc lạ lùng cụ thể của Đức Giêsu nên không còn ngạc nhiên như người Do thái xưa. Nhưng chúng ta hơn người Do thái, đã được phúc học hỏi biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng quyền năng thánh thiện vô cùng. Lời Người là lời hằng sống, lời cứu độ muôn dân. Chúng ta càng phải có trách nhiệm đón nhận lời Người để lời Người như nguồn mạch sự sống càng uống càng làm chúng ta mãn nguyện thỏa thuê. Lời Người như “hạt giống tốt gieo vào lòng chúng ta sinh hoa kết quả, hạt được một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi” (Mt. 13, 8). Sinh hoa kết quả cho mình và cho mọi người, như bài đọc một, đòi chúng ta phải thực hiện làm ngôn sứ loan truyền lời đầy uy quyền của Chúa cho mọi người được giáo lý mới, được Đấng Thánh của Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi của quỷ dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vào hội đường giảng dạy, xin Chúa vào giảng dạy trong lòng con, cho con thấm nhuần giáo lý mới của Đấng Thánh. Chúa đã rảo khắp các làng mạc, thành phố (Mc. 1, 9 Lc. 4, 43), xin cho mọi Kitô hữu trở nên những ngôn sứ biết loan truyền lời Chúa cho muôn dân được thấy ánh huy hoàng rực rỡ soi sáng cho họ thoát khỏi cảnh đời lầm than của bóng tối tử thần. Allêluia.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-B
GIẢNG DẠY NHƯ CÓ THẨM QUYỀN- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Tác giả Máccô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.
Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.
Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Kitô.
– Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!
– Quan trọng đối với việc mục vụ: suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học – luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Kitô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
CHÂN TƯỚNG CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.
1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.
2) Hơn một vị ngôn sứ
Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
-1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
-2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
ĐẤNG CÓ UY QUYỀN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, sau khi rời bỏ quê nhà Nadarét, Chúa Giêsu đi tới Caphácnaum, một thành phố nằm ven biển Hồ Tibêria. Nơi đây dân chúng tấp nập với nghề chài lưới và buôn bán. Thành phố này được Chúa Giêsu chọn làm trung tâm hoạt động rao giảng Tin Mừng đầu tiên. Như thường lệ, mỗi lần tới đâu Chúa thường vào Hội đường cầu nguyện và giảng dạy.
Bởi vì bổn phận sống đạo của người Do thái trong ngày lễ Sabát, là đến Hội đường để cùng nhau cầu nguyện, hát Thánh vịnh và đọc sách thánh. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài không miễn trừ cho mình khỏi bổn phận ấy.
Hôm nay dân chúng trong hội đường sửng sốt thán phục, vì lời giảng dạy của Chúa như Đấng có uy quyền chứ không như các Kinh sư.
Vậy Chúa Giêsu giảng dạy thế nào mà khiến dân chúng sửng sốt thán phục?
Thứ nhất, các Kinh Sư thường dựa vào lời các ngôn sứ hoặc dựa vào truyền thống của tiền nhân để giảng dạy. Nên lời giáo huấn của họ phần lớn rập khuôn theo truyền thống mà không có tính sáng tạo thiếu đi tính thời sự.
Còn Lời giáo huấn của Chúa Giêsu là lời quyền năng, là Lời hằng sống đến từ Thiên Chúa. Lời mặc khải về tình yêu và lòng bao dung tha thứ. Đồng thời, cách thức giảng dạy của Chúa mới mẻ. Ngài không dài dòng giải thích các đoạn Kinh Thánh như các Kinh Sư thường làm, nhưng Ngài đặt mình vào tầm hiểu biết của dân chúng, giảng đơn sơ nhưng sâu sắc.
Thứ hai, lời giảng dạy của Chúa khiến mọi người sửng sốt thán phục, vì Chúa luôn thích ứng lời giảng với hoàn cảnh của người nghe. Ngài dựa vào sự kiện cụ thể để giảng, nhất là khi muốn dạy một chân lý cao siêu, mới lạ, khó hiểu. Chẳng hạn như nói về Nước Trời. Ngài luôn lấy những câu chuyện xảy ra trong đời thường để minh họa cho dân chúng dễ hiểu. Đó là cách giảng dạy bằng dụ ngôn. Ví dụ: Nước Trời giống như hạt cải hay tấm men….(Mt 13, 31-52).
Một lý do nữa, lời giảng của Chúa khiến dân chúng bỡ ngỡ thán phục, là cuối bài giảng, Ngài thường đúc kết lại thành những câu ngắn gọn dễ nhớ.
Chẳng hạn như: “Ai xin thì sẽ được; Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; Các con hãy nên trọn lành như Cha các con là Đấng trọn lành; Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít”…
Chúa Giêsu không chỉ có uy quyền trong lời giáo huấn, nhưng còn uy quyền trong hành động nữa.
Uy quyền trên thiên nhiên: Ngài khiến sóng to gió lớn trên biển cả im lặng (Mt 8,26).
Uy quyền trên ác thần: Ngài xua trừ ma quỉ (Mt 8, 28-34); Chữa các bệnh tật (Mt 8, 1-17).
Uy quyền trên sự sống: Ngài phục hồi sự sống cho Lazarô (Ga 11,1-44). Cho con trai bà góa thành Na-im (Lc 7, 11-17).
Uy quyền biểu lộ tình thương: Biến nước thành rượu (Ga 2, 1-12). Hóa bánh ra nhiều (Mc 6, 30-44).
Với một vài sự khác biệt trên đây, cũng đủ cho chúng ta thấy cách giảng dạy và uy quyền của Chúa khiến dân chúng kinh ngạc và thán phục là như thế.
Anh chị em thân mến,
Từ sứ điệp Tin mừng hôm nay, có thể chúng ta rút ra những bài học quý giá.
Thứ nhất, chúng ta cần bắt chước Chúa chu toàn bổn phận người tín hữu trong ngày Sabát. Có khi vì hoàn cảnh khó khăn cơm áo gạo tiền, chúng ta không thể thường xuyên đi tham dự Thánh lễ hằng ngày được, thì ít ra ngày Chúa Nhật, ngày dành riêng cho Chúa, chúng ta cố gắng đừng bỏ lễ, trừ khi có lý do chính đáng, nhưng đi lễ cho trọn vẹn đừng bớt xén đầu đuôi.
Thứ hai, dân Do thái năm xưa họ sửng sốt thán phục trước lời quyền năng của Chúa. Vì Chúa chỉ phán một lời thì ma quỷ vâng lệnh Chúa ngay. Đối với bệnh phong cùi Chúa chỉ nói ” Ta muốn ngươi được sạch” thì bệnh nhân lành bệnh.
Thế mà, khi Chúa bảo ” Các con hãy yêu thương nhau”, thì chúng ta vẫn còn giận hờn chia rẽ. Chúa bảo ” Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” thế mà chúng ta vẫn còn nói hành nói xấu, tính nào tật đó. Tại sao vậy?. Thưa vì chúng ta chưa sống theo lời Chúa dạy.
Thứ ba, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động, có nhiều mưu mô quỷ dữ làm cho thế giới tục hoá, một thế giới đầy dẫy những bất công và đói nghèo; một thế giới hận thù ngày càng chồng chất, chiến tranh, dưới nhiều hình thức khác nhau, dễ làm chúng ta đánh mất đức tin vào sự hiện diện Thiên Chúa đang ở cùng ở với chúng ta.
Ước gì lời quyền năng của Chúa xưa kia khiến cho quỷ dữ xuất ra khỏi bệnh nhân, nay cũng được vang lên, để bớt đi những mưu mô của ác thần, làm cho thế giới này bớt đi hận thù, chia rẽ … mà thay vào đó một thế giới biết quý trọng sự sống, biết yêu thương và quan tâm đến nhau, vì lẽ con cùng một Cha trên trời.
Xin cho chúng ta biết đặt tin tưởng vào Chúa Kitô là vị Thầy duy nhất, là Thiên Chúa toàn năng, là Đấng giảng dạy như Đấng có uy quyền, xin Ngài bình an cho chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- B
SỐNG LỜI CHÚA SẼ TRỪ ĐƯỢC QUỶ TRONG TA- Lm. Josephus Quang Nguyễn
Từ điển bách khoa wikipedia cho rằng theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có hình hài con người, sẽ gọi là “ma”, “hồn ma”, “thánh”, “thần” hay “thiên sứ”. Theo tín ngưỡng Việt Nam, trong con người có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm linh hồn. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn, 7 vía (nam), còn nữ có 9. Như vậy khái niệm ma đơn giản chính là linh hồn và vía của con người không hại ai.
Cũng cuốn từ điển này cho rằng quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei(鬼), dùng để gọi linh thể của những người đã chết. Theo quan điểm của người phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con người sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ. Còn theo Do Thái Giáo: Quỷ là các thiên thần lạc lối. Các thiên thần đều thờ phụng Đức Chúa là Thiên Chúa, trong đó vị tổng lãnh Thiên Thần là Michael. Tuy nhiên, có một thiên thần khác tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên thần khác để giành quyền thống trị với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giáng phạt tống xuống đất thành tưởng quỷ Lucifer hay còn gọi là Satan, nghĩa là Kẻ Chống Đối. Qủa thế, Thánh Kinh dạy rằng “Con Rắn xưa, mà người ta gọi là quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó” (Kh 12,9). Kinh Thánh chỉ cho thấy rằng quỷ là những thiên sứ sa ngã cùng với Satan nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Như vậy, rõ ràng người Công giáo khi nói đến quỷ là hàm ý chỉ đến Xa-tan và các thiên thần sa ngã. Mà Thiên thần là loài thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên. Như vậy, khi nói quỷ Thánh kinh không bao giờ ám chỉ đến các linh hồn người đã qua đời và quỷ không có hình hài nào cả. Cho nên, người ta thường nói “ma hiền quỷ dữ”.
Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của các tà thần được mệnh danh là quỷ dữ. Qủy nó dữ không phải nơi bộ mặt hay hình dáng mà là nó luôn cám dỗ ám hại thân xác và linh hồn con người vì chưng chúng hy vọng khi làm hại được con người thì làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa quyền phép hơn chúng, thấu hiểu hết âm mưu sảo quyệt của chúng và có thể tiêu diệt chúng bất cứ lúc nào. Cụ thể, Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của quỷ dữ chỉ bằng một lời phán: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này! Tên qủy lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta”.
Tuy là thời đại văn minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng quỷ hiện diện khắp nơi, và thậm chí ẩn mình nơi mỗi người chúng ta để cảm dỗ và gây ác hại cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Chẳng hạn, quỷ kiêu ngạo, nó làm cho cái tôi của chúng ta lên cao để rồi mình coi ai không ra gì, không ai tốt bằng tôi, đạo đức như tôi…! Cho nên tôi sẵn sàng triệt hạ, dèm pha, chê bai, trách móc, chửi bới, xét đoán, trừng phạt kẻ khác mà quên rằng tôi là cũng là người “nhân vô thập toàn”, không có ai trên đời này hoàn hảo cả, chỉ có Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Thứ đến, con quỷ tham lam, mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta lam tham hay ăn uống thái quá đánh mất nhân tính và đánh mất tình người. Ví dụ, ngày xưa chỉ vì ham lam tiền bạc mà Giuđa bán Chúa, là Thầy mình với giá chỉ 30 đồng bạc còn hôm nay vì ham tiền không bán người như Giuđa mà giết người luôn. Cụ thể, báo Zing điện tử đưa tin: sáng ngày 21/1, Nguyễn Văn Tiến đột nhập vào nhà để ăn trộm nhưng bị phát hiện liền giết cả gia đình ông Nguyễn Văn Cường (56 tuổi) tại thôn Ia Tang, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ là người cùng làng với các nạn nhân. Hay mới đây Báo điện tử đưa tin: Anh Y del Ê-nuôi ở Đaklak nhậu xỉn ở quán nhậu, khi về nhà không thấy vợ đâu, anh đi tìm nhưng không gặp. Khi chị H’Bluân về thì 2 người nảy sinh mâu thuẫn, anh chồng đấm 2 cái vào mặt và đạp vào bụng vợ. Thấy vậy, chị H’Bluân liền vùng dậy bỏ chạy ra trước cổng. Anh ta đuổi theo rồi đấm đá liên tiếp vào mặt, lưng, đầu làm chị H’Bluân ngã xuống bất tỉnh. Được gia đình đưa đi cấp cứu nhưng chị đã tử vong do chấn thương sọ não, xuất huyết não. Con qủy tham lam đã làm hại đời người đáng sợ thay! Cho nên, Chúa Giêsu luôn nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12, 15).
Rồi trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy chúng ta hãy khử con quỷ khoái lạc nơi chúng ta bằng cách hãy ăn ở tiết độ: Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, còn người có vợ thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng vợ. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Còn, Thánh Phêrô dạy rằng “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5,8-9).
Dù quỷ có hung ác đến cỡ nào, Chúa Giêsu vẫn trừ và loại chúng ra khỏi thân xác và tâm hồn của anh chàng thanh niên xưa và ngay cả chúng ta hôm nay. Vì chưng, Chúa là Đấng có thẩm quyền và Lời của Ngài có uy quyền trên các thần ô uế chứ không như các kinh sư. Vì vậy, chúng ta hôm nay, dù quỷ dữ đến và cám dỗ chúng ta dưới hình thức nào, chúng ta vẫn loại trừ được chúng nhờ có Lời và Thánh Thể Chúa Giêsu. Trên trần gian Chúa Giêsu đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Ngài trên thập giá. Xem như quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Chúa Giêsu sự chiến thắng vẻ vang. Vì vậy, trong mỗi Thánh lễ đều tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại, Chúa chúng ta chiến thắng quỷ dữ. Vậy, nhờ Thánh lễ chúng ta cử hành, nhờ việc sống Lời Chúa mỗi ngày, chắc chắn chúng ta được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi quỷ ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người hầu tâm hồn chúng ta thật sự là đền Thánh Đức Chúa Trời ngự và cuộc sống chúng ta đầy ấp tình Chúa và tình người.
Lạy Chúa, xin thăm viếng chúng con, và đuổi xa mọi âm mưu ma quỷ. Xin sai thiên thần Chúa đến ở đây, để gìn giữ chúng con bình an, và xin tuôn đổ phúc lành trên chúng con luôn mãi. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhaticthuongnienb #suyniemlochuagpbr