CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT– Lm. FX. Vũ Phan Long. 6
VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT- Chú giải của Fiches Dominicalaes 15
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 24
YÊU THƯƠNG LÀ ĐIỀU RĂN QUAN TRỌNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 37
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 51
LUẬT YÊU MẾN– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 57
VỊ THẾ TỐI THƯỢNG CỦA TÌNH YÊU- Lm. Giorgio Zevini SDB.. 60
NÊN TẢNG CHO ĐỜI SỐNG AN HÒA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 66
YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ…..- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 71
GIỐI RĂN MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm 76
YÊU THƯƠNG LÀ TRUYỀN GIÁO- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng. 79
ĐIỀU RĂN NÀO TRỌNG NHẤT- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật 82
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Xh 22, 21-27 (Hr 20-26)
“Nếu các ngươi hà hiếp các cô nhi quả phụ, Ta sẽ nổi giận các ngươi”.
Trích sách Xuất Hành.
Đây Chúa phán: “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.
“Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Đấng thương xót”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab
Đáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh. – Đáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. – Đáp.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Đá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Tx 1, 5c-10
“Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa để phụng sự Người và để trông đợi Con của Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.
Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, “Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại”, là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-A
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT– Lm. FX. Vũ Phan Long
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
– Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
– yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
– hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
– yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
– thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
– Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
– Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
– Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
– Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4-Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT- Chú giải của Fiches Dominicalaes
1).Vấn đề cạm bẫy về “điều răn lớn nhất”
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy niệm trong các Chúa nhật 26, 27 và 28 đã chẳng làm cho các kẻ thù địch Chúa phải câm miệng, mà con châm ngòi một loạt các cuộc tranh cãi khác. Họ liên minh với nhau và lần lượt thử Chúa cốt làm cho Người phải rơi vào bẫy của vấn đề họ đặt ra. Trước hết -Phúc âm tuần rồi- là sự xoay sở của đám “môn đệ những người Pharisiêu cùng đi với những người phe Hêrôđê”. Họ tới hỏi Chúa một câu, bấm bụng rằng bẫy đặt ra như vậy là không tài nào tránh thoát: “Xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho César hay không?”. Nhưng Đức Giêsu chẳng để mình bị kẹt chút nào trong thế lường đao của họ, mà đã chuyển hướng vấn đề, và nhìn vào hình tượng in trên đồng tiền mà họ đưa cho coi Người đã tuyên bố: “Của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Một câu trả lời đã khiến cho đối phương của Người không nói thêm được câu nào nữa: “Họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi”. Tiếp đến -đoạn chuyển tiếp không có trong sách Bài đọc năm A- là ngón xoay sở của những người “phe Sadducée”? nhóm này chủ trương “không có sự sống lại”. Họ đem câu chuyện kỳ cục về một phụ nữ, có bảy đời chồng, hy vọng chế giễu chính Đức Giêsu, và lòng tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ điều Thiên Chúa mạc khải trong câu chuyện về bụi gai rực cháy ở sách Xuất Hành 3,6: Đấng đã tỏ mình ra với ông Môsê như là “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Khi nghe tin Đức Giêsu “đã làm cho nhóm Sadducée phải câm miệng”, thì đến lượt những người Pharisiêu trở lại vào cuộc. Nhưng lần này là một nhóm; một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để “thử Người” rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất”. Nên biết rằng, thời đó, sách Luật gồm, không hơn kém 613 điều răn; các kinh sư phân ra 365 điều cấm (bằng với số ngày trong năm) và 248 điều truyền (bằng với số bộ phận trong cơ thể con người). J.Potin giải thích: “Cuộc tranh luận về điều răn nào lớn nhất tạo nên mối xung khắc giữa những người Pharisiêu chủ trương 613 điều răn đều quan trọng như nhau, với những ai ước mong phải có tôn ti đẳng cấp, rõ hơn có thể giải thích cho người ngoài biết đâu là điều cốt yếu là bản chất của đạo”. (Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, NXB Centurion, 1994, trang 376).
2).Dẫn vào điểm cốt lõi của Tân Ước.
Đức Giêsu đã trả lời thật khôn khéo vấn đề của những người Pharisiêu về việc nộp thuế cho César – Người đã trích dẫn Lời Chúa để phá vỡ mưu đồ của những người phe Sadducée. Còn về giới răn lớn nhất, thì câu trả lời Người là thẳng thắn, không do dự, nhắm thẳng đích. Đức Giêsu không nhắc nhở họ về lời ban bố của sách xuất Hành, đoạn 20: Mười Điều răn Đức Chúa Trời. Người trích dẫn hay đúng hơn, Người đọc thuộc lòng lời tuyên xưng lòng tin của sách Đệ Nhị Luật 6,4-5 mà mọi người Do Thái vẫn đọc khi đi ngủ cũng như khi thức dậy; lời này được ghi trên các thẻ linh mà những người Pharisiêu vốn đeo trên trán là trên cánh tay một lời khẳng định tính cách duy nhất của Thiên Chúa mà theo sau là giới răn yêu mến Thiên Chúa, một tình yêu phải thấm nhập vào tận đáy lòng, sức lực và ý nghĩ: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…” Nhưng điểm độc đáo của Đức Giêsu là Người gắn liền “điều răn thứ nhất” này với điều răn thứ hai: ‘cũng giống điều răn ấy’: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Lv 16,18). Làm như vậy không những Người diễn tả được “Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn sứ nghĩa là tập trung tất cả vào hai giới răn đứng đầu này, không có vậy thì mọi điều răn khác đều mất hết ý nghĩa, nhưng Người còn tỏ cho thấy bí quyết của chính cuộc đời Người, một cuộc đời tự hiến vì yêu mến Cha và yêu thương các anh em của Người. Cl Tassin chú giải: “Hai điều răn này chi phối toàn bộ Kinh Thánh (Luật Môsê và sách Ngôn sứ) không phải để bãi bỏ Kinh Thánh, nhưng là để đọc Kinh Thánh mà thấy rõ hơn. Và, trong Kinh Thánh, lòng yêu mến không dính dáng gì với thứ tình cảnh bồng bột, đổi thay tuỳ cảm xúc; lòng yêu mến đây chính là sự quyết định gắn bó với một ai đó mà mình cho người ấy có quyền trên mình và là những hành động cụ thể nuôi dưỡng quyết định này… không bao lâu nữa Đức Giêsu sẽ dùng cuộc khổ nạn của Người “và chứng tỏ rằng Người là hiện thân chính lòng yêu mến Thiên Chúa là lòng yêu thương mọi người này” (“Phúc âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 236).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Một lời để ghi nhớ: Ngươi phải yêu mến” (Giám mục L. Daloz “Le Règne des Cieux sest approché”. Desclée de Brouwer, trang 309-311).
Đúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là những giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên tính lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy, giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bừng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình. Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến! Giới răn yêu thương có hai mặt hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay: Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là: “ngươi phải yêu người thân cận, như chính mình”. Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết tn khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, và con người được tạo nên cho cõi vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hoá con người! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận, như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các Ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hoá với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời. Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất, còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ dội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người.
Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa? Quả thực, đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo. Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiến, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Linh điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình thì bạn sẽ gặp!
2).“Một từ tóm tắt tất cả Phúc Âm: yêu mến” (H. Denis “100 mots pour dire la coi” Desclée de Brouwer, trang 31-32).
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ Tình yêu một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến?
Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta? Nhưng vậy thì có nhiều cách yêu mến ‘không” Chắc hẳn là có rồi, nên trong vấn đế này, tôi vẫn cứ theo gót” nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustino. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến.
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: Thích được yêu (aimer tres aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay, có ai mà lại không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng môi dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi; nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: Thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này, người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại có vị tha. Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thêm khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bố nông tự để cho con da thịt mình. Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chúng. Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một ‘bệnh nhân nào đó, di uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng. Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi. Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer). Có thế thôi. Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì; ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của “tình cho không, biếu không”. Hãy nhìn nhận điều này: Ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần Linh tình yêu, khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritano nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người Cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về. Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- A
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là nền tảng của đạo Ki-tô”.
Xh 22: 20-26
Bài Đọc I trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Bài Đọc II tiếp tục trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh nhân khích lệ tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an (Đất Hứa). Vì thế, bộ luật này có thể được ấn định niên biểu vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là bộ luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh hư cấu văn chương: “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en” để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn tiếp nối tinh thần Luật Mô-sê và chỉ khai triển Luật Mô-sê.
Về phương diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu ngươi làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Về phương diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra bảo đảm luật, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1). “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu ra là tính lịch sử: “Vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông thời xưa không bao giờ nêu ra nguyên do của các luật được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2). “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngõ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa, Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi: “Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu”. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành mẹ góa con côi.
3).Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm không được cho anh chị em đồng bào của mình vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em đồng bào mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em đồng bào nầy. Phải ghi nhận rằng luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” mở rộng đến hết mọi người, bởi vì “Tứ hải giai huynh đệ”.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị: người nghèo cần áo choàng làm chăn đắp ban đêm, vì thế “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bảo đảm luật yêu thương tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1).Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình cùng với những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh Phao-lô sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà thánh nhân dành cho họ. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca là “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà thánh nhân vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Ki-tô” (1Cr 11: 1) và cho các tín hữu Phi-líp-phê nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
2).Tấm gương của các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải trải qua biết bao gian truân, vẫn cảm thấy niềm vui vì họ thấy thành quả Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng cho mọi người: “Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
3).Lương dân đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì lương dân mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn những điều cốt yếu trong lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng của thánh nhân theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công Vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh tranh luận của những người Pha-ri-sêu với Chúa Giê-su.
1).Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Trong muôn vàn giới luật nầy, làm thế nào nhận ra giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
2).Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người; Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn; cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng kiện toàn bằng cách đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18).
Như vậy, Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ.
Trước hết, giới luật yêu người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” được Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn này”.
3).Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Ki-tô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’
mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
YÊU THƯƠNG LÀ ĐIỀU RĂN QUAN TRỌNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Những khoản luật dạy đối xử yêu thương đối với những thành phần nghèo khổ trong xã hội.
– Đáp ca : Bày tỏ lòng yêu mến Chúa.
– Tin Mừng : Hai giới luật quan trọng nhất và giống nhau, đó là mến Chúa và yêu người.
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.
Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người do thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.
Đoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Đá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.
Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.
Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Đức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.
Câu hỏi là : “Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất”. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo do thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.
Câu trả lời của Đức Giêsu rất xuất sắc : một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người ; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại : mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa ; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy – mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương – là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.
Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Đoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
Đúng là hai điều răn : điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình… Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.
Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người ! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc : “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời… Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc ! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất ; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người… Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.
Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo…
Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp ; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật ; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp… ! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến ? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta ?
Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không ? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến :
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất : thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay có ai mà không thích điều đó không ? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi… Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai : thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là : lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.
Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.
Ngày ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ ? Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng ? Nhưng bạn hãy coi chừng ! Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.
Còn trình độ thứ ba : Yêu (aimer), có thế thôi ! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì… Ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của “tình cho không biếu không”.
Hãy nhìn nhận điều này : ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.
Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là : Yêu mến. (H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)
Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” ; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ “như chính mình ngươi”.
“Hết” là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ do thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể : “lòng” cũng có nghĩa là cả con người, “linh hồn” và “trí khôn” cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là : “Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình.” Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là : “Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình”.
“Như chính mình” nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.
Tóm lại, những chữ đi sau động từ “yêu” nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi”. Có thể hiểu là : hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.
Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi :
– Dân trong thành này là người thế nào ?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào ?
– Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi :
– Dân trong thành này là người thế nào ?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào ?
– Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.
Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình ? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý : Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào ? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)
Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.
Đến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Đang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi :
– Thầy đã phạm luật !
Thầy Môsê khiêm tốn trả lời :
– Đúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.
Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.
Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.
Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.
Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)
CT : Anh chị em thân mến
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.
2- Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc / ; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.
3- Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.
4- Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT : Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết “Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa”. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin…
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-A
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Biệt phái tụ họp lại một chỗ”: Kiểu nói được dùng ở đây (“sunôthêsan epi to auto”) là một trích dẫn nguyên văn từ Thánh vịnh 2,2: “Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (dịch sát chữ: “tụ họp lại một chỗ” (sunêthôsan opi to auto) chống lại Giavê và Chúa Kitô của Ngài”. Thế mà, trong 26, 3 Mt sẽ còn dùng lại cùng động từ ấy (ở cùng một cách, một thì, một ngôi) để diễn tả âm mưu tại nhà Caipha giữa các thượng tế và các kỳ lão nhằm giết Chúa Giêsu. Qua sự tương đồng ấy, Matthêu ngụ ý là những cuộc tranh chấp trong chương trình này chỉ là mào đầu cho cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá. Những cuộc tụ họp như vậy của các đầu mục trong dân hay được Matthêu nhắc lới (2, 4; 22, 41; 26, 3. 57; 27, 62; 28,12) và thường là điềm dữ.
“Để làm Người lúng túng”: dịch sát chữ: “Để thử Người” Matthêu cũng dùng động từ này (pelrazein) ở 22, 18 nơi kể lại chuyện người ta “thử” Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng luôn luôn là dùng cạm bẫy trong cả đoạn.
“Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật”: Lời giải thích được yêu cầu thật đặc biệt quan trọng, vì đây không phải là giải thích một trường hợp cụ thể, đặc thù nhưng là làm sáng tỏ một đòi hỏi luân lý trong chính bản chất của nó. Bản văn hy ngữ dịch sát chữ như sau: Đâu là giới lăn lớn trong Lề luật. Nhưng hình thức nguyên cấp (positio của tĩnh từ lớn (megalê) có giá trị tuyệt đối cấp (superlatio, như thường thấy trong Hy ngữ bình dân (Koinè) và trong bản 70 chịu ảnh hưởng của Hy bá, nhất là nếu sau nó có một danh từ tập hợp, ở đây là Lề luật, hiểu theo nghĩa toàn bộ các giới răn.
“Ngươi phải yêu mến…”. Trong việc triệt để hóa Lề luật này, không có vấn đề đơn giản hóa bằng cách loại bỏ những điều lệ phụ tùy (mà Chúa Giêsu lẫn môn đồ đều tuân giữ) cho bằng là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy chúng bắt nguồn từ trong ý định tối cao của Thiên Chúa. Còn về hình thức phát biểu của giới răn này, đừng tìm cách phân tích đâu là những phạm vi tương ứng của lòng, của linh hồn, của trí khôn: ý nghĩa trùng tích của các thành ngữ là: tình yêu phải có tính cách toàn diện, nghĩa là phải động viên tất cả con người; dầu sao, chỉ cần một từ ngữ thôi, như “lòng” chẳng hạn, cũng đủ để ám chỉ toàn thể con người; các tiếng khác thuộc về kiểu nói hùng biện; lòng và tư tưởng (hy lạp: dianoia) là tiếng dịch chữ lòng (hy bá: leb) của Cựu ước; không nên nghĩ đến một chức năng đặc biệt nào đó của trí tuệ suy luận; trí tuệ được vận dụng vì toàn thể con người dấn thân.
“Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất”: Chữ “và” nối liền hai tĩnh từ lớn và đệ nhất chắc có nghĩa giải thích hơn là có nghĩa cộng thêm: giới răn này đứng đầu hết vì nó quan trọng nhất xét về nội dung và ngược lại; tĩnh từ đệ nhất không muốn nói là giới răn đứng đầu nhiều giới răn khác nhưng là đứng đầu tất cả xét về phương diện ý nghĩa, vì chính nó đem lại ý nghĩa đích thực cho mọi giới răn. Bởi vậy kiểu nói thứ đến cũng giống như điều ấy chẳng có nghĩa là: ở hàng thứ hai xét về bậc quan trọng, nhưng là: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất; giới răn thứ hai không thể so sánh, hay tương tự như giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng cửa cái mà nó dạy truyền; tuy nhiên nó không đồng nhất theo nghĩa có thể chuyển hoán: tình yêu tha nhân chẳng được đồng hóa với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như mến yêu Thiên Chúa.
“Toàn thể Lề luật cùng các sứ ngôn”: Chúa Giêsu hoàn toàn đứng trên lãnh vực các Sách thánh đã được ban cho tổ tiên dân Do thái. Người không phát minh điều gì; tầm quan trọng của hai giới răn này dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả các Sách Thánh; nhưng đàng khác, Chúa Giêsu đã tái giải thích các Sách Thánh ấy khi mặc khải ý nghĩa thâm sâu của chúng ra (x Rm 13, 9).
KẾT LUẬN
Cái mang lại cho giới răn này uy tín và sự cao cả, chính là vì Chúa Giêsu đã phát biểu nó lên và cho nó là lớn lao, quan trọng. Người không mang đến (hay chưa mang đến) một giới răn mới mẻ, nhưng Người mặc cho giới răn cũ giá trị đích thực củ a nó. Câu trả lời của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời của một ký lục, song là của Chủ lề luật. Chính người công bố nó và hoàn thành nó (5,17). Và chính việc người hoàn thành Lề luật đã đem lại cho Lề luật một tính cách mới mẻ thực sự. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không phải chỉ là hai thái độ nhân loại được truyền làm; chúng được hiện thân trong con người của Chúa Giêsu. Chính vì đến để hoàn tất Lề luật và các ngôn sứ qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh, mà Người có thể tuyên bố với uy quyền rằng tất cả nội dung của Cựu ước đều được “quy về” giới răn mến Chúa và yêu người. Chính trong Người mà không những Lề luật dưới hình thức giới răn, nhưng cả lời hứa về ân sủng đã do các ngôn sứ loan báo, đều tìm được sự thành tựu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Yêu tha nhân không có nghĩa là yêu họ chỉ vì Thiên Chúa đòi buộc, chỉ vì để vâng lời Ngài. Mối dây Chúa Giêsu thiết lập giữa hai giới răn chẳng phải là một mối dây ngoại tại, pháp lý, tự ý người bày ra, song là nằm trong lý luận của Thiên Chúa, trong chính bản chất của sự vật mà Ngài đã tạo dựng, rằng là ta không thể yêu Ngài mà yêu anh em. Và không phải làm như thể là vì anh em, mà trong thâm tâm lại làm vì Thiên Chúa. Thiên Chúa đích thực chẳng phải là sản phẩm của những ước vọng và những tưởng tượng đạo đức của con ngươi. Ngài đã đi vào trong lịch sử của chúng ta đã can thiệp vào đó bằng cách trở nên liên đối với con người. Ngài đồng hóa với con người (Cv 9, 5: “Ta là Giêsu người đang bắt bớ”) đến nói từ đây ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ (như Thiên Chúa yêu họ vì họ chứ chẳng phải vì Ngài, vì tình yêu này không đem lại cho Ngài gì cả) ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu, cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
2).Một cách cụ thể, phải yêu tha nhân thế nào? Chẳng phải bằng tình cảm (vì có một vài thứ ác cảm tự nhiên hầu như không thể vượt qua) cho bằng là qua thái độ và hành động. Thánh Phaolô đã mô tả cho chúng ta lòng bác ái đích thực như sau: “Đức ái thì khoan dung, nhân hậu; đức ái không ghen tương; ba hoa, tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ; không cáu kỉnh, không chấp nhất sự ác, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lẽ phải. Trong muôn sự, đức ái hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn” (1Cr 13, 4-6). Khi tìm cách tha thứ lỗi lầm của tha nhân, khi luôn hy vọng họ trở nên tốt hơn cho dù bề ngoài thế nào chăng nữa, khi chấp nhận họ như họ đang là, lúc đó chúng ta mới thương yêu thực sự, lúc đó chúng ta mới thật là con cái của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- A
LUẬT YÊU MẾN– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn
Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
Yêu người thân cận như chính mình
Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
VỊ THẾ TỐI THƯỢNG CỦA TÌNH YÊU- Lm. Giorgio Zevini SDB
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn…. Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.”
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái – Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối… chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- A
NÊN TẢNG CHO ĐỜI SỐNG AN HÒA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc làm và 248 luật cấm làm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu là vấn đề nan giải. Vấn đề này đã được một người thông luật nêu lên với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Chúa Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”
Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn tách rời, nhắm về hai đối tượng khác nhau: một điều quy về Thiên Chúa còn điều kia quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những người chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Ngài nói: “Điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39)
Qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su gắn kết giới răn yêu người nên một với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát một bữa ăn thì Chúa Giê-su nói là họ cho Ngài ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giê-su tuyên bố là họ đã cho Ngài mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giê-su nói họ đã cho Ngài trú ngụ… (Mt 25, 35-36)
Chúa Giê-su cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Ngài. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không tách rời nhau, vì thực thi giới răn yêu người cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa. Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối.
Giới răn yêu thương là tâm điểm mà các giới răn khác đều quy chiếu về
Giới răn yêu thương là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về giới răn nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao gồm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai thực hành trọn vẹn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10).
Và Chúa Giê-su, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22, 40).
Giới răn yêu thương là nền tảng cho đời sống an hòa
Khi tình thương không còn hiện diện trong gia đình thì người nhà sẽ xem nhau như thù địch, hạnh phúc sẽ vỗ cánh bay xa nhường chỗ cho bất hạnh xâm chiếm tâm hồn mọi người.
Khi tình yêu thương không còn bao trùm thôn xóm thì những người láng giềng xem nhau như người xa lạ và người ta cảm thấy lạc lõng ngay trên quê hương mình.
Khi tình yêu thương không còn ngự trị trên quê hương đất nước thì hận thù, ghen ghét, bạo lực sẽ lên ngôi; đồng bào trong cùng một tổ quốc quay ra khai thác, bóc lột nhau và đất nước sẽ chìm đắm trong oán ghét hận thù.
Chúa Giê-su đến trần gian nhen lửa yêu thương trong tim mọi người và Ngài mong sao cho lửa ấy cháy bùng lên. Ngài đề ra quy luật yêu thương làm nền tảng cho đời sống an hòa hạnh phúc.
Chỉ khi nào nhân loại chấp nhận sống theo quy luật yêu thương thì hòa bình và hạnh phúc mới thực sự đến với mọi người.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ghi khắc luật yêu thương của Chúa trong tim nhân loại và giúp cho mọi người quyết tâm tuân giữ để muôn dân muôn nước luôn được sống trong hạnh phúc an vui.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-A
YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ…..- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Câu hỏi những người biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu là câu hỏi vốn được đặt ra giữa những người biệt phái và luật sĩ nhưng đã trở thành nan giải: điều răn nào là điều răn trọng nhất. Đối với những người do thái, lề luật vốn là niềm tự hào của họ, bởi vì lề luật do Thiên Chúa ban tặng, là dấu chứng giao ước của Thiên Chúa với họ. Những người do thái hằng phải luôn ghi nhớ và thi hành lề luật. Để ghi nhớ, họ phải làm hộp đựng bản văn lề luật quan trọng nhất để đeo trên trán, trên tay, trước ngực, trên cửa nhà để nhắc nhở họ luôn thi hành khoản luật quan trọng là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thế nhưng bên cạnh khoản luật quan trọng mà họ thuộc nằm lòng, lề luật càng lúc càng tăng thêm nhiều khiến những người do thái cảm thấy phân vân bối rối không biết làm thế nào để chu toàn lề luật. Câu hỏi đặt ra trong bài phúc âm hôm này cho thấy sự bối rối của họ trước quá nhiều điều khoản lề luật phải chu toàn.
Câu trả lời của Chúa Giêsu chắc hẳn làm cho những người do thái hài lòng và đồng ý, bởi vì Chúa Giêsu cũng nhắc lại giới răn căn bản nhất mà họ vốn cố gắng giữ là điều khoản của bản văn sách đệ nhị luật 6,4 gọi là kinh Shema là nghe đây . Nhưng điều ngạc nhiên và đánh động những thính giả của Chúa Giêsu là nêu lên điều răn thứ hai hãy yêu thương người khác như chính mình và lời kết luận vắn gọn nhưng rất quan trọng xúc tích của Chúa Giêsu: “toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn này”. Câu trả lời của Chúa Giêsu chắc hẳn phải làm những người biệt phái và luật sĩ phải ngạc nhiên, bởi vì họ đã không thể nối kết được giới răn yêu người như Chúa Giêsu đã làm. So với lời giải đáp của Chúa Giêsu thì cách thực hành của những người do thái quả còn rất xa lạ, họ chưa đủ sức để nhận định đúng mức tầm vóc quan trọng của điều răn thứ hai này cần phải thực hành để chu toàn lề luật.
Thực vậy, khi hỏi điều răn nào trọng nhất, những người biệt phái cho thấy thái độ của họ đối với lề luật rất khác xa với thái độ của Chúa Giêsu. Cung cách đặt câu hỏi và hành động của những người do thái là phân mãnh lề luật và vì thế làm mất đi trọng tâm và tính thống nhất của lề luật. Vì thế họ rơi vào một hoàn cảnh chơi vơi lạc lỏng giữa những thực hành rất vất vả đa đoan mà không bao giờ có thể đạt đến đích điểm. Trái lại thái độ của Chúa Giêsu lại rất tập trung và vì thế, người đã gọn gàng đi đến đích điểm của việc chu toàn lề luật một cách hiệu quả. Vì thế, thay vì giới hạn đòi hỏi của lề luật như những người biệt phái làm để phân mãnh những lề luật cách vô ích thành những điều phải làm hay không phải làm cách rất nặng nề, Chúa Giêsu dạy rằng giới răn của lề luật phải bao trùm tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với chính mình và người thân cận. Chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến mọi người với cả con người chúng ta. Việc thực hành này là thống nhất độc đáo, vì dành cho Thiên Chúa toàn thể tình yêu của chúng ta, những gì chúng ta là cũng như chúng ta có và đồng thời không được phân ly giới răn yêu người thân cận với tình yêu dành cho chính mình. Tình yêu người khác phải được thực hành hoàn hảo đến mức độ không còn phân biệt giữa tình yêu chính mình với tình yêu người khác.
Giới răn thứ hai này có thể gợi lên hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, ai là người thân cận của tôi ? Tổng kết lại những lời dạy của Chúa Giêsu, có thể nói rằng người thân cận không chỉ là người ở gần với chúng ta như là cha mẹ, anh chị em hay bà con, người cùng quê hương xứ sở, nhưng là bất cứ ai mà chúng ta gặp trong cuộc đời của chúng ta. Nói cách khác, mọi người đều là người thân cận của chúng ta, nhất là những ai đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Thứ đến, yêu người thân cận như thế nào? Làm sao thực hiện tình yêu này cách cụ thể. Chúa Giêsu trả lời : tình yêu chúng ta dành cho người thân cận cũng chính là tình yêu chúng ta dành cho chính mình. Có thể chúng ta vốn yêu mình theo bản năng tự nhiên, nhưng chúng ta không nghĩ nhiều tình yêu chính bản thân mình bao gồm những khía cạnh căn bản nào. Tự nhiên, chúng ta biết phải chăm sóc và kính trọng chính bản thân mình. Vậy tình yêu đối với tha nhân cũng đòi hỏi như thế. Chúng ta cố gắng chăm sóc cho người khác và kính trọng họ theo mức độ như chúng ta dành cho chính mình. Chúng ta vốn không làm điều gì trong lời nói và việc làm có thể làm giảm đi phẩm giá của mình, giới hạn khả năng của mình để phát triển cá nhân mình, hoặc làm lu mờ vẻ đẹp bên trong của mình thế nào thì chúng ta cũng không làm như thế cho người khác. Tình yêu định rõ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Càng thực hành giới răn tình yêu Thiên Chúa và tha nhân chúng ta càng sống thực sự hoàn hảo tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, tình yêu sẽ là nguồn của mọi vâng phục của chúng ta đối với bất cứ giới răn nào. Khi đã có tình yêu với Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta sẽ có sức mạnh để chu toàn mọi giới răn khác một cách tự nhiên. Vì thế tình yêu Thiên Chúa và tha nhân là giới răn lớn nhất bởi vì đây chính là điều kiện giúp chúng ta chu toàn tất cả Lề luật của Thiên Chúa.
Lời dạy của Chúa Giêsu về tình yêu như là giới răn trọng nhất không phải là những lời nói trống rỗng. Đây cũng là những gì Chúa Giêsu đã thực hiện cách quyết định trong việc chu toàn công trình cứu độ được Chúa Cha trao phó. Chính vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mọi người mà người đã hiến dâng mạng sống mình trên thập giá. Để cụ thể hóa, chúng ta thử đọc lại bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành chương 22. Đây là những hướng dẫn rất cụ thể những hoàn cảnh mà những người do thái được nhắc nhở : như phải biết sống chan hòa yêu thường đùm bọc cách đặc biệt đối với những khách ngoại kiều cư ngụ trên xứ sở của họ bởi vì chính bản thân của họ vốn đã là những khách ngoại kiều ở Ai cập và họ đã bị đối xử cách tồi tệ và họ đã cảm nghiệm những đau khổ của thân phận người ngoại kiều; đừng làm hại cô nhi quả phụ là những người được Thiên Chúa bảo vệ cách đặc biệt bởi vì làm hại cô nhi quả phụ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề; trường hợp có cho người nghèo vay mượn tiền của, đừng hối thúc họ trả lại cũng như đừng lợi dụng mà ép họ phải chịu lãi nặng. Trường hợp người nghèo phải cầm cố chiếc áo che thân, thì phải lo sớm trả lại cho họ để họ che thân ban đêm khi ngủ. Vì thế, giới răn tình yêu mà Chúa Giêsu đã đúc kết khi trả lời câu hỏi của những người biệt phái và luật sĩ thực là quyết liệt, thúc đẩy chúng ta biết ra khỏi vòng hạn hẹp của tình yêu tự nhiên của chúng ta, đưa chúng ta đến sự thống nhất đời sống cách hiệu quả và ở trong tầm tay của chúng ta. Thực hành giới răn tình yêu này lôi kéo những cố gắng của chúng ta thực sự vào trọng tâm của đời sống của chính mình, bởi vì thực hành này giúp chúng ta đạt đến chính thánh ý Thiên Chúa và tránh cho chúng ta khỏi phải rơi vào những vòng lẩn quẩn vất vả vô ích vô tận không bao giờ có thể đi đến mục đích.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- A
GIỚI RĂN MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến “lòng” theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. “Yêu mến Chúa hết lòng” nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến “hết linh hồn”, nghĩa là với tất cả sự sống; “hết trí khôn” bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: “yêu mến người thân cận như chính mình”. Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v… Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình… Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-A
YÊU THƯƠNG LÀ TRUYỀN GIÁO- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: “Con học bài đi, con phãi siêng học”. Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình”.
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: “Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò… Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng… tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- A
ĐIỀU RĂN NÀO TRỌNG NHẤT- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: “yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.” Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể”, nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.”Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi “Bài giảng trên núi”, trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được”. (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.”(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ “và” đến “trong”
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa “hay là” yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc “hay là” chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, “cũng giống điều răn ấy”.
Điều răn thứ hai này “cũng giống” điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng “lớn” như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói “hay là”, nhưng phải nói “và”. Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, “và” sẽ biến thành “trong”: con người yêu mến Thiên Chúa “trong” người thân cận, và yêu mến người thân cận “trong” Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất – Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxxthuongniena #suyniemloichuagpbr