CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
AI GIỮ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT (*)– Chú giải của Noel Quession 6
AI ĐÓN TIẾP CÁC CON LÀ ĐÓN TIẾP THẦY- Chú giải của Fiches Dominicales 14
NGƯỜI MÔN ĐỆ VÀ SỰ ĐAU KHỔ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 19
CHIA SẺ THÂN PHẬN CỦA ĐỨC KITÔ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
BIẾT ĐÓN NHẬN THA NHÂN- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 43
NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 58
THÍ MẠNG SỐNG VÌ THẦY- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 61
SỐNG XỨNG VỚI CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 65
ĐÒI HỎI CỦA TIN MỪNG- Lm.Giuse Phạm Thanh Minh. 69
THIÊN CHÚA TRÊN HẾT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 73
THIÊN CHÚA LÀ KHỞI NGUYÊN VÀ TẬN CÙNG- Lm. Pet. Trần Minh Đức 77
ĐỨC TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 80
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: 2 V 4, 8-11. 14-16a
“Người đến trọ nhà mình, là một vị thánh của Thiên Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó”.
Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói (với Giêzê, tiểu đồng của ông): “Bà muốn chúng ta làm gì cho bà?” Giêzê nói rằng: “Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già”. Êlisê bảo gọi bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 16-17. 18-19
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. – Đáp.
3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Đấng Thánh của Israel. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 6, 3-4. 8-11
“Chúng ta chịu mai táng với Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 37-42
“Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-A
AI GIỮ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT (*)– Chú giải của Noel Quession
Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu được cấu tạo trên năm bài giảng của Đức Gỉêsu, kết hợp với năm giai đoạn “Ký thuật”
Dĩ nhiên, đây là những tổng hợp mà Mát-thêu tập họp từ các yếu tố thường được tìm thấy trong các văn cảnh khác trong sách Luca và Mác-cô. Ngày hôm nay chúng ta đọc phần cuối của “Bai giảng về các Tông Đồ”, “bài giảng thứ hai trong soạn thảo của Mát-thêu. Ơ đây, Đức Giêsu cho các Tông Đồ mà Người đã bổ nhiệm” để thay thế Người. (Mt 10, 1.2.5-11,1) những chỉ thị cho việc tông đồ. Đó là những phán quyết theo mẫu câu nói, vô cùng mạnh mẽ… nghịch lý, gọt giũa nhu những câu châm ngôn, mà một khi đã nghe, người ta không còn quên được.
Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.
Những lời này cứng rắn không thể trạng! Những lời thiếu tình người có thể bị hiểu sai, ở một thời đại mà cha mẹ rất khó chịu vì những quan hệ khó khăn với con cái như thời đại chúng ta. Có vẻ như Đức Giêsu khuyên con cái không yêu cha mẹ chúng! Giới răn thứ tư của Thiên Chúa vẫn là một giới răn thiêng liêng: “Thảo kính cha mẹ?”. Chính Đức Giêsu đã làm gương về sự vâng lời và trung tín tế nhị đối với Mẹ Người (Lc 2,50; Ga 19,26). Người cũng nhắc lại rằng sự giúp đỡ cụ thể cha mẹ cũng vượt qua trước “của lễ dâng trong Đền Thờ” (Mt 15,3-6). Vậy Đức Giêsu muốn nói gì bằng những lời cứng rắn mà Người phát biểu ở đây? Một cách chính xác, Đức Giêsu quan niệm về bổn phận thiêng liêng nhất, và nói với chúng ta một cách mạnh mẽ nhất, rằng người ta phải yêu mến Người hơn tất cả những người đáng yêu nhất, những người mà chúng ta phải yêu nhiều nhất. Theo Đức Giêsu, trở thành tín hữu, đôi lúc có thể gấy ra sự chống đối của những người thân yêu nhất của chúng ta. Lúc đó, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn. Và chúng ta biết rõ ở thời đại chúng ta điều đó rất thường xảy ra. Tin Mừng đề nghị chúng ta một sự chọn lựa dứt khoát dẫn đến sự dấn thân trọn vẹn cho một quan niệm sống. Vì sự chọn lựa ấy triệt để nên nó làm cho người ta không sống như trước đây, Đức Giêsu thường trở thành một nguyên nhân của những sự bất hòa ngay trong những gia đình đoàn kết nhất bởi tình cảm tự nhiên. Qua bản văn cổ này được viết ra từ 2000 năm nay, cuộc xung đột ấy không mới mẻ như người ta tưởng. Lạy Chúa, xin giúp chúng con trung tín với Chúa dù với giá máu của trái tim con.
Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
Câu thứ hai này hoàn toàn song song với câu trên: sau mối quan hệ của con cái đối với cha mẹ… giờ đây là mối “quan hệ của cha mẹ đối với con cái…” Đức Giêsu đòi hỏi vị trí hàng đầu trong tình yêu của chúng tạ; Yêu sách này không thể chấp nhận được, không thể hiểu được, nếu Người không phải Thiên Chúa! Trong tất cả những vị sáng lập các tôn giáo, Đức Giêsu là người duy nhất nói như thế, những vị khác nói rằng: “phải yêu mến Thiên Chúa. Còn tôi, tôi chỉ là người phát ngôn của Thiên Chúa”. phải, trong mọi tôn giáo, người ta đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự. Nhưng ở đây chính là Đức Giêsu. Táo bạo biết bao? Anh hãy ghi nhận chữ Thầy (Tôi) không ngừng được lặp lại trong các công thức đó: không xứng với Thầy”… “không xứng với Thầy” Vậy Thầy là ai?”
Vào thời đại chúng ta, chúng ta nhạy cảm với sự hiệp nhất của những tình yêu. Chúng ta thường nói rằng khi yêu thương những người khác là chúng ta yêu mến chính Thiên Chúa. Và thật vậy? Theo chiều hướng này, sự liên đới của chúng ta là chính và được Thiên Chúa mong muốn. Và thật thảm hại nếu chúng ta sử dụng những công thức của Tin Mừng ấy để biện minh cho sự thiếu tình yêu thương của chúng ta, sự co quắp của chúng ta trên những lợi ích cá nhân, sự bất lực ích kỷ của chúng ta không chịu đựng, dung thứ như những người thân yêu. Vả lại, yêu cha mẹ, yêu con cái còn đi xa hơn khung cảnh gia đình chật hẹp. Đó cũng là thừa nhận cội rễ di truyền, địa phương, văn hóa, xã hội: dù muốn hay không, chúng ta là con cái và cha mẹ… chúng ta phụ thuộc và chúng ta tạo ra sự phụ thuộc! Chúng ta là thành phẩm của một “môi trường”, một “thời đại Nhưng các sự liên đới ấy dù rất quan trọng, không thể trở thành một cái cớ biện minh cho việc chúng ta không đi theo Đức Giêsu. Biết bao thanh niên hoặc biện minh sự bỏ đạo của họ, bằng sư bỏ đạo của mọi người xung quanh họ!
Ai yêu “môi trường” của mình hơn cả Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu bạn bè mình hơn chính Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu hoàn cảnh, nghề nghiệp của mình hơn chính Thầy không xứng đáng với Thầy.
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.
Đó là cấp độ thứ ba của nấc thang từ bỏ: trên hết là phải từ bỏ chính mình. Sự ám chỉ thập giá ấy làm chúng ta nghĩ rằng hẳn Đức Giêsu không bao giờ đề nghị những sự hy sinh như thế nếu Người đã không sống chúng trước tiên. Mọi thập giá được chúng ta vác… là một thập giá “đi theo” Đức Giêsu. Bạn đang đau khổ… bạn đi theo sau thập giá của Người.
Vác thập giá của mình! Chúng ta có thể bị cám dỗ làm cho cách diễn đạt ấy mất hết sức mạnh và sự khốc liệt của nó. Đối với Mát-thêu, vấn đề không phải là một hình ảnh sùng đạo, một ngôn ngữ quy ước để nói về những hy sinh nho nhỏ của đới sống. Vào thời đại của Đức Giêsu, sự đóng đinh thập giá vẫn là hình phạt dành cho những kẻ nô lệ, hình phạt tàn ác và ô nhục nhất trong các cực hình Người bị kết án phải hứng chịu sự giận dữ của quần chúng, hấp hối trong sự đau đớn khủng khiếp dưới sự chứng kiến của đám đông. Xem ra Đức Giêsu có thể đã thấy những kẻ bị đóng đinh, trước khi chính Người cũng bị đóng đinh? Ở Pa-lét-tin, vùng đất mà người La Mã chiếm đóng đó là cách xử tử thông thường. Một sử gia của thời đó đã thuật lại rằng khi Hê-rô-đê cả chết, thủ lãnh của đạo quân La Mã, Varus đã ra lệnh đóng đinh cùng một lúc hai ngàn người Do Thái! Thập giá không còn là một vật để thờ phượng hay để điểm trang!
Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được.
Đây còn là một lời tuyên bố mà bề ngoài như nói ngược lại tất cả những gì thế giới hiện đại đòi hỏi: Ngày nay, sự tìm tòi cao nhất là để “tự thực hiện” bản thân, “phát triển mình”, “tự thể hiện mình”: Còn Đức Kitô đề nghị chúng ta “mất. mạng sống mình” để “theo Người”!
Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu suy nghĩ một chút thì bên trên sự đụng chạm ban đầu, chúng ta khám phá trong tư tưởng của Đức Giêsu một trong những luật căn bản của đời sống chúng ta. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì người khác thì người đó không có khả năng yêu thương. Kinh nghiệm hiện sinh hàng ngày của chúng ta cho chúng ta khám phá rằng “phải đánh mất mình đi” để thật sự phát triển trong tình yêu người khác. Vả lại, nghịch lý ấy chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng Phục Sinh, chính Đức Giêsu đã sống nghịch lý đó trước tiên. Đánh mất sự sống… để chiếm lấy sự sống!
Lời của Đức Giêsu không có đặc tính gì là thích tự hành hạ mình, tiêu cực, buồn bã; đó là một lời tích cực và vui tươi Vấn đề là phải chiếm lấy”. Đức Giêsu đề nghị chết cho chính chúng ta để thật sự sống. “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vậy, đây không phải là một sự bàng hoàng dũng cảm của thuyết hư vô và dù ít dù nhiều cũng là sự tự tử, mà đây là tình yêu thương mỗi ngày đòi hỏi chúng ta phải đánh mất mình vì những người khác… và là sự phát triển cao thượng nhất! Không hề phá hủy con người, sự hy sinh từ bỏ tạo thành những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất. Chỉ cần nghĩ đến Charles de Foucault, Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta, Martin Luther Kinh và nhiều người khác!
Còn nếu co quắp vào tính ích kỷ nhỏ bé của mình, sự phát triển của cá nhân mình thì như Đức Giêsu đã nói đó là phương tiện chắc chắn nhất làm hỏng cuộc đời mình. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được lời Chúa và ban cho chúng con sức mạnh để sống lời ấy. Thánh Phaolô đã nói “được rửa tội” chính là chịu đóng đinh với Đức Kitô để sống với Người” (Rôm 6,6-8) Và mỗi thánh thể nhắc chúng ta rằng Đức Giêsu đã “nộp sự sống của Người”.
Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Đoạn văn bắt đầu bằng những lời này là phần kết luận của “Bài giảng về các Tông Đồ”. Và thật ra chúng ta luôn ở trong cùng một luồng tư tưởng: luôn là vấn đề của lòng yêu thương… và yêu thương dưới hình thức đơn giản nhất là đón tiếp người khác.
Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì ngườ ấy là ngôn sứ thì sẽ được lãnh nhận phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ, ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Thế giới hiện đại này có vẻ đề cao sự phát triển cá nhân kể cả bằng sự đè bẹp những người khác (ví dụ như trong việc phá thai và nhiều hoàn cảnh khác…) cũng thế giới ấy đã tìm thấy công thức tàn bạo: “Tha nhân là hỏa ngục!”
Còn Đức Giêsu đề cao lòng hiếu khách, cởi mở, đón tiếp chúng ta có dành cho người xa lạ một chỗ khiêm tốn nơi bàn ăn của chúng ta không? Người khách được đón tiếp vào nhà chúng ta là một sự hiện diện của Đức Chúa. Hỡi vị khách xa lạ, hãy nói cho chúng tôi nghe điều bí mật của bạn.
Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương.
Đó là một ơn thường gặp nhất mà người ta có thể thực hiện ở mọi lúc dù khi quá nghèo và người ta không có gì để cho ngoài tính cách của sự đón tiếp Đức Giêsu đã gợi ra ba loại thành viên của cộng đoàn:
Các ngôn sứ, các người công chính và các kẻ bé nhỏ! Hai loại người trên đã được tôn kính trong đạo Do Thái. Nhưng Đức Giêsu còn thêm những “kẻ bé nhỏ”, những “môn đệ bình thường”, những người mà người ta luôn -liều lĩnh bỏ quên họ để chỉ quan tâm đến các Kitô hữu siêu hạng các chiến sĩ đức tin, các người dấn thân cao cả? Trong một thế giới rất dễ dành mất tình người và lại luôn đi tìm những môi trường mới cho sự hiệp thông nhân loại, lời mời gọi Đức Giêsu luôn có giá trị. Các kỹ thuật viên của mọi hệ thống, các chuyên gia về “nhóm năng động”, các người nhiệt thành truyền bá các ý thức hệ xứng đáng… đều phải tìm cách thực hiện động tác đơn giản cho người đang khát một chén nước: chỉ là một chén nước lã! Biểu tượng cho tương quan con người đơn giản nhất. Tin Mừng xem ra không đơn giản. Đức Giêsu cảnh báo sự dửng dưng và vô tâm của chúng ta. Tha nhân! Người khác! Kẻ bé nhỏ nhất.
AI ĐÓN TIẾP CÁC CON LÀ ĐÓN TIẾP THẦY- Chú giải của Fiches Dominicales
Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài “diễn từ sai đi truyền giáo”.
- Sẵn sàng để theo Đức Kitô.
Đức Giêsu nói với “mười hai môn đệ” thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những kẻ “được sai đi, của Người. Bài diễn từ có chia làm phần rõ rệt: Phần thứ nhất tập trung vào SỰ SẴN SÀNG TRỌN VẸN và sự gắn bó triệt để của người môn đệ vào Đức Kitô. Đức Giêsu đòi người môn đệ yêu mến Người hơn những gì thân yêu nhất: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy không xứng đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con cái hơn Thầy không xứng làm môn đệ Thầy. Những lời này không đi ngược với giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thể văn khoa đại kiểu Sêmít, những lời này chỉ nhắm thiết lập một trật tự ưu tiên trong những lựa chọn. Những tình cảm gia đình, dù chính đáng, không thể kìm hãm, càng không thể ngăn chặn những môn đệ bước theo Đức Giêsu. Những mối dây liên hệ thiêng liêng này chỉ là tương đối so với mối liên hệ tuyệt đối: gắn bó vô điều kiện vào bản thân Đức Giêsu. Ở đoạn văn trước đó, cùng đậm đặc chất Sêmít, Đức Giêsu đã nói không úp mở cho những ai muốn theo Người biết những chọn lựa đau đớn mà họ sẽ phải trải qua: “Thầy đến để tách lìa con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, người trong một nhà sẽ chống đối nhau. Claude Tassin gợi ý: “Hãy nghĩ tới nhũng người ngoại đạo mới trở lại, từ chối không thờ lạy thần của gia đình vì đức tin Kitô hữu… Giữa “ngôi nhà” của Thiên Chúa (câu 25) và ngôi nhà của riêng mình”, người môn đệ luôn luôn bị đẩy vào cho phải lựa chọn giữa (nhà” của Thiên Chúa và “nhà của riêng mình”, Đức Giêsu sẽ đi xa hơn nữa: Người mời gọi môn đệ yêu mến Người hơn chính bản thân họ, hơn cả mạng sống của họ? Và vì người môn đệ đã chọn chia sẻ vận mệnh với Người, Đức Messia chọn đóng đinh, họ sẽ không ngại ngùng vác lấy “thập giá bản thân” mà theo Người”. Nếu ta thường cho rằng kiểu nói “vác thánh giá” thuộc về một ngôn ngữ ước lệ thì các độc giả của Matthêu không nghĩ thế, vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bắt bớ, đe doạ, nơi cái chết trên thập giá xảy ra rất thường và là hình khổ tàn bạo, nhục nhã hơn hết, hình khổ dành cho nô lệ. Thế nên ai chọn nối bước Đức Giêsu chắc chắn rồi sẽ như Thầy mình, gặp phải hiểu lầm, thù ghét, và cả bắt bớ nữa.
- Đón tiếp các môn đệ của Đức Kitô.
Với 4 câu, phần thứ hai trở lại đề tài “ĐÓN TIẾP” môn đệ Đức Kitô.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy; ai tiếp đó Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón tiếp theo 3 mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các “tiên tri”, những “người công chính”, nhưng “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm. Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo Hội sơ khai. Những “người công chính có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Còn những kẻ “bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Giêsu. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.
Perron ghi nhận: “không ý nghĩa sao, chỉ “diễn từ tông đồ” này khởi đầu như chỉ nói riêng với nhóm 12, tách họ riêng ra, trao cho họ trách nhiệm và tư cách người được sai đi của Đức Kitô, lại kết thúc bằng trao ban cho cả những người bé nhỏ nhất sự cao trọng và trách nhiệm y như thế?”.
BÀI ĐỌC THÊM:(Mgr. L. Daloz, Le Règne descieux s ‘est approché DDB).
Đức Giêsu không chỉ đồng hoá với các tông đồ mà Người sai đi loan báo Nước Thiên Chúa.Người còn đồng hoá với mỗi một môn đệ, nhất là với những người bé nhỏ nhất. Người sẽ nói: “Ai vì danh Thầy mà đón tiếp một trẻ nhỏ chính là đón tiếp chính Thầy” (l8,5). Đặc biệt, Người mời gọi ta nhận biết Người trong những kẻ túng cùng, khốn khổ: “Quả thực Thầy bảo anh em, mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn này, là anh em làm cho chính Thầy” (25,40). Hôm nay, ngay khi nói với các tông đồ: “Ai tiếp đón anh em la tiếp đón Thầy”. Người nói tiếp và cho biết Người gắn bó biết bao với từng người: cho một tiên tri vì họ là tiên tri, cho người công chính vì họ là người công chính, cho kẻ bé mọn nhát vì họ là môn đệ. Ai đón tiếp họ, Người hứa sẽ ban phần thưởng, khi đón tiếp họ, cũng là chọn đứng về phía Người. Giữa Đức Giêsu và các môn đệ có một dây hiệp thông sâu xa. Đôi khi ta nói về “bí tích huynh đệ”. Các bí tích, trước hết là bí tích rửa tội, không biến anh em ta, một cách nào đó, thành những “bí tích” của Đức Giêsu Kitô mà họ đã được ghi đấu đó sao? Cái nhìn đức tin phải giúp ta nhận biết Đức Giêsu hiện diện trong anh em ta. Mỗi người chúng ta được sai đến với con người để cho họ biết Đức Giêsu đã đến gần…”.
Điểm bình thường trở tàhnh nơi diễn ra lắm bất ngờ
Yêu thương, tiếp đón là những từ ngữ thuộc về ngôn từ và phong tục của Nước Trời. Cái bình thường, cái thường ngày trở thành ân sủng, khả năng, khám phá ra niềm vui Nước Trời. Điều bình thương nhất như cho một ly nước uống, bỗng trở thành nơi diễn ra sự bất ngờ, mạc khải. Có lẽ Thiên Chúa muốn thời gian nghỉ hè sắp tới sẽ giúp ta trở nên biết quan tâm tới người khác, tới Đấng khác. Như thế, chúng ta sẽ trở thành những con người của niềm tin, những tín hữu.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- A
NGƯỜI MÔN ĐỆ VÀ SỰ ĐAU KHỔ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Chúa Nhật XIII Thường Niên năm A này có thể được gọi là “sự đón tiếp” hay “lòng hiếu khách”. Đây là chủ đề được bàn đến trong bản văn Cựu Ước, cũng như trong bản văn Tin Mừng.
2V 4: 8-11, 14-16
Bài Đọc I, được trích từ sách Các Vua quyển hai, thuật lại một người phụ nữ ngoại giáo xứ Su-nêm đã đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, một cách vô vị lợi vào thế kỷ IX tCn.
Rm 6: 3-4, 8-11
Từ Chúa Nhật XIII này cho đến Chúa Nhật XXIV Thường Niên năm A, chúng ta đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Bản văn hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về bí tích Thánh Tẩy.
Mt 10: 37-42
Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “sứ mạng truyền giáo”, trong đó Đức Giê-su khuyên các môn đệ từ bỏ chính mình và mời gọi các cộng đồng Ki-tô hữu tiếp đón họ như chính Ngài: “Ai đón tiếp anh em, là đón tiếp Thầy”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 8-11, 14-16)
Hai sách “Các Vua” tường thuật lịch sử mười chín vua Ít-ra-en và hai mươi vua Giu-đa. Trong toàn bộ Cựu Ước, hai tác phẩm này được minh họa bằng một số lượng lớn những chuyện truyền kỳ ý nhị, ly kỳ, về những ngôn sứ có đời sống tôn giáo rất tinh tế.
*1.Những chuyện truyền kỳ về các ngôn sứ trong hai sách Các Vua:
Các ngôn sứ chiếm một vị thế đáng kể ở trong hai tác phẩm này. Về lãnh vực “chính trị”, họ là những người gây dựng và phá đổ các vua; về lãnh vực “tôn giáo”, họ là những người bảo vệ lòng trung tín đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en; về lãnh vực “thần thông”, họ có quyền phép thực hiện những điềm thiêng dấu lạ. Ba ngôn sứ vĩ đại trổi vượt trên tất cả các ngôn sứ khác: Ê-li-a, Ê-li-sa vào thế kỷ IX, và I-sai-a vào thế kỷ VIII tCn.
Ngôn sứ Ê-li-sa vốn là một điền chủ giàu có, được ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi trở thành môn đệ truyền chân của mình. Không một chút ngần ngại, ông đã từ bỏ tất cả mà theo thầy. Từ đó, ông trở thành người bạn đồng hành trung thành và kế nghiệp thầy sau khi thầy biến mất một cách mầu nhiệm. Như ngôn sứ Ê-li-a, ngôn sứ Ê-li-sa thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc miền Bắc, chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 tCn).
Tập truyện về ngôn sứ Ê-li-sa thì đầy dẫy những kỳ tích chẳng kém gì tập truyện của ngôn sứ Ê-li-a. Chắc hẳn các môn đệ của vị ngôn sứ này, vì muốn độc giả thấy rằng thầy mình chẳng thua kém vị tiền nhiệm của thầy nên đã gán cho ông những kỳ tích tương tự, thậm chí giống y như những kỳ tích của ngôn sứ Ê-li-a. Chẳng hạn như ngôn sứ Ê-li-sa thực hiện phép lạ khi làm cho bình dầu của một bà góa không hề vơi (2V 4: 1-7) có thể sánh ví với phép lạ mà ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho bà góa xứ Xa-rếp-ta. Phép lạ này mở đầu cho câu chuyện về lòng hiếu khách của một người phụ nữ xứ Su-nêm được trích dẫn hôm nay.
*2.Lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm:
Su-nêm là một thành phố nhỏ bé miền Ga-li-lê, gần thành Na-im, dưới chân núi Hê-môn. Vào thời Cựu Ước có nhiều người Su-nêm sinh sống ở đây. Người phụ nữ Su-nêm nổi tiếng nhất là vị hôn thê của sách Diễm Tình Ca. Đó cũng là người phụ nữ xứ Su-nêm của sách Các Vua quyển hai này. Bản văn nói với chúng ta rằng bà “thuộc giới thượng lưu”, nghĩa là “một mệnh phụ”.
Lòng hiếu khách vốn là tập quán của các dân tộc thời xưa. Việc tiếp đãi khách vừa tự phát vừa quảng đại. Cựu Ước cung cấp cho chúng ta nhiều mẫu gương về lòng hiếu khách này. Tuy nhiên, lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm này không là chuyện thường tình. Người khách mà bà tiếp đón tận tình trong nhà mình, không chỉ là một khách qua đường nhưng còn là “một người của Thiên Chúa”, nghĩa là một ngôn sứ. Bà bảo xây cho vị ngôn sứ một phòng nhỏ trên sân thượng, là nơi hảo hạng ở đó vị ngôn sứ có thể ẩn mình hay nghỉ qua đêm vào những lúc khí trời nóng nực.
*3.Lòng hiếu khách được đền đáp:
Ngôn sứ Ê-li-sa muốn đền đáp sự tiếp đón thịnh tình của bà bằng một cử chỉ biết ơn. Ông cho mời bà Su-nêm đến. Bà đến đứng ngoài cửa. Lúc đó vị sứ giả của Thiên Chúa cho bà một lời hứa mà chỉ có sứ giả của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được bởi vì vào lúc đó bà không thể sinh con, còn chồng bà đã cao niên: “Sang năm, cũng vào thời kỳ này, bà sẽ có cháu trai bồng”. Chuyện tích này được điểm tô với những hồi ức của sách Sáng Thế, trong đó sứ thần Đức Chúa đã ban cho bà Sa-ra cùng một lời hứa như vậy (x. St 18: 10).
Phần cuối câu chuyện không trích dẫn cho chúng ta trong bản văn hôm nay. Con trẻ chết bất đắc kỳ tử. Ngôn sứ Ê-li-sa phục sinh cậu như ngôn sứ Ê-li-a đã phục sinh con trai bà góa xứ Xa-rếp-ta. Hai chuyện tích này xem ra như bộ đôi, nằm giữa truyền thuyết và lịch sử. Người kể chuyện đã muốn nhấn mạnh rằng việc tiếp đón vô vị lợi và nhân ái có một tầm quan trọng dưới thánh nhan Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay trở lại chủ đề này về tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với những ai thực hành lòng hiếu khách này.
BÀI ĐỌC II (Rm 6: 3-4, 8-11)
Thư gởi tín hữu Rô-ma này được viết từ Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 trong đó thánh Phao-lô trình bày một tổng thể đạo lý rộng lớn mà thánh nhân nhắc lại trong các thư của mình. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô trình bày thần học về bí tích Thánh Tẩy cách hùng hồn sống động. Thần học này phù hợp với thần học mà chính Đức Giê-su ngỏ lời với ông Ni-cô-đê-mô: “Thật tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3: 5).
Những gì thánh Phao-lô khai triển ở đây dựa vào nghi thức Thánh Tẩy được cử hành trong Giáo Hội tiên khởi: nhận chìm mình trong nước. Dự tòng bước xuống nhận chìm vào bể nước Thánh Tẩy và khi người ấy bước lên khỏi nước, người ta mặc cho người ấy một chiếc áo trắng tinh tuyền, dấu chỉ của sự biến đổi thành một con người mới. Đây là chiều kích biểu tượng đầu tiên về bể nước thánh tẩy và ơn thánh hóa. Chính thánh Phao-lô đã gợi lên điều này nhiều lần như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1Cr 6: 11), và như khi thánh nhân viết cho tín hữu Ê-phê-xô: “Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống” (Ep 5: 25-26).
Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân diễn tả nghi thức Thánh Tẩy thành biểu tượng của sự chết và cuộc tái sinh, thậm chí cả cuộc phục sinh, biểu tượng này liên kết cách biểu cảm hơn giá trị thánh hóa của bí tích Thánh Tẩy với cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
*1.Biểu tượng của cái chết:
Bể nước Thánh Tẩy được sánh ví với ngôi mộ trong đó người chịu phép Thánh Tẩy như được mai táng: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để nên một với Đức Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người. Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người”.
Cái chết của Đức Ki-tô là “chết đối với tội”. Khi chấp nhận cái chết thể lý, Đức Ki-tô làm cho mình trở nên liên đới với nhân loại tội lỗi. Người chịu phép Thánh Tẩy, bằng cách tái hiện cái chết này một cách mầu nhiệm, cũng chết vì tội lỗi, vì thế nên một với Đức Ki-tô người ấy có thể chiến thắng sự dữ.
*2.Biểu tượng của sự sống:
Vì thế, việc trồi lên khỏi nước có thể được sánh ví với cuộc tái sinh, khai mở một cuộc sống mới, theo sát nghĩa: một cuộc hành trình vào một đời sống mới. Sức mạnh đầy năng động của Chúa Thánh Thần mà dự tòng lãnh nhận ở bí tích Thánh Tẩy được gợi ý cách mặc nhiên.
Ngoài ra, người ấy được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đó là bảo chứng cho cuộc phục sinh: “Cũng như Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”. Thánh Phao-lô cũng sẽ viết cho tín hữu Cô-lô-xê theo cùng những từ ngữ như vậy, khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được chỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết” (Cl 2: 12). Như vậy, ngay từ bây giờ chứ không phải đợi đến cuộc sống mai hậu, nếu chúng ta chết đối với tội, Đức Ki-tô cho chúng ta được sống bằng sự sống của Ngài.
TIN MỪNG (Mt 10: 37-42)
Thánh Mát-thêu đã tập hợp những lời dạy của Đức Giê-su thành năm bài diễn từ: diễn từ trên núi, cũng được gọi “Hiến Chương Nước Trời” (bắt đầu với các mối phúc thật); diễn từ về sứ vụ truyền giáo; diễn từ về các dụ ngôn; diễn từ về Giáo Hội; và diễn từ về thời cánh chung. Diễn từ về “sứ vụ truyền giáo” hình thành nên một đơn vị rất rõ nét: Đức Giê-su vừa mới chọn nhóm Mười Hai và trình bày cho họ những gì Ngài chờ đợi từ họ. Vào Chúa Nhật XIII năm A này, Tin Mừng chỉ trích dẫn những huấn thị sau cùng.
*1.Người Tông Đồ và sự từ bỏ:
Đức Giê-su đòi hỏi các Tông Đồ phải từ bỏ cách triệt để. Đây là lời mời gọi theo Đức Giê-su không một chút do dự, không lưu luyến quá khứ, yêu mến Ngài vô giới hạn, trên cả những mối tình thâm ruột thịt. Rồi, dưới Giao Ước Cũ, chi tộc Lê-vi, được thánh hiến để phụng sự Đức Chúa, bị đòi hỏi phải từ bỏ tương tự. Lê-vi là “người đã nói về cha mẹ nó: ‘Tôi không nhìn thấy họ’, anh em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết” (Đnl 33: 9).
Chính Đức Giê-su đã cho một mẫu gương, Ngài đã rời bỏ gia đình mình, bà con thân thuộc mình, nghề nghiệp mình mà ra đi thi hành sứ vụ mình bằng việc tận hiến cho tha nhân. Khi những thân nhân của Ngài tìm cách ngăn trở sứ vụ của Ngài, Đức Giê-su trả lời: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 49-50; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Các Tông Đồ đã hiểu những đòi hỏi này khi Ngài cất tiếng gọi họ: “Hãy theo tôi”. Hai anh em ông Phê-rô và An-rê đã để lại thuyền và lưới mà đi theo Ngài. Hai anh em ông Gioan và Gia-cô-bê cũng đã làm như vậy, thậm chí cả cha già của mình nữa. Ông Mát-thêu, viên chức thu thuế, đã không một chút do dự từ bỏ nghề nghiệp béo bở hái ra tiền cũng như gia đình cùng bạn bè mà theo Ngài.
*2.Người môn đệ và sự đau khổ:
Huấn lệnh khắc nghiệt này: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, được ngỏ lời không chỉ với những người ưu tuyển mà còn với hết mọi người. Quả thật, thánh Mác-cô viết: “Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ‘Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo’” (Mc 8: 34), còn thánh Lu-ca thì lại viết: “Rồi Đức Giê-su nói với mọi người….” (Lc 9: 23-24 và 14: 26-27).
Qua hình ảnh “thập giá”, Đức Giê-su báo trước nỗi đau khổ đang chờ đợi những ai muốn là môn đệ của Ngài. Đức Giê-su không tìm cách làm nhẹ đi lời nói của Ngài. Ngài đã loan báo rồi những bách hại sẽ giáng xuống trên họ (Mt 10: 17-25). Tình yêu mà Ngài đòi hỏi ở nơi họ là phải đi cho đến mức liều mất mạng sống mình vì Ngài. Sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giê-su sẽ lập lại những đòi hỏi căn bản này: vác lấy thập giá mình mà theo Ngài, đừng cố cứu mạng sống mình, nhưng liều mất mạng sống mình vì Ngài để gặp thấy sự sống đích thật (Mt 16: 24-26 và Mc 8: 34-35; Lc 17: 33 và Ga 12: 25). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su còn nói rõ hơn: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).
*3.Cộng đoàn và sự đón tiếp:
Bù lại, những ai dám từ bỏ cách anh dũng như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu phải niềm nở đón tiếp họ và thấy ở nơi họ chính Đức Ki-tô và “Đấng đã sai Ngài”. Như vậy, sau khi đã phác họa một bức tranh nhiều gam màu khổ đau, Đức Giê-su lại đặt niềm tin tưởng vào các môn đệ Ngài: Ngài đồng hóa các ông với Ngài, Ngài cho các ông được liên đới với sự hiện diện của Thiên Chúa mà các ông sẽ là dấu chỉ. Đối với những ai đã từ bỏ gia đình xác thịt, Ngài hứa một gia đình thiêng liêng.
“Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”. Hai thuật ngữ: “ngôn sứ” và “người công chính”, được mượn ở Cựu Ước, ở trong bản văn Tin Mừng này xem ra thuật ngữ ngôn sứ chỉ ra các nhà truyền giáo và thuật ngữ người công chính chỉ ra các tín hữu.
“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. “Những kẻ bé nhỏ” mà Chúa Giê-su muốn nói trước hết chính là các Tông Đồ, họ thuộc về những kẻ bé mọn mà những mặc khải về Nước Trời đã được hứa ban cho họ: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11: 25). Tuy nhiên, thuật ngữ này có một ngữ nghĩa rộng lớn hơn. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca tường thuật rằng vào lúc đó Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9: 48; Mc 9: 36-37).
CHIA SẺ THÂN PHẬN CỦA ĐỨC KITÔ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18) : “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa”
– Đáp ca (Tv 88) : “Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời”
– Tin Mừng (Mt 10,37-42) : “Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó” – “Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”
– Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ) : “Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”.
Sợi chỉ đỏ :
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề :
Chủ đề tiếp đón : được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng : “Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”
Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu : được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng : “Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó”, và bài đọc II : “Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”.
– (Nếu chọn chủ đề I) : Anh chị em thân mến
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân : mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
– (Nếu chọn chủ đề II) : Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý : “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất ; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó”.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
– Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị em sống chung quanh chúng ta.
– Chúng ta coi thường những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị.
– Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.
LỜI CHÚA
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam :
– Trên đường sứ mạng, ngày kia Eâlisê đến vùng Sunam
– Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Eâlisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Eâlisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
– Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Eâlisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Eâlisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần :
– Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ : Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều : tình yêu gia đình, mạng sống ; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
– Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón : ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến ; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
Bài đọc 2(Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch : Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất : con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai : muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa :
– Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
– Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương : 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18) ; 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Eâlisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Eâlisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I) ; 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề :
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách ? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác : Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức ; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Eâlisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống : hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón :
– Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
– Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta : Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề : người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai :
– một là cha mẹ, hai là Chúa
– một là con cái, hai là Chúa
– một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một : “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy ; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy” ; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa !
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi : phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy ?
Có nhiều loại từ bỏ :
– Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
– Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
– Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào ?
– Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
– Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
– Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như : tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc :
– Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy” : Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói “vác thập giá mình” có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
– Câu 39 “Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó” : chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ “lòng”, “trí”, “tim”, tổng quát là cả “cuộc sống”, toàn thể “con người”. Như thế, “đành mất mạng sống” có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia : làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta : “Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30).
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói : “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói : “Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”.
b/ Mất và được
Tái ông thất mã : Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp : “Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.” Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói : “Chưa hẳn được ngựa là may đâu.” Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích “Phúc”)
CT : Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.
2- Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3- Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / “vui với người vui, khóc cùng người khóc”.
4- Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng : nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-A
BIẾT ĐÓN NHẬN THA NHÂN- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc ta hãy lưu tâm đến việc tiếp nhận tha nhân, nhất là đón nhận những người nghèo hèn, bé mọn, cô thế cô thân, bị bỏ rơi… Đón tiếp tha nhân chính là đón nhận Chúa Kitô. Muốn đón tiếp phải có lòng yêu thương, thành thật, hy sinh, từ bỏ, tế nhị, cởi mở. Biết đón tiếp là bước khởi đầu của tình yêu. Chúa Giêsu hứa sẽ ban thưởng bội hậu cho những ai có lòng quảng đại biết tiếp rước những người nghèo hèn, làm phúc bố thí cho họ dù chỉ một bát nước lã.
Qua bài đọc sách Các Vua, một bà già son sẻ sang trọng miền Sunêm rất giầu lòng quảng đại đã mời tiên tri Elisê dùng bữa khi tiên tri đi ngang qua. Do lòng quảng đại bác ái đó, bà đã khám phá ra đây là người của Thiên Chúa. Bà lại càng trân trọng tiếp đãi nồng hậu hơn : dọn phòng trên lầu, có giường, có ghế, có đèn… Qua nghĩa cử “cho khách đỗ nhờ”, bà ta đã được đền đáp xứng đáng : sẽ có được con trai trong lúc hai ông bà đã cao niên.
Sự đón tiếp cần phải với tấm lòng. Đón tiếp vào nhà, với tinh thần chỉ có thể thực hiện nếu có sự đón tiếp với tấm lòng chúng ta, vì nói cho cùng, đón tiếp là tự hiến dâng : đấy là biết từ bỏ sự thỏai mái riêng tư, sự yên tĩnh của mình để lo cho người khác. Một sự hiến dâng như thế chỉ có thể thực hiện theo lệnh của con tim chúng ta. Sự hiến dâng này chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó biểu hiện sự đón tiếp từ trong lòng, làm cho tình thương nên trong sáng và bất vụ lợi. Chúa Giêsu đã nói :”Kẻ nào đón tiếp các ngươi là đón tiếp chính Ta”.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : 2V 4,8-11. 14-16
Trên đường sứ mạng, ngày kia tiên tri Êlisê ghé thăm nhà một người đàn bà ở Sunêm. Bà này tỏ ra rất qúi trọng nhà tiên tri vì bà coi ông là vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho tiên tri một phòng ở trên lầu với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào tiên tri cũng có thể đến trú ngụ.
Đáp lại tấm thịnh tình của bà, tiên tri đã cầu khẩn Thiên Chúa ban tặng cho bà một đứa con vì bà hiếm muộn và chồng bà đã già. Lời cầu xin của ông đã được chấp nhận. Ông nói với bà :”Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (2V 4,16).
+ Bài đọc 2 : Rm 6,3-11.
Bài đọc 2 chỉ là chủ đề phụ. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô dạy cho các tín hữu biết rằng nhờ Phép Rửa chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Kitô, và sẽ được cùng với Ngài sống lại hiển vinh để hiệp thông một cách nhiệm mầu vào chính sự sống của Thiên Chúa :”Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 6,11).
+ Bài Tin mừng : Mt 10,37-42.
Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Ngài. Theo Chúa thì phải yêu mến Ngài trên hết, trên cả cha mẹ vợ con và trên cả thân mình. Như vậy Ngài có ý nói theo Ngài thì không được để bị ràng buộc bởi gia đình.
Ngoài ra, Chúa đòi chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả trong việc vác thập giá theo Ngài và biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn. Điều này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình. Quên mình là từ bỏ những gì liên quan đến con người và mọi liên hệ của bản thân từ sự sống cho đến tình cảm.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thương người có mười bốn mối
Mỗi sáng Chúa nhật chúng ta đều đọc kinh “Thương người có mười bốn mối : 7 mối qui về thể xác và 7 mối qui về tinh thần , nghĩa là thương con người toàn diện. Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta phải lưu tâm tiếp đón mọi người, không những phải tiếp đón các sứ giả của Chúa một cách cẩn trọng mà còn đón tiếp tất cả những kẻ bé mọn vì tất cả đều là môn đệ của Chúa.
*I. BÀI HỌC CHÚA DẠY HÔM NAY
Nhà triết học hiện sinh Pháp, ông Jean Paul Sartre, có nói một câu làm cho chúng ta ngạc nhiên :” L’enfer c’est les autres”: Tha nhân là hỏa ngục đối với ông. Thật là một câu nói quái gở vì nó đi ngược hoàn toàn với Tin mừng.
Tha nhân là ai ? Họ ở đâu ? Làm thế nào tìm được họ ? Thưa, họ là mọi người ở quanh chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng, có thể động chạm đến họ. Nếu chúng ta hỏi Chúa Giêsu : người khác hay tha nhân là ai ? Chúa Giêsu sẽ trả lời ngay :”Tha nhân chính là Ta” bởi vì Ngài đã khẳng định :”Sự gì ngươi làm cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ của Chúa phải yêu mến Chúa trên hết, hơn cả cha mẹ anh em, ngay cả mạng sống của mình. Đây là một đòi hỏi rất khắt khe và dứt khoát. Sau đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tiếp đón các môn đệ của Chúa.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi :”Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón nhận theo ba mức độ giảm dần một cách nghịch lý : các “tiên tri”, những “người công chính”, những “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm.
Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo hội sơ khai.
Những “người công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.
Còn những “kẻ bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Kitô. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt (Fiches dominicales, năm A, tr 215).
Tất cả những điều nói trên chung qui lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Kitô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mạng của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hạ nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trên.
Ta phải lưu tâm đến hết mọi người và phục vụ họ ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như cho một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm cho ta thỏa mãn.
*II. GƯƠNG SÁNG VỀ SỰ ĐÓN TIẾP
Trong Kinh thánh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
*1. Ông Abraham (St 18)
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiếm muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isaác.
*2. Một gia đình ở Su-nêm
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.
Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ :”Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (Bài đọc 1).
*3. Gia đình ba chị em ở Bêtania
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là nhậu và chuyện trò với Chúa
Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
Truyện : Một nghĩa cử tuyệt đẹp.
Một hôm, hòang đế Napoléon của Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo hòang đế chỉ có một vị sĩ quan tùy viên. Vì không muốn cho ai nhận ra mình là hòang đế, nên Napoléon và viên sĩ quan cận vệ cải trang ăn mặc như thường dân.
Sau khi đã ăn uống xong, bà chủ nhà hàng đến tính tiền. Tổng cộng số tiền phải trả là 14 quan. Viên sĩ quan cận vệ mở chiếc cặp xách tay để lấy tiền. Bỗng mặt ông tái mét đi vì trong cặp không có đồng tiền nào cả.
Thấy thế, Napoléon hiểu ý nói nhỏ với viên sĩ quan :”Đừng lo, để tôi trả cho”. Nói rồi ông móc túi lấy tiền. Nhưng sờ túi trên, túi dưới, túi trước, túi sau, ông không thấy có đồng tiền nào cả. Napoléon nhìn viên sĩ quan nhướng mắt, nhún vai.
Trước tình thế đó, viên sĩ quan nói với bà chủ :
– Thật là rủi ro cho chúng tôi, chúng tôi quên không đem tiền theo. Xin bà vui lòng cho tôi thiếu một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ trở lại thanh tóan với bà được không ?
Bà chủ nhất định không chịu và dọa rằng nếu hai người không chịu trả tiền ngay, thì bà sẽ gọi cảnh sát.
Một anh bồi bàn theo dõi công việc từ đầu cảm thông với hai người khách nên nói với bà chủ :
– Quên đem tiền trong túi, đó là điều thường xẩy ra. Vì thế, xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì ! Theo tôi thì hai ông đây là người rất thật thà, không có ý lường gạt đâu.
Nghe anh bồi bàn nói, bà chủ vẫn không chịu và cứ nằng nặc đòi kêu cảnh sát.
Thấy thế, anh bồi bàn móc túi lấy ra 14 quan trao cho hai người khách và nói :”Đây tôi cho hai ông mượn để thanh tóan với bà chủ”.
Thế là nhờ anh bồi bàn mà Napoléon và viên sĩ quan mới có thể rời khỏi nhà hàng.
Một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ông gặp lại bà chủ và nói
– Bà đã tốn kém mất bao nhiêu để tạo lập nhà hàng này ?
Bà chủ trả lời :
– 30.000 quan..
Viên sĩ quan mở chiếc cặp da xách tay lấy ra 30.000 đặt trên bàn và nói :
– Vâng lệnh của chủ tôi là hòang đế Napoléon, tôi xin bà sang lại nhà hàng này cho anh bồi bàn, người đã giúp chúng tôi đang lúc chúng tôi kẹt không có tiền.
*III. CÁCH THỨC ĐÓN TIẾP
Trong việc tiếp đón, người ta phải chú ý đến phương diện vật chất và tinh thần. Phương diện nào cũng quan trọng để làm cho khách được hài lòng, nhưng phương diện tinh thần thì quan trọng hơn.
*1. Phương diện vật chất
Khi đón khách vào nhà, ai cũng muốn khách được hài lòng : dọn dẹp nhà cửa, trang bị đồ dùng cần thiết, cơm nước ngon lành… Phần trang bị vật chất càng đầy đủ càng nói lên lòng hiếu khách, nếu không sợ khách phê bình “khẩu thiệt đãi chi”. Gia đình ở Su-nêm chẳng những đón tiếp tiên tri Êlia mà còn dọn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới đã có chỗ trọ. Dĩ nhiên, mến khách thì càng tốn kém, nhưng đó là điều kiện bắt buộc.
*2. Phương diện tinh thần
Khía cạnh tinh thần trong việc đón tiếp khách mới là quan trọng. Người đời thường nói :”Người ta thèm lòng chớ không thèm thịt” hoặc câu khác :”Cách cho thì qúi hơn của cho”. Cách tiếp đón qúi ở chỗ thành thực, quảng đại và cởi mở, chú trọng đến con người hơn là của cải. Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ. mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
Đối với hai trường hợp đón tiếp khách ở trên, tại sao những chủ nhà ấy quảng đại đón tiếp khách ? Thưa, vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác.
Abraham lo cho ba người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy sức.
Gia đình ở Su-nêm lo sợ tiên tri Êlia phải bơ vơ nơi miền đất lạ, không có chỗ nương nhờ trong hoàn cảnh khó khăn đó.
Gia đình ở Bêtania thì muốn dành cho Chúa Giêsu và môn đệ có chỗ nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc mệt nhọc. Gia đình kiếm cho Chúa có chỗ dừng chân mỗi khi đi qua Bêtania.
*IV. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO SỰ ĐÓN TIẾP
Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau.
Trở lại ba việc đón tiếp trên, phần thưởng của lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống : hai đứa con đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Lagiarô đã chết bốn ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Theo bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định không có việc gì làm cho người khác mà bị bỏ quên, Chúa ghi nhớ tất cả và sẽ thưởng công cho, mặc dù việc ấy rất nhỏ nhặt :”Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
Đến ngày phán xét, ngày thưởng phạt đích đáng, Chúa Giêsu sẽ nói với mọi người chúng ta :”Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ngược lại là chúng ta đã không làm cho Chúa và sẽ phải lãnh hình phạt đời đời
Truyện : Một chén ân tình
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau :
Vào sáng một mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người dở sống dở chết ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hoà quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85)
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn đưa ra một điều kiện nghịch lý cho các môn đệ Người theo :”Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39). Cứ thực hành đi rồi sẽ thấy nó không nghịch lý nữa.
Chúng ta thấy nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu ở trên. Bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mạng “vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì anh em thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang cũng để nói lên lời yêu thương con người.
Mỗi ngày Chúa nhật đọc kinh “Thương người có 14 mối”, chúng ta hãy xem lại con người chúng ta còn thiếu sót những mối nào trong kinh ấy, hãy cố gắng thực hiện tất cả. Mỗi lần chúng ta làm cho tha nhân điều gì thì đó là chúng ta đang làm cho Chúa dù cho người bé mọn chỉ một chén nước lã thôi.
“Một chén nước lã” đối với Chúa là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- A
NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ. Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa. Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.
Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.
Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình. Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào. Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.
Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường. Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền”. Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau”. Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài”.
Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.
Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.
Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.
Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác. Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”. Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.
Nên thánh Phalô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn. Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa. Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”. Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Chúa có những phẩm chất nào?
2- Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ, Người có thực hành không?
3- Đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Bạn nghĩ đến việc này thế nào? Quan tâm? Giúp đỡ? Đóng góp?.
THÍ MẠNG SỐNG VÌ THẦY- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Ngày 19/06/1988, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh 117 Đấng anh hùng Tử Đạo Việt Nam, trước sự tham dự của gần một trăm ngàn người Việt Nam đến từ khắp năm châu và hơn năm chục ngàn người Phi Luật Tân, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Đại lễ đã long trọng tuyên dương các Đấng đã thí mạng sống vì Đức Giêsu Kitô.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Chúa bằng nhiều cách: bằng sống Tin mừng thương yêu, thân ái với mọi người, cả những kẻ thù bắt bớ làm hại mình; Thánh Linh mục Dụ nói: “Tôi kính mến Thiên Chúa như thượng phụ, kính Vua như trung phụ, và song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột mà hại Vua, tôi cũng không phải vì Vua mà phạm đến thượng phụ là Thiên Chúa”. Thánh Linh mục Dũng Lạc đã chia sẻ quà tiếp tế cho lính canh. Thánh y sĩ Phan Khắc Hòa đã rộng rãi giúp người nghèo khó, miễn phí cho các bệnh nhân túng thiếu. Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa”. Ông đã trồng dâu kiếm tiền giúp người nghèo. Thánh trùm Đính thường xuyên thăm viếng trại cùi, và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch trong nhà. Thánh Linh mục Triệu đã nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử cho người nghèo: “xin cầm tiền và gửi cho người nghèo dùm tôi”.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Thầy: bằng mặn nồng tình nghĩa gia đình. Thánh Đaminh Úy mạnh dạn tuyên bố giữ vững niềm tin của cha ông: “Nếu tôi cả gan bước lên Thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa, bất hiếu với cha mẹ; vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với đức tin cho đến chết”
Thánh Martino Thọ căn dặn các con: “Các con thân mến, ý Chúa muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm chăm sóc các em mình. Các con phải nhớ kính trọng vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày, Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên tâm giữ đạo”.
Thánh Linh Mục Triệu vì thương mẹ, ở lại Huế ba tháng dựng nhà cho mẹ nên bị bắt.
Thánh Trùm Phụng tại pháp trường gặp lại con gái, cô Anna Nhiên, đã đeo ảnh Thánh giá vào cổ con và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều, con nhé”.
Tình yêu thương của các thánh tử đạo đối với cha mẹ, vợ, con có phải mâu thuẫn với Tin mừng hôm nay chăng?
Tin mừng nói: “Ai yêu cha mẹ, con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”.
Phải quả quyết rằng tình yêu thương gia đình của các Ngài đã thể hiện đúng Tin mừng của Đức Giêsu, vì Người đã dạy ta phải giữ giới răn thảo kính với cha mẹ. Chính Người “hằng vâng phục các ngài” (Lc. 2, 51; Ga. 19, 26-27).
Sở dĩ các Ngài yêu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái vì trung thành với đạo của cha mẹ, vì hiếu thảo với cha mẹ, nối chí của cha mẹ. Hơn nữa, các Ngài hiến mạng sống mình cho Chúa là để cho cha mẹ, vợ con được sống dồi dào trong ơn phúc của Thiên Chúa, đem lại sự sống muôn đời cho cha mẹ, vợ con và muôn người.
+ Các Thánh tử đạo đã thí mạng sống vì Thày bằng sẵn sàng hy sinh dâng hiến tình yêu cha mẹ, tình yêu phụ tử, tình yêu gia đình cho Chúa, còn hy sinh tình yêu mạng sống mình cho Chúa để chứng tỏ các ngài mến Chúa trên hết mọi sự, vì “mọi sự Chúa ban cho, bây giờ Chúa cất đi”, như Thánh Gióp đã nói. Chẳng những các ngài không mất gì mà còn được mạng sống đó đến muôn đời: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được, sẽ cứu được mạng sống ấy, cho đến đời đời” (Mt. 11, 39; Lc. 9, 24; Ga. 12, 25)
Như vậy, chúng ta thấy không còn mâu thuẫn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với gia đình và chính bản thân mình nữa.
Các Thánh tử đạo hy sinh thí mạng sống mình, thí tình yêu gia đình, tình yêu mọi người chính là để cho mình, cho gia đình, cho mọi người được đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ thực hiện được tình yêu chân chính, tình yêu cao cả, tình yêu phục vụ mọi người, tiếp đón những bậc ngôn sứ, những bậc công chính vị vọng cũng như những kẻ bé mọn hèn kém và những kẻ thù nữa.
Đó mới thật là người thí mạng sống vì Thầy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thúc giục chúng con thí mạng sống vì Chúa để mở rộng tâm hồn ra đón tiếp và phục vụ mọi người như Chúa đã hy sinh cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết noi gương các Thánh Tử Đạo cha ông chúng con, biết hiến thân làm chứng cho Tin mừng của Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- A
SỐNG XỨNG VỚI CHÚA– Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).
Nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải yêu Chúa hơn cha mẹ, con cái.. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, người theo phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu, nên Ngài thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”t (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Chúa Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Chúa Giêsu không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-A
ĐÒI HỎI CỦA TIN MỪNG- Lm.Giuse Phạm Thanh Minh
“Ai không vác thập giá, thì không xứng với Thầy. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”
Ngữ cảnh Phụng vụ Lời Chúa
Cộng đoàn chúng ta đang suy niệm bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Matthêu nói đến vấn đề “Ra đi loan báo Tin Mừng” (Mt 10, 5-42). Sau khi tuyển chọn 12 Tông đồ, Đức Giêsu đào tạo rồi sai các ngài đi. Nhưng trước khi đi, Người dạy một số điều: các ngài ra đi phải nói những gì, và nhất là phải sống làm sao. Những cuộc bách hại sẽ đến, nhưng đừng sợ, và hơn nữa, phải chấp nhận những khó khăn đến từ nhiều phía, ngay cả trong gia đình.
Bài Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay (Mt 10, 37-42) là phần cuối của bài giảng về sứ mạng Tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng. Do đó, người môn đệ phải từ bỏ mình vác thập giá đi theo Chúa và ai tiếp đón người môn đệ là tiếp đón Chúa.
Người môn đệ phải ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (10, 37-39)
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hệ quả của bước đường đi theo Chúa. Theo Chúa người môn đệ phải chấp nhận thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp chống đối. Người nhận xét rằng người ta sẽ không đồng ý với nhau về Ngài: Kẻ theo, người chống, sẽ có những bất hòa, đoạn tuyệt, những đấu tranh khắp nơi trên thế giới và ngay cả bên trong các gia đình, vì Ngài và giáo huấn của Ngài.
Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa người môn đệ phải đích thân chọn lựa, và phải đặt tình yêu Chúa Kitô trên ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất, trên mọi liên quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy… Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”.
Ở đây, Chúa Giêsu không có ý dạy sự bất hiếu, bất kính với cha mẹ trong gia đình. Người chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Ngài, mọi giá trị khác và mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.
Khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”.
Đây phải hiểu là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với những liên hệ thân thương nhất để đi theo Chúa Giêsu thì đã tự làm cho mình nên bất xứng với Người.
Tiếp đón các Tông đồ là đón tiếp Đức Giêsu
Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để những môn đệ phải thất vọng. Chính Chúa Giêsu, kết thúc bài giảng thừa sai bằng một lời hứa khác thường cho những kẻ được sai đi cũng như những kẻ đón tiếp họ: “Ai đón tiếp một tiên tri sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; ai đón tiếp người công chính sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; ai đón tiếp kẻ rao giảng sẽ nhận được phần thưởng cho kẻ rao giảng”.
Ở đây, Chúa Giêsu đã dùng từ “ngôn sứ” và “người công chính” để ám chỉ các Tông đồ. Như vậy, các Tông đồ được coi là ngang hàng với các ngôn sứ và các người công chính thời Cựu ước.
Vì thế, tiếp đón các Tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu, và đón tiếp Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa, Đấng đã sai phái Đức Giêsu. Mười hai Tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu, còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi. Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa gặt, và là Đấng sai phái các thợ gặt.
Mặc dù, ra đi loan báo Tin Mừng, các môn đệ phải chấp nhận đời sống truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn, nhưng Đức Giêsu đã đồng hóa mình với họ, vì qua họ, Người đến với loài người và nói với loài người. Từ nay họ thực sự là người của Thiên Chúa. Ai đón nhận họ tức là đón nhận chính Đức Kitô. Cả phần thưởng cho việc đón tiếp cũng dựa trên sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái.
Người môn đệ đã vì Người mà chấp nhận những rạn nứt và thập giá thì cũng được đồng hóa với người trong ân thưởng.
Người Kitô hữu sống gắn bó với Đức Kitô
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời, vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn.
Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Tất cả mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu thế nào là tình yêu tận hiến của Ngài, để luôn biết sống quảng đại dấn thân cứu sống anh em mình mà không sợ hy sinh hay hiểm nguy. Xin Chúa Thánh Thể bổ sức cho chúng con.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- A
THIÊN CHÚA TRÊN HẾT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Con vật sống theo bản năng. Con người có lý trí, nên con người khác con vật khi sống theo lý trí hướng thiện. Trong cuộc sống, con người được mời gọi lựa chọn để sống tốt mỗi ngày; điều này hàm chứa quyết định chọn Thiên Chúa trên hết, dù rõ ràng hay mặc nhiên.
- Chọn lựa giữa con người và Thiên Chúa
Đức Yêsu nói: “Ai yêu cha mẹ hay con cái hơn Ta thì không xứng với Ta. Ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Đức Yêsu đòi người ta phải chọn Ngài trên tất cả, cho dù người đó phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và cha mẹ, anh chị em, con cái, hay vợ chồng của họ. Hơn thế nữa, Đức Yêsu còn đòi người ta phải chọn Ngài trên cả chính bản thân và sự sống họ nữa: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai sẵn sàng mất sự sống vì Ngài thì sẽ tìm lại được”.
Giữa con người và Thiên Chúa, con người phải chọn Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất dạy: “thờ phượng Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự”. Chọn tạo vật, cho dù tạo vật đó là chính mình, cũng là tôn thờ ngẫu tượng. Khi chọn Thiên Chúa trên tất cả, con người không đánh mất chính mình, nhưng là sống ơn gọi làm người trọn vẹn hơn. Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài luôn muốn điều tốt cho con người, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc thật. Chọn Ngài, là chọn sự sống đích thực, là chọn hạnh phúc đích thực.
Có những điều con người chủ quan thấy là tốt cho mình, nhưng khách quan điều đó không tốt thực cho con người. Trí khôn hữu hạn của con người làm sao so sánh với quyết định khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa!
- Thiên Chúa yêu thương con người qua trung gian hữu hình
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã luôn ở với con người. Ngay khi con người phạm tội và trốn tránh Thiên Chúa, Ngài vẫn đi tìm và nối lại tương quan với con người bằng việc tra vấn họ. Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa vẫn chọn một con người cụ thể để nói với con người, chẳng hạn qua các tiên tri. Bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương bà Shumen và chồng bà qua tiên tri Elisha. Tiên tri báo trước bà sẽ có con vào “ngày này năm sau”. Hành vi của bà Shumen đối với tiên tri diễn tả tâm tình và thái độ của bà đối với Thiên Chúa. Bà đã dành phòng cho tiên tri, nuôi cơm tiên tri. Thiên Chúa qua tiên tri Elisha “đáp trả” tấm lòng chân thành của bà, bằng việc cho bà có con như bà ước nguyện.
Qua những cặp vợ chồng son, người ta nhận ra con cái là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi người được chào đời, hàm chứa người đó được cha mẹ chấp nhận và yêu thương. Những người con “chết trong dạ mẹ” do hành vi từ khước tình yêu của người cha người mẹ đối với người con đó, và cũng là hành vi từ khước tình yêu Thiên Chúa dành cho người người cha người mẹ đó. Đã đành nuôi dưỡng một người con tốn nhiều tiền của công sức, nhưng bù lại Thiên Chúa cũng cho người cha người mẹ được an ủi qua những người con. Ai không yêu thương cụ thể qua hy sinh chấp nhận con cái, người đó không yêu thương và cộng tác với Thiên Chúa trong hành vi tạo dựng.
Bài Tin Mừng hôm nay Đức Yêsu nói: “nếu một người giúp người nghèo chỉ một chén nước lã, họ cũng được thưởng công”. Ở một chỗ khác, tin mừng Matthêu cho thấy: ai làm cho một trong những người nghèo khó nhất, cũng là làm cho Thiên Chúa, và ai không làm cho những người nghèo khó là không làm cho Thiên Chúa. Không chỉ có các tiên tri là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng cả những người nghèo đều là hiện diện của Thiên Chúa. Không yêu thương người nghèo, là không yêu thương Thiên Chúa. Không chấp nhận người con “còn trong bào thai trong dạ mình” là không chấp nhận Thiên Chúa.
- Đức Yêsu Con Thiên Chúa
Đức Yêsu yêu thương con người. Ngài thương cảm dân chúng bơ vơ không người chăm sóc như chiên cừu không người chăn. Người chăn chiên có nhiệm vụ bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ và dẫn đàn chiên tới suối nước trong lành. Đức Yêsu yêu thương con người và là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Nếu chỉ là người như bao người khác, Đức Yêsu không được phép đòi người ta phải chọn Ngài trên những người thân yêu như cha mẹ, anh chị em, con cái. Thực sự Đức Yêsu đã đòi hỏi điều này, và như vậy, người ta hiểu Ngài là Đấng đặc biệt, hơn chỉ là một con người. Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Thiên Chúa theo một nghĩa nào đó, và các nhà thần học diễn tả Ngài là Thiên Chúa Con.
Đức Yêsu đã tới để làm chúng ta thành con người mới. Ngài tới mang niềm hy vọng cho con người trong cuộc đời dương thế nhiều phong ba bão tố. Ngài là nguồn hy vọng của Kitô-hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
-Trong cuộc sống hằng ngày, tiêu chuẩn lựa chọn của bạn là gì?
(Lợi: tiền bạc, công việc? Danh: tiếng khen, kính phục? Quyền lực? Điều thiện hảo: tốt lành cho người ta và cho mình?)
-Bạn có đồng ý quan điểm chỉ cần làm việc thiện giúp người chứ không cần tham dự các bí tích không? Xin trình bày và bảo vệ quan điểm của bạn.
-Phải chăng Thiên Chúa đòi con người chọn Ngài trên tất cả, là Ngài ích kỷ?
-Chọn Thiên Chúa trên tất cả, có làm suy giảm hạnh phúc của con người không? Tại sao?
THIÊN CHÚA LÀ KHỞI NGUYÊN VÀ TẬN CÙNG- Lm. Pet. Trần Minh Đức
“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Lời của Đức Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy sợ hãi, nóng lạnh, nổi da gà! Phải chăng chúng ta không nên nghĩ đến chuyện cải thiện, duy trì và bảo vệ cuộc sống của chúng ta? Đức Giêsu có dụng ý gì khi nói với chúng ta những lời lẽ như trên?
Khi nói về cuộc sống, chúng ta liên tưởng đến một cuộc sống bình nhật, một cuộc sống an lành, hạnh phúc dài lâu bên cạnh những người chúng ta thương mến. Đối với nhiều người thì thời gian khó khăn đen tối sau chiến tranh, sau những cơn bão lụt, hạn hán, là một cuộc đấu tranh để sinh tồn. Điều đáng ngạc nhiên là: tiềm lực nào đã giúp con người trở nên tháo vát, có đủ khả năng để bảo vệ và duy trì mạng sống của mình cũng như thân nhân của mình? Phải chăng là “cái khó bó cái khôn”?
Ở Tây Âu sau đệ nhị thế chiến con người đã ra công tái thiết, xậy dựng. Chính trong thời gian khó khăn này cũng làm nẩy sinh không biết bao nhiêu những bậc tài ba lỗi lạc trong mọi lãnh vực. Con người đổ dồn tất cả vốn liếng để đầu tư, để phát triển cũng như bảo đảm cuộc sống. Ai cũng ham sống sợ chết. Bởi vậy càng văn minh tiến bộ thì càng nảy sinh nhiều loại bảo hiểm: bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm mạng sống, bảo hiểm tai nạn lưu thông, bảo hiểm hưu dưỡng, … Tất cả đã trở thành chuyện tất nhiên và đáng mừng. Nhưng chúng ta phải tiép tục suy tư về hai chữ „bảo hiểm“. Phải chăng tất cả giúp con người bảo đảm cuộc sống? Dĩ nhiên là không rồi! Dù là bảo hiểm nào đi nữa cũng không giúp chúng ta trốn tránh cái chết. Tất cả đều biết: một ngày nào đó mình sẽ lìa đời. Nhưng hầu hết chẳng ai muốn nghĩ đến chuyện đó. Họ cho rằng, tôi còn trẻ, còn nhiều thời gian. Nhưng thần chết đôi lúc đến bất chợt. Đùng một cái con người phải đối diện với đống gạch vụn của những chương trình, kế hoạch cho cuộc sống của mình. Con người tự cảm thấy mình bất lực, không tài nào dựa vào khả năng mình để cứu vãn tình thế. Có lẽ chính tại đây họ phải tự hỏi: Đức Giêsu hiểu thế nào về cuộc sống?
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng Người cũng là con người như chúng ta. Lẽ dĩ nhiên Người cũng tha thiết muốn sống. Thực là kinh hãi khi Người phải chết trong lúc tuổi đời bước vào giai đoạn chín chắn, đầy hứa hẹn. Lời cầu nguyện của Người với Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu xin cho mình tránh khỏi đau khổ và sư chết là một lời cầu xin chân thật tận đáy lòng. Nhưng Người sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha. Người sẵn sàng tự hiến. Người sẵn sàng chết để đánh đổi cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu. Người đành mất mạng sống để đạt được sự sống mới. Chính Người đã phục sinh, đã đi trước chúng ta tiến vào thiên đàng.
Con đường của Đức Giêsu cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể hiểu được thế nào là mất hoặc tìm được sự sống khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Đức Giêsu. Ai nghĩ rằng, chỉ có cuộc sống trần thế là quan trọng hơn cả, thì kẻ đó sẽ tìm đủ mọi phương tiện để chiếm hữu của cải và tìm cách hưởng thụ, nhưng kẻ đó sẽ phải đối diện với cái chết với hai bàn tay trắng. Tất cả đều phải để lại khi đã xuôi tay. Kẻ đó không hiểu đâu là ý nghĩa của cuộc sống con người. Ý nghĩa của cuộc sống con người chính là: Thiên Chúa là khởi nguyên, là trung điểm và tận cùng của cuộc sống con người. Do đó, ai đặt Thiên Chúa vào địa vị cao trọng nhất trong cuộc sống, kẻ đó hiểu giá trị đích thực của đời sống. Kẻ đó am hiểu những gì Thiên Chúa sẽ trọng đãi đối với kẻ mến yêu Ngài. Cho nên, dầu sống hay chết, dù sống an ninh hay trong nguy hiểm, tất cả đều nằm trong vòng tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Ai sống như thế, kẻ đó tìm được sự sống.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- A
ĐỨC TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã chọn gọi các môn đệ. Ngài đào tạo, sai đi thực tập. Nhưng người môn đệ muốn giới thiệu Chúa cho người khác đem lại hiệu quả cao thì cần có những đức tính căn bản sau đây:
1/ Tinh thần từ bỏ
Khi đến trần gian, Chúa Giêsu không dạy điều gì mà Ngài không làm gương trước cho chúng ta. Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở với chúng ta. Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người. Ngài từ bỏ mạng sống để cho chúng ta được sống trong ơn làm con Chúa.
Noi gương Chúa, người môn đệ cần có đức tính từ bỏ. Từ bỏ những tính hư tật xấu. Từ bỏ tình cảm thân thiết nhất như cha mẹ, anh em, bạn bè. Thật ra, Đức Giêsu không bắt chúng ta phải khước từ cha mẹ, anh em, bạn bè đâu. Điều Chúa muốn đó là chúng ta phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi tương quan, ngay cả trên chính mạng sống mình. Điều kiện mà Chúa đòi buộc chúng ta phải có thái độ dứt khoát, đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, mất mát ở đời này. Đó chính là con đường khổ giá mà Chúa đi trước và muốn chúng ta đi theo, như chính Chúa đã làm gương cho chúng ta.
2/ Tinh thần quảng đại tha thứ
Khi sống giữa nhân loại, Chúa Giêsu vô cùng quảng đại, bao dung và tha thứ. Ngài đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng là để tha thứ. Ngài tha thứ cho Phêrô đã ba lần chối Thầy. Tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình “Ta không kết tội chị”. Tha thứ cho đám lý hình đã hành hạ Ngài “Lạy Cha! Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Tha thứ cho người trộm lành “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta”. Ngài đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Ngài đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Vậy, để trình bày được dung mạo của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người môn đệ của Chúa cần phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung và tha thứ như Chúa đã từng quảng đại bao dung tha thứ cho chúng ta.
3/ Tinh thần khiêm tốn:
Chúa Giêsu nói “Thầy sống giữa các con như một người tôi tớ”. Thật vậy, trong đêm tiệc ly đang dùng bữa tối với các môn đệ, Chúa Giêsu khiêm tốn quỳ gối xuống rửa chân cho các ông. Đấng tạo hóa rửa chân cho thụ tạo. Thầy rửa chân cho trò. Thiên Chúa rửa chân cho con người. Rồi Chúa cặn dặn: “Ta là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho các con, vậy các con cũng hãy rửa chân cho nhau”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu không mời gọi chúng ta học nơi Ngài cách làm phép lạ. Học nơi Ngài cách chữa bệnh hay đi rao giảng, nhưng Ngài chỉ mời học nơi Chúa một bài học đó là hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Như vậy, người môn đệ của Chúa không phải là người rao giảng hay, cũng không phải là người có tài năng làm phép lạ hay biết chữa bệnh….. nhưng người môn đệ đích thực của Chúa là người có tâm hồn hiền lành và khiêm nhường trong lòng mà thôi.
Bởi vì tất cả những gì chúng ta có là do ơn nhưng không Chúa ban. Mà ơn riêng Chúa ban là để phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn. Khiêm tốn trong cung cách ứng xử, đừng chọn cho mình chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ rốt bét. Bởi vì Chúa ghét kẻ kiêu ngạo và đề cao kẻ khiêm nhường.
Cuối cùng, để trở thành môn đệ theo ý Chúa muốn, không những Chúa đòi hỏi phải từ bỏ mọi sự, quảng đại dấn thân vác thập giá mình mà theo, nhưng Ngài còn hứa phần thưởng bội hậu cho những ai theo Chúa thì sẽ được gấp trăm ở đời này, và phần thưởng ở đời sau nữa.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, Chúa sẽ ân thưởng cho những kẻ phụng thờ Chúa. Chính Lời Chúa, và Bí tích Thánh Thể, là phần thưởng cao quý nhất mà Chúa sẽ dành cho những ai quảng đại dấn thân theo Chúa, và phục vụ anh em, đặc biệt những người nghèo khổ cùng cực đói rách. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxiiithuongniena